Ba người lính đang đứng đợi ngoài nhà tù Lubianka. Tên lính gác đẩy tôi qua cánh cửa đang mở và đưa một mảnh giấy cho một tên lính cao cấp trong nhóm đó – một hạ sĩ. “Ký vào đây, Đồng Chí, xác nhận rằng anh đã được giao Kẻ bị Trục xuất.” Hạ sĩ gãi đầu một cách nghi ngờ, liếm cây bút chì và lau lòng bàn tay lên quần trước khi do dự nguệch ngoạc tên mình lên giấy. Tên lính gác quay lưng không nói một lời, và cánh cửa Lubianka đóng sầm lại – may mắn là với lần này tôi ở bên ngoài.
OUTSIDE the Lubianka three soldiers were waiting. The prison guard who thrust me through the opened door handed a paper to the senior soldier, a corporal. “Sign here, Comrade, it is just to say you acknowledge receipt of a Deportee.” The corporal dubiously scratched his head, licked the pencil and wiped his palms on his trouser legs before hesitatingly scribbling his name. The prison guard turned back without a word, and the Lubianka door slammed shut—fortunately this time with me on the outside.
Viên Hạ sĩ cau có với tôi. ”Vì anh mà tôi đã phải ký một tờ giấy đấy. Chỉ có Lenin mới biết chuyện gì sẽ xảy ra, có khi chính tôi cũng sẽ bị giam ở Lubianka. Thôi nào, đi!”
Với viên hạ sĩ dẫn đầu, và mỗi bên một người lính, tôi bị dắt qua các đường phố của Moscow đến một nhà ga. Tôi chẳng còn gì ngoài bộ quần áo đang mặc. Người Nga đã giữ chiếc ba lô của tôi, đồng hồ của tôi, tất cả mọi thứ trừ bộ quần áo tôi đang mặc trên người. Và toàn thể đồ này á? Chỉ là một đôi giày đế gỗ nặng nề, quần, vào áo khoác. Không còn gì khác. Không đồ lót, không tiền, không thức ăn. Không có gì. Vâng, thực ra là có một thứ! Tôi có trong túi một tờ giấy nói rằng tôi đã bị trục xuất khỏi Nga và tôi có thể tự do đến lãnh thổ Đức do Nga chiếm đóng, và ở nơi đấy tôi cần báo cáo lên đồn cảnh sát gần nhất.
The corporal scowled at me. “Now, through you, I have had to sign a paper. Lenin only knows what will happen, I might even end up in the Lubianka myself. Come on, get moving!”
The corporal took his place in front of me, and with a soldier on each side, I was marched through the streets of Moscow to a railway station. I had nothing to carry, everything I owned was upon me, my suit of clothes. The Russians had kept my rucksack, my watch, everything except the clothes which I actually wore. And those clothes? Heavy shoes with wooden soles, trousers, and a jacket. Nothing else. No underwear, no money, no food. Nothing. Yes, there was something! I had in my pocket a paper saying that I was deported from Russia and that I was free to make my way to Russian-occupied Germany where I should report to the nearest police station.
Tại ga xe lửa Moscow, chúng tôi ngồi đợi trong cái lạnh tê tái. Lần lượt từng tên lính thay phiên nhau đi lại và quay về đổi cho tên khác. Tôi ngồi trên sân ga bằng đá và run cầm cập. Tôi đói, và cảm thấy vừa ốm vừa yếu. Cuối cùng, một viên trung sĩ và khoảng một trăm người lính xuất hiện. Viên trung sĩ bước thẳng xuống sân ga và nhìn tôi.
“Anh muốn người ta chết à?” Viên trung sĩ quát tên hạ sĩ. “Chúng tôi phải giao anh ta trong tình trạng còn sống tại Lwow. Cho anh ta ăn đi, chúng ta còn sáu tiếng trước khi tàu rời bến.”
At the Moscow railway station we sat and waited in the freezing cold. One after the other the soldiers wandered off and returned so that another could go. I sat on the stone platform and shivered. I was hungry. I felt ill and weak. At long last a sergeant and about a hundred men appeared. The sergeant marched down the platform and took a look at me.
“Do you want him to die?” he bawled at the corporal. “We have to deliver him alive at Lwow. See that he eats, we have six hours before the train leaves.”
Tên hạ sĩ và một tay lính cấp dưới, mỗi người nắm lấy một cánh tay của tôi và kéo tôi đứng dậy. Viên trung sĩ nhìn thẳng vào mặt tôi và nói, “Hừm. Có vẻ anh không phải loại người xấu xa. Anh không gây rắc rối cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ không gây rắc rối cho anh.” Anh ta lôi giấy tờ của tôi mà tên hạ sĩ đã mang theo ra đọc. “Em trai tôi cũng đã bị giam trong tù Lubianka,” viên trung sĩ nói, lúc không có tên lính nào đứng trong khoảng cách có thể nghe lỏm được, “Nó cũng chẳng làm gì sai cả. Họ đã đày nó đi Siberia. Bây giờ tôi sẽ cho người mang anh đi ăn. Ăn cho đủ, vì sau khi chúng ta đến Lwow thì anh sẽ phải tự túc một mình.” Anh ta quay đi, và kêu hai viên hạ sĩ lại. “Chăm sóc hắn đi, cho hắn tất cả đồ ăn thức uống hắn muốn. Chúng ta cần hắn trong tình trạng tốt khi bàn giao, không thì Chính ủy sẽ nói là mình giết tù nhân.”
The corporal and an ordinary soldier each took one of my arms and dragged me to my feet. The sergeant looked me in the face and said, “H’mm. Not a bad sort of fellow. See you give us no trouble and we will cause you none.” He looked at my papers which the corporal was carrying. “My brother was in the Lubianka,” he said, making sure that none of his men were within listening distance. “He did nothing either. They sent him to Siberia. Now I will have you taken for food. Eat well, for after we reach Lwow, you will be on your own.” He turned away, and called two corporals. “Look after him, see he gets all the food and drink he wants, he has to leave us in good condition or the Commissar will say we kill prisoners.”
Tôi mệt mỏi lết đi giữa hai hạ sĩ. Tại một địa điểm ăn uống nhỏ bên ngoài nhà ga, người hạ sĩ cao cấp gọi những bát súp bắp cải lớn và những ổ bánh mì đen. Thức ăn nồng nặc mùi thực vật ôi thiu, nhưng tôi cũng cố nuốt hết vì rất đói. Tôi sực nhớ về “món súp” mà chúng tôi đã được ăn trong Trại tù Nhật Bản, nơi những miếng xương lính Nhật nhổ ra, và thức ăn mà họ không ăn hết được được gom lại và chế biến thành “súp” cho tù nhân.
Với bụng cái bụng no nê, chúng tôi đã sẵn sàng khởi hành. Một viên hạ sĩ mua thêm ba ổ bánh mì và ba tờ báo Pravda. Chúng tôi gói bánh mì của mình trong báo, xoay sở để không mạo phạm bất kỳ hình ảnh nào của Stalin in trên đó, và rồi quay trở lại ga tàu hỏa.
Wearily I went off between the two corporals. At a little eating place outside the station the senior corporal ordered great bowls of cabbage soup and loaves of black bread. The stuff stank of decayed vegetation, but I managed to get it down, as I was so hungry. I thought of the “soup” we had had in the Japanese Prison Camps, where bits of gristle spat out by the Japanese, and food which they left was collected and made into “soup” for the prisoners.
With a meal inside us, we were ready to leave. A corporal ordered more bread and three copies of Pravda. We wrapped our bread in the papers, first being sure that we did not desecrate any pictures of Stalin in the process, and then returned to the railway station.
Khoảng thời gian chờ đợi thật khủng khiếp. Sáu tiếng đồng hồ trong giá lạnh, ngồi trên sân ga bằng đá. Cuối cùng, chúng tôi được đưa lên một chiếc tàu cũ rích và lên đường đến Kiev. Đêm đó tôi phải ngủ ngồi giữa hai người lính Nga ngáy khò khò. Toa tàu chật đến nỗi không ai được nằm, chúng tôi bị ép sát vào nhau. Ghế gỗ trên tàu cứng và không thoải mái, tôi ước rằng mình có thể được ngồi xuống sàn tàu. Còn chiếc tàu thì vừa chuyển động vừa giật, dường như mỗi lần tôi chợp mắt thì nó lại dừng khựng lại một cách ồn ào. Rất khuya đêm hôm sau, sau một chuyến đi mệt mỏi kéo dài khoảng 480 dặm, chúng tôi đến một trạm hạng hai tại Kiev. Giữa sự nhốn nháo và những tiếng la hét, tất cả chúng tôi đi bộ đến một doanh trại quân đội địa phương đêm đó. Tôi bị quăng vào một phòng giam và sau nhiều giờ bị đánh thức bởi một Chính ủy và trợ lý của ông ta vào phòng. Họ hỏi tôi những câu hỏi, những câu hỏi bất tận, và sau khoảng hai hoặc hai tiếng rưỡi, họ lại đi ra ngoài.
The wait was terrible. Six hours in the freezing cold, sitting on a stone platform. Eventually we were all herded into a weary old train, and set off for Kiev. That night I slept propped up between two snoring Russian soldiers. There was not room for any of us to lie down, we were jammed in very tightly. The hard wooden seats were uncomfortable, and I wished that I could sit on the floor. The train jolted on, coming to a creaky halt, so it seemed, every time I had just managed to go to sleep. Very late the following night, after a painful journey of some four hundred and eighty miles or so, we drew into a second-rate station at Kiev. There was much bustling, much shouting, and we all marched off to the local barracks for the night. I was shoved into a cell and after many hours I was awakened from my sleep by the entry of a Commissar and his assistant. They asked me questions, endless questions, and after perhaps two or two and a half hours, they went out again.
Trong một lúc tôi nằm trằn trọc, cố gắng ngủ. Đột nhiên có ai đó tát vào mặt rất mạnh rồi hét lên “Dậy, dậy, anh chết rồi à? Thức ăn đây này. Nhanh lên, anh chỉ còn vài phút trước khi phải rời đi.”
Thức ăn? Lại là súp bắp cải. Lại là bánh mỳ đen chua, và nước uống. Tôi uống lấy uống để, như thể sợ rằng phải đi trước khi kịp hoàn thành bữa ăn khốn khổ của mình. Tôi nuốt hết, và chờ đợi. Chờ đợi hàng tiếng. Cuối buổi chiều hôm đó, hai viên Cảnh sát Quân sự bước vào, tra hỏi lại từ đầu đến cuối, lấy vân tay của tôi một lần nữa, rồi nói, “Chúng ta trễ rồi, giờ không còn thời gian cho anh ăn nữa. Có thể anh sẽ tìm thấy cái gì đó tại ga tàu hỏa.”
For some time I tossed and turned, trying to get to sleep. Violent hands smacked my face, shouting “wake up, wake up, are you dead? Here is food. Hurry—you have minutes only before you leave.”
Food? More cabbage soup. More sour black bread, and water to drink. I gulped the stuff down, afraid that I should have to go before I had finished my miserable meal. Gulped it down, and waited. Waited hours. Late that afternoon two Military Policemen entered, questioned me all over again, took my fingerprints once more, and then said, “We are late. There is no time for you to have a meal now. You may be able to get something at the railway station.”
Bên ngoài doanh trại, ba xe chở lính đang đợi. Bốn mươi binh sĩ và tôi chen vào một xe, những người khác khác trèo lên hai chiếc xe kia, và như thế chúng tôi đi, với chiếc xe rung lắc một cách nguy hiểm dọc theo con đường đến nhà ga. Tôi bị kẹp chặt đến nỗi không thể nào thở nổi. Tay tài xế xe tôi ngồi lái như một thằng điên, vượt xa hai chiếc còn lại. Hắn ta lái như thể tất cả ma quỷ của chủ nghĩa Cộng sản đang theo đuổi hắn. Tất cả chúng tôi đều phải đứng vì không có chỗ để ngồi, và lắc lư, nẩy lên nẩy xuống mạnh phía cuối xe. Chúng tôi đang lao trên đường với tốc độ chóng mặt, đột nhiên có tiếng rít chói tai của chiếc phanh bị đạp vội, chiếc xe trượt sang ngang. Thành xe trước mặt tôi bị xé toạc ra trong một chùm tia lửa khi va vào một bức tường đá dày. Tiếng la, tiếng hét, tiếng chửi thề, lẫn vào một biển máu, và tôi thấy mình đang bay trong không trung. Trên cao, tôi có thể nhìn thấy phía dưới mình chiếc xe chở lính nát bét, bùng cháy dữ dội. Rồi một cảm giác đang rơi, một cú “rầm” đáp đất nát người, và chỉ còn bóng tối.
Outside the barracks, three troop-carriers were waiting. Forty soldiers and I crammed unbelievably into one, the others climbed aboard the two other vehicles, and we were off, jolting dangerously along the road to the station. Jammed so tight that I could scarce breathe. The driver of our troop-carrier seemed to be mad, far outstripping the other two cars. He drove as if all the devils of Communism were after him. We swayed and jolted in the back, all of us standing as there was not room to sit. We caromed down the road in a frenzy of speed, there was the shrill squeal of brakes too hastily applied, and the carrier slithered sideways. The side in front of me ripped away in a shower of sparks as we collided with a thick stone wall. Screams, yells, and oaths, and a veritable sea of blood, and I found myself flying through the air. Flying, and I could see below me the wrecked carrier, now blazing furiously. A sensation of falling, a shattering crash, and blackness.
“Lobsang!” Một giọng nói tôi yêu thương cất lên, tiếng người Thầy yêu quý của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức. “Con rất yếu rồi, cơ thể của con vẫn ở Trái đất, nhưng chúng ta đã thấy con vượt ra cả Cõi Trung Giới rồi. Chúng ta đang cố giúp con, vì nhiệm vụ của con trên Trái Đất vẫn chưa kết thúc.”
Minh Gia Đại Đức ? Làm sao có thể thế được? Ông đã bị giết khi đang cố gắng sắp xếp một thỏa thuận hòa bình ở Tây Tạng. Tôi đã nhìn thấy những vết thương khủng khiếp được tạo ra khi ngài bị đâm sau lưng. Nhưng tất nhiên, tôi đã gặp ngài mấy lần sau khi ngài thăng lên Cõi Thiên đàng.
“Lobsang!” said a well-loved voice, the voice of my Guide, the Lama Mingyar Dondup. “You are very ill, Lobsang, your body is still on Earth, but we have you here in a world beyond the Astral. We are trying to help you, because your task on Earth is not yet finished.”
Mingyar Dondup? Ridiculous! He had been killed by the treacherous Communists when trying to arrange a peaceful settlement in Tibet. I had seen the dreadful wounds made when he was stabbed in the back. But of course, I had seen him several times since he had passed to the Heavenly Fields.
Ánh sáng làm đau đôi mắt nhắm nghiền của tôi. Tôi nghĩ rằng một lần nữa đang đối mặt với bức tường trắng trong Nhà tù Lubianka, và những tên lính đang chuẩn bị quật báng súng vào giữa lưng mình. Nhưng ánh sáng này lại khác, thực ra nó không làm mắt tôi đau chút nào; chắc là vì mình đã tự liên tưởng, tôi nghĩ lơ mơ.
“Lobsang, con mở mắt ra nhìn ta này!” Giọng nói ấm áp của Thầy đã sưởi ấm và gửi một luồng an lạc qua tôi. Tôi mở mắt và nhìn quanh. Lạt Ma đang cúi người phía trên tôi. Ngài trông khỏe mạnh hơn tất cả những lần tôi từng thấy ngài trên Trái đất. Khuôn mặt ngài trông không còn tuổi tác, hào quang ngài có những màu sắc tinh khiết nhất mà không có dấu vết của những ham muốn của người Trái đất. Áo choàng vàng nghệ của ngài được làm bằng một vật liệu không thuộc Trái Đất, nó lung linh như thể được phù phép với một sự sống của riêng nó. Ngài mỉm cười nhìn xuống tôi và nói, “Lobsang đáng thương, sự vô nhân đạo của Con Người với Con Người thực sự đã được minh chứng trong trường hợp của con, vì con đã sống qua những điều mà có thể giết những người khác hàng nhiều lần. Con đang ở đây để nghỉ ngơi, Lobsang. Nghỉ ngơi ở một nơi gọi là ‘Vùng Hoàng Kim’. Nơi đây chúng ta ở ngoài vòng luân hồi. Nơi đây chúng ta làm việc để giúp các tộc người của nhiều thế giới khác nhau, không chỉ mỗi hành tinh gọi là Trái đất. Linh hồn con bị bầm dập và cơ thể con đã tan tành. Chúng ta cần phải chữa cho con, Lobsang, vì nhiệm vụ vẫn phải hoàn thành, mà không có ai có thể thay thế con được.”
The light hurt my closed eyes. I thought that I was again facing that wall in the Lubianka Prison, and that the soldiers would again club me between the shoulders with their rifle-butts. But this light was different, it did not hurt my eyes; that must have been the association of ideas, I thought dully.
“Lobsang, open your eyes and look at me!” The kind voice of my Guide warmed me and sent a thrill of pleasure through my being. I opened my eyes and looked about me. Bending over me I saw the Lama. He was looking better than I had ever seen him on Earth. His face looked ageless, his aura was of the purest colours without trace of the passions of Earth people. His saffron robe was of a material not of Earth, it positively glowed as if imbued with a life of its own. He smiled down at me and said, “My poor Lobsang, Man’s inhumanity to Man has indeed been exemplified in your case, because you have lived through that which would have killed others many times over. You are here for a rest, Lobsang. A rest in what we call ‘The Land of the Golden Light’. Here we are beyond the stage of reincarnating. Here we work to help peoples of many different worlds, not merely that called Earth. Your soul is bruised and your body is shattered. We have to patch you up, Lobsang, for the task has to be done, and there is no substitute for you.”
Tôi nhìn quanh và thấy mình có vẻ đang nằm trong bệnh viện. Từ nơi tôi nằm có thể nhìn ra một công viên tuyệt đẹp, phía xa những con vật đang gặm cỏ, hay đang chơi đùa với nhau. Có vẻ như là hươu, sư tử và tất cả những con vật không thể sống cùng nhau trong hòa bình trên Trái đất, mà ở đây thì lại đang đùa giỡn với nhau như các thành viên của một gia đình.
Một cái lưỡi nhám liếm bàn tay phải đang treo lủng lẳng bên thành giường của tôi. Khi nhìn xuống, tôi thấy Sha-lu, con mèo bảo vệ to lớn của Tu viện Chakpori, một trong những người bạn đầu tiên của tôi ở đó. Chú mèo nháy mắt với tôi, và tôi cảm thấy da gà nổi lên khắp người khi nó nói, “Lobsang, anh bạn của tôi, rất vui khi gặp lại anh ngay cả trong thời gian ngắn ngủi này. Anh sẽ phải quay trở lại Trái đất một thời gian khi rời khỏi đây, và sau vài năm ngắn thôi anh sẽ trở lại với chúng tôi mãi mãi.”
I looked about me and saw that I was in what appeared to be a hospital. From where I lay I could look out over beautiful parkland, in the distance I could see animals grazing, or at play. There seemed to be deer, and lions, and all those animals which could not live together in peace on Earth, here were friends who gamboled as members of one family.
A rasping tongue licked my right hand, which hung limply over the side of the bed. As I looked, I saw Sha-lu, the immense guard cat of the Chakpori, one of my first friends there. He winked at me, and I felt the goose-pimples start out all over me as he said, “Ah, my friend Lobsang, I am glad to see you again even for this short while. You will have to return to Earth for a time, after leaving here, then in a few short years you will return to us for always.”
Một con mèo biết nói ư? Nói chuyện với mèo bằng thần giao cách cảm thì tôi thành thạo và thấu hiểu, nhưng con mèo này thực sự đã thốt ra những lời nói, không chỉ đơn thuần là những tin nhắn qua thần giao cách cảm. Những tiếng cười to khiến tôi phải nhìn lên Thầy mình, Lạt Ma Minh Gia. Tôi nghĩ rằng Ngài thật sự rất thích thú với việc chọc ghẹo tôi. Da đầu tôi lại có cảm giác bị châm chích; Sha-lu đang đứng trên hai chân sau cạnh giường, đặt khuỷu tay nó cạnh tôi. Nó và Lạt Ma nhìn tôi, rồi nhìn nhau, rồi cả hai cười khúc khích. Cả hai khúc khích với nhau, tôi thề đấy!
“Lobsang”, Thầy nói, “con đã biết rằng không có cái chết, con biết rằng khi ta rời khỏi Trái đất ở trạng thái gọi là ‘chết’, linh hồn sẽ đi đến một cảnh giới mà anh ta có thể nghỉ ngơi một lúc trước khi chuẩn bị tái sinh vào một cơ thể mới để học các bài học khác và tiếp tục tiến hóa. Chúng ta đang ở trong một cảnh giới không còn sự tái sinh nữa. Ở đây chúng ta sống, như con thấy bây giờ, trong hòa thuận, hòa bình, và có thể đi bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào bằng một phương pháp gọi là “du hành siêu-thể vía”. Ở đây, cả động vật lẫn con người, và tất cả các loài khác, trò chuyện bằng lời nói cũng như thần giao cách cảm. Chúng ta sử dụng lời nói khi ở gần và thần giao cách cảm khi ở xa.
A cat talking? Telepathic cat talk I knew well, and fully understood, but this cat actually uttered words, not merely telepathic messages. Loud chuckles caused me to look up at my Guide, the Lama Mingyar Dondup. He really was enjoying himself—at my expense, I thought. My scalp prickled again; Sha-lu was standing on his hind legs by the bed, resting his elbows beside me. He and the Lama looked at me, then at each other; both chuckled. Both chuckled, I swear it!
“Lobsang,” said my Guide, “you know there is no death, you know that upon leaving Earth at so-called ‘death’ the ego goes to that plane where he or she rests a while before preparing to reincarnate in a body which will afford opportunities for learning other lessons and progressing ever upwards. Here we are in a plane from whence there is no reincarnating. Here we live, as you see us now, in harmony, at peace, and with the ability to go anywhere at any time by what you would call ‘super-astral traveling’. Here animals and humans, and other species too, converse by speech as well as by telepathy. We use speech when close, and telepathy when distant.”
Tôi nghe xa xa tiếng nhạc dìu dặt, thứ nhạc mà thậm chí tôi có thể hiểu được. Gia sư của tôi tại Tu viện Chakpori đã than thở rất lâu về việc tôi không thể hát hay sáng tác nhạc. Trái tim của họ sẽ rất sung sướng, tôi nghĩ, nếu họ có thể thấy tôi đang tận hưởng âm nhạc thế nào. Khắp bầu trời rực rỡ sắc màu lóe lên và dao động như thể chuyển động cùng với nhịp điệu âm nhạc. Ở đây, trong phong cảnh rực rỡ này, cây xanh hơn và nước cũng xanh hơn. Không có cây nào bị bệnh, không chiếc lá nào bị úa. Chỉ có sự hoàn hảo. Sự hoàn hảo? Vậy thì tôi đang làm gì ở đây? Tôi thì còn lâu mới đạt đến sự hoàn hảo, và tôi nhận thức rất rõ điều đó.
In the distance I could hear soft music, music which even I could understand. My tutors at the Chakpori had lamented long over my inability to sing or make music. Their hearts would have been gladdened, I thought, if they could have seen how I enjoyed this music. Across the luminous sky colours flitted and wavered as if accompanying the music. Here, on this glorious landscape, the greens were greener, and the water bluer. Here were no trees gnarled by disease, no leaves with blight upon them. Here was only perfection. Perfection? Then what was I doing here? I was painfully far from perfect, as I well knew.
“Con đã chiến đấu rất tốt, Lobsang, con đang ở đây để nghỉ ngơi và nhận được sự khích lệ, con xứng đáng với điều này.” Thầy mỉm cười nhân từ và nói.
Tôi ngả ra, rồi bật lên hoảng sợ, “Cơ thể của con, cơ thể Trái đất của con ở đâu?
“Con nghỉ ngơi đi Lobsang, nghỉ ngơi đi,” Lạt Ma trả lời. “Nghỉ ngơi xong chúng ta sẽ cho con thấy rất nhiều điều khi con đã khỏe mạnh hơn.”
Dần dần ánh sáng trong căn phòng nhòe đi từ màu vàng thành một màu tím yên tĩnh. Tôi cảm thấy một bàn tay mát và rắn rỏi đặt lên trán, và một bàn chân lông mềm mại chạm vào lòng bàn tay phải của tôi, và rồi tôi không biết gì nữa.
“You have fought the good fight, Lobsang, and you are here, for a holiday and to be encouraged, by right of attainment.” My Guide smiled benevolently as he spoke.
I lay back, then started up in fright, “My body, where is my Earth body?”
“Rest, Lobsang, rest,” replied the Lama. “Rest and we will show you much when your strength is greater.”
Slowly the light in the room faded from golden to a restful purplish haze. I felt a cool, strong hand placed upon my forehead, and a soft, furry paw rested in the palm of my right hand, and I knew no more.
Tôi mơ rằng mình một lần nữa quay trở lại Trái Đất. Tôi vô cảm nhìn xuống đám lính Nga đào bới chiếc xe quân sự đổ nát, lôi những thi thể cháy rụi và những mảnh xác ra. Tôi thấy một người đàn ông ngước lên và chỉ chỏ. Mọi người ngước nhìn, và cả tôi cũng quay theo hướng người đàn ông chỉ. Phía xa là cái cơ thể tan tác của tôi đang nằm chênh vênh trên đỉnh một bức tường cao. Máu chảy ra từ miệng và lỗ mũi. Tôi quan sát mọi người hạ xác tôi xuống khỏi bức tường và đưa vào xe cứu thương. Trong lúc chiếc xe được lái đến bệnh viện, tôi lơ lửng phía trên và thấy tất cả. Sợi Chỉ Bạc của tôi còn nguyên vẹn, tôi nhận thấy; nó lấp lánh như sương mù buổi sáng màu xanh trong thung lũng.
I dreamed that I was again upon Earth. I gazed down, emotionless while Russian soldiers raked through the ruined troop-carrier, pulling out burned bodies and bits of bodies. I saw a man look up, and point. Heads turned upwards in answer to his gestures, and I looked as well. There was my broken body teetering across the top of a high wall. Blood was running from the mouth and nostrils. I watched while my body was removed from the wall and placed in an ambulance. As the car drove off to a hospital I hovered above and saw all. My Silver Cord was intact, I observed; it glistened like blue morning mists in the valleys.
Nhân viên bệnh viện rút cáng ra, một cách không cẩn thận cho lắm. Họ khiêng nó vào một phòng phẫu thuật và lăn xác tôi lên một cái bàn. Y tá cắt quần áo dính máu của tôi và bỏ chúng vào thùng rác. Một đơn vị X-quang chụp ảnh và tôi nhìn thấy rằng mình bị gãy ba xương sườn, với một mẩu xương chọc thủng phổi trái. Cánh tay trái của tôi bị gãy hai chỗ, và chân trái của tôi gãy ở đầu gối và mắt cá chân. Một cái lưỡi lê cũng đang cắm vào vai trái của tôi, suýt trúng một động mạch quan trọng. Các nữ bác sĩ phẫu thuật lớn tiếng thở dài, tự hỏi nên bắt đầu từ đâu. Tôi dường như lơ lửng trên bàn mổ, quan sát, tự hỏi liệu kỹ năng của họ có đủ tốt để vá tôi lại không. Tôi cảm thấy Sợi Chỉ Bạc của mình được kéo nhẹ, và thấy bắt đầu bay lên, xuyên qua trần nhà, qua những bệnh nhân nằm ở các tầng trên. Tôi bay lên cao hơn nữa, lên vũ trụ, giữa những muôn trùng sao, qua cõi trung giới, qua hết cảnh giới này đến cảnh giới khác, đến khi hạ cánh một lần nữa ở “Vùng Hoàng Kim”.
Russian orderlies pulled out the stretcher, not being particularly careful. Joltingly they carried it into an operating theatre and rolled my body on to a table. Nurses cut off my blood-stained clothes and dropped them in a refuse bin. An X-ray unit took photographs, and I saw that I had three broken ribs, one had perforated my left lung. My left arm was broken in two places, and my left leg was broken again at the knee and at the ankle. The broken end of a soldier’s bayonet had penetrated my left shoulder, narrowly missing a vital artery. The women surgeons sighed noisily, wondering where to start. I seemed to float over the operating table, watching, wondering if their skill would be great enough to patch me up. A gentle tugging upon my Silver Cord, and I found myself floating up through the ceiling, seeing in my passing, patients in their beds in wards above. I drifted up and away, out into space, out among the limitless stars, beyond the astral, through etheric plane after plane, until I reached again the “Land of the Golden Light”.
Tôi giật mình, cố gắng nhìn qua màn sương màu tím. “Anh ấy đã trở lại,” một giọng nói dịu dàng cất lên, làn sương mờ rút đi nhường chỗ cho Ánh sáng huy hoàng trở lại. Thầy tôi, Lạt Ma Minh Gia, đứng bên đang nhìn xuống. Sha-lu nằm trên giường cạnh tôi, khẽ rên nhẹ nhàng. Hai Đại Nhân khác cũng đang ở trong phòng. Khi tôi nhìn thấy họ, thì họ đang mải ngắm những người khác đi dạo nhiều feet dưới cửa sổ.
Nghe thấy tiếng thở ngạc nhiên của tôi, họ quay lại và mỉm cười với tôi. “Con đã rất ốm yếu,” một vị nói, “chúng ta sợ rằng cơ thể con sẽ không chịu đựng được nữa.”
I started, trying to peer through the purple mist. “He has returned,” a gentle voice said, and the mists receded giving way to the glorious Light again. My Guide, the Lama Mingyar Dondup, stood beside me, looking down. Sha-lu was lying on the bed beside me, gently purring. Two other High Personages were in the room. When I saw them, they were looking out of the window watching the people strolling many feet below.
At my gasp of surprise they turned and smiled upon me. “You have been so very ill,” said one, “we feared that your body would not endure.”
Vì thứ hai, một người tôi rất quen biết khi ngài còn nắm giữ một vị trí cao quý trên Trái đất, nắm lấy tay tôi bằng cả hai tay. “Con đã chịu khổ quá nhiều, Lobsang. Thế giới đã quá tàn nhẫn với con. Chúng ta đã thảo luận về điều này và cảm thấy rằng con có quyền từ bỏ. Sẽ có nhiều đau khổ hơn nữa cho con nếu tiếp tục. Con có thể từ bỏ cơ thể của mình ngay lập tức và ở lại đây mãi mãi. Con có thích điều đó không?”
Trái tim tôi nhảy vọt lên. Bình yên sau tất cả những đau khổ tôi đã trải qua. Những khổ nhọc mà, nếu không có sự huấn luyện khốc liệt và đặc biệt tôi đã trải qua, có lẽ đã giết chết tôi nhiều năm trước rồi. Sự huấn luyện đặc biệt. Vâng, để làm gì? Để tôi có thể nhìn thấy hào quang của con người, để tôi có thể tác động nhận thức xã hội, hướng họ đến việc nghiên cứu hào quang. Và nếu tôi từ bỏ thì ai sẽ tiếp tục nhiệm vụ đó? “Thế giới ấy đã quá tàn nhẫn với con. Con chẳng có lỗi gì nếu từ bỏ.” Tôi phải suy nghĩ cẩn thận ở đây. Không có sự trách cứ gì từ người khác, nhưng suốt đời tôi sẽ phải sống với lương tâm của mình. Sống tiếp thì đã làm sao? Chỉ là vài năm khốn khổ. Một vài năm đầy sự khó khăn, đau khổ, hiểu lầm, và rồi khi đã làm tất cả những gì có thể, lương tâm tôi sẽ bình yên. Mãi mãi.
The other, whom I knew well in spite of the exalted position he had had on Earth, took my hands between his. “You have suffered too much, Lobsang. The world has been too cruel to you. We have discussed this and feel that you may like to withdraw. There would be very much more suffering for you if you continued. You can abandon your body now and remain here through eternity. Would you prefer it so?”
My heart leaped within me. Peace after all my sufferings. Sufferings which, but for my hard and special training, would have ended my life years ago. Special training. Yes, for what? So that I could see the aura of people, so that I could influence thought in the direction of auric research. And if I gave up—who would continue that task? “The world has been too cruel to you. No blame will attach to you if you give up.” I must think carefully here. No blame—from others, but throughout eternity I would have to live with my conscience. What was life? Just a few years of misery. A few more years of hardship, suffering, misunderstanding, then, provided I had done all I could, my conscience would be at peace. For eternity.
“Thưa Ngài,” tôi trả lời, “Ngài đã cho con lựa chọn, con sẽ tiếp tục phụng sự miễn là cơ thể con chịu đựng được. Bây giờ thì nó đang rất yếu,” tôi thêm vào. Những người đàn ông quanh tôi nở những nụ cười hạnh phúc tán thành. Sha-lu kêu lớn và cắn yêu tôi một cách nhẹ nhàng, tinh nghịch.
“Cơ thể Trái đất của con, như con nói, đang ở trong tình trạng rất tồi tệ vì đã trải qua khó khăn,” một vị Đại Nhân nói. “Trước khi con đưa ra quyết định cuối cùng, chúng ta phải cho con biết điều này. Chúng ta đã tìm thấy một cơ thể ở vùng đất nước Anh, chủ sở hữu của nó thì đang rất muốn rời đi. Hào quang của ông ta về cơ bản hợp với hào quang của con. Sau đó, nếu hoàn cảnh bắt buộc, con có thể nhập vào cơ thể anh ta.”
“Honoured Sir,” I replied, “you have given me my choice, I will serve as long as my body will hold together. It is very shaky at this moment,” I added. Happy smiles of approval broke out among the assembled men. Sha-lu purred loudly and gave me a gentle, playful bite of love.
“Your Earth body, as you say, is in a deplorable condition through hardship,” said the Eminent Man. “Before you make a final decision, we must tell you this. We have located a body in the land of England, the owner of which is most anxious to leave. His aura has a fundamental harmonic of yours. Later, if conditions necessitate it, you can take over his body.”
Tôi suýt văng ra khỏi giường trong nỗi kinh hoàng. Tôi chiếm cơ thể khác ư? Thầy tôi cười, “Này Lobsang, tất cả sự huấn luyện của con đi đâu hết rồi? Việc này chỉ đơn thuần giống như mặc lấy áo choàng của người khác thôi. Và sau bảy năm, cơ thể đó sẽ là của con, phân tử nào ra phân tử đó, và với những vết sẹo y như con đang có bây giờ. Lúc đầu sẽ hơi lạ, như lần đầu tiên con mặc thử đồ Tây ấy. Ta vẫn còn nhớ rõ điều đó, Lobsang.”
Vị Đại Nhân một lần nữa thêm vào. “Con có quyền chọn, Lobsang. Con có thể, với lương tâm trong sạch, từ bỏ thể xác bây giờ và vẫn ở đây. Nhưng nếu con quay lại Trái Đất thì sẽ chưa đến lúc thay đổi cơ thể ngay. Trước khi con quyết định, ta sẽ nói với con rằng nếu con quay trở lại, con sẽ thực sự trở lại với sự khó khăn, hiểu lầm, hoài nghi và hận thù, vì có một thế lực xấu xa cố gắng ngăn chặn tất cả những gì tốt đẹp liên quan đến sự tiến hóa của loài người. Con sẽ phải tranh đấu với những thế lực xấu xa.”
I nearly fell out of bed in horror. Me take over another body? My Guide laughed, “Now Lobsang, where is all your training? It is merely like taking over the robe of another. And at the passing of seven years the body would be yours, molecule for molecule yours, with the self same scars to which you are so attached. At first it would be a little strange, as when you first wore Western clothes. I well remember that, Lobsang.”
The Eminent Man broke in again, “You have your choice, my Lobsang. You can with a clear conscience relinquish your body now and remain here. But if you return to Earth, the time of the changing of bodies is not yet. Before you decide, I will tell you that if you return, you will return to hardship, misunderstanding, disbelief, and actual hatred, for there is a force of evil which tries to prevent all that is good in connection with human evolution. You will have evil forces with which to contend.”
“Con đã quyết rồi,” tôi trả lời. “Ngài đã cho con lựa chọn. Con sẽ tiếp tục cho đến khi nhiệm vụ của mình hoàn thành, và nếu con phải sử dụng một cơ thể khác, thì con cũng đành vậy.”
Cơn buồn ngủ nặng nề bao trùm lên tôi. Đôi mắt nhắm lại mặc cho sự nỗ lực của tôi. Cảnh tượng mờ dần và tôi chìm vào vô thức.
Thế giới dường như đang quay tròn. Có tiếng rầm rầm trong tai và một loạt tiếng nói ồn ào. Theo một cách tôi không giải thích được, có vẻ tôi đang bị trói. Có phải tôi lại ở trong tù? Người Nhật đã bắt giữ được tôi? Phải chăng hành trình của tôi trên khắp nước Nga là một giấc mơ, tôi đã thực sự đến Vùng Hoàng Kim chưa?
“My mind is made up,” I replied. “You have given me my choice. I will continue until my task is done, and if I have to take over another body, well, so be it.”
Heavy drowsiness assailed me. My eyes closed in spite of my efforts. The scene faded and I lapsed into unconsciousness.
The world seemed to be spinning round. There was a roaring in my ears, and a babble of voices. In some way that I could not explain, I seemed to be tied up. Was I in prison again? Had the Japanese caught me? Was my journey across Russia a dream, had I really been to the “Land of the Golden Light”?
“Anh ta đang tỉnh kìa,” có một giọng khàn khàn, “Này, DẬY ĐI!” ai đó hét vào tai tôi. Lơ mơ tôi mở đôi mắt đau nhức. Một phụ nữ Nga đang cau có nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Bên cạnh cô, một nữ bác sĩ phốp pháp nhìn một cách lạnh lùng quanh phòng điều trị. Phòng điều trị? Tôi đang ở trong một phòng điều trị với khoảng 40-50 người khác. Rồi cơn đau ập đến. Toàn bộ cơ thể tôi bùng lên với cơn đau rực lửa. Hơi thở thật khó khăn. Tôi không thể di chuyển.
“À, anh ta như thế là được rồi đấy,” nữ bác sỹ có khuôn mặt lạnh lùng nói, rồi cùng một cô y tá quay lưng bước đi. Tôi nằm thở hổn hển, hơi thở gấp gáp vì cơn đau phần bên trái người. Không có thuốc giảm đau ở đây. Ở đây, ai cũng sống hoặc chết một mình, không mong đợi cũng không nhận được sự cảm thông hay giải thoát khỏi đau đớn.
“He is coming to,” said a rough voice. “Hey! WAKE UP!” yelled someone in my ear. Drowsily I opened my aching eyes. A scowling Russian-woman stared into my face. Beside her a fat woman doctor glanced stonily around the ward. Ward? I was in a ward with perhaps forty or fifty other men. Then the pain came on. My whole body came alive with flaming pain. Breathing was difficult. I could not move.
“Aw, he’ll do,” said the stony-faced doctor as she and the nurse turned and walked away. I lay panting, breath coming in short gasps because of the pain in my left side. No pain-relieving drugs here. Here one lived or died on one’s own, neither expecting nor getting sympathy or relief from agony.
Các cô y tá nặng nề dậm chân rầm rầm làm rung giường tôi mỗi khi họ bước qua. Mỗi buổi sáng, những ngón tay nhẫn tâm xé toạc băng ra và đắp băng mới vào. Còn khi cần gì khác thì tôi phải phụ thuộc vào những bệnh nhân khác, miễn là họ có thể ra khỏi giường được và sẵn sàng giúp tôi.
Suốt hai tuần nằm ở đó, tôi hầu như bị các y tá và nhân viên y tế bỏ rơi, tất cả sự giúp đỡ mà tôi có là từ những bệnh nhân khác và chịu đựng những cơn đau đớn tột cùng khi họ không thể hoặc không muốn đáp ứng nhu cầu của mình. Vào cuối hai tuần, nữ bác sĩ có khuôn mặt lạnh lùng lại qua giường tôi, cùng với một cô y tá lực lưỡng. Họ xé mạnh thạch cao khỏi tay trái và chân trái của tôi. Tôi chưa bao giờ thấy bất kỳ bệnh nhân nào được điều trị như vậy trước đây, khi tôi suýt ngã, cô y tá lực lưỡng giữ tôi dậy bằng cánh tay trái bị gãy của tôi.
Heavy nurses stomped by, shaking the bed with the weight of their tread. Every morning callous fingers tore off the dressings and replaced them by others. For one’s other needs, one had to depend on the good offices of those patients who were ambulant, and willing.
For two weeks I lay there, almost neglected by the nurses and medical staff, getting what help I could from other patients, and suffering agonies when they could not or would not attend to my needs. At the end of two weeks the stony-faced woman doctor came, accompanied by the heavy-weight nurse. Roughly they tore the plaster off my left arm and left leg. I had never seen any patient treated like this before, and when I showed signs of falling, the stalwart nurse supported me by my damaged left arm.
Trong tuần tiếp theo, tôi khập khiễng quanh phòng, cố gắng giúp đỡ các bệnh nhân khác hết mức có thể. Tất cả những gì tôi có để mặc là một tấm chăn, và tôi đã tự hỏi làm thế nào mình kiếm được quần áo. Vào ngày thứ hai mươi hai sau khi tôi nhập viện, hai cảnh sát xuất hiện. Xé chăn của tôi ra, họ dúi một bộ quần áo vào tôi rồi hét lên, “Nhanh lên, anh đang bị trục xuất. Đáng lẽ anh phải xuất cảnh ba tuần trước rồi.”
“Nhưng làm sao tôi có thể rời đi khi đang bất tỉnh mà không phải do lỗi của mình?” Tôi cãi.
Một cú đánh vào mặt là câu trả lời duy nhất. Người cảnh sát thứ hai nới lỏng khẩu súng lục một cách đe dọa khỏi bao da. Họ đẩy tôi xuống cầu thang và vào văn phòng của Chính ủy.
During the next week I hobbled round, helping patients as best I could. All I had to wear was a blanket, and I was wondering how I would get clothing. On the twenty-second day of my stay in the hospital two policemen came to the ward. Ripping off my blanket, they shoved a suit of clothes at me, and shouted, “Hurry, you are being deported. You should have left three weeks ago.”
“But how could I leave when I was unconscious through no fault of mine?” I argued.
A blow across the face was the only answer. The second policeman loosened his revolver in its holster suggestively. They hustled me down the stairs and into the office of the Political Commissar.
“Anh đã không báo cáo cho chúng tôi, khi anh nhập viện, rằng anh đang bị trục xuất,” ông ta nói một cách giận dữ. “Anh đã được điều trị dựa trên những sự giả dối nên bây giờ anh phải trả tiền.”
“Đồng chí Chính ủy,” tôi trả lời. “Tôi đã được đưa đến đây trong tình trạng bất tỉnh và thương tích của tôi là do việc một binh sỹ Nga đã lái xe cẩu thả. Tôi đã chịu nhiều đau đớn và mất mát qua việc này.”
Viên Chính ủy trầm ngâm vuốt cằm. “Hừm,” ông ta nói, “anh bất tỉnh thì làm sao mà biết được tất cả những điều này? Tôi phải điều tra việc này.” Ông quay sang người cảnh sát và nói, “Dẫn anh ta đi và giữ anh ta trong phòng giam ở đồn cảnh sát cho đến khi tôi liên hệ.”
“You did not tell us, when you were admitted, that you were being deported,” he said angrily. “You have had treatment under false pretences and now you must pay for it.”
“Comrade Commissar,” I replied, “I was brought here unconscious, and my injuries were caused by the bad driving of a Russian soldier. I have suffered much pain and loss through this.”
The Commissar thoughtfully stroked his chin. “H’mm,” he said, “how do you know all this if you were unconscious? I must look into the matter.” He turned to the policeman and said, “Take him off and keep him in a cell in your police station until you hear from me.”
Một lần nữa tôi bị áp giải qua những con đường đông đúc như một phạm nhân. Tại đồn cảnh sát, họ lấy dấu vân tay một lần nữa và tôi được đưa đến một phòng giam sâu dưới lòng đất. Một lúc lâu không có động tĩnh gì, rồi một người lính gác mang cho tôi súp bắp cải, bánh mì đen và một ít cà phê hạt sồi tổng hợp. Ánh sáng hành lang được bật liên tục, và không có cách nào để phân biệt ngày và đêm, cũng như không thể nhận biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Cuối cùng, tôi được đưa đến một căn phòng nơi một người đàn ông nghiêm nghị lướt qua một tập giấy tờ rồi nhìn tôi qua cặp kính.
“Anh đã bị kết tội,” ông ta nói, “ở lại nước Nga sau khi bị kết án trục xuất. Đúng là anh có bị liên quan đến một vụ tai nạn không phải do anh gây ra, nhưng sau khi anh tỉnh dậy, đáng lẽ ra anh đã phải lập tức báo cáo Chính ủy Bệnh viện về hoàn cảnh của mình. Việc điều trị cho anh đã gây tốn kém cho nước Nga rất nhiều,” ông ta tiếp tục, “Nhưng nước Nga nhân từ. Anh sẽ phải làm đường ở Ba Lan trong mười hai tháng để trả chi phí cho những điều trị mà anh đã nhận được.”
Once again I was marched through crowded streets as an arrested man. At the police station my fingerprints were taken once more, and I was taken to a cell deep below the ground level. For a long time nothing happened, then a guard brought me cabbage soup, black bread and some very synthetic acorn coffee. The light in the corridor was kept on all the time, and there was no way of telling night from day, nor of marking the passing of the hours. Eventually I was taken to a room where a severe man shuffled his papers and peered at me over his glasses.
“You have been found guilty,” he said, “of remaining in Russia after you had been sentenced to be deported. True, you were involved in an accident not of your making, but immediately you became conscious you should have drawn the attention of the Hospital Commissar to your position. In your treatment you have cost Russia much,” he went on, “but Russia is merciful. You will work on the roads in Poland for twelve months to help pay for your treatment.”
“Đáng ra các ông phải bồi thường tôi mới đúng,” tôi đáp lại cục súc, “Vì lỗi của một người lính Nga mà tôi đã bị thương nặng.”
“Người lính đó không còn ở đây để bào chữa cho bản thân. Anh ta không bị thương, nên chúng tôi đã xử tử anh ta. Còn anh thì vẫn phải thi hành bản án của mình. Mai anh sẽ được đưa đến Ba Lan để tham gia thi công đường.” Tên bảo vệ nắm lấy cánh tay tôi một cách thô bạo và dẫn tôi quay lại phòng giam.
“But you should pay me,” I answered hotly. “Through the fault of a Russian soldier I have been badly injured.”
“The soldier is not here to defend himself. He was uninjured, so we shot him. Your sentence stands. Tomorrow you will be taken to Poland where you will work on the roads.” A guard roughly grabbed my arm, and led me off to the cell again.
Ngày hôm sau tôi và hai người đàn ông khác được đưa ra khỏi phòng giam của mình và áp giải đến ga tàu hỏa. Chúng tôi đứng chờ đợi quanh đó cùng cảnh sát một lúc. Sau đó, một trung đội binh lính xuất hiện. Người cảnh sát phụ trách chúng tôi đưa Trung sĩ phụ trách một mẫu đơn để ký. Một lần nữa chúng tôi lại nằm trong tay quân đội Nga!
Lại một khoảng chờ đợi dài, và cuối cùng chúng tôi được dẫn đến một chiếc tàu sẽ đưa đến Lwow ở Ba Lan.
The next day I and two other men were taken from our cells and marched off to the railway station. For some time, in company with the police, we stood around. Then a platoon of soldiers appeared, and the policeman in charge of us went to the Sergeant in charge of the soldiers and presented a form to be signed. Once again we were in the custody of the Russian army!
Another long wait, and at long last we were marched off to a train which would eventually take us to Lwow in Poland.
Lwow là một nơi buồn tẻ. Vùng nông thôn lốm đốm những giếng dầu, còn những con đường thì hỏng nát vì gánh nặng giao thông trong chiến tranh. Cả đàn ông lẫn phụ nữ làm việc trên đường, phá đá, lấp lỗ hổng và cố gắng sống sót với chế độ ăn nghèo nàn. Hai người đàn ông đã đi từ Kiev với tôi rất khác nhau. Jakob là một người đàn ông có tâm địa ác độc và hay chạy đi mách lẻo cho đám lính gác bất kỳ câu chuyện nào anh ta có thể thổi phồng lên. Jozef lại hoàn toàn khác biệt và có thể tự mình hoàn thành công việc được giao. Vì đôi chân rất yếu khiến tôi không đứng được lâu, tôi được giao nhiệm vụ ngồi bên vệ đường đập vỡ các mảnh đá. Có vẻ như lính Nga không coi cánh tay trái bị thương, xương sườn và đôi phổi chưa hồi phục của tôi là trở ngại gì cho việc này.
Suốt một tháng tôi miệt mài như nô lệ mà chỉ được trả công mỗi thức ăn. Ngay cả những người phụ nữ làm việc ở đây cũng được trả hai zloty cho mỗi mét khối đá mà họ đã đập vỡ. Đến cuối tháng thì tôi ngã sụp xuống, ho ra máu. Jozef chạy đến giúp khi thấy tôi nằm bên lề đường, phớt lờ lệnh của lính canh. Một trong những tên lính đó giơ súng trường và bắn Jozef vào cổ, may mắn là không trúng bộ phận nào quan trọng. Chúng tôi nằm bên vệ đường cùng nhau cho đến khi một người nông dân đi xe ngựa qua. Một tên lính chặn ông ta lại và chúng tôi được quăng lên xe chở lanh của người nông dân. Hắn nhảy lên xe ngồi cạnh người nông dân, và đi cùng chúng tôi đến bệnh viện nhà tù. Trong nhiều tuần tôi nằm trên tấm ván gỗ là giường của mình, và sau đó bác sĩ tù nói với tôi rằng tôi sẽ phải bị chuyển đi. Tôi sắp chết rồi, anh ta bảo vậy, và anh ta sẽ gặp rắc rối nếu có thêm tù nhân chết trong tháng đó, vì anh ta đã vượt quá hạn ngạch của mình!
Lwow was a drab place. The countryside was dotted with oil wells, the roads were terrible because of the heavy war traffic. Men and women worked on the roads, breaking stones, filling in holes, and trying to keep body and soul together on a starvation diet. The two men who had travelled from Kiev with me were very dissimilar. Jakob was a nasty-minded man who rushed to the guards with any tale he could trump up. Jozef was different altogether and could be relied upon to “pull his weight”. Because my legs were bad and made it difficult for me to stand for long, I was given the job of sitting by the side of the road breaking stones. Apparently it was not considered that my damaged left arm and barely healed ribs and lungs were any drawback.
For a month I stuck at it, slaving away for my food only. Even the women who worked were paid two zloty for each cubic yard of stone they broke. At the end of the month I collapsed, coughing blood. Jozef came to my aid as I lay by the roadside, ignoring the command of the guards. One of the soldiers raised his rifle and shot Jozef through the neck, fortunately missing any vital part. We lay by the side of the road together until a farmer came by in his horse-drawn cart. A guard stopped him and we were tumbled roughly on top of his load of flax. The guard jumped up beside him, and we trundled off to the prison hospital. For weeks I lay on the wooden planks that served as my bed, then the prison doctor said that I would have to be moved out. I was dying, he said, and he would get into trouble if any more prisoners died that month, he had exceeded his quota!
Có một cuộc bàn bạc bất thường trong phòng điều trị của tôi, giữa Thống đốc nhà tù, bác sĩ, và một lính canh cao cấp. “Anh sẽ phải chuyển đến Strỵj,” Thống đốc nói. “Ở đó mọi thứ không quá khắt khe, và vùng đồng quê có lợi cho sức khỏe hơn.”
“Nhưng Thống Đốc,” tôi trả lời, “tại sao tôi lại bị chuyển? Tôi vào tù mà đâu có phạm tội, tôi không làm gì sai cả. Tại sao tôi lại phải im miệng và bị chuyển? Tôi sẽ nói cho tất cả mọi người tôi gặp là các người đã dàn xếp chuyển tôi đi thế nào.”
Sau nhiều sự la hét và cãi vã, cuối cùng, tôi, tù nhân, đưa ra một giải pháp. “Thống đốc,” tôi nói, “ông muốn tôi đi để cứu thân mình. Tôi sẽ không bị bịt miệng để đưa đến một nhà tù khác. Nếu ông muốn tôi giữ im lặng, thì hãy để Jozef Kochino và tôi đến Stryj trong tự do. Hãy cho chúng tôi quần áo để được mặc tử tế. Hãy cho chúng tôi một ít tiền để chúng tôi có thể mua chút thức ăn. Chúng tôi sẽ im miệng và vượt qua dãy núi Carpathians.”
There was an unusual consultation in my hospital cell. The prison Governor, the doctor, and a senior guard. “You will have to go to Stryj,” said the Governor. “Things are not so strict, and the country is healthier.”
“But Governor,” I replied, “why should I move? I am in prison for no offence, for I have done no wrong at all. Why should I move and keep quiet about it? I will tell everyone I meet how it was arranged.”
There was much shouting, much bickering, and at last, I, the prisoner, came up with a solution. “Governor,” I said, “you want me out to save yourselves. I will not be shunted to another prison and keep quiet. If you want me to remain silent, let Jozef Kochino and I go to Stryj as free men. Give us clothes that we may be decent. Give us a little money that we may buy food. We will remain silent and will go right away over the Carpathians.”
Thống đốc càu nhàu và văng tục, và tất cả những người đàn ông vội vã rời khỏi phòng điều trị của tôi. Ngày hôm sau, Thống đốc trở lại và nói rằng ông ta đã đọc giấy tờ của tôi và thấy rằng tôi là một “người đàng hoàng”, theo lời của ông ta, và rằng tôi đã bị bỏ tù một cách bất công. Ông ta sẽ làm như tôi đề nghị.
Suốt một tuần không có chuyện gì xảy ra, không ai nói gì cả. Ba giờ sáng ngày thứ tám, một tên lính gác bước vào phòng giam của tôi, đánh thức tôi dậy một cách thô bạo và nói rằng tôi đang bị triệu tập lên “Văn phòng”. Tôi nhanh chóng mặc quần áo và đi theo tên lính gác đến văn phòng. Anh ta mở cửa và đẩy tôi vào trong. Một tên lính gác đang ngồi bên trong với hai đống quần áo và hai Gói lương thực quân đội Nga. Anh ta ra hiệu cho tôi im lặng và đến bên cạnh.
The Governor grumbled and swore, and all the men rushed out of my cell. The next day the Governor came back and said that he had read my papers and saw that I was “a man of honour”, as he put it, who had been jailed unjustly. He would do as I said.
For a week nothing happened, nothing more was said. At three o’clock on the morning of the eighth day a guard came into my cell, roughly awakened me, and told me I was wanted at “The Office”. Quickly I dressed and followed the guard to the office. He opened the door and pushed me inside. A guard was sitting inside with two piles of clothing and two Russian Army packs. Food was on a table. He motioned me to be silent and come to him.
“Anh chuẩn bị được đưa đến Stryj,” người lính gác thì thầm. “Khi đến đó hãy xin lính gác – sẽ có một người duy nhất – lái xe đưa anh đi xa hơn một chút. Đến đoạn đường vắng vẻ, anh có thể chế ngự hắn, trói hắn lại và bỏ hắn bên đường. Anh đã giúp tôi điều trị bệnh, nên tôi cho anh biết rằng có một âm mưu bắn các anh và vu rằng các anh là những kẻ trốn thoát.”
Cánh cửa mở ra và Jozef bước vào. “Giờ ăn bữa sáng của các anh đi,” người lính gác nói, “và khẩn trương lên. Đây là một khoản tiền để giúp các anh lên đường.” Đó là một khoản tiền khá lớn. Tôi thấy ngay được mưu kế. Thống đốc nhà tù sẽ nói rằng chúng tôi đã cướp của ông ta và trốn thoát.
“You are being taken to Stryj,” he whispered. “When you get there ask the guard—there will be one only—to drive you a little farther. If you can get him on a quiet road, overpower him, tie him up and leave him by the side of the road. You have helped me with my illness, so I will tell you that there is a plot to shoot you as escapees.”
The door opened and Jozef came in. “Now eat your breakfast,” said the guard, “and hurry up. Here is a sum of money to help you on your way.” Quite a large sum it was, too. I could see the plot. The Prison Governor was going to say that we had robbed him and escaped.
Ăn sáng xong, chúng tôi đi ra một chiếc xe hơi, loại xe jeep bốn bánh. Một tài xế cảnh sát cau có ngồi vào tay lái, khẩu súng lục trên ghế cạnh anh ta. Ra hiệu cho chúng tôi vào một cách nghiêm nghị, anh ta thả phanh và lao ra khỏi cánh cổng đang mở. Ba mươi lăm dặm trên đường – cách Stryj năm dặm, tôi quyết định hành động. Tôi nhanh chóng đưa tay ra và làm một cú đẩy Judo nhỏ dưới mũi tên lính, tay kia nắm lấy vô lăng. Tên lính mất thăng bằng, chân vẫn dí mạnh vào chân ga. Tôi vội vàng tắt máy và lái chiếc xe sang bên đường. Jozef vừa xem vừa há hốc miệng. Tôi nhanh chóng cho anh ta biết về âm mưu.
With breakfast inside us, we went out to a car, a four-wheel-drive jeep type. A surly police driver sat at the wheel, revolver on the seat beside him. Curtly motioning to us to get in, he let in the clutch and shot out of the open gate. Thirty-five miles on our way—five miles from Stryj—I thought it was time to act. Quickly I reached over and did a little Judo push under the guard’s nose, with the other hand taking the steering wheel. The guard toppled, foot hard on the accelerator. Hastily I switched off and steered the car to the side of the road. Jozef was watching open-mouthed. Hastily I told him of the plot.
“Nhanh nào, Jozef,” tôi nói. “Cởi quần áo của cậu ra và mặc quần áo tên lính đi. Cậu sẽ phải đóng giả làm lính.”
“Nhưng Lobsang,” Jozef kêu lên, “Tôi thì không biết lái, còn anh thì lại không trông giống người Nga.”
Chúng tôi đẩy tên lính ra khỏi chỗ và tôi ngồi vào ghế lái, nổ máy và lái cho đến khi chúng tôi đến một làn đường rách nát. Chúng tôi lái xe dọc theo một con đường nhỏ và dừng lại. Tên lính đang bắt đầu cựa quậy, vì thế chúng tôi dựng hắn dậy. Tôi dí súng vào hắn.
“Quick, Jozef,” I said. “Off with your clothes and put on his. You will have to be the guard.”
“But Lobsang,” wailed Jozef, “I cannot drive, and you do not look like a Russian.”
We pushed the guard out of the way and I got into the driver’s seat, started the engine, and drove on until we reached a rutted lane. We drove along a little way and stopped. The guard was stirring now so we propped him up. I held the gun at his side.
“Này tên lính,” Tôi nói với giọng điệu đe dọa nhất có thể, “nếu anh còn muốn sống, thì anh sẽ làm theo những gì tôi nói. Anh sẽ lái xe đưa chúng tôi đi vòng quanh ngoại ô Stryj và đến Skol’ye. Ở đó chúng tôi sẽ thả cho anh đi.”
“Anh bảo tôi làm cái gì cũng được,” tên lính thút thít, “nhưng nếu các anh định vượt Biên giới, thì hãy cho tôi đi cùng, không tôi cũng sẽ bị bắn.”
“Guard,” I exclaimed as fiercely as I could manage, “if you value your life you will do as I say. You will drive us around the outskirts of Stryj and on to Skol’ye. There we will let you go.”
“I will do anything you say,” whimpered the guard, but if you are going to cross the Border, let me cross with you, or I shall be shot.”
Jozef ngồi phía sau xe jeep, cẩn thận cầm khẩu súng và nhìn vào gáy tên lính với một sự khao khát đáng kể. Tôi ngồi cạnh tay lái, đề phòng việc hắn muốn thử bất kỳ thủ đoạn nào như nhảy ra đường, hoặc vứt chìa khóa ra cửa sổ. Chúng tôi tăng tốc, tránh những con đường chính. Vùng nông thôn trở nên đồi núi, gồ ghề hơn khi chúng tôi di chuyển lên dãy núi Carpathian. Cây cối trở nên rậm rạp hơn, cung cấp những nơi ẩn náu tốt hơn. Tại một địa điểm thích hợp, chúng tôi dừng lại để duỗi chân và ăn một chút, chia sẻ những gì mình có với tên lính.
Tại Vel’ke-Berezni, gần hết xăng, chúng tôi dừng lại và giấu chiếc xe jeep. Với tên lính bị kèm ở giữa, chúng tôi di chuyển lén lút. Đây là vùng Biên giới, và chúng tôi phải thận trọng. Bất cứ ai có đủ động lực đều có thể vượt qua biên giới của bất kỳ quốc gia nào. Chỉ cần đơn thuần là một chút khéo léo và sáng tạo. Tôi chưa bao giờ gặp rắc rối cho dù nhỏ nhất khi vượt biên bất hợp pháp. Tôi chỉ gặp khó khắn duy nhất khi cầm hộ chiếu hoàn toàn hợp lệ. Hộ chiếu chỉ đơn thuần là sự bất tiện cho những du khách vô tội, khiến họ phải chịu đựng những thủ tục hành chính thừa thãi. Việc thiếu hộ chiếu chưa bao giờ cản trở một người phải vượt biên. Tuy nhiên, hộ chiếu phải tồn tại để có thể gây phiền hà cho những du khách vô hại, và để có việc làm cho đám quan chức hách dịch. Đây không phải là một chuyên luận về cách vượt biên bất hợp pháp, vì vậy tôi sẽ chỉ nói rằng không có khó khăn gì trong việc ba chúng tôi vào Tiệp Khắc. Tên lính đi đường của hắn, và chúng tôi đi đường của chúng tôi.
Jozef sat in the back of the jeep, carefully nursing the gun and looking with considerable longing at the back of the guard’s neck. I sat by the driver, in case he should try any tricks such as running off the road, or throwing away the ignition key. We sped along, avoiding the main roads. The countryside became more hilly as we moved up into the Carpathian Mountains. The trees became denser, providing better hiding places. At a suitable spot we stopped to stretch our legs and have some food, sharing what we had with the guard.
At Vel’ke-Berezni, almost out of petrol, we stopped and hid the jeep. With the guard between us we moved stealthily along. This was Border country, and we had to be careful. Anyone who has sufficient reason can cross the border of any country. It merely calls for a little ingenuity and enterprise. I have never had the slightest real trouble in crossing a frontier illegally. My only difficulties have been when I had a perfectly legitimate passport. Passports merely inconvenience the innocent traveler, causing him to be subjected to ridiculous red tape. Lack of a passport has never hindered a person who had to cross frontiers. However, presumably there have to be passports in order to harass harmless travelers and give work to hordes of often very unpleasant officials. This is not a treatise on how to cross frontiers illegally, so I will just say that without difficulty the three of us entered Czechoslovakia. The guard went his way, and we went ours.
“Nhà tôi ở Levice,” Jozef nói, “tôi muốn về nhà. Anh có thể ở lại đó bao lâu tùy thích.”
Chúng tôi cùng nhau lên đường đến Kosice, Zvolen và đến Levice, đi bộ, đi ké xe và đi tàu hỏa. Jozef biết rõ đất nước này, biết nơi để kiếm khoai tây, củ cải hoặc bất cứ thứ gì có thể ăn được.
“My home is at Levice,” said Jozef, “I want to go home. You can stay with me as long as you like.”
Together we made our way to Kosice, Zvolen, and on to Levice, walking, getting lifts, and riding on trains. Jozef knew the country well, knew where to get potatoes or beets or anything which could be eaten.
Cuối cùng, chúng tôi đi bộ trên một con đường hẹp ở Levice đến một ngôi nhà nhỏ. Jozef gõ của, không có hồi âm, lại gõ tiếp. Với sự thận trọng cao độ, tấm rèm được hé ra khoảng một inch. Người theo dõi đã nhìn thấy và nhận ra Jozef. Cánh cửa mở tung ra và anh ta bị lôi ngay vào trong nhà. Cánh cửa đóng sầm vào mặt tôi. Tôi bước lên bước xuống bên ngoài. Cuối cùng, cánh cửa lại mở ra và Jozef bước ra với vẻ mặt khổ tâm không tưởng nổi.
“Mẹ tôi không cho phép anh ở đây,” anh ta nói. “Mẹ nói là có quá nhiều gián điệp và nếu chúng tôi cho ai khác vào nhà, tất cả chúng tôi có thể bị bắt. Tôi xin lỗi.” Nói xong, anh xấu hổ quay mặt đi vào nhà.
At long last, we walked up a mean street in Levice to a small house. Jozef knocked, and as there was no reply, knocked again. With extreme caution, a curtain was drawn aside an inch or so. The watcher saw and recognized Jozef. The door was flung open and he was dragged inside. The door slammed in my face. I paced up and down outside. Eventually the door opened again and Jozef came out looking more troubled than I had thought possible.
“My mother won’t have you in,” he said. “She says there are too many spies about and if we have anyone else in, we may all get arrested. I’m sorry.” With that he turned shame-facedly away and re-entered the house.
Tôi đứng sững sờ một lúc lâu. Tôi chính là người đưa Jozef ra khỏi tù, tôi đã cứu anh ta khỏi việc bị bắn. Những nỗ lực của tôi đã đưa anh ta đến đây, và bây giờ anh ta quay lưng bỏ mặc tôi như vậy. Buồn bã, tôi quay lại con đường nhỏ, và bước ra đường lớn một lần nữa. Không có tiền, không có thức ăn, không hiểu ngôn ngữ. Tôi bước một cách mù quáng, buồn bã trước sự phản bội của một người mà tôi đã từng gọi là “bạn”.
Trong hàng tiếng tôi lê bước trên lề đường cao tốc. Vài chiếc xe đi qua nhưng không ai liếc tôi lấy một lần, có quá nhiều người cũng đang đi lại nên cũng chả ai chú ý đến tôi. Một vài dặm trước đó, tôi đã kịp nhặt vài củ khoai tây héo mà nông dân đã vứt ra cho lợn để phần nào làm dịu cơn đói của mình. Nước thì không phải là vấn đề, vì luôn có những dòng suối. Từ lâu tôi đã biết rằng nước suối an toàn, nhưng nước sông thì ô nhiễm.
For long moments I stood dazed. I had been responsible for getting Jozef out of prison, I had saved him from getting shot. My efforts had brought him here, and now he had turned and left me to manage the best way I could. Sadly I turned and retraced my way down the street and on the long road again. No money, no food, no understanding of the language. I marched on blindly, saddened at the treachery of one I had called “friend”.
For hour after hour I plodded along by the side of the highway. The few passing cars gave me not a glance, there were too many people on the march for me to attract attention. A few miles back I had assuaged my hunger somewhat by picking up some half rotten potatoes which a farmer had put out for his pigs. Drink was never a problem, for there were always the streams. Long ago I had learned that streams and brooks were safe, but rivers were polluted.
Xa phía trước mặt trên con đường thẳng, tôi thấy một vật gì đó to lớn. Với khoảng cách đó nó trông giống như là một chiếc xe tải cảnh sát, hoặc một vật chặn đường. Trong vài phút tôi ngồi xuống bên đường quan sát. Không có dấu hiệu của cảnh sát hay binh lính, vì vậy tôi lại tiếp tục hành trình của mình một cách rất thận trọng. Khi đến gần, tôi thấy rằng một người đàn ông đang loay hoay làm gì đó với động cơ xe. Anh ta ngước lên thấy tôi và nói điều gì đó mà tôi không hiểu. Ông ta lặp lại nó bằng ngôn ngữ khác, và sau đó lại bằng một ngôn ngữ khác nữa. Cuối cùng tôi có thể hiểu đại khái những gì ông ta nói. Động cơ đã tắt và ông ta không thể làm nó hoạt động trở lại, tôi có biết gì về động cơ không? Tôi nhìn, thử loáy ngoáy với một vài điểm, nhìn lại, và thử khởi động. Xăng dầu thì đầy đủ. Nhìn dưới táp lô ở hệ thống dây điện, tôi thấy nơi cách nhiệt bị mòn, làm hỏng hệ thống đánh lửa khi chiếc xe đi qua một miếng nhô trên đường và chập dây điện trần với nhau. Tôi không có băng keo hoặc dụng cụ cách điện, nhưng cũng chỉ mất chốc lát để quấn dây trong vải và buộc chúng an toàn vào với nhau. Động cơ khởi động và kêu một cách trơn tru. “Có cái gì không ổn,” tôi nghĩ, “Động cơ này hoạt động quá tốt để có thể là xe của một lão nông dân già!”
Far ahead of me on the straight road I saw a bulky object. In the distance it appeared to be a police truck, or road blockage. For several minutes I sat by the side of the road watching. There was no sign of police or soldiers, so I resumed my journey, being very cautious about it. As I drew near I saw that a man was trying to do something to the engine. He looked up at my approach and said something which I did not understand. He repeated it in another language, and then in another. At last I could roughly understand what he was saying. The engine had stopped and he could not make it go, did I know about motors? I looked, and fiddled about, looked at the points, and tried the starter. There was ample petrol. Looking under the dash at the wiring I saw where the insulation had worn away, cutting off the ignition when the car had hit a bump in the road and jolted two bare wires together. I had no insulating tape or tools, but it was merely the work of moments to wrap the wires in strips of cloth and tie them safely. The engine started and purred smoothly. “Something wrong here,” I thought. “This engine goes too well to be an old farmer’s car!”
Người đàn ông nhảy lên nhảy xuống trong vui mừng. “Brava brava,” ông ta liên tục nói, “Anh đã cứu tôi rồi!”.
Tôi lúng túng nhìn ông ta, tôi “cứu” ông ta kiểu gì bằng cách khởi động lại xe của ông? Ông ta ngắm nghĩa tôi một cách cẩn thận.
“Tôi đã thấy anh trước đây rồi,” ông ta nói, “Anh đi cùng một người đàn ông khác và cả hai lúc đó đang đi qua cầu Sông Hron tại Levice.”
“Đúng rồi,” tôi trả lời, “còn bây giờ thì tôi chỉ còn lại một mình.”
Ông ta ra hiệu cho tôi vào xe. Trong khi ông ta lái xe, tôi nói với ông ấy tất cả những gì đã xảy ra. Qua việc quan sát hào quang, tôi có thể thấy ông ta là một người đáng tin cậy và có thiện chí.
The man was hopping up and down with joy. “Brava brava,” he kept exclaiming. “You have saved me!”
I looked at him in some puzzlement, how had I “saved him” by starting his car? He looked me over carefully.
“I have seen you before,” he said. “You were with another man, and you were crossing the River Hron Bridge at Levice.”
“Yes,” I replied, “and now I am on my way alone.”
He motioned me to get into the car. As he drove along I told him all that had happened. By his aura I could see that he was a trustworthy and well-intentioned man.
“Chiến tranh đã chấm dứt sự nghiệp của tôi,” ông ta nói, “và tôi vẫn phải sống và hỗ trợ gia đình mình. Anh rất thông thạo về ô tô và tôi có thể sử dụng một người lái xe để không bị kẹt trên đường. Chúng tôi vận chuyển thực phẩm và một vài mặt hàng xa xỉ từ nước này sang nước khác. Tất cả những gì anh cần phải làm là lái xe và bảo dưỡng xe.”
Tôi ra vẻ nghi ngờ. Buôn lậu? Tôi chưa bao giờ làm điều đó trong cuộc sống của mình. Người đàn ông nhìn tôi và nói, “Không có ma túy, không vũ khí, không có gì có hại. Chỉ là thực phẩm để giúp người ta sống sót, và một vài món đồ xa xỉ cho phụ nữ để họ vui.”
“The war ended my profession,” he said, “and I have to live and support my family. You are good with cars and I can use a driver who will not get stuck on the road. We take foodstuffs and a few luxury articles from one country to another. All you have to do is to drive and maintain a car.”
I looked very dubious. Smuggling? I had never done it in my life. The man looked at me and said, “No drugs, no weapons, nothing harmful. Food to keep people alive, and a few luxury articles for women to keep them happy.”
Tôi thấy điều đó khá lạ, vì Tiệp Khắc trông không giống như một quốc gia có đủ khả năng xuất khẩu thực phẩm và hàng hóa xa xỉ. Tôi nói với ông ta điều đó, và ông ta trả lời, “Anh hoàn toàn chính xác, tất cả đều đến từ một quốc gia khác, chúng tôi chỉ đơn thuần vận chuyển nó. Người Nga ăn cắp từ các Dân tộc bị chiếm đóng, lấy hết tài sản của họ. Họ đặt tất cả các hàng hóa có giá trị trên các chuyến tàu và gửi lại vô số thứ cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng. Chúng tôi chỉ chặn những chuyến tàu có thực phẩm tốt nhất mà chúng tôi có thể vận chuyển đến các quốc gia khác đang thiếu thốn. Tất cả các Bộ đội Biên phòng đều nằm trong đường dây của chúng tôi. Anh sẽ chỉ cần lái xe, với tôi ngồi bên cạnh.
It seemed peculiar to me, Czechoslovakia did not appear to be a country which could afford to export food and luxury goods. I said so, and the man replied, “You are perfectly correct, it all comes from another country, we merely forward it on. The Russians steal from the Occupied peoples, taking all their possessions. They put all the valuable goods on trains and send back loads of stuff to high party leaders. We merely intercept those trains which have the most good food which we can direct to other countries who are in need. All the Frontier Guards are in it. You would merely have to drive, with me beside you.”
“Vậy,” tôi nói, “Ông cho tôi xem trong xe tải này có gì. Nếu thực sự là không có ma túy, không có gì có hại, tôi sẽ chở ông đến bất cứ nơi nào ông muốn.
Ông ta cười và nói, “thế thì ra phía sau xe đi. Anh kiểm tra bao lâu cũng được. Tài xế thường ngày của tôi bị ốm và tôi tưởng rằng có thể tự mình vận hành chiếc xe này. Nhưng mà tôi lại chả biết gì về máy móc. Tôi là một luật sư nổi tiếng ở Vienna trước khi chiến tranh khiến tôi mất việc.”
Tôi lục lọi, bới tung phần sau xe ra. Quả như ông ta nói, chỉ có thức ăn và một vài đồ lụa cho phụ nữ mặc. “Tôi bằng lòng rồi,” tôi nói. “Tôi sẽ lái xe cho ông.”
“Well,” I said, “show me in this truck. If there are no drugs, nothing harmful, I will drive you to wherever you wish.”
He laughed and said, “Come on in the back. Look as much as you want. My regular driver is ill, and I thought I could manage this car myself. I cannot for I know nothing of mechanical things. I was a well-known lawyer in Vienna before the war put me out of work.”
I rummaged, and turned out the back. As he said, there was only food and a few silk things which women wear. “I am satisfied,” I said. “I will drive you.”
Ông ta chỉ tôi ngồi vào ghế lái, và chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình đưa tôi qua Bratislava, vào Áo, qua Vienna và Klagenfurt, và cuối cùng đến Ý, nơi cuộc hành trình kết thúc tại Verona. Bộ đội biên phòng ngăn chúng tôi lại, giả bộ kiểm tra hàng hóa, sau đó vẫy chúng tôi khi một gói nhỏ được đặt trong tay họ. Có lần, một chiếc xe cảnh sát phóng trước mặt chúng tôi, đột ngột dừng lại và khiến tôi phải đạp phanh rất gấp. Hai cảnh sát lao vào chúng tôi với súng lục trên tay. Sau khi xem xét một số giấy tờ, họ lùi lại, trông rất xấu hổ và lẩm bẩm xin lỗi. Chủ nhân mới dường như rất hài lòng với tôi. “Tôi có thể giúp cậu liên lạc với một người đàn ông hay điều xe đến Lausanne, ở Thụy Sĩ,” ông ta nói, “và nếu anh ấy hài lòng về cậu như tôi, anh ấy có thể giới thiệu cậu với một người khác để đưa anh đến Ludwigshafen ở Đức.”
Nguyên một tuần chúng tôi nghỉ ngơi ở Venice trong lúc hàng hóa được dỡ xuống và hàng khác được chất lên xe. Chúng tôi cũng muốn nghỉ ngơi sau một chuyến lái xe mệt mỏi. Venice là một nơi tồi tệ đối với tôi, tôi thấy khó thở ở vùng đất thấp đó. Nó như thể một cái cống không nắp.
He motioned me to the driver’s seat, and we were off on a journey which took me through Bratislava, into Austria, through Vienna and Klagenfurt, and eventually into Italy, where the journey ended at Verona. Frontier Guards stopped us, made a show of inspecting the goods, then waved us on when a little package was placed in their hands. Once a police car raced ahead of us, stopped suddenly, and caused me to really stand on the brakes. Two policemen dashed at us with drawn revolvers. Then, on production of certain papers, they backed away, looking very embarrassed and muttering profuse apologies. My new employer seemed to be very pleased with me. “I can put you in touch with a man who runs trucks to Lausanne, in Switzerland,” he said, “and if he is as satisfied as I am, he can pass you on to someone who will get you to Ludwigshafen in Germany.”
For a week we lazed in Venice while our cargo was being unloaded and other goods put aboard. We also wanted a rest after the exhausting drive. Venice was a terrible place for me, I found it difficult to breathe in that lowland. It appeared to me that the place was merely an open sewer.
Từ Venice, trên một chiếc xe tải khác, chúng tôi đã đi đến Padua, Vicenza và Verona. Tất cả các quan chức chúng tôi gặp đều đối xử với chúng tôi như ân nhân cộng đồng, và tôi tự hỏi không biết chủ nhân của tôi thực sự là ai. Từ hào quang của ông ta, và hào quang không thể nói dối, rõ ràng ông ta là một người đàn ông tốt. Tôi không hỏi han gì thêm cả, vì tôi thực sự không quan tâm. Tất cả những gì tôi muốn là được di chuyển, tiếp tục với nhiệm vụ của mình trong cuộc đời. Như tôi biết, nhiệm vụ của tôi không thể bắt đầu cho đến khi tôi có thể ổn định, chứ không phải bay nhảy từ nước này sang nước khác nữa.
From Venice, in a different truck, we went on to Padua, Vicenza, and Verona. Among all the officials we were treated as public benefactors, and I wondered who my employer really was. From his aura, and the aura cannot lie, it was obvious that he was a good man. I made no enquiries, as I was not really interested. All I wanted was to get going, to get on with my own task in life. As I knew, my task could not start until I could settle down, free from all this jumping from country to country.
Ông chủ bước vào phòng tôi trong khách sạn ở Verona. “Có một người tôi muốn cậu gặp. Anh ấy sẽ đến đây vào chiều nay. À Lobsang, tốt hơn thì cậu nên cạo râu, vì người Mỹ hầu hết là không thích râu, và anh này là một người Mỹ làm nghề đại tu lại xe tải, xe hơi và chuyển chúng từ nước này sang nước khác. Như thế có được không?”
“Thưa ông,” tôi trả lời, “nếu người Mỹ hoặc bất kỳ ai khác không thích bộ râu của tôi, họ sẽ phải chịu thôi. Xương hàm của tôi bị lính Nhật đạp vỡ rồi, và tôi để râu để ngụy trang vết thương của mình.”
Ông chủ nói chuyện với tôi khá lâu, và trước khi chúng tôi chia tay, ông cho tôi một khoản tiền rất thỏa đáng, nói rằng vì tôi đã thực hiện phần thỏa thuận của mình, nên ông cũng thực hiện phần của ông ấy.
My employer walked into my room in the Verona hotel. “I have a man I want you to meet. He is coming here this afternoon. Ah, Lobsang, you would do better if you shaved off your beard. Americans seem to dislike beards, and this man is an American who reconditions trucks and cars and moves them from country to country. How about it?”
“Sir,” I replied, “if the Americans or anyone else dislike my beard, they will have to go on disliking. My jaw bones were shattered by Japanese boots, and I wear a beard to disguise my injuries.”
My employer talked with me for quite a time and before we parted he gave me a very satisfactory sum of money, saying that I had kept my part of the bargain, he would keep his.
Người Mỹ là một người hào nhoáng bóng lộn, ngậm một điếu xì gà khổng lồ giữa đôi môi dày dặn. Răng của anh ta gắn đầy các miếng trám vàng, và quần áo thì lấp lánh với sự xa xỉ. Đi cùng anh ta là một người phụ nữ nhuộm tóc vàng, mặc một bộ quần áo để lộ quá nhiều những phần cơ thể của cô ta mà đáng lẽ phải che lại theo tập tục phương Tây.
The American was a flashy individual, rolling a huge cigar between his thick lips. His teeth were liberally studded with gold fillings, and his clothes really dazzled with their gaudiness. Dancing attendance upon him was a very artificially-blonde woman whose clothing scarce concealed those portions of her anatomy which Western convention decreed should be covered.
“Na-ày” cô ta ré lên khi nhìn tôi. “Anh này dễ thương quá à? Anh này đẹp trai quá à?”
“Thôi im đi Cưng,” người đàn ông vẫn bao cho cô ta nói. “Biến đi, dạo chỗ nào đó. Bọn anh có việc.” Với một cái bĩu môi và lắc người làm mọi thứ trên cơ thể cô ta rung chuyển một cách nguy hiểm, khiến lớp vải mỏng manh ôm sát thân mình giãn căng, “Cưng” phi ra khỏi phòng đi tìm mua đồ uống.
“Chúng tôi phải đưa một chiếc Mercedes đẹp ra khỏi địa bàn,” người Mỹ nói. “Không bán nó ở đây được, nó sẽ thu được nhiều tiền hơn ở nước khác. Nó từng thuộc về một trong những tên Thủ lĩnh của Mussolini. Chúng tôi giải phóng nó và đã sơn lại nó. Tôi có một mối tốt ở Karlsruhe, ở Đức, nếu tôi có thể đưa xe đến đó thì sẽ kiếm được nhiều lắm.”
“Sa-ay,” she squealed as she looked at me. Isn’t he cute? Isn’t he a doll?”
“Aw shut it, Baby,” said the man who provided her income. “Scram, go take a walk. We got business.” With a pout and a jiggle that shook everything dangerously, and placed a heavy strain on flimsy fabric, “Baby” flounced out of the room in search of drinks.
“We gotta get a swell Mercedes out,” said the American. “No sale for it here, it will fetch plenty money in another country. It used to belong to one of Musso’s Big Shots. We liberated it and painted it over. I got a dandy contact in Karlsruhe, in Germany, if I can get it there, I stand to make a packet.”
“Sao anh không tự lái nó đi?” tôi hỏi. “Tôi thì không biết gì Thụy Sĩ hay Đức.”
“Trời, tôi lái nó á? Tồi thì làm việc này quá nhiều nên Lính Biên phòng ai cũng biết mặt tôi rồi.”
“Thế anh muốn tôi bị bắt à?” tôi trả lời. “Tôi đã vượt qua quá nhiều sự nguy hiểm để bị bắt bây giờ. Không, tôi không muốn công việc này.”
“Why do you not drive it yourself?” I asked. “I do not know Switzerland or Germany.”
“Gee, me drive it? I have done it too often, all the Frontier Guards know me.”
“So you want me to get caught?” I replied. “I have come too far too dangerously to get stopped now. No, I do not want this job.”
“Ôi giời! Cái này với cậu sẽ chỉ là chuyện nhỏ thôi, cậu trông thật thà và tôi có thể cung cấp giấy tờ nói rằng đó là xe của cậu và cậu là khách du lịch. Tôi có hết giấy tờ cho cậu.” Anh ta lục trong cái cặp đang mang theo, quăng cả đống giấy tờ và mẫu đơn cho tôi. Tôi liếc qua từng trang một các chậm chạp. Kỹ sư tàu thủy! Tôi thấy những mẫu đơn này mang tên một người đàn ông, một kỹ sư tàu thủy. Thẻ công đoàn của anh ấy và mọi thứ đều ở đó. Kỹ sư tàu thủy! Nếu có thể giữ những giấy tờ đó, tôi có thể lên tàu được. Tôi đã học ngành kỹ thuật cũng như y học và phẫu thuật ở Chungking; Tôi đã có bằng cử nhân kỹ thuật, tôi cũng là một phi công có bằng cấp đầy đủ… tâm trí của tôi tiếp tục chạy đua.
“Aw, man! It’s a cinch for you, you look honest and I can provide papers saying that it is your car and you are a tourist. Sure I can give you all the papers.” He fished in a large brief case which he was carrying, and shoved a whole sheaf of papers and forms at me. Idly I glanced at them. Ship’s engineer! I saw that they referred to a man, a ship’s engineer. His union card and all were there. Ship’s engineer! If I could get those papers I could get aboard a ship. I had studied engineering as well as medicine and surgery in Chungking; I had a B.Sc. in engineering, I was a fully qualified pilot . . . my mind raced on.
“Tôi vẫn chưa thấy hứng thú lắm,” tôi nói. “Quá rủi ro. Những giấy tờ này không có ảnh của tôi trên đó. Làm thế nào để biết rằng chủ sở hữu thực sự sẽ không xuất hiện không đúng lúc?”
“Tên này chết rồi, chết và bị chôn rồi. Anh ta say rượu và đã lái xe Fiat với tốc độ cao. Tôi đoán là anh ta ngủ gật khi lái xe, mà dù sao đi nữa thì anh ta cũng đã rơi nát bét xuống chân một cây cầu bê tông rồi. Chúng tôi được thông báo về anh ta và đã gom hết giấy tờ.”
“Well, I am not keen on it.” I said. “Too risky. These papers do not have my photograph on them. How do I know that the real owner will not turn up at the wrong moment?”
“The guy is dead, dead and buried. He got drunk and he was driving a Fiat at speed. Guess he fell asleep; anyhow he spattered himself along the side of a concrete bridge. We heard about him and picked up his papers.”
“Và nếu tôi đồng ý, anh sẽ trả tôi bao nhiêu và tôi có thể giữ những giấy tờ này không? Chúng sẽ giúp tôi vượt qua Đại Tây Dương.”
“Được chứ anh bạn, chắc chắn luôn. Tôi sẽ trả cậu hai trăm năm mươi đô la cộng tất cả các chi phí kèm theo, và cậu được giữ tất cả các giấy tờ. Chúng tôi sẽ kêu người dán bức ảnh của cậu lên giấy tờ thay vì ảnh của tên kia. Tôi có quan hệ đó. Tôi mà đã dàn xếp là chỉ có trơn tru!”
“Thế thì được,” tôi trả lời, “Tôi sẽ lái chiếc xe này đến Karlsruhe cho anh.”
“Thế thì chở em gái kia cùng luôn nhé, cô ta đi cùng cho cậu đỡ buồn và điều đó cũng sẽ giúp cô ta đỡ quấy rầy tôi. Tôi cũng chuẩn bị có một em mới rồi.”
“And if I agree, what will you pay me, and can I keep these papers? They will help me across the Atlantic.”
“Sure, Bud, sure. I give you two-fifty bucks and all expenses, and you keep all the papers. We will get your photograph put on them instead of his. I got contacts. I fix it real good!”
“Very well,” I replied, “I will drive the car to Karlsruhe for you.”
“Take the girl along with you, she will be company and it will get her out of my hair. I gotta fresh one lined up.
Trong vài giây tôi nhìn anh ta trong sự bàng hoàng. Anh ấy rõ ràng đã nhầm lẫn biểu cảm của tôi. “Giời ạ, có chứ! Cậu thích làm gì nó cũng chiều hết. Cậu sẽ được tha hồ vui vẻ.”
“Không!” tôi kêu lên,” tôi sẽ không đem người phụ nữ đó theo. Tôi sẽ không ngồi cùng xe với cô ấy. Nếu anh không tin tưởng tôi, thì hãy hủy kèo này đi, hoặc anh có thể cử thêm một người đàn ông, hay hai người đàn ông, chứ phụ nữ thì không được.”
For some moments I looked at him in a daze. He evidently mistook my expression. “Aw, sure, She’s game for anything. You’ll have plenty of fun.”
“No!” I exclaimed, “I will not take that woman with me. I would not stay in the same car with her. If you distrust me, let us call it off, or you can send a man, or two men, but no woman.”
Anh ta ngả ghế ra và cười phá lên, miệng há rộng; mấy miếng vàng gắn trên răng làm tôi liên tưởng đến các Vật thể Vàng được trưng bày ở các Chùa của Tây Tạng. Điếu xì gà của anh rơi xuống sàn và bị dập tắt trong một cơn mưa tia lửa. “Cái em gái đó,” anh ta nói khi cuồi cùng nhịn cười được, “tôi mất năm trăm đô một tuần đấy. Tôi tặng cho anh vì chuyến đi mà anh lại còn không nhận. Lạ chưa kìa!”
Hai hôm sau giấy tờ đã sẵn sàng. Bức ảnh của tôi đã được gắn lên, các quan chức thân thiện đã kiểm tra cẩn thận giấy tờ và đóng dấu chính thức theo quy định. Chiếc xe Mercedes to lớn lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời nước Ý. Tôi kiểm tra, như mọi khi, nhiên liệu, dầu, nước, rồi ngồi vào xe và khởi động máy. Khi tôi lái đi người Mỹ chào tôi bằng một cái vẫy tay thân thiện.
He leaned back in his chair and roared, opening his mouth wide; the display of gold reminded me of the Golden Objects on display in Temples of Tibet. His cigar fell to the floor and became extinguished in a shower of sparks. “That dame,” he said when he could finally speak, “she costs me five hundred bucks a week. I offer to give her to you for the trip and you refuse. Well, ain’t that sump’n!”
Two days later the papers were ready. My photograph had been fixed on, and friendly officials had carefully examined the papers and covered them with official seals as necessary. The great Mercedes was gleaming in the Italian sunlight. I checked, as always, the fuel, oil and water, got in and started the engine. As I drove off the American gave me a friendly wave.
Tại biên giới Thụy Sĩ, các quan chức đã kiểm tra rất cẩn thận các giấy tờ mà tôi xuất trình. Rồi họ chuyển sự chú ý sang chiếc xe. Kiểm tra bình nhiên liệu để đảm bảo không có khoang giả, gõ dọc theo thân máy để đảm bảo rằng không có gì được giấu đằng sau các tấm kim loại. Hai tên lính nhìn xuống, phía dưới táp lô, và thậm chí kiểm tra cả động cơ. Khi họ cho tôi xuất cảnh, bỗng một tiếng hét vang lên phía sau tôi. Tôi nhanh chóng phanh lại. Một tên lính chạy lại, thở hổn hển. “Anh có đưa ké một người đàn ông đến Martigny được không?” anh ta hỏi. “Anh ấy rất vội và phải đến đó vì một vấn đề cấp bách.”
At the Swiss border, the officials very carefully inspected the papers which I presented. Then they turned their attention to the car. A probe into the fuel tank to make sure there was no false compartment, tapping along the body to make sure that nothing was hidden behind the metal panels. Two guards looked underneath, under the dash, and even looked at the engine. As they gave me clearance and I moved off, shouts broke out behind me. Quickly I braked. A guard ran up, panting. “Will you take a man to Martigny?” he asked. “He is in rather a hurry and has to go on a matter of some urgency.”
“Được,” tôi nói, “tôi sẽ chở anh ta nếu anh ta sẵn sàng ngay bây giờ.” Tên lính vẫy gọi, và một người đàn ông vội vã chạy ra khỏi văn phòng Cửa Khẩu. Cúi đầu chào tôi, anh ta vào xe và ngồi cạnh tôi. Qua hào quang của anh ta, tôi thấy đó là một quan chức và đang có thái độ nghi ngờ. Anh ta đang tự hỏi tại sao tôi lại lái xe một mình mà không có phụ nữ đồng hành.
Anh ta nói chuyện thú vị, nhưng cũng dành đủ thời gian để làm phiền tôi với những câu hỏi. “Không có phụ nữ à, thưa ông?” anh ta nói, “kỳ lạ thật. Có lẽ ông có sở thích khác?”
“Yes,” I replied, “I will take him if he is ready now.” The guard beckoned, and a man hurried out of the Frontier offices. Bowing to me, he got into the car and sat beside me. By his aura I saw that he was an official and was suspicious. Apparently he was wondering why I should be driving alone, with no woman friends.
He was a great talker, but he left time enough to ply me with questions. Questions which I could answer. “No women, Sir?” he said, “but how unusual. Perhaps you have other interests?”
Tôi cười và nói, “Các anh thì chỉ biết nghĩ đến tình dục, anh nghĩ rằng một người đàn ông đi du lịch một mình là một kẻ lập dị, một người đáng nghi ngờ. Tôi là một khách du lịch, tôi thích ngắm cảnh, còn phụ nữ thì đi đâu chả thấy được.”
Anh ấy nhìn tôi bằng ánh mắt bắt đầu hiểu chuyện, và tôi nói, “tôi sẽ kể cho anh nghe một câu chuyện mà tôi biết là có thật. Nó là một phiên bản khác của chuyện Vườn Địa đàng.”
I laughed and said, “You people think only of sex, you think that a man traveling alone is a freak, someone of whom you must be suspicious. I am a tourist, I am seeing the sights. I can see women anywhere.”
He looked at me with some understanding in his eyes, and I said, “I will tell you a story which I know is true. It is another version of the Garden of Eden.”
“Trong suốt lịch sử tất cả các công trình tôn giáo vĩ đại trên thế giới có những câu chuyện mà vài người tin, còn những người khác, với cái nhìn sâu sắc hơn, đã cho chúng là truyền thuyết, các truyền thuyết được thiết kế để che giấu những trí tuệ nhất định. Những trí tuệ ấy không nên rơi vào tay bất kỳ kẻ nào vì nguy cơ họ sử dụng chúng một cách nguy hiểm.”
“Một câu chuyện như vậy là câu chuyện, hay truyền thuyết về Adam và Eva trong Vườn Địa đàng, trong đó Eva bị một con rắn cám dỗ và cô ta đã ăn trái cây từ Cây Trí Tuệ. Sau khi ăn xong, Adam và Eva nhìn nhau và thấy rằng họ đang khỏa thân. Vì có được trí tuệ bị cấm này nên họ không còn được phép ở lại Vườn Địa đàng.”
“Throughout history in all the great religious works of the world there have been stories which some have believed, but which others, with perhaps greater insight, have regarded as legends, as legends designed to conceal certain knowledge which should not fall before any chance person because such knowledge can be dangerous in such hands.
“Such is the story or legend of Adam and Eve in the Garden of Eden, wherein Eve was tempted by a serpent and in which she ate the fruit from the Tree of Knowledge, and having been tempted by the serpent, and having eaten of the Tree of Knowledge, they gazed upon each other and saw that they were naked. Having obtained this forbidden knowledge, they were no longer allowed to remain in the Garden of Eden.
“Tất nhiên, Vườn Địa đàng là mảnh đất vô minh vô tận, trong đó người ta không sợ gì cả vì người ta không hiểu gì cả, và trong đó, con người, thực chất, chả khác gì một cây bắp cải. Nhưng đây là phiên bản bí truyền hơn của câu chuyện.”
“Đàn ông và phụ nữ không chỉ đơn thuần là một khối nguyên sinh chất, một khối thịt trên khung xương. Con người là, hoặc có thể trở thành một thứ vĩ đại hơn thế nhiều. Ở đây trên Trái đất này, chúng ta chỉ là những con rối của Chân Ngã, Chân Ngã đó tạm thời trú ngụ trong thể vía và đạt được kinh nghiệm thông qua thể xác chính là con rối, một công cụ của thể vía.
“The Garden of Eden, of course, is that blissful land of ignorance in which one fears nothing because one understands nothing, in which one is, to all intents and purposes, a cabbage. But here, then, is the more esoteric version of the story.
“Man and woman are not just merely a mass of protoplasm, of flesh stuck upon a bony framework. Man is, or can be, a much greater thing than that. Here on this Earth we are mere puppets of our Overself, that Overself which temporarily resides in the astral and which obtains experience through the flesh body which is the puppet, the instrument of the astral.
“Các nhà sinh lý học và nhiều kẻ khác đã mổ xẻ cơ thể của con người, và họ đã bóc tách tất cả mọi thứ tới tận thịt và xương. Họ có thể thảo luận về xương này hoặc xương kia, họ có thể thảo luận về các cơ quan khác nhau, nhưng đó đều là những thứ vật chất. Họ đã không khám phá, và cũng không cố gắng khám phá những điều huyền bí hơn, những thứ vô hình, những thứ mà người Ấn Độ, Trung Quốc và Tây Tạng đã biết hàng nhiều thế kỷ trước Kitô giáo.”
“Cột sống là một cấu trúc thực sự rất quan trọng. Nó chứa tủy sống, mà không có cái này thì con người bị tê liệt, bị vô dụng hoàn toàn. Nhưng cột sống quan trọng hơn thế. Ngay ở trung tâm của dây thần kinh cột sống, tủy sống là một cái ống kéo dài sang một chiều kích khác. Đó là cái ống mà một thứ lực được gọi là Kundalini có thể di chuyển qua khi được đánh thức. Dưới chân cột sống là thứ mà người phương Đông gọi là Lửa Rắn (Hỏa Xà). Đó là tâm điểm của chính Sự sống.
“Physiologists and others have dissected man’s body, and they have reduced everything to a mass of flesh and bone. They can discuss this bone or that bone, they can discuss various organs, but these are all material things. They have not discovered, nor have they tried to discover, the more secret things, the intangible things, things which the Indians, the Chinese, and the Tibetans knew centuries and centuries before Christianity.
“The spine is a very important structure indeed. It houses the spinal cord, without which one is paralysed, without which one is useless as a human. But the spine is more important than that. Right in the centre of the spinal nerve, the spinal cord is a tube which extends to another dimension. It is a tube upon which the force known as the Kundalini can travel when awakened. At the base of the spine is what the Easterners call the Serpent Fire. It is the seat of Life itself.
“Ở người phương Tây trung bình, sinh lực vĩ đại này không hoạt động, ngủ quên, gần như bị tê liệt vì không được sử dụng. Thực ra, nó giống như một con rắn cuộn ở đáy cột sống, một con rắn có sức mạnh khổng lồ, nhưng vì nhiều lý do, không thể thoát khỏi giới hạn của nó trong thời điểm hiện tại. Hình tượng con rắn trong thần thoại này được gọi là Kundalini, và trong những người phương Đông đã thức tỉnh, năng lực của con rắn có thể trỗi dậy trong dây thần kinh cột sống, vươn thẳng lên não và xa hơn, vượt ra xa đến cả thể vía. Khi nó đi lên, sức mạnh của nó kích hoạt từng luân xa, hoặc còn gọi là các trung tâm năng lượng, chẳng hạn như ở rốn, cổ họng và các bộ phận khác. Khi những trung tâm đó được đánh thức, một người trở nên sung sức, mạnh mẽ, thống trị.
“In the average Westerner this great force is dormant, asleep, almost paralysed with disuse. Actually it is like a serpent coiled at the base of the spine, a serpent of immense power, but which, for various reasons, cannot escape from its confines for the time being. This mythical figure of a serpent is known as the Kundalini, and in awakened Easterners the serpent force can arise through the channel in the spinal nerve, rise straight up to the brain and beyond, beyond into the astral. As it rises its potent force activates each of the chakrams, or centres of power, such as the umbilicus, throat, and various other parts. When those centres are awakened a person becomes vital, powerful, dominant.
“Với sự kiểm soát hoàn toàn mãnh lực này, một người có thể đạt được hầu hết mọi thứ. Người ta có thể dời non, hoặc đi trên mặt nước, hoặc bay lên, hoặc cho phép bị chôn dưới đất mà vẫn có thể còn sống chui ra bất cứ lúc nào.”
“Vì vậy, truyền thuyết kể lại rằng Eva đã bị một con rắn cám dỗ. Nói cách khác, bằng một cách nào đó, Eve đã khám phá được Kundalini. Cô ấy đã có thể giải phóng sức mạnh của con rắn cuộn ở đáy cột sống và nó trỗi dậy và trồi lên qua cột sống, đánh thức bộ não của cô ấy và cho cô ấy trí tuệ. Do đó, trong câu chuyện có thể nói rằng cô ấy đã ăn từ Cây Trí Tuệ, hoặc trái cây đó. Cô ấy có kiến thức này và với nó, cô có thể nhìn thấy hào quang, năng lượng xung quanh cơ thể con người. Cô có thể nhìn thấy hào quang của Adam, suy nghĩ và ý định của anh ta, và Adam cũng vậy, bị Eva cám dỗ, đã đánh thức Kundalini của chính mình và sau đó anh ta có thể thực sự nhìn thấu Eva.
“With complete control of the serpent force one can achieve almost anything. One can move mountains, or walk on water, or levitate, or allow oneself to be buried in the earth in a sealed chamber from which one would emerge alive at any specified time.
“So we have it in the legend that Eve was tempted by a serpent. In other words, in some way Eve got to know about the Kundalini. She was able to release the serpent power coiled at the base of her spine and that rose up and surged through the spinal column, and awakened her brain and gave her knowledge. Thus in the story it can be said that she ate of the Tree of Knowledge, or of the fruit thereof. She had this knowledge and with it she could see the aura, the force around the human body. She could see the aura of Adam, his thoughts and intentions, and Adam, too, being tempted by Eve, had his Kundalini awakened and then he could see Eve as she was.
“Sự thật là mỗi người khi nhìn chăm chú vào hào quang của người kia, thấy được hình dạng trần trụi thể vía người kia, cái không được mặc quần áo như thể xác, và vì vậy có thể thấy tất cả những suy nghĩ của người kia, tất cả những ham muốn của họ, tất cả những kiến thức của họ, và điều đó là điều không nên ở giai đoạn tiến hóa của Adam và Eva.”
“Các tu sĩ cổ xưa đã biết rằng trong những điều kiện nhất định, con người có thể nhìn thấy hào quang, họ biết rằng Kundalini có thể được đánh thức bởi tình dục. Vì vậy, vào thời xưa, các tu sĩ đã dạy rằng tình dục là tội lỗi, rằng tình dục là cội rễ của mọi tội lỗi, và vì Eva đã cám dỗ Adam, tình dục là sự sụp đổ của thế giới. Họ đã dạy điều này bởi vì đôi khi, như tôi đã nói, tình dục có thể khuấy động Kundalini đang nằm im trong hầu hết mọi người ở đáy cột sống.”
“The truth is that each gazed upon the aura of the other, seeing the other’s naked astral form, the form unclothed by the human body, and so could see all the other’s thoughts, all his desires, all his knowledge, and that should not be at the stage of evolution of Adam and Eve.
“Old priests knew that under certain conditions the aura could be seen, they knew that the Kundalini could be awakened by sex. So in the old days priests taught that sex was sinful, that sex was the root of all evil, and because Eve tempted Adam, sex was the downfall of the world. They taught this because sometimes, as I have said, sex can stir the Kundalini which rests dormant in most people at the base of the spine.
“Lực Kundalini bị cuộn ở dưới thấp, nó là một mãnh lực vĩ đại, như một chiếc đồng hồ lò xo được lên dây cót. Nó giống như cái lò xo đồng hồ đột nhiên được giải phóng, có thể gây sát thương. Thứ mãnh lực đặc biệt này nằm ở đáy cột sống, nhưng một phần của nó thực ra cũng nằm trong cơ quan sinh dục. Người phương Đông nhận ra điều này; một số người Ấn giáo sử dụng tình dục trong các nghi lễ tôn giáo của họ. Họ sử dụng các hình thức quan hệ tình dục khác nhau, các tư thế khác nhau để đạt được những kết quả cụ thể khác nhau, và họ đã đạt được những kết quả đó. Người xưa, từ nhiều thế kỷ trước, đã tôn sùng tình dục. Họ còn thờ cả dương vật. Có một số nghi lễ nhất định trong các đền thờ nhằm đánh thức Kundalini, và điều này kích hoạt các khả năng thấu thị, thần giao cách cảm và nhiều quyền năng bí truyền khác.
“The Kundalini force is coiled down low, a terrific force, like a clock spring the way it is coiled. Like a clock spring suddenly uncoiled it can do damage. This particular force is located at the base of the spine, part of it actually within the generative organs. People of the East recognize this; certain of the Hindus use sex in their religious ceremonies. They use a different form of sex manifestation, and a different sex position to achieve specified results, and they do achieve those results. The ancients, centuries and centuries ago, worshipped sex. They went in for phallic worship. There were certain ceremonies in temples which raised the Kundalini which gave one clairvoyance, telepathy, and many other esoteric powers.
“Tình dục được sử dụng đúng và theo một cách nhất định với tình yêu có thể làm tăng sự rung động của một người. Nó có thể khiến những gì người phương Đông gọi là Hoa sen nở ra, giúp ta đón nhận thế giới của linh hồn. Nó có thể khiến Kundalini vọt lên và đánh thức các trung tâm năng lượng nhất định. Nhưng tình dục và Kundalini không bao giờ nên bị lạm dụng. Cái này phải dùng để bổ sung cái kia. Những tôn giáo nói rằng không nên có quan hệ tình dục giữa vợ và chồng là sai lầm bi thảm. Điều này thường được ủng hộ bởi nhiều giáo phái đáng ngờ hơn của Kitô giáo. Người Công giáo La Mã đã đến gần với sự thật khi họ khuyên vợ chồng nên có những trải nghiệm tình dục, nhưng những người Công giáo ủng hộ điều đó một cách mù quáng, không biết tại sao và tin rằng đó chỉ là để sinh con, thực ra đó không phải là mục đích chính của tình dục, mặc dù hầu hết mọi người đều tin rằng nó là thế.
“Sex used properly and in a certain way in love can raise one’s vibrations. It can cause what the Easterners call the Flower of the Lotus to open, and to embrace the world of the spirit. It can cause the Kundalini to surge and to awaken certain centres. But sex and the Kundalini should never be abused. One should complement and supplement the other. Those religions which say that there should be no sex between husband and wife are tragically wrong. This is often advocated by many of the more dubious cults of Christianity. The Roman Catholics come nearer to the truth when they advise husband and wife to have sexual experiences, but the Catholics advocate it blindly, not knowing why and believing that it is merely for the procreation of children, which is not the main purpose of sex, although most people believe it is.
“Như vậy, những tôn giáo nào nói rằng người ta không nên có kinh nghiệm tình dục là đang cố gắng kìm hãm sự tiến hóa của cá nhân và sự tiến hóa của cả chủng tộc. Đây là cách nó hoạt động: Trong từ tính, người ta tạo ra một nam châm mạnh bằng cách sắp xếp các phân tử của một chất sao cho quay mặt hết sang một hướng. Thông thường, trong một miếng sắt chẳng hạn, tất cả phân tử đều quay tứ phía như một đám người vô kỷ luật. Chúng được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, nhưng khi một lực nhất định được áp vào (với sắt chẳng hạn là lực từ tính hóa), thì tất cả các phân tử phải quay về một hướng, nhờ đó người ta có sức mạnh từ tính lớn, thiết yếu cho sự vận hành của radio hoặc điện, mà không có nó thì sẽ không thể có vận tải đường bộ hoặc đường sắt, hoặc vận tải hàng không.
“These religions, then, which say that one should have no sexual experiences are trying to stifle individual evolution and the evolution of the race. This is how it works: In magnetism one obtains a powerful magnet by arranging the molecules of the substance to face in one direction. Normally in a piece of iron, for example, all the molecules are in any direction like an undisciplined crowd. They are haphazardly arranged, but when a certain force is applied (in the case of iron, a magnetizing force) all the molecules face in one direction, and so one has the great power of magnetism without which there would be no radio or electricity, without which there would be no road or rail transport, or air travel either.
“Trong con người, khi Kundalini được đánh thức, khi Hỏa Xà trở nên sống động, thì tất cả các phân tử trong cơ thể đều quay mặt về một hướng vì lực Kundalini khi thức tỉnh đã kéo các phân tử theo hướng đó. Rồi cơ thể con người trở nên tràn đầy sự sống và sức khỏe, và nó trở nên đầy quyền năng trí tuệ, có thể thấy tất cả.”
“In the human, when the Kundalini is awakened, when the Serpent Fire becomes alive, then the molecules in the body all face in one direction because the Kundalini force, in awakening, has pulled the molecules in that direction. Then the human body becomes vibrant with life and health, it becomes powerful in knowledge, it can see all.
“Có nhiều phương pháp đánh thức Kundalini hoàn toàn, nhưng điều này không nên thực hiện ngoại trừ với những người đã tiến hóa ở một mức độ phù hợp, vì nó mang lại quyền năng vĩ đại và sự áp đảo người khác, những điều có thể bị lạm dụng và dùng cho điều ác. Nhưng Kundalini có thể được đánh thức một phần, và có thể làm sống động một số trung tâm nhất định bằng tình yêu giữa một cặp vợ chồng. Khi đạt tới đỉnh của quan hệ thân mật, các phân tử trong cơ thể được sắp xếp đều đến mức nhiều phân tử trong số chúng quay về cùng một hướng, và vì vậy những người này trở thành người có sức mạnh năng động tuyệt vời.
“Khi tất cả sự khiêm tốn giả tạo và những lời dạy sai trái về tình dục bị xóa bỏ, thì một lần nữa Con người sẽ trở thành một sinh vật vĩ đại, một lần nữa Con người sẽ có thể du hành đến các vì sao.”
“There are various methods of awakening the Kundalini completely, but this should not be done except with those who are suitably evolved because of the immense power and domination of others which a complete awakening would give, and power can be abused and used for ill. But the Kundalini can be partly awakened, and can vivify certain centres by love between a married couple. With the true ecstasy of intimacy the molecules of the body become so arranged that many of them face in one direction, and so these people become people of great dynamic power.
“When all the false modesty and all the false teachings about sex are removed, then once again will Man arise as a great being, once again will Man be able to take his place as a traveler to the stars.”
Dịch giả: Lê Quốc Hùng
Biên tập: VMC