Tóm tắt nội dung bài viết
- MACROCOSM – ĐẠI VŨ TRỤ
- MAGIC – PHÉP THUẬT
- MANAS – TÂM
- MANIPURAKA – LUÂN XA TÙNG THÁI DƯƠNG
- MANTRA – CHÂN NGÔN/THẦN CHÚ
- MAYA – ẢO ẢNH
- MEDITATION – THIỀN ĐỊNH
- MEMORY – KÝ ỨC
- MIND – TÂM TRÍ
- MOHA – SI MÊ
- MOKSHA – SỰ GIẢI THOÁT
- MUDRAS – THỦ ẤN
- MULADHARA – LUÂN XA GỐC
- MUMUKSHUTWA – Ý MUỐN GIẢI THOÁT
- MYSTICISM – THẦN BÍ GIÁO
MACROCOSM – ĐẠI VŨ TRỤ
Đây là từ chỉ một thế giới rộng lớn hơn; thế giới vượt ra ngoài giới hạn của những thứ thuộc về xác thịt trong địa hạt mà chúng ta gọi là ‘Trái đất’.
Khi ở trong cơ thể, chúng ta ở trong ‘thế giới nhỏ bé’, hoặc theo thuật ngữ chuyên môn là ‘tiểu vũ trụ’. Từ ‘tiểu’ biểu thị sự nhỏ bé, giống như từ ‘đại’ biểu thị sự rộng lớn.
Khi ở thế giới này, chúng ta ở trong một thế giới rất nhỏ, toàn bộ sự tồn tại của chúng ta chỉ là một thứ vô cùng bé nhỏ, chúng ta là những cư dân của tiểu vũ trụ. Chúng ta chẳng khác gì những con giun trong bùn đất, hay những con sâu mà sau này sẽ trở thành bướm. Một con sâu bướm bị giới hạn trên mặt đất, trên thân và lá cây, nhưng một con bướm thì có thể bay lên trên các chiều kích mới. Chúng ta cũng sẽ như vậy khi chúng ta rời khỏi dạng sống bé nhỏ mà chúng ta đang hiện tồn để bước vào Đại vũ trụ.
This is a word which indicates the larger world ; the world which is beyond the limitation of the fleshly things of this sphere which we term ‘Earth.’
While we are in our body, we are in the ‘little world’ or, a technical term — ‘Microcosm.’ The ‘micro’ part indicates small, just as ‘macro’ indicates large.
While we are in this world we are upon a very small world, our whole existence is a very small thing, we are denizens of the Microcosm. We are much like dirty little grubs, or caterpillars which later become butterflies. A caterpillar is confined to the ground, and to stalks and leaves, but as a butterfly it can soar upwards into new dimensions. So it is that we, when we leave this minute form of life in which we are now existing, enter the Macrocosm.
MAGIC – PHÉP THUẬT
Phép thuật chỉ đơn thuần là biến thể của những sự thật khoa học bị hiểu sai, hoặc những sự thật mà các nhà khoa học mù quáng không thể hiểu được.
Đối với những người thổ dân, việc lái máy bay được cho là phép thuật. Đối với những người phương Tây bớt hoang dã hơn thì thuật khinh công mới được coi là phép thuật. Những điều không thể của ngày hôm nay đều là ma thuật bởi vì ‘khoa học’ không thể giải thích nó bằng những thực tế rập khuôn nhất định. Khi khoa học bắt kịp một cách muộn màng với phép thuật, thì phép thuật không còn tồn tại mà trở thành một thực tế khoa học.
Nhựa cây cura đã từng được cho là ma thuật của các thầy lang phù thủy mọi rợ. Khoa học nói rằng tất cả những điều này chỉ là tưởng tượng, nhưng khi một thầy lang phù thủy trong hình dạng của một người Tây phương, người tự xưng là một nhà khoa học, điều tra vấn đề này, ông ta “khám phá” về nhựa cây cura trong phòng thí nghiệm hóa học của mình, và từ đó nó trở thành một thứ được coi trọng.
Đừng bị đánh lừa bởi ‘phép thuật’. Nó chỉ đơn thuần là những điều mà một số người tài năng có thể làm ngày hôm nay trong khi các nhà khoa học vụng về không thể làm được cho tới trăm năm nữa.
Magic is merely the distortion of misunderstood scientific facts, or facts which the scientist in his blindness is not able to understand.
To the savage, flying a plane is magic. To the hardly less savage Westerner, levitation is magic. That which is impossible today because ‘science’ cannot explain it with certain stereotyped facts, is magic. When science belatedly catches up with magic, then magic ceases to exist and becomes ‘scientific fact.’
Curare was once the magic of savage witch-doctors. Science said that it was all wishful thinking, but when the more Westernised form of witch-doctor, who called himself a scientist, investigated the matter he ‘discovered’ curare in his chemical laboratory, and thus it became a more respectable thing.
Do not be misled by ‘magic.’ It is merely the things which certain talented people can do today which the bumbling scientist may not be able to do for a hundred years.
MANAS – TÂM
Đây là sức mạnh tư tưởng của một con người. Con người có những sức mạnh nhất định cũng giống như một cục pin lưu trữ có năng lượng. Nếu một người không biết cách sử dụng năng lượng pin lưu trữ đó thì cũng coi như không tồn tại. Nhưng nếu một người biết cách nối dây với pin lưu trữ, thì họ có thể làm khá nhiều điều thú vị với nó, hoặc với nguồn điện của nó. Điều tương tự cũng áp dụng với con người; khi một người có thể khai thác sức mạnh tư tưởng theo ý muốn, người đó có thể làm khá nhiều việc mà bình thường được cho là rất khó khăn. Khi một người được đào tạo phù hợp, anh ta có thể sử dụng thần giao cách cảm, thấu thị, tâm lý học, du hành thể vía, v.v.
Trong thời điểm hiện tại, đa phần mọi người đang ở trong một chiếc xe hơi mà chiếc xe ấy điều khiển người lái, thay vì, đúng ra người lái điều khiển chiếc xe. Một người không thể kiểm soát năng lực tư tưởng của mình là một người mù loà, tàn tật và không thực sự sống!
Hãy nghĩ về cách một nhà độc tài châm ngòi cho sự kích động của đám đông và nhào nặn đám đông đó để họ làm theo ý muốn của mình. Hãy nghĩ về sự cuồng nhiệt của một đám đông xem bóng đá. Tất cả họ đều đang nghĩ về một điều, và nếu một vấn đề nhỏ kích hoạt phản ứng tâm lý của họ, thì họ có thể gây ra một sự cố khá xấu xí.
Cứ khi nào có nhiều người nghĩ về cùng một chủ đề, người này sẽ phóng đại sức mạnh tư tưởng của người kia, và do đó, năng lực tư tưởng phát triển như một quả cầu tuyết đang lăn xuống dốc. Những kẻ độc tài biết điều này; họ gài những người dễ bị kích động hoặc cuồng loạn vào trong một đám đông, và đám đông, nghe theo lời gợi ý của những kẻ cuồng loạn, sớm tạo ra một cơn kích động, hoặc thịnh nộ, hoặc bất cứ điều gì mà nhà độc tài muốn.
Tâm có thể hoạt động giống như thần giao cách cảm, nó có thể gây ra sự kích động trong đại chúng, và nó có thể khiến cả đám đông suy nghĩ và hành động một cách đồng nhất.
This is the thought power of a human. Human beings have certain power in the same way as a storage battery has power. If a person does not know how to use the power of a storage battery, then that power might just as well not exist. But if one knows how to connect wires to a storage battery, then one can do quite a lot of interesting things with it, or with the power from it. The same applies with a human ; when one is able at will to tap the power of thought in a human, one can do quite a lot of normally difficult things. When a person is suitably trained he can do telepathy, clairvoyance, psychometry, astral travelling, etc.
At present the average person is in the position of a car which controls the driver, instead of, as it should be, the driver controlling the car. A human who is not able to control his thought-power is a human who is blinded, maimed, and not really living !
Think of a dictator whipping up the mass-hysteria of a crowd, and moulding that crowd to do as he wishes. Think of the mass-hysteria of a football crowd. They all have their mind on one thing, and if some little matter happens to trigger their mind reactions, then one can have a very ugly incident.
When there is any large crowd of people thinking upon a common subject each person magnifies the thought-power of the other, and so the thought-power grows as a snowball grows when rolled downhill. Dictators know this ; they plant excitable or hysterical people in a crowd, and the crowd, taking their cue from the hysterics, soon get in a frenzy of enthusiasm, rage, or anything that the dictator wants.
Manas can act something like telepathy, it can induce mass- hysteria, and it can make a whole crowd think and act as one.
MANIPURAKA – LUÂN XA TÙNG THÁI DƯƠNG
Đây là một trong những Luân xa. Luân xa này nằm ở khu vực rốn. Đó là trung tâm thứ ba trong bảy trung tâm ý thức thường được biết đến trong Yoga, theo thuật ngữ huyền bí, nó được gọi là Bánh Xe hay Bông hoa sen. Sở dĩ được gọi như vậy vì với một người có khả năng thấu thị, hoặc một người có thể nhìn thấy thể vía, ‘những cánh hoa’ ở xung quanh rốn, và tùy thuộc vào cách người ta hình dung, nó có thể được gọi là bánh xe với những nan hoa đang quay, hoặc Bông sen phấp phới trong ngọn gió dĩ thái.
Một người có tâm tốt và khá thuần khiết sẽ có những cánh Hoa sen hoặc nan hoa Bánh xe, tùy theo cách gọi, màu xanh lá cây. Điều đó chỉ ra rằng người đó có khả năng, sẵn sàng học hỏi và hỗ trợ người khác hết sức có thể.
Khi người đó tiến lên cao hơn và cao hơn trong chặng tiến hóa, các cánh hoa trở nên vàng hơn, cho thấy khả năng tâm linh và sự tận tâm ngày càng tăng.
This is one of the Chakrams. This one is that which is at the level of the umbilicus or navel. It is the third of the seven common Yogic centres of consciousness, and in esoteric terminology it is referred to as The Wheel, or Lotus. It is so called because to a clairvoyant, or to one who can see the astral, ‘petals’ flap around by the umbilicus, and depending upon how one is thinking it can be termed a wheel with the spokes rotating, or as the Lotus undulating in the etheric wind.
A person who is of good intentions, and who is fairly pure, will have the petals of the Lotus or the spokes of the Wheel, whichever you prefer to call it, of a green colour. That indicates that the person is able and willing to learn and to assist others as much as possible.
As the person rises higher and higher in the scale of evolution the petals become more and more yellow, showing increasing spirituality and devotion.
MANTRA – CHÂN NGÔN/THẦN CHÚ
Chân ngôn, thực chất, là một tên gọi của Thượng Đế, nhưng qua cách sử dụng thông thường, giờ đây nó được dùng để chỉ một thứ khác; nó là một hình thức cầu nguyện, là sự lặp lại của một thứ gì đó thiêng liêng, nhờ đó người thực hành có được quyền lực. Nếu ai đó lặp đi lặp lại một câu Thần chú tận tâm và cung kính, người ấy sẽ đạt được sự thanh lọc tư tưởng.
Một Thần chú chỉ nên được sử dụng cho mục đích tốt, và không bao giờ cho mục đích xấu, vì có một thành ngữ cổ nói rằng ‘Kẻ nào đào mồ chôn người khác sẽ rơi vào chính nấm mộ đó.’ Vì vậy, Thần chú chỉ nên được sử dụng cho mục đích tốt, chúng chỉ nên được sử dụng một cách không vụ lợi và để giúp đỡ người khác.
Trong Kinh thánh của Thiên Chúa giáo có câu đức tin có thể dời non lấp bể; điều tương tự cũng có thể được nói về Thần chú. Một Thần chú được sử dụng đúng cách có tác dụng rất, rất lớn, và nó càng được sử dụng nhiều thì càng tạo ra sức mạnh. Đây là một minh họa rất đơn giản về cách nó gây dựng sức mạnh:
Một nghệ sĩ vĩ cầm chơi một nốt nhạc nhất định trên chiếc đàn violin. Nếu anh ta chỉ chạm vào nốt nhạc, anh ta sẽ chỉ phát ra một tiếng động, nhưng nếu giữ nguyên nốt nhạc đó, anh ta có thể làm vỡ vụn một chiếc cốc thuỷ tinh vì khi chơi nốt nhạc này, anh ta đã làm tăng tần số rung động của chiếc cốc vượt quá độ đàn hồi mà thuỷ tinh có thể xử lý được, và do đó chiếc cốc vỡ tan. Theo cách tương tự, một Thần chú làm tăng rung động của cả cái tốt lẫn cái xấu, nhưng khi được sử dụng cho mục đích xấu, nó thường quay trở lại với người đã tụng nó. Ví dụ của một Thần chú, hay Lời cầu nguyện thiêng liêng là ‘Om Mani Padmi Hum,’ hoặc, như người Ấn Độ hay nói là ‘Ram Ram Ram’.
Cần hiểu rằng tất cả âm thanh và ngôn từ đều có ảnh hưởng lên vật chất, thậm chí có thể ảnh hưởng đến cả các vật vô tri. Có lẽ hầu hết mọi người đã nghe câu nói ‘Tâm làm chủ’. Vâng, điều này rất đúng, Thần chú ảnh hưởng đến vật chất theo suy nghĩ từ tâm trí con người.
Actually a Mantra is a particular name for God, but by common usage it now is taken to mean something else ; it is a form of prayer, it is the repetition of something sacred whereby one gains power. If one repeats a Mantra conscientiously and reverently one attains to purification of thought.
A Mantra should only be used for good, and never for bad, for there is an old saying that ‘He who digs a grave for another may fall in it.’ Thus it is that Mantras should only be used for good, they should only be used unselfishly and to help others.
In the Christian Bible it is stated that faith moves mountains ; the same could be said about a Mantra. A Mantra used properly has very, very strong effects, and the more it is used the more it builds up power. Here is a very simple illustration of how it builds up power :
A violinist can play a certain note on a violin. If he just touches on the note he only makes a sound, but if he keeps on at the same note he can cause a glass to shatter and crumble because playing on that note has induced a vibration in the glass which eventually becomes more than the elasticity of the glass can handle, and so the glass breaks. In the same way a Mantra increases the vibration for good or for bad, but when used for bad it often turns on the one who utters it.
One Mantra, or Sacred Invocation is ‘Om Mani Padmi Hum,’ or, as the Indians say ‘Ram Ram Ram.’
It should be realised that all sounds and words can influence matter, can even influence inanimate objects. Probably everyone has heard of the statement ‘Mind over matter.’ Well, it is correct, Mantras influence matter according to the thoughts of the human mind.
MANU – CHÚA TỂ
Theo một số tín ngưỡng phương Đông, người cai trị thế giới được gọi là Manu (Chúa tể), người ban hành luật pháp của thế giới, điều hành và kiểm soát mọi thứ.
Rõ ràng là một Chúa tể không thể quản lý hết các quốc gia khác nhau, các dân tộc khác nhau, hay các thành phố khác nhau, v.v. Vì vậy, theo một số quan niệm huyền bí, có rất nhiều Chúa tể và những Chúa tể thấp hơn. Bạn có thể hiểu theo cách này:
Thế giới là một công ty lớn với rất nhiều chi nhánh, các chi nhánh có ở tất cả các thành phố lớn trên thế giới, chi nhánh lớn là các quốc gia trên thế giới. Sau đó hãy tưởng tượng rằng Chúa tể Thế giới (không phải là Thượng Đế!) là Chủ tịch hoặc Tổng Giám đốc công ty. Người này sẽ chịu trách nhiệm về chính sách chung, và sẽ kiểm soát tất cả các nhà quản lý khác.
According to some Eastern beliefs the ruler of this world is the Manu of the world, the Law Giver of the world, the one who runs things, controls things.
It is obvious that one Manu could not adequately deal with different countries with their different types of peoples, nor deal with different cities, etc. Thus, according to esoteric lore there is a whole series of Manus and lesser Manus. You may like to consider it in this way :
The world is a big firm with a lot of branches, branches in all the great cities of the world, and super branches in all the countries of the world. Then imagine that the Manu of the world (who is not God !) is the President or General Manager. He will be responsible for general policy, he will exercise control of all other ‘managers.’
Tất cả chi nhánh của các thành phố hoặc quốc gia sẽ có Giám Đốc riêng, được tự do đưa ra chính sách trong khuôn khổ nhất định, những vẫn phải tuân thủ hướng dẫn cơ bản của Tổng Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty.
Có Chúa tể của Luân Đôn, có Chúa tể của, chẳng hạn Birmingham, Brighton, Hull, cũng giống như có Chúa tể của New York, Pasadena và Santa Fe. Có Chúa tể ở tất cả mọi nơi, và có những Chúa tể ở phía trên giám sát và chăm sóc các quốc gia nói chung.
Nếu bạn nghiên cứu khoa chiêm tinh, bạn sẽ thấy rằng mỗi thành phố và mỗi quốc gia đều thuộc một cung hoàng đạo khác nhau. Chúng ta thường nói nước này thuộc cung Song Ngư hoặc Bạch Dương hoặc Kim Ngưu, nhưng thực tế là ta đang đề cập đến các đặc điểm cơ bản của Chúa tể vùng đó. Cũng theo cách này, các đặc điểm của Giám đốc ở Scotland sẽ khá khác biệt với các đặc điểm của Giám đốc ở Cuba.
Chúa tể là một người đã trải qua nhiều kiếp sống trong thân phận con người, họ đã nhìn thấy và trải qua những khổ đau của nhân loại, và sau đó, theo tiến trình, được bổ nhiệm vào một quốc gia hoặc thành phố nào đó.
All the other branches in the cities or countries will have a general manager who, while being free to make policy within certain limits, will also have to follow the basic instructions of the General Manager or Director of the firm.
There is a Manu of London, there is a Manu of, let us say, Birmingham, Brighton, Hull, just as there is a Manu for New York, Pasadena, and Santa Fe. There is a Manu for everywhere, and there are over-Manus who supervise and look after countries as a whole.
If you went into astrology you would find that each city and each country are under different astrological signs. We say that this country is under Pisces or Aries or Taurus, when actually we are referring to the basic characteristics of the Manu. In the same way, the characteristics of a Scottish Manager would be quite different from the characteristics of a Cuban Manager.
A Manu, then, is one who has lived through rounds of existence as a human, who has seen and experienced the difficulties of humanity, and then, by progress, the Manu is appointed to a certain country or certain city.
MAUNA – TỊNH KHẨU
Đây là việc giữ im lặng, không nói quá nhiều. Nhiều người loan báo với cả thế giới về việc họ thực hành Yoga, hoặc các hoạt động của họ, hay những khó khăn gặp phải với vợ hoặc chồng mình. Quá nhiều người nói về nghiên cứu bí truyền của họ, kể lể đang học với thầy này thầy kia và tại sao, v.v., v.v.
Thật đáng tiếc cho những kẻ lắm điều, bởi việc khoe khoang kiến thức của họ làm phân tán năng lượng và khiến việc học gặp nhiều khó khăn khác nhau. Nó giống như cố lái một chiếc xe với một lỗ hổng lớn trong bình xăng.
Người ta nói quá nhiều, họ thực sự chỉ đang bép xép và lảm nhảm. Hầu hết mọi người chỉ lấy thông tin qua tai và ngay lập tức đổ thẳng nó ra miệng, cho thấy rằng tâm trí họ không có khả năng lưu trữ kiến thức.
Một học trò nói quá nhiều cho thấy anh ta hoặc cô ta không tiến bộ theo con đường đúng đắn. Học tập là một vấn đề riêng tư, sự tiến bộ của một người là một vấn đề riêng tư, vì vậy nếu bạn muốn tiến bộ hãy im lặng và lắng tai mà nghe. Đó là cách duy nhất để tiến bộ.
This is keeping quiet, not talking too much. Too many people tell all the world about their Yogic practices, or their operations, or the difficulties they have with their wife or their husband. Too many people talk about their esoteric studies, say with whom they are studying and why, etc., etc.
It is a pity that people talk so much, because to talk of one’s knowledge dissipates power and makes a student have various difficulties. It is much like trying to drive a car which has got a big hole in the petrol tank.
People talk far too much, they really babble and babble. Most people take things in through their ears and immediately pour it out again through their mouth, showing that there is no capacity in their mind to store knowledge.
A student who talks too much proves conclusively that he or she is not progressing along the right path. Study is a private matter, one’s progress is a private matter, so if you want to progress keep your mouth shut and your ears open. It is the only way to progress.
MAYA – ẢO ẢNH
Maya là thứ lừa dối, che khuất tầm nhìn của một người khiến nó không rõ ràng, làm họ bị ảo tưởng, và thường xuyên tưởng rằng mình quan trọng hơn nhiều so với thực tế. Anh ta có thể đã tự nhủ rất nhiều đến nỗi anh ta tự thuyết phục mình về tầm quan trọng của chính mình!
Maya là một trong những nhược điểm lớn mà chúng ta phải đấu tranh. Trái đất này là Thế giới ảo ảnh, Thế giới của Maya, chúng ta phải thoát khỏi ảo ảnh và đối mặt với thực tế, khi đó chúng ta mới có thể tiến lên giai đoạn tiến hóa cao hơn.
Maya is that which deceives, that which obscures the clarity of one’s vision, causing a person to have illusions, frequently causing him to have illusions that he is far more important than he really is. He may have talked so much that he convinced himself of his own importance !
Maya is one of the big drawbacks with which we have to contend. This Earth is the World of Illusion, the World of Maya, and we must get rid of our illusions and face reality before we can go on to a higher stage of evolution.
MEDITATION – THIỀN ĐỊNH
Thiền định là một hệ thống sắp đặt lại trật tự của tâm trí, huấn luyện nó, và phát triển nó. Thiền định là suy ngẫm về một đối tượng, một chủ đề hoặc vấn đề nhất định, để người ta có thể biết tất cả những gì cần biết về nó.
Ta có thể nghiền ngẫm về một cái cây, và sau đó hình dung hạt giống được trồng trên đất. Ta có thể nghiền ngẫm về hạt giống, và thấy lớp vỏ bên ngoài của nó nứt ra và sự sống bên trong ngập ngừng ló rạng, sợi mầm bé nhỏ lần mò trong bóng tối của lòng đất để rồi vươn lên về phía ánh sáng.
Ta có thể thấy sợi mầm nhỏ này mọc lên như một sợi chỉ trắng, sau đó nổi lên trên mặt đất và chuyển sang màu xanh hoặc nâu, phát triển, trưởng thành và sau đó phân tán hạt, những hạt này được tản ra xung quanh hoặc có thể bị chim nuốt, hoặc thậm chí chúng có thể bị cuốn theo gió để nảy mầm ở một nơi xa.
Ta có thể thấy những hạt giống này rồi cũng rơi xuống đất, lần lượt bị vùi lấp và mọc trở lại.
Thiền định cho phép chúng ta, khi được đào tạo, tìm kiếm động lực bên trong, để thăm dò những điều chưa biết. Nó không phải là sự tập trung, vì sự tập trung là một điều hoàn toàn khác.
MEDIUMS – ĐỒNG CỐT
Người đồng cốt? Chà, họ là ai? Có hai loại đồng cốt; thầy bói ở ngoài phố, người có thể, bằng cách nào đó, thông qua một rối loạn trong tâm trí, đôi khi nhận được những ‘tiết lộ’ từ phía bên kia cửa tử. Những người này không được đào tạo, vô cùng kỳ dị và không phải lúc nào cũng có năng lực ngoại cảm. Họ ở cùng đẳng cấp với những thầy lang phù thủy mọi rợ, những người có những sức mạnh tâm linh nhất định, nhưng không biết tại sao, và cũng không muốn biết tại sao, vì anh ta đã quá hài lòng khi có sức mạnh ấy.
Loại đồng cốt còn lại là những người có học thức, đã tiến hoá cao và có lẽ đang ở trên Trái đất lần cuối cùng. Người đó sẽ có khả năng ngoại cảm trong phần lớn thời gian.
Điều này không có nghĩa là những người có khả năng thấu thị, hoặc thần giao cách cảm, hoặc ngoại cảm theo cách này hoặc cách khác là những người tốt. Nó chỉ có nghĩa là anh ta hoặc cô ta có chút gì khác biệt. Người ta có thể nói một ca sĩ có một giọng hát tuyệt vời, nhưng ca sĩ vẫn có giọng hát tuyệt vời cho dù anh ta là người tốt hay người xấu, tính cách của anh ta không liên quan gì đến giọng hát của anh ta. Vì vậy, có những nhà ngoại cảm xấu – cũng như có những nhà ngoại cảm là vị thánh ngay bên cạnh.
Một người đồng cốt xấu là kẻ lừa đảo, lợi dụng sự cả tin và giả vờ có một sức mạnh mà họ không sở hữu. Thường thì họ là một nhà tâm lý học tài năng, có thể thuật lại theo cách khác đúng những gì khách hàng của họ vừa kể!
Một điều cần phải được làm rõ; đó là một người không phải là một nhà ngoại cảm chỉ bởi anh ta hoặc cô ta tuyên bố rằng mình là nhà ngoại cảm. Cũng phải nói rằng một nhà ngoại cảm dù xấu hay tốt, dù nam hay nữ, đều được đề cập đến dưới đại từ “bà đồng”, như đại từ chỉ con tàu cũng được xếp vào giống cái, có lẽ vì tất cả những sự nhập nhằng liên quan!
Một bà đồng hay nhà ngoại cảm chỉ đơn thuần là một người trung gian được sử dụng như một “phương tiện để trao đổi ý nghĩ từ cảnh giới tồn tại này sang cảnh giới khác!” Nói cách khác, một người mù chữ cũng có thể nói ngôn ngữ mà họ không hiểu bởi phương tiện trung gian chỉ trao đi đổi lại thông điệp.
Mediums ? Well, what are they ? There are two types of medium ; the back-street fortune-teller who might somehow, through a kink in her mind, be able at times to receive ‘revelations’ from the other side of death. These mediums are untutored, erratic, and not constantly mediumistic. They are in the same position as the savage witch-doctor who has certain psychic power, he cannot say why, nor would he be interested in knowing why, he is satisfied to have the power.
The other type of medium is the cultured man or woman who has advanced far and is perhaps on Earth for the last time. That person will be mediumistic most of the time.
It does not mean to say that a person is good because one is clairvoyant, or telepathic, or mediumistic in some other way. It just means that he or she is a bit different. One can have a singer who can have a truly glorious voice, but the singer will have that glorious voice no matter whether he be a good man or a bad man, his character will have nothing to do with his voice. So it is with mediums — one can have evil people who are mediums, just as one can have a saint’s ‘next-door neighbour’ as a medium.
An evil medium is one who is a fraud, that is one who imposes on the credulous and pretends to have powers which she does not possess. Often she is a good psychologist who tells back in a different way what her client has just told her !
This must be made clear ; a person is not a medium just because he or she says he or she is a medium. It must also be stated that a bad medium, as in the case of a good medium, can be either ‘he’ or ‘she,’ but mediums are usually like ships — classed as she, probably because of all the fuss involved !
A medium is merely a person who can be used as ‘a medium for the exchange of thoughts from one plane of existence to another !’ In other words, it is possible for an illiterate person to speak in a language which he or she does not consciously know because the medium is just passing on a message.
MEMORY – KÝ ỨC
Chúng ta đã biết rằng tâm trí con người chứa đựng kiến thức về tất cả những gì đã từng xảy ra trên Trái đất. Tâm trí con người giống như một bộ não điện tử trong đó một số tế bào nhất định lưu trữ những ký ức nhất định, bộ não điện tử này có dung lượng lớn và tâm trí con người có rất nhiều, rất nhiều tế bào trống đang chờ tiếp nhận thêm thông tin.
Nhân loại chỉ có một phần mười là hữu thức. Chín phần mười kia là vô thức, và phần vô thức[1] chứa hiểu biết về mọi thứ đã xảy ra trên Trái đất, một dạng ký ức di truyền được thừa hưởng, bởi vô thức chứa những thông tin được lượm nhặt từ Thư viện Vũ trụ Akashic trong quá trình du hành thể vía.
Nếu được huấn luyện phù hợp, một người có thể đi sâu vào vô thức, nạo vét những ký ức và kiến thức mà người đó thậm chí còn không biết có ở đó.
It is known that the human mind can contain a knowledge of all that which has ever happened on Earth. The human mind is something like an electronic brain in that certain cells store certain memories, but an electronic brain occupies a vast space, and the human mind has many, many vacant cells waiting for more information.
Mankind is only one-tenth conscious. The other nine-tenths is the sub-conscious, and in the sub-conscious there is a knowledge of everything that has happened on the Earth, a form of inherited racial memory, because into the sub-conscious comes information gleaned during astral travelling of that which is on the Akashic Record.
By suitable training one can delve deep into the subconscious and dredge up memories and knowledge which the person did not even know was there.
MIND – TÂM TRÍ
Trước khi tiến sâu vào bất kỳ vấn đề tâm linh nào, chúng ta phải chắc chắn rằng tâm trí mình minh mẫn. Chúng ta phải chắc chắn rằng tâm trí của mình có thể đứng vững trước những yêu cầu mà ta chuẩn bị làm nó.
Để đạt được sự thuần khiết trong tâm trí, một người nên tiếp xúc với những người có tính khí ôn hoà, những người tỉnh táo và cân bằng, những người biết chân lý thực sự của những điều họ nói.
Một người nên thể hiện sự đồng cảm với những người đang đau khổ và những người không có khả năng phân biệt thật giả. Người ta có thể hiểu và thông cảm mà không ràng buộc bản thân với những người như vậy; sự thật là, việc tiếp xúc quá chặt chẽ với tuýp người không phù hợp sẽ làm ô nhiễm tâm trí của chính bạn.
Tâm trí giống như một miếng bọt biển thẩm thấu kiến thức. Nếu đó là một tâm trí tốt, nó biết cách sử dụng kiến thức mà nó đã thẩm thấu. Nếu đó là một tâm trí không tốt, nó sẽ chỉ nhồi nhét những kiến thức chưa được tiêu hoá vào tiềm thức.
Trong phần sau, chúng tôi sẽ đưa ra một số bài tập thở giúp làm sạch tâm trí, nhưng hãy nhớ rằng, nếu bạn đối xử tốt với tâm trí, tâm trí sẽ phục vụ bạn; nếu bạn đối xử không tốt với nó, tâm trí sẽ làm hại bạn.
Before we are going to get very far in any spiritual matter we must be sure that our mind is clear. We must be sure that our mind is able to stand up to the demands which we are going to make on it.
To attain purity of mind one should associate with those who are of even temperament, those who are sane and balanced, those who know the truth of what they are saying.
One should show sympathy to those who are suffering and to those who are not capable of distinguishing truth from fiction. One can be understanding and sympathetic without binding oneself to such people ; in fact, to be too closely associated with the wrong type of person would be to contaminate one’s own mind.
The mind is like a sponge which soaks up knowledge. If it be a good mind it knows how to use the knowledge which it has soaked up. If it is a bad mind it just stuffs mentally undigested knowledge into the sub-conscious.
Later we shall give some breathing exercises which will help cleanse the mind, but remember, if you treat your mind well your mind will serve you ; if you do not treat your mind well your mind will serve you ill.
MING – MẠNG
Đây không phải là thứ đồ gốm quý trong các viện bảo tàng như nhiều người tưởng tượng. Từ ‘Ming’ theo nghĩa đó là một số vật trang trí cổ xưa còn sót lại từ thời nhà Minh ở Trung Quốc.
Từ ‘Ming’ mà chúng tôi đề cập là số phận (Mạng). Người Trung Quốc cho rằng mạng là định mệnh, mạng là chỉ thị từ các vị thần ở trên.
This is not, as so many people imagine, just a precious piece of ceramic which appears in some museum. That ‘Ming’ is some ancient ornament left over from the Ming period (or Ming Dynasty) of the Chinese Emperors.
The Ming to which we refer is that which indicates fate. The Chinese consider that destiny is Ming, Ming is an Order from the Gods above.
MING CHIA – DANH GIA
Người Trung Quốc, trước khi Cộng sản bùng nổ, là những người rất coi trọng cái tên. Tên gọi là những từ chứa sức mạnh, một cái tên có thể mang đến vận may hoặc không may. Vì vậy, Danh gia là một trường phái đặc biệt nghiên cứu xác định những cái tên trong đó vận may hoặc không may, và từ đó có thể tìm cái tên phù hợp cho những thứ quan trọng đối với người đặt tên.
Người Trung Quốc biết rất rõ về khoa học về rung động, họ biết rằng những rung động phù hợp có thể làm tăng sức mạnh của một vật, do đó họ khởi xướng môn khoa học về những cái tên.
The Chinese, before the Communists ran wild there, were great believers in names. Names were words of power, names could be auspicious or inauspicious. So Ming Chia is a special school of names wherein auspicious and inauspicious names could be determined, and so that it was possible to give a correct name for something which was of importance to the name giver.
The Chinese well knew the science of vibrations, they knew that suitable vibrations could increase the power of an object, thus they started their science of names.
MITHYA – TÀ KIẾN
Con người bị trói buộc ở nơi đây thông qua Thế giới ảo ảnh. Con người có những giá trị sai lầm, niềm tin sai lầm và sự hiểu biết sai lầm.
Tất cả những gì quan trọng trên Trái đất là việc một người có bao nhiêu tiền trong tài khoản ngân hàng của mình, anh ta được sinh ra như thế nào – thuộc tầng lớp xã hội nào. Con người tôn thờ những vị thần giả, mà vị thần lớn nhất là đồng đô la. Con người có thể nhìn nhận việc du hành trong vũ trụ một cách bình thản, nhưng họ không thể nhận ra rằng tâm trí lớn hơn vật chất, và cách dễ nhất để du hành trong không gian là du hành thể vía!
Tà kiến là tình trạng giả dối cần phải bị trục xuất trước khi người ta có thể được giải thoát khỏi sự ràng buộc của xác thịt, khỏi những ảo tưởng của thế giới này, và nhờ đó nhận ra Linh hồn của mình.
Tà kiến là một thứ mà ta cần bỏ lại phía sau, bởi chừng nào người ta còn chưa tỉnh thức và có nhận thức, người ấy còn đang lãng phí thời gian và phải quay trở lại Trái đất một cách không cần thiết.
People are in bondage here through the World of Illusion. People have false values, false beliefs, and false understanding.
All that matters on the Earth is how much money a person has in his bank account, how was he born — to what class of society. People worship false Gods, the Chief God is the dollar sign. People are able to contemplate travel in space with equanimity, but they are not able to realise that the mind is greater than the material, and that the easiest way to travel in space is through astral travelling !
Mithya is that state of falsity which has to be banished before one can attain liberation from the bonds of the flesh, from the illusions of this world, and so come to a realisation of one’s true Overself.
Mithya is a good thing to put behind us, because until one can wake up and become aware one is wasting time and coming back to Earth needlessly.
MOHA – SI MÊ
Đây là một trạng thái của sự vô minh, trạng thái ngu ngốc, trạng thái bị nhầm lẫn hoàn toàn. Nó là hệ quả sự thiếu đánh giá về những gì nên làm và những gì không nên làm.
Si mê dẫn đến buồn phiền và đau khổ. Để vượt qua Si mê, người ta cũng phải vượt qua Tà kiến (Mithya), và sau đó, chỉ sau đó, người ta mới đạt được đến giai đoạn.
This is a state of ignorance, the state of being stupid, the state of being in utter confusion. It is caused by lack of appreciation of that which has to be done and that which has to be left undone.
Moha leads to sorrow and suffering. In overcoming Moha one also has to overcome Mithya, and then, and then only, does one attain to the stage of.
MOKSHA – SỰ GIẢI THOÁT
Moksha là sự giải thoát. Đó là sự tự do khỏi vô minh, tự do khỏi sự thiếu hiểu biết, tự do khỏi sự nhầm lẫn.
Mục đích của tất cả các chúng sinh là đạt được giải thoát, đạt được tự do khỏi sự ràng buộc của Trái đất và những ham muốn xác thịt, vì thế việc đạt tới giai đoạn đó, dùng một thuật ngữ tốt hơn, là đạt tới ‘Phật quả’.
Bất kể là người theo đạo Thiên Chúa, Do Thái giáo, Hồi giáo hay Phật giáo, tất cả đều cố gắng đạt được sự tự do khỏi đau khổ của thế giới và bước vào cái mà chúng ta gọi là Thiên đường, Niết bàn, Vườn địa đàng, hoặc tương tự. Chúng ta không thể đến những nơi đáng khao khát đó cho đến khi chúng ta đạt được Sự giải thoát.
Moksha is liberation. It is freedom from crass stupidity, freedom from ignorance, freedom from confusion.
It is the aim of all sentient beings to reach liberation, to reach freedom from the bonds of the Earth and the cloying lusts of the flesh, and thus to attain that stage which, for want of a better term, we will call ‘Buddhahood.’
No matter if one is a Christian or a Jew, a Moslem or a Buddhist, one still strives to attain freedom from the suffering of the world, and entry into that which we term Heaven, Nirvana, the Heavenly Fields, or similar. We cannot get to any of those desirable places until we have attained Moksha.
MUDRAS – THỦ ẤN
Hatha Yoga có đủ các loại bài tập kỳ dị, một số vô hại và có thể khá hài hước, nhưng số khác rất nguy hiểm. Chúng ta không nên tập hai mươi lăm bài tập Mudra, cá nhân tôi muốn đưa ra một cảnh báo nghiêm trọng rằng không có bài tập nào trong số những bài tập này nên được thực hiện ngoại trừ dưới sự giám sát và chỉ dạy của một người thực sự có trình độ.
Những mối nguy hiểm là có thật. Người ta có thể bị những cơn đau tim mà thường ngày không có, nếu người ấy cố gắng bắt chước một con rắn bị chứng khó tiêu, thì họ đang tự đâm đầu vào rắc rối – và sẽ gặp rắc rối.
Nhiều người tạo ra hẳn một môn phái về những bài tập này, và bằng cách tập trung quá mức, họ có thể gây hại cho bản thân. Những tác hại nào à? Cứ đến thăm bất kỳ trại tâm thần nào và bạn sẽ thấy!
Có rất nhiều bài tập có liên quan phần nào đến quá trình kích hoạt Kundalini, và để cung cấp cho bạn một số thông tin về chủ đề này, hãy để tôi nói cho bạn biết một hoặc hai bài tập, với mục đích học thuật đơn thuần.
Đầu tiên là Thủ ấn Khechari. Đây là một loạt các bài tập cho phép một người kéo dài lưỡi. Tất nhiên phải mất hàng tháng trời, nhưng khi lưỡi được kéo dài đủ và cơ lưỡi được luyện tập, nó có thể uốn ngược lại và che hoàn toàn cổ họng. Một người thông thạo – người đôi khi biết những gì anh ta đang làm – chặn tất cả các lỗ trên cơ thể anh ta bằng các miếng bông thấm dầu, và sau đó bằng cách thực hành các thủ ấn cần thiết, anh ta có thể không thở trong nhiều ngày. Điều này đã được chứng minh trong điều kiện thử nghiệm.
Một bài tập hay Thủ ấn khác là Viparitakarani. Trong đó, nạn nhân hoặc học viên, nằm ngửa với đầu đặt trên mặt đất. Sau đó, anh ta nhấc hai chân lên không trung, tiếp đến là phần lưng dưới. Anh ta sẽ dùng tay đỡ hông, và sau đó dồn trọng lượng của cơ thể vào khuỷu tay. Đôi khi, những người thực hành điều này khua hai chân thành một vòng tròn, nhưng trước khi làm như vậy, họ nên buộc một lá cờ vào mắt cá chân của mình để ít nhất cho nó một mục đích, hoặc thậm chí họ có thể buộc một lá cọ vào chân để tự quạt cho bản thân trong quá trình này.
Một tư thế điên rồ khác là Pasinimudra. Người tập theo tư thế này nên biểu diễn để kiếm sống trên sân khấu. Dẫu sao, anh ta quấn chân quanh cổ như thể anh ta đang buộc một chiếc khăn quanh mình. Đi ra ngoài và mua một chiếc khăn quàng cổ còn rẻ hơn nhiều so với việc phải trả cho bác sĩ để cởi trói cho bạn sau đó.
Một bài tập khác là Kaki-Mudra, trong đó linh hồn đáng thương chu môi và, vì một lý do nào đó, bắt chước một con quạ. Sau đó anh ta hít không khí vào thật chậm.
Một lần nữa, đây là một quan điểm cá nhân – ở phương Đông thực sự, những người duy nhất thực hiện những tư thế ngu ngốc này là những kẻ ăn xin và những ‘đạo sĩ’, những kẻ muốn kiếm sống mà lại không có đầu óc để làm bất cứ điều gì khác. Những người thực hiện các bài tập này chỉ đơn thuần là những kẻ nhào lộn, tung hứng và tương tự. Những bài tập này không thực sự giúp tăng cường sự hiểu biết tâm linh của một người, và nếu bạn có bất kỳ nghi ngờ nào về chấn thương, hãy để những bài tập này qua một bên, bạn sẽ sống lâu hơn – hạnh phúc hơn.
Hatha Yoga has all sorts of queer exercises, some harmless and possibly decidedly funny, but some highly dangerous. The twenty-five exercises of Mudras should not concern us except that I personally desire to issue a solemn warning that none of these exercises should be practiced except under the supervision and advice of a really qualified person.
The dangers are real. A person may have some heart affliction which does not obtrude in one’s ordinary life, but if one tries to emulate a dyspeptic snake, then one is asking for — and will get — trouble.
Too many people make a cult or a fetish of some of these exercises, and by over-concentrating they can do terrible harm to themselves. What sort of harm ? Go into any mental home and you will see !
There are numerous exercises which have some part in the process of raising the Kundalini, and just to give you some information on this subject, let me tell you of one or two merely as a matter of academic interest.
The first is Khechari-Mudra. This is a series of exercises which enables one to lengthen the tongue. It takes several months, of course, but when the tongue is suitably lengthened and has its muscles trained, it can be turned backwards so that it completely obstructs one’s throat. The Adept — who sometimes knows what he is doing — stops up all his body orifices with oiled pads, and then by practicing the necessary Mudra he can remain without breathing for many, many days. This has been proved under test conditions.
Another exercise, or Mudra, is that of Viparitakarani. In this the victim, or practitioner, lies on his back with his head on the ground. He then raises his legs in the air, following with the lower part of the back. He should support his hips with his hands, and then the elbows take the weight of the body. Sometimes people doing this waggle their legs round in a circle, but before doing so they should tie a flag to their ankles to at least make some semblance of purpose to it, or they could even tie a palm leaf to the legs so that they fan themselves in the process.
Another crazy stunt is Pasinimudra. The person who does this should be doing it for a living on a stage. Anyway, this fellow wraps his legs around his neck as if he were tying a scarf around himself. It is much cheaper to go out and buy a scarf than to pay the doctor who might have to untie you afterwards.
Yet another exercise — Kaki-Mudra is where a poor soul contracts his lips and tries, for some reason, to resemble a crow. He then sucks in air very slowly.
A personal point of view again — in the real Far East the only people who go in for these foolish stunts are the beggars and those ‘fakirs’ who want to make a living and have not the brains to do anything else. The people who do these exercises are merely acrobats, jugglers, and the like. These exercises do not really help in increasing one’s spiritual understanding, and if you have any suspicion of an ailment leave these exercises alone, you will live longer — happier.
MULADHARA – LUÂN XA GỐC
Đây là một Luân xa khác. Cái này nằm ở đáy cột sống. Nó là vị trí của Kundalini.
Hầu hết mọi người đều hài lòng khi nói rằng Kundalini nằm ở đáy cột sống, nhưng thực tế Kundalini nằm chính xác giữa cơ quan bài tiết và cơ quan sinh dục.
Muladhara (Luân xa gốc) là một Luân xa gồm bốn cánh hoa, sự tiến hóa của một người càng thấp thì màu đỏ của cánh hoa càng đậm. Ở trung tâm của những cánh hoa màu đỏ – nơi chúng tiếp xúc- trong hình dạng của một hình tam giác đang bốc cháy với một hình vuông màu vàng là vị trí chính xác của Kundalini.
Màu đỏ biểu thị những cảm xúc thấp và những ham muốn xác thịt. Màu vàng bao quanh Kundalini đang nằm yên cho thấy năng lượng Kundalini có thể mang tính tâm linh nếu được kích hoạt đúng cách. Nhưng nếu nó được kích hoạt sai cách hoặc sai thời điểm hoặc không đúng mục đích, nó có thể giống như ngọn lửa đang cháy thiêu rụi lý trí của một người và để lại một kẻ ngốc ngớ ngẩn.
Không nên đánh thức Kundalini trừ khi bạn có một vị Thầy giàu kinh nghiệm, người thực sự biết mình đang làm gì. Tốt hơn hết là hãy chờ đợi, nếu cần thiết, để năng lượng Kundalini của bạn được đánh thức ở kiếp sau hơn là phải quay lại thêm vài kiếp sống nữa do thiếu kiên nhẫn khiến Kundalini của bạn bị kích động bởi những mục đích sai lầm.
This is another Chakra. This one is below the base of the spine. It is the site of the Kundalini.
Most people are content to say that the Kundalini is located at the base of the spine, but actually the Kundalini is located exactly halfway between the organ of excretion and the organ of reproduction.
This Muladhara is a Chakra of four petals, the lower the evolution of the person, the darker the red colour of the petals. In the centre of the red petals — where they join — in the fiery shape of a triangle with the yellow square precisely locating the Kundalini.
The red indicates lower carnal emotions and passions. The yellow, which actually surrounds the recumbent Kundalini shows that the Kundalini force can be spiritual if raised properly. But if it is raised in the wrong way or at the wrong time or for the wrong purpose, it can be like a searing flame which can burn out one’s reason and leave one a gibbering idiot.
The Kundalini should not be awakened except by some experienced Teacher who really knows what he is doing. It is better to wait, if necessary, for your Kundalini to be awakened in the next life than to have to come back for a few extra lives through being impatient and getting your Kundalini excited for the wrong purposes.
MUMUKSHUTWA – Ý MUỐN GIẢI THOÁT
Đây là một mong muốn rất mạnh mẽ được thoát khỏi sự ràng buộc của xác thịt. Đó là lý do tại sao rất nhiều người muốn du hành thể vía, họ muốn thoát ra khỏi cơ thể, thoát khỏi lớp vỏ tù đày, để đi đến nhiều nơi và tự mình ngắm nhìn mọi thứ.
Đó cũng là một mong muốn thoát khỏi luân hồi, mong muốn trở về ngôi nhà của linh hồn.
This is a very strong desire to be free of the bonds of the flesh. That is why so many people want to do astral travelling, they want to get out of the body, out of the imprisoning clay, to go places and see things for themselves.
It is also a desire to get away from continual incarnations, a desire to return home to the world of the spirit.
MUNI – MÂU NI
Đây là một người không kể lể về các bài tập Yoga của mình hoặc về những gì anh ta đang học, hoặc những gì Thầy của anh ta đã nói lần trước, hoặc không đi hỏi Thầy những điều muốn biết nếu Thầy không nói. Mâu ni là một người không tham gia vào cuộc trò chuyện nhàn rỗi, một người có thể duy trì sự im lặng. Bạn nên tham khảo từ Mauna ở trên để nhớ lại!
This is a person who does not talk about his Yogic exercises or what he is learning, or what his Teacher said last time, or what he is going to say to his Teacher if his Teacher does not show him what he wants to know. Muni is one who does not engage in idle chatter, one who can maintain silence. You should consult Mauna here to refresh your mind !
MYSTICISM – THẦN BÍ GIÁO
Đây là niềm tin rằng bằng cách sống dựa trên những thứ cao hơn thế giới này, người ta có thể tinh tấn trong tâm linh. Nó hướng tới trạng thái siêu ý thức, nó làm gia tăng rung động, do đó, trong khi vẫn còn có ý thức về cơ thể, tâm trí con người có thể nhận được những sự thật cao hơn, những thực tại cao hơn.
Thần bí giáo không liên quan gì đến phép thuật hay ma thuật hắc ám, mà chỉ liên quan tới việc làm tăng sự hiểu biết của một người về những thứ vượt ngoài trải nghiệm vật lý của con người.
This is a belief that by dwelling upon things higher than this world one can increase one’s spiritual status. It is reaching a super-conscious state, it is increasing one’s vibration so that, while still conscious in the body, one’s mind is able to receive higher truths, higher realities.
Mysticism has nothing to do with spells or black magic, but only with that which increases one’s understanding of things which are beyond the physical human experience.
[1] [VMC] Còn được gọi là tàng thức, tiềm thức