Đến giờ thì đã rõ ràng là tất cả mọi thứ tồn tại đều là rung động. Do vậy, xuyên suốt mọi thứ tồn tại thì có một thứ có thể gọi là một bàn phím khổng lồ bao gồm tất cả những rung động có thể có trên đời. Hãy tưởng tưởng rằng đó là dải bàn phím kéo dài vô hạn của một cái đàn piano dài vô tận. Nếu bạn muốn, hãy tưởng tưởng chúng ta là những con kiến, và chúng ta chỉ có thể thấy rất ít nốt nhạc. Các rung động sẽ tương ứng với những phím đàn khác nhau của cây đàn piano. Một nốt nhạc, hay một phím, sẽ bao gồm những rung động mà chúng ta gọi là “sờ thấy”, những rung động chậm và “đặc” đến mức chúng ta cảm thấy nó thay vì là nghe thấy hay nhìn thấy (Hình 5).
By now it will be obvious that everything that is is a vibration. Thus, throughout the whole of existence there is what one could term a gigantic keyboard consisting of all the vibrations which can ever be. Let us imagine that it is the keyboard of an immense piano stretching for limitless miles. Let us imagine, if you like, that we are ants, and we can see just a very few of the notes. The vibrations will correspond to the different keys of the piano. One note, or key, would cover the vibrations which we term “touch,” the vibration which is so slow, so “solid” that we feel it rather than hear it or see it (Fig. 5).
Hình 5: Bàn phím Biểu tượng
Touch: Sờ thấy
Sound: Âm thanh
Sight: Hình ảnh
Radio: Sóng vô tuyến
Psychometry: Thấu cảm (khả năng khám phá ra những sự kiện về một người hay một sự kiện bằng cách chạm vào những vật vô tri vô giác có liên quan tới họ/sự kiện đó)
Telepathy: viễn cảm, thần giao cách cảm
Clairvoyance: Sự thấu thị, nhãn thông (khả năng nhìn bằng con mắt thứ ba)
Nốt tiếp theo là âm thanh. Đó là nốt sẽ bao gồm những rung động kích hoạt cơ chế trong tai chúng ta. Chúng ta có thể không cảm nhận được những rung động đó bằng tay, nhưng tai chúng ta nói cho chúng ta rằng có “âm thanh”. Chúng ta không thể nghe thấy bất cứ thứ gì mà có thể sờ nắm được, chúng ta cũng không thể sờ thấy thứ gì mà có thể nghe được. Như vậy chúng ta đã nói về hai nốt trên bàn phím piano của chúng ta.
The next note will be sound. That is, the note will cover those vibrations which activate the mechanism within our ears. We may not feel with our fingers those vibrations, but our ears tell us that there is “sound.” We cannot hear a thing which can be felt, nor can we feel a thing which can be heard. So we have covered two notes on our piano keyboard.
Nốt tiếp nữa là hình ảnh. Ở đây, một lần nữa, chúng ta có rung động ở một tần số (mà nó rung động quá nhanh) khiến chúng ta không thể sờ được và cũng không thể nghe được, nhưng nó có tác động đến mắt của ta và ta gọi nó là “hình ảnh”.
The next will be sight. Here again, we have a vibration of such a frequency (that is, it is vibrating so rapidly) that we cannot feel it and we cannot hear it, but it affects our eyes and we call it “sight.”
Kết hợp ba “nốt” này thì có một số rất ít các tần số hay dải tần số khác giống như vậy, chúng ta gọi chúng là radio. Với một nốt cao hơn thì chúng ta có viễn cảm, sự thấu thị và nhiều kiểu quyền năng[1] hay khả năng làm ra những phép màu. Nhưng điểm cốt lõi của toàn bộ những điều này đều làm ra từ những dải tần vô tận, hay là những rung động, trong đó con người mới chỉ có thể nhận thức được một dải tần rất rất hạn chế.
Interpenetrating these three “notes” there are a very few others such as that frequency, or band of frequencies, which we call “radio.” A note higher and we get telepathy, clairvoyance, and kindred manifestations or powers. But the whole point is that of the truly immense range of frequencies, or vibrations, Man can perceive only a very, very limited range.
Tuy nhiên, hình ảnh và âm thanh có quan hệ rất gần với nhau. Chúng ta có nói một màu sắc chính là một nốt nhạc bởi vì người ta đã có thể tạo ra những nhạc cụ điện tử chơi nốt đó khi màu này được đặt dưới máy quét. Nếu bạn thấy điều đó khó hiểu thì hãy xem điều này: sóng vô tuyến, tức là âm nhạc, lời nói và cả hình ảnh luôn ở quanh ta. Nó ở cùng ta ở trong nhà cũng như mọi nơi ta đi, mọi thứ ta làm. Nếu không có sự trợ giúp thì ta không thể nghe thấy những sóng vô tuyến đó, nhưng nếu ta có một thiết bị đặc biệt, cái mà ta gọi là đài radio, nó sẽ làm chậm lại các sóng này, và nếu bạn muốn, nó sẽ chuyển những tần số vô tuyến đó thành tần số âm thanh, khi đó chúng ta có thể nghe những chương trình radio hay xem truyền hình. Như vậy, ta có thể lấy một âm thanh và nói rằng có một màu sắc tương ứng với nó, hoặc có thể lấy một màu sắc và nói rằng màu này có một nốt nhạc tương ứng. Điều này đương nhiên rất phổ biến ở phương Đông, và chúng tôi cho rằng điều này làm tăng sự cảm nhận nghệ thuật của một người, ví dụ như một người có thể nhìn vào một bức tranh và tưởng tượng ra một bản hợp xướng, đó là kết quả của những màu sắc đó nếu nó được chuyển thành âm nhạc.
Sight and sound are closely related, however. We can have a colour and say that it has a musical note because there are certain electronic instruments which have been made which will play a particular note if a colour is put under the scanner. If you find that difficult to understand consider this; radio waves, that is, music, speech and even pictures, are about us at all times, they are with us in the house, wherever we go, whatever we do. We — unaided — cannot hear those radio waves, but if we have a special device which we call a radio set which slows down the waves, or, if you like, converts the radio frequencies into audio frequencies, then we can hear the radio program originally broadcast or see the television pictures. In much the same way we can take a sound and say that there is a colour to fit it, or we can have a colour and say that that particular colour has a musical note. This, of course, is well known in the East, and we consider that it does actually increase one’s appreciation of art, for example, if one can look at a painting and imagine the chord which would be the result of those colours, if it were made into music.
Tất nhiên, mọi người sẽ nhận thấy rằng Sao Hỏa cũng được gọi là Hành tinh Đỏ. Sao Hỏa là hành tinh của màu đỏ, và một sắc thái đỏ nhất định – màu đỏ cơ bản – tương đương với nốt “Đô”.
Everyone will, of course, be aware that Mars is also known as the Red Planet. Mars is the planet of red, and red of a certain shade — the basic red — has a musical note which corresponds to “do.”
Màu cam, là một phần của màu đỏ, ứng với nốt “Rê”. Có một vài niềm tin tôn giáo cho rằng màu cam là màu của Mặt Trời, trong khi một vài tôn giáo khác lại cho rằng màu xanh lam mới nên là màu của Mặt Trời. Còn với chúng tôi, màu cam là màu của Mặt Trời.
Orange, which is a part of red, corresponds to the note “re.” Some religious beliefs state that orange is the colour of the Sun, while other religions are of the opinion that blue should be the Sun’s colour. We prefer to state that we hold orange to be the Sun’s colour.
Màu vàng tương ứng với nốt “Mi”, và Sao Thủy chính là “kẻ thống trị” của màu vàng. Tất cả những điều này đương nhiên bắt nguồn từ thần thoại cổ của phương Đông; giống như người Hy Lạp có những vị Chúa và Nữ thần chạy trên bầu trời với những chiếc xe lửa rực cháy, người phương Đông cũng có những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết riêng của mình, nhưng họ gán cho các hành tinh màu sắc, và nói rằng màu này được thống trị bởi hành tinh này.
Yellow corresponds to “me,” and the Planet Mercury is the “Ruler” of yellow. All this, of course, goes back into ancient Eastern mythology; just as the Greeks had their Gods and Goddesses who raced across the skies in flaming chariots, so the people of the East had their myths and their legends, but they invested the planets with colours, and said that such-and-such a colour was ruled by such-and-such a planet.
Màu xanh lá có nốt nhạc tương ứng với “Fa”. Đó là màu sắc của sự sinh trưởng, và nhiều người tuyên bố rằng cây cối có thể được kích thích bởi những nốt nhạc thích hợp. Tuy chúng tôi không có kinh nghiệm cá nhân nào về vấn đề cụ thể này, nhưng chúng tôi có thông tin về việc này từ một nguồn hoàn toàn tin cậy. Sao Thổ là hành tinh cai trị màu xanh lá. Rất thú vị để nói rằng người cổ đại đã thấy được những màu này từ đến trong trực giác khi họ ngắm một hành tinh lúc đang thiền. Nhiều vị tiền bối thiền ở những vùng đất cao, những đỉnh núi của dãy Himalayas chẳng hạn, và một khi lên trên độ cao khoảng mười lăm nghìn feet (4572 m), hoặc cao hơn nữa, cách khỏi mặt đất, không khí sẽ trở nên loãng hơn, và các hành tinh có thể được nhìn thấy rõ hơn, nhận thức sẽ rõ ràng sâu sắc hơn. Từ đó các nhà hiền triết cổ đã đặt ra luật về màu của các hành tinh.
Green has a musical note corresponding to “fa.” It is a colour of growth, and it is stated by some people that plants can be stimulated by suitable notes of music. While we have no personal experience on this particular item, we have had information about it from an absolutely reliable source. Saturn is the planet controlling the colour green. It may be of interest to state that the Ancients derived these colours from the sensations they received as they contemplated a certain planet when they were meditating. Many of the Ancients meditated on the highest parts of the Earth, in the high peaks of the Himalayas, for example, and when one is fifteen thousand feet, or so, above the surface of the earth quite a considerable amount of air is left behind, and planets can be seen more clearly, perceptions are more acute. Thus the Sages of Old laid down the rules about the colours of planets.
Màu xanh lam có âm hưởng của nốt “Son”. Như chúng ta đã nói, một số tôn giáo coi màu xanh lam là màu của Mặt Trời, nhưng chúng tôi đang làm việc theo truyền thống Phương Đông nên chúng tôi cho rằng màu xanh lam được cai quản bởi Sao Mộc.
Blue has the note of “so.” As we mentioned previously some religions regard blue as the colour of the Sun, but we are working in the Eastern tradition and we are going to take the assumption that blue is covered by the Planet Jupiter.
Màu chàm là nốt “La” trên thang âm nhạc, và ở Phương Đông người ta cho rằng nó được chi phối bởi Sao Kim. Khi những khao khát của một người theo hướng tích cực, Sao Kim sẽ trao cho họ những lợi ích qua khả năng nghệ thuật và sự trong sáng trong tư tưởng. Nó giúp họ có những tính cách tốt hơn. Nhưng khi người kết nối đến Sao Kim với tần số rung động thấp hơn, nó sẽ dẫn đến sự dư thừa theo nhiều kiểu.
Indigo is “la” on the musical scale, and in the East is said to be ruled by Venus. Venus, when favourably aspected, that is, when conferring benefits upon a person, Venus gives artistic ability and purity of thought. It gives the better type of character. It is only when it is connected with lower-vibration people that Venus leads to various excesses.
Màu tím tương ứng với nốt “Si” và được chi phối bởi Mặt Trăng. Một lần nữa, nếu chúng ta là người có những mặt tốt đẹp thì Mặt Trăng, hay màu tím, sẽ đem đến sự trong sáng về tư tưởng, tinh thần và trí tưởng tượng có kiểm soát. Nhưng ở khía cạnh xấu, đương nhiên, sẽ có sự rối loạn tâm thần hay thậm chí điên cuồng, mất trí.
Violet corresponds to the musical note of “ti” and is ruled by the Moon. Here again, if we have a well-aspected person the Moon, or violet, gives clarity of thought, spirituality, and controlled imagination. But if the aspects are poor, then, of course, there are mental disturbances or even “lunacy.”
Phía ngoài hào quang có một lớp vỏ bao trọn quanh cả thể xác, thể dĩ thái và thể hào quang của chính nó. Nó là một tổng thể của một cá thể con người, với thể xác ở trung tâm, tiếp đến là thể dĩ thái, và sau đó là thể hào quang, tất cả được bọc trong một cái túi!
Hãy hình dung thế này: chúng ta có một quả trứng gà, trong đó có lòng đỏ tương tự như thể xác, tức là cơ thể vật lý. Bên ngoài lòng đỏ có lòng trắng, tượng trưng cho thể dĩ thái và thể hào quang. Nhưng ngoài lòng trắng trứng, giữa lòng trắng và vỏ trứng, có một lớp da rất mỏng và cũng rất chắc chắn. Khi bạn luộc trứng bạn sẽ bóc vỏ rồi đến lớp da này ra, tổng thể con người chính là như thế. Tất cả được chứa trong lớp vỏ giống như lớp da này. Lớp da đó hoàn toàn trong suốt và sẽ hơi dập dềnh dưới những va chạm của các xoáy hay các rung động của thể hào quang, nhưng nó luôn cố đạt được hình dáng của quả trứng, giống như là quả bóng bay sẽ luôn cố trở lại hình dáng của nó vì áp lực phía trong lớn hơn áp lực ở bên ngoài. Sẽ dễ hình dung hơn nếu bạn tưởng tượng rằng thể xác, thể dĩ thái và thể hào quang được bao bọc trong một túi bóng kính hình ô van cực kỳ mỏng (Hình 6).
Outside the aura there is a sheath which completely encloses the human body, the etheric, and the aura itself. It is as if the whole assembly of the human entity, with the human body at the centre, and then the etheric, and then the aura, is all encased in a bag! Imagine it like this; we have an ordinary hen’s egg. Inside there is the yolk corresponding to the human body, the physical body, that is. Beyond the yolk we have the white of the egg which we will say represents the etheric and the aura. But then outside the white of the egg, between the white and the shell, there is a very thin skin, quite a tough skin it is, too. When you boil an egg and you get rid of the shell you can peel off this skin; the human assembly is like that. It is all encased in this skin-like covering. This skin is completely transparent and under the impact of swirls or tremors in the aura it undulates somewhat, but it always tries to regain its egg-shape, something similar to a balloon always trying to regain its shape because the pressure within is greater than the pressure without. You will be able to visualize it more if you imagine the body, the etheric, and the aura contained within an exceedingly thin cellophane bag of ovoid shape (Fig. 6).
Hình 6. Vỏ bọc Hào quang
Suy nghĩ của một người được phóng ra từ bộ não, đi qua thể dĩ thái, xuyên qua hào quang và lên lớp vỏ hào quang. Ở đây, trên mặt ngoài của lớp vỏ bọc, người đó sẽ có hình ảnh của những suy nghĩ của mình. Cũng như nhiều trường hợp khác, đây là một ví dụ tương tự với ti vi hay radio. Trong ống hình có một bộ phận được gọi là “súng điện tử”, nó bắn những hạt điện tử (electrons) lên một màn hình huỳnh quang chính là màn hình – là phần mà chúng ta xem. Khi mà các hạt điện tử này va chạm vào một cái màng đặc biệt ở trong màn hình ti-vi, nó sẽ phát quang, tức là có một điểm sáng tồn tại trong một khoảng thời gian mà mắt ta có thể duy trì hình ảnh đó bởi “sự lưu ảnh trên võng mạc”. Và thế là ta có thể xem được toàn bộ hình ảnh trên tivi. Khi hình ảnh ở máy phát thay đổi thì hình ảnh mà ta thấy trên màn hình tivi cũng thay đổi theo. Tương tự như vậy, suy nghĩ của chúng ta đi từ máy phát, tức là bộ não đến màng bọc của thể hào quang. Ở đây các suy nghĩ dường như va chạm và tạo nên các hình ảnh mà một nhà thấu thị có thể nhìn thấy. Nhưng chúng ta không chỉ đơn thuần nhìn thấy những hình ảnh của các suy nghĩ hiện tại mà còn có thể thấy những gì đã từng có trước kia.
As one thinks, one projects from the brain through the etheric through the aura, and on to the auric skin. Here, upon the outer surface of that covering, one gets pictures of the thoughts. As in so many other instances, this is another example corresponding to radio or television. In the neck of a television tube there is what is known as “an electron gun” which shoots fast-moving electrons onto a fluorescent screen which is the viewing screen — the part at which you gaze. As the electrons impinge upon a special coating inside the television screen, the thing fluoresces, that is, there is a point of light which persists for a time so that the eyes can carry over by “residual memory” the picture of where the point of light was. So eventually the human eye sees the whole picture on the television screen. As the picture at the transmitter varies, so does the picture that you see on the television screen vary. In much the same way thoughts go from our transmitter, that is, the brain, and reach that sheath covering the aura. Here the thoughts seem to impinge and form pictures which a clairvoyant can see. But we see not merely the pictures of present thoughts, we can also see what has been!
Một người lão luyện có thể dễ đọc được những điều kẻ khác đã làm trong hai hay ba kiếp trước. Điều này có thể nghe rất khác thường đối với những người chưa biết gì, nhưng nó đúng là như vậy.
It is easily possible for an Adept to look at a person and to actually see on the outer covering of the aura some of the things that the subject has done during the past two or three lives. It may sound fantastic to the uninitiated, but nevertheless it is perfectly correct.
Như vậy không gì là có thể bị tiêu hủy. Mọi thứ vẫn luôn tồn tại. Nếu bạn tạo ra một tiếng động, rung động của tiếng động đó – cái năng lượng mà tiếng động đó tạo ra – sẽ tiếp tục mãi mãi. Ví dụ, nếu bạn có thể đi từ Trái Đất này đến một hành tinh xa xôi trong tích tắc (giả thiết rằng bạn có phương tiện phù hợp), bạn có thể thấy những hình ảnh đã xảy ra cả ngàn năm trước. Ánh sáng có một tốc độ nhất định, và ánh sáng không bao giờ tiêu tan, vậy nên nếu bạn đứng ở một khoảng cách đủ xa so với Trái Đất (ngay lập tức), bạn sẽ có thể nhìn thấy sự hình thành của Trái Đất! Nhưng chúng ta đang đi lạc khỏi chủ đề thảo luận rồi. Chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng tiềm thức, phần không bị kiểm soát bởi ý thức, có thể phóng ra hình ảnh của những thứ vượt ra ngoài ý thức hiện tại. Vậy nên một người có khả năng thấu thị tốt có thể dễ dàng thấy chân tướng của người đối diện. Đây là mức cao hơn khả năng thấu cảm, là cái mà ta có thể gọi là “thấu cảm hình dung”. Ta sẽ đề cập đến khả năng thấu cảm ở đoạn sau.
Matter cannot be destroyed. Everything that is still exists. If you make a sound the vibration of that sound — the energy which it causes — goes on for ever. If, for instance, you could go from this Earth quite instantly to a far, far planet you would see (provided you had suitable instruments) pictures which happened thousands and thousands of years before. Light has a definite speed, and light does not fade, so that if you got sufficiently distant from the Earth (instantly) you would be able to see the creation of the Earth! But this is taking us away from the subject under discussion. We want to make the point that the sub-conscious, not being controlled by the conscious, can project pictures of things beyond the present reach of the conscious. And so a person with good powers of clairvoyance can easily see what manner of person faces him. This is an advanced form of psychometry, it is what one might term “visual psychometry.” We will deal with psychometry later.
Bất cứ ai dù ở mức nhận thức hay nhạy cảm nào đi nữa đều có thể cảm nhận được hào quang, kể cả khi họ không nhìn thấy nó. Đã bao nhiêu lần bạn cảm thấy ngay lập tức bị hấp dẫn, hay chỉ muốn quay đi bởi một người mà bạn thậm chí còn chưa kịp nói chuyện? Cảm nhận vô thức của hào quang lý giải cho việc thích và ghét của ta. Tất cả chúng ta đều từng nhìn thấy hào quang, nhưng do sự lạm dụng theo nhiều hình thức, ta đã bị mất khả năng này. Trong một vài thế kỷ tiếp theo, con người sẽ một lần nữa có lại khả năng viễn cảm, thấu thị, …
Everyone with any perception or sensitivity at all can sense an aura, even when they do not actually see it. How many times have you been instantly attracted, or instantly repelled by a person when you have not even spoken to him? Unconscious perception of the aura explains one’s likes and dislikes. All peoples used to be able to see the aura, but through abuses of various kinds they lost the power. During the next few centuries people are going once again to be able to do telepathy, clairvoyance, etc.
Hãy đi sâu hơn vào vấn đề thích và ghét: mỗi thể hào quang được hợp thành từ nhiều màu và dải màu. Các màu và dài màu này cần phải tương thích với nhau thì hai người mới có thể hợp được. Rất thường xảy ra trường hợp rằng người vợ và người chồng hợp nhau ở một vài góc độ, nhưng ở góc độ khác lại hoàn toàn đối lập. Đó là bởi vì khuôn dạng sóng hào quang của người này chỉ chạm tới khuôn dạng sóng hào quang người kia ở những điểm nhất định, và ở những điểm đó có sự đồng thuận, tương thích hoàn toàn. Ví như khi mà ta nói hai người như hai thái cực, thì đây chắc chắn là trường hợp mà họ không tương thích với nhau chút nào. Nếu muốn, ta có thể nói rằng những người hợp nhau có những màu sắc hào quang hài hòa với nhau, trong khi những người không hợp nhau có màu hào quang xung đột và rất khó chịu khi nhìn vào đó.
Let us go further into the matter of likes and dislikes: every aura is composed of many colours and many striations of colours. It is necessary that the colours and striations match each other before two people can be compatible. It is often the case that a husband and a wife will be very compatible in one or two directions, and completely incompatible in others. That is because the particular wave form of one aura only touches the wave form of the partner’s aura at certain definite points and on those points there is complete agreement and complete compatibility. We say, for instance, that two people are poles apart, and that is definitely the case when they are incompatible. If you prefer, you can take it that people who are compatible have auric colours which blend and harmonize, whereas those who are incompatible have colours which clash and would be really painful to look upon.
Mọi người đều thuộc một kiểu nhất định nào đó. Đó là những tần số chung. Những người thuộc cùng một kiểu tần số chung sẽ hình thành nhóm với nhau. Bạn có thể thấy một nhóm các cô gái luôn đi với nhau, hay một nhóm các chàng trai trẻ đi lang thang trên các góc phố hay thành lập các băng nhóm. Đó là bởi vì những người này có tần số chung hay là loại hào quang chung, họ phụ thuộc vào nhau, họ dính nhau như nam châm, và người mạnh nhất ở trong nhóm sẽ chi phối và ảnh hưởng đến tất cả theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Giới trẻ nên được huấn luyện theo kỷ luật hoặc tự kỷ luật bản thân để làm chủ được những cơn bốc đồng tuổi trẻ, để cuộc tiến hóa của cả giống loài được phát triển.
People come of certain types. They are of common frequencies. People of a “common” type go about in a body. You may get a whole herd of girls going about together, or a whole group of young men lounging on street corners or forming gangs. That is because all these people are of a common frequency or common types of aura, they depend upon each other, they have a magnetic attraction for each other, and the strongest person in the group will dominate the whole and influence them for good or for bad. Young people should be trained by discipline and by self-discipline to control their more elementary impulses in order that the race as a whole may be improved.
Như đã nói ở trên, thân xác là tâm của vỏ bọc hình trứng –tâm của hào quang, đó là vị trí bình thường của hầu hết những người khỏe mạnh. Khi một người đang có vấn đề về tâm thần, người đó sẽ không ở đúng trung tâm. Có nhiều người nói rằng: “Hôm nay tôi cảm thấy như mình đang ở bên ngoài chính mình vậy.” Có thể đó là tình huống mà họ bị lệch về một góc trong hình ô van. Những người hai nhân cách[2] còn hoàn toàn khác với một người bình thường, họ có thể có một nửa hào quang màu này còn nửa kia lại màu khác. Nếu hai nhân cách là rõ rệt, hào quang của họ không chỉ có hình một quả trứng, mà là hai quả trứng giao nhau. Những bệnh về tâm thần không nên được chữa trị quá đơn thuần. Những biện pháp gây sốc có thể sẽ rất nguy hiểm bởi nó sẽ lái Thể Vía (chúng ta sẽ nói về cái này sau) thẳng ra khỏi cơ thể. Nhưng về cơ bản, các phương pháp gây sốc được thiết kế (có ý thức hay vô thức) là để gây sốc hai “quả trứng” này hợp lại thành một. Thường thì nó chỉ “đốt cháy” các mô hình thần kinh trong não.
As already stated, a human is centered within the egg-shape covering — centered within the aura, and that is the normal position for most people, the average, healthy person. When a person has a mental illness he or she is not properly centered. Many people have said “I feel out of myself today.” That may well be the case, a person may be projecting at an angle inside the ovoid. People who are of dual personality are completely different from the average, they may have half the aura of one colour, and half of a completely different colour pattern. They may — if their dual personality is marked — have an aura which is not just one-egg shape but has two eggs joined together at an angle to each other. Mental illness should not be treated so lightly. Shock treatment can be a very dangerous thing because it can drive the astral (we shall deal with this later) straight out of the body. But in the main, shock treatment is designed (consciously or unconsciously!) to shock the two “eggs” into one. Often it just “burns out” neural patterns in the brain.
Chúng ta được sinh ra với những tiềm năng nhất định, những giới hạn nhất định như màu sắc của hào quang, tần số rung động và những thứ khác nữa, vậy nên ta hoàn toàn có thể chỉnh sửa hào quang cho tốt lên khi có ý định và quyết tâm làm. Đáng buồn là, việc chỉnh sửa nó để trở nên tệ hơn lại dễ hơn! Lấy Socrates[3] làm ví dụ, ông biết là mình có thể rất dễ trở thành kẻ sát nhân tốt bụng, nhưng ông không định đầu hàng số phận và đã thực hiện các bước để chỉnh sửa con đường của mình xuyên suốt cuộc đời. Thay vì trở thành một kẻ sát nhân tốt bụng, Socrates đã trở thành người sáng suốt nhất thời đại của mình. Nếu chúng ta muốn, tất cả chúng ta đều có thể nâng tư tưởng của mình lên một tầm cao hơn và giúp ích cho thể hào quang. Người có màu đỏ nâu vẩn đục ở trên hào quang cho thấy tình dục quá đà, có thể tăng tần số rung động của màu đỏ lên bằng cách thanh lọc các khao khát tình dục của mình và khi đó anh ta sẽ trở thành một người có nhiều động lực xây dựng, tạo ra con đường cho chính mình trong cuộc sống.
We are born with certain potentialities, certain limits as to the colouring of our auras, the frequency of our vibrations and other things, and it is thus possible for a determined, well-intentioned person to alter his or her aura for the better. Sadly, it is much easier to alter it for the worse! Socrates, to take one example, knew that he would be a good murderer, but he was not going to give in to the blows of fate and so he took steps to alter his path through life. Instead of becoming a murderer Socrates became the wisest man of his age. All of us can, if we want to, raise our thoughts to a higher level and so help our auras. A person with a brown muddy coloured red in the aura, which shows excessive sexuality, can increase the rate of vibration of the red by sublimating the sexual desires and then he will become one with much constructive drive, one who makes his way through life.
Hào quang tan rã rất nhanh sau khi chết, nhưng thể dĩ thái có thể tiếp tục tồn tại sau đó trong một khoảng thời gian khá lâu, tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của người từng sở hữu nó. Thể dĩ thái có thể trở thành những con ma không trí thực hiện những ám ảnh vô tri. Nhiều người ở các vùng nông thôn đã nhìn thấy những kiểu vầng sáng xanh trên mộ của những người vừa được chôn. Vầng sáng này rất dễ trông thấy vào ban đêm. Đương nhiên, đây chỉ đơn thuần là thể dĩ thái đang tiêu tan khỏi cơ thể đang phân hủy.
The aura vanishes soon after death, but the etheric may continue for quite a long time, it depends on the state of health of its former possessor. The etheric can become the mindless ghost which carries out senseless hauntings. Many people in the country districts have seen a form of bluish glow over the graves of those who have just been interred. This glow is particularly noticeable by night. This, of course, is merely the etheric dissipating away from the decomposing body.
Trong hào quang tần số rung động thấp sẽ có những màu mờ đục đục, những màu gây tránh xa hơn là thu hút. Tần số rung động của một người càng cao thì màu sắc của hào quang sẽ càng tinh khiết và rực rỡ, rực rỡ không phải theo kiểu lòe loẹt, mà rực rỡ theo cách đẹp nhất, tâm linh nhất. Chỉ có thể nói rằng những màu tinh khiết ta “say mê” trong khi những màu mù mờ làm ta thấy gớm. Một việc làm tốt sẽ làm bề ngoài của một người đẹp hơn do hào quang sáng lên. Một việc làm xấu sẽ làm ta cảm thấy buồn hay đưa chúng ta vào tâm trạng “tối tăm”. Làm việc tốt – giúp đỡ người khác – sẽ khiến chúng ta nhìn thế giới qua “lăng kính màu hồng”.
In the aura low vibrations give dull muddy colours, colours which nauseate rather than attract. The higher one’s vibrations become the purer and the more brilliant become the colours of the aura, brilliant not in a garish way, but in the best, the most spiritual way. One can only say that pure colours are “delightful” while the muddy colours are distasteful. A good deed brightens one’s outlook by brightening one’s auric colours. A bad deed makes us feel “blue” or puts us in a “black” mood. Good deeds — helping others — make us see the world through “rose tinted spectacles.”
Cần phải luôn nhớ rằng màu sắc là nhân tố chính chỉ ra tiềm năng của một người. Đương nhiên, màu sắc sẽ thay đổi theo tâm trạng của người đó, nhưng những màu cơ bản không thay đổi trừ khi người đó cải thiện (hay làm xấu đi) tính cách của mình. Bạn có thể hiểu là những màu cơ bản sẽ giữ nguyên, nhưng những màu tạm thời sẽ dao động và thay đổi tùy theo tâm trạng. Khi bạn nhìn vào ánh hào quang của một người, bạn nên hỏi:
It is necessary to keep constantly in mind that the colour is the main indicator of a person’s potentialities. Colours change, of course, with one’s moods, but the basic colours do not change unless the person improves (or deteriorates) the character. You may take it that the basic colours remain the same, but the transient colours fluctuate and vary according to the mood. When you are looking at the colours of a person’s aura you should ask:
- Nó màu gì?
- Nó trong hay đục, tôi có thể nhìn xuyên qua nó rõ như thế nào?
- Nó có xoáy ở một vài chỗ không, hay nó ở nguyên một điểm gần như mãi mãi?
- Nó là một dải màu giữ nguyên hình dáng và khuôn dạng hay dao động và có những chóp nhọn và những chỗ lũng sâu?
- Phải phải đảm bảo rằng ta không phán xét một ai vì rất dễ có thể nhìn vào một hào quang và tưởng tượng rằng ta thấy những màu đục trong khi nó chẳng đục tí nào. Có thể là do suy nghĩ sai lầm của chúng ta khiến các màu sắc trông có vẻ đục, nên luôn nhớ rằng, trước khi nhìn thấu hào quang của bất cứ người nào, trước tiên ta phải nhìn xuyên qua hào quang của mình đã!
What is the colour?
Is it clear or muddy, how plainly can I see through it?
Does it swirl over certain areas, or is it located almost permanently over one spot?
Is it a continuous band of colour holding its shape and its form, or does it fluctuate and have sharp peaks and deep valleys?
We must also make sure that we are not prejudging a person because it is a very simple matter to look at an aura and imagine that we see a muddy colour when actually it is not muddy at all. It may be our own wrong thoughts which makes a colour appear muddy, for remember, in looking at any other person’s aura we first have to look through our own aura!
Có một sự kết nối giữa âm nhạc và nhịp điệu của thần kinh. Bộ não con người là một tập hợp các rung động với các xung điện tỏa ra từ tất cả các phần của nó. Mỗi người phát ra một nốt nhạc theo tần số rung động của người đó. Giống như ta có thể đến gần một tổ ong và nghe thấy tiếng vo vo của rất nhiều con ong, có lẽ có những sinh vật khác có thể nghe thấy nốt của con người. Mỗi người đều có nốt nhạc cơ bản của riêng mình liên tục phát ra giống như đường dây điện thoại phát sóng vào không khí. Thêm nữa, những bản nhạc nổi tiếng là những bản đồng điệu với dạng sóng của bộ não, đồng điệu với hòa âm của rung động cơ thể. Bạn có thể có một “bài hit” khiến cho mọi người đều ngâm nga và huýt sáo theo. Mọi người nói là chúng có “giai điệu thế này” liên tục chạy qua trong đầu họ. Những bài hit là những bài được nhập vào sóng não của ta trong một khoảng thời gian nhất định trước khi năng lượng cơ bản của chúng bị tiêu tan.
There is a connection between musical and mental rhythms. The human brain is a mass of vibrations with electrical impulses radiating from every part of it. A human emits a musical note depending upon the rate of vibration of that human. Just as one could get near a beehive and hear the drone of a whole lot of bees, so perhaps could some other creature hear humans. Every human has his or her own basic note which is constantly emitted in much the same way as a telephone wire emits a note in a wind. Further, popular music is such that it is in sympathy with the brain wave formation, it is in sympathy with the harmonic of the body vibration. You may get a “hit tune” which sets everyone humming it and whistling it. People say that they have “such-and-such a tune” running constantly through their brain. Hit tunes are ones which key-in to the human brain waves for a certain time before their basic energy is dissipated.
Nhạc cố điển lại có tính chất lâu bền hơn. Nó là loại nhạc khiến cho sóng thính giác của chúng ta hình thành và rung động một cách dễ chịu theo điệu của nó. Nếu lãnh đạo của một quốc gia muốn tác động tới những người đi theo, họ phải soạn ra, hoặc thuê người soạn ra, một bản nhạc đặc biệt gọi là quốc ca. Khi nghe thấy bản quốc ca ấy, người ta sẽ thấy đong đầy những cảm xúc, và họ sẽ đứng nghiêm và nghĩ tốt đẹp về đất nước mình, hoặc căm giận các nước khác. Đó chỉ đơn giản là do những rung động của cái gọi là âm thanh tác động lên rung động thần kinh để phản ứng theo một cách nhất định. Do đó, chúng ta có thể “đặt hàng trước” những phản ứng nhất định cho người nghe bằng cách chơi những kiểu nhạc nhất định cho người đó.
Classical music is of a more permanent nature. It is music which causes our auditory wave form to vibrate pleasantly in sympathy with the classical music. If the leaders of a nation want to rouse up their followers they have to compose, or have composed, a special form of music called a national anthem. One hears the national anthem and one gets filled with all sorts of emotions, then one stands upright and thinks kindly of the country, or thinks fierce thoughts of other countries. That is merely because the vibrations which we call sound have caused our mental vibrations to react in a certain way. Thus it is possible to “pre-order” certain reactions in a human being by playing certain types of music to that person.
Một người suy nghĩ sâu sắc có khuôn dạng sóng não biên độ rộng với điểm cực đại cao và cực tiểu sâu thích những loại nhạc có sóng tương tự thế, đó là loại nhạc có dạng sóng biên độ rộng. Nhưng một người với bộ não tản mác sẽ thích âm nhạc tản mác suy nghĩ, loại nhạc phải có chút leng keng, xủng xoảng và khi biểu diễn trên đồ thị thì nó chỉ như một đường vặn vẹo.
A deep thinking person, one who has high peaks and deep hollows to his brain wave form, likes music of the same type, that is, music having high peaks and a deep wave form. But a scatter-brained person prefers the scatter-brain music, music that is more or less a jingle jangle and on a chart would be represented more or less accurately by just a squiggle.
Nhiều nhạc sĩ vĩ đại có thể du hành thể vía hữu thức hoặc vô thức, những người đã vượt qua cõi trung giới, là cõi sau của đời sống sau cái chết. Họ nghe thấy “âm nhạc của vũ trụ”. Là người nhạc sĩ, loại âm nhạc thiên đường này gây một ấn tượng bao la đối với họ, nó gắn vào trí nhớ của họ nên khi họ trở về Trái Đất, họ ngay lập tức ở trong “tâm trạng sáng tác”. Họ vội vàng chạy đến một nhạc cụ hoặc đến những tờ giấy có kẻ hàng, và ngay lập tức viết xuống, tất cả những gì họ nhớ, những ký hiệu âm nhạc mà họ nghe thấy ở nhưng vì tinh tú. Rồi vì không nhớ nên họ nói rằng họ đã sáng tác ra tác phẩm này!
Many of the greatest musicians are those who consciously or subconsciously can do astral travelling, and who go to the realms beyond death. They hear “the music of the spheres.” Being musicians this heavenly music makes a vast impression upon them, it sticks in their memory so that when they come back to Earth they are immediately in a “composing mood.” They rush to a musical instrument or to lined paper, and immediately write down, so far as they remember, the notations of the music which they heard in the astral. Then they say — remembering no better — that they have composed this or that work!
Hệ thống quảng cáo cao siêu thâm độc trong đó thông điệp quảng cáo được hiện nhấp nháy trên màn hình tivi rất nhanh để những đôi mắt hữu thức phải để ý tới, nó lợi dụng tác động lên phần bán hữu thức chứ không tác động hẳn vào phần ý thức hữu thức. Rồi phần tiềm thức bị giật mình và chú ý tới quảng cáo bởi dạng sóng khuôn mẫu này chạm đến nó, và phần tiềm thức, vốn chiếm chín phần mười của tổng thể tâm trí chúng ta, cuối cùng sẽ điều khiển phần hữu thức đi ra ngoài và mua món đồ được quảng cáo cho dù về mặt ý thức thì người đó biết rằng họ thậm chí không muốn có thứ đó. Những kẻ vô đạo đức, chẳng hạn như những người đứng đầu của một quốc gia mà không chiếm được tình cảm của dân chúng, có thể khiến cho mọi người phản ứng với bất kỳ yêu cầu tiềm thức nào bằng cách dùng loại quảng cáo này.
The diabolic system of subliminal advertising in which an advertising message is flashed on the television screen too quick for the conscious eyes to see, plays upon one’s semi-awareness while not impinging upon the conscious perceptions. The subconscious is jerked to awareness by the flow of wave patterns reaching it, and the sub-conscious, being nine-tenths of the whole, eventually drives the consciousness to go out and purchase the item which was advertised even though — consciously — the person concerned knows that he or she does not even desire such a thing. An unscrupulous group of people, such as the leaders of a country who had not the welfare of the people at heart, could actually make the people react to any subliminal commands by using this form of advertising.
Dịch bởi: Nguyễn Thị Minh Hạnh
Biên tập: VMC
[1] Quyền năng này có thể là khả năng chuyển di tư tưởng, cô đặc thành vật chất từ tư tưởng, thuật biến hình, … [ND]
[2] Hiện tượng đa nhân cách [ND]
[3] Sokrates hay Socrates là một triết gia Hy Lạp cổ đại (469–399 TCN). Ông sinh ra tại thành phố Athena, thuộc Hy lạp, và đã sống vào một giai đoạn thường được gọi là hoàng kim của thành phố này. Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: “Hãy tự biết lấy chính mình”, “Tôi chỉ biết mỗi một điều duy nhất là tôi không biết gì cả”. Ông bị chính quyền khi đó kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athena thừa nhận và bảo hộ và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt tự tử bằng thuốc độc, mặc dù vậy ông vẫn có thể thoát khỏi án tử hình này nếu như ông công nhận những cáo trạng và sai lầm của mình, hoặc là rời bỏ Athena. Nhưng với quan điểm “Thà rằng chịu lỗi, hơn là lại gây ra tội lỗi.”, ông kiên quyết ở lại, đối diện với cái chết một cách hiên ngang. Theo ông sự thật còn quan trọng hơn với cả sự sống [ND]