Chương VII – Câu chuyện của Rampa – Lobsang Rampa

Tôi ngủ suốt hai ngày hai đêm, thân thể kiệt sức của tôi lơ lửng giữa hai thế giới. Cuộc đời luôn luôn khắc nghiệt với tôi, luôn khổ sở và bị oan uổng. Nhưng bây giờ tôi ngủ.

Thân xác tôi bị bỏ lại phía sau, ở lại Trái đất. Khi tôi bay vọt lên tôi nhìn thấy một người phụ nữ da đen đang nhìn tôi trong một thân xác trống rỗng với ánh mắt thương cảm thể hiện rõ trên khuôn mặt. Thế rồi bà đi ra và ngồi bên cửa sổ, nhìn ra ngoài đường phố âm u. Thoát ra khỏi sự giam cầm của thể xác, tôi có thể nhìn thấy rõ hơn màu sắc của thế giới này. Những người da màu này đang cứu giúp tôi là những người tốt bụng, trong khi những người da trắng lại chỉ biết ngược đãi người khác. Khổ đau và vất vả đã rèn rũa bản chất của họ, còn thái độ thờ ơ của họ chỉ là để che đi những cảm xúc bên trong mà thôi. Tiền bạc của tôi, tất cả đều do tôi kiếm được một cách khó nhọc, khổ sở thậm chí hy sinh bản thân, nay được cất kỹ ở dưới gối, được những người này bảo vệ an toàn như được để trong nhà băng tốt nhất.

FOR two days and nights I slept, my exhausted body hovering between two worlds. Life had always been hard to me, always suffering and great misunderstanding. But now I slept.

My body was left behind me, left upon Earth. As I soared upwards I saw that one of the Negro women was looking down at my empty shell with great compassion on her face. Then she turned away and sat by a window, looking out upon the dingy street. Freed of the fetters of the body, I could see even more clearly the colours of the astral. These people, these coloured people who were helping me when those of the white race could only persecute, were good. Suffering and hardships had refined their egos, and their insouciant attitude was merely to cover up their inner feelings. My money, all that I had earned by hardship, suffering and self-denial, was tucked beneath my pillow, as safe with these people as in the strongest bank.

Cứ thế tôi tiếp tục bay vút lên, vượt qua những giới hạn về không gian và thời gian, đi vào không gian của hết hành tinh này đến hành tinh khác. Cuối cùng tôi đã tới Vùng đất của Ánh sáng vàng, nơi Người Hướng Dẫn của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức đang chờ đón tôi.

“Những sự khắc khổ của con thật là lớn” Ngài nói, “nhưng tất cả những gì mà con phải chịu đựng là để nhằm cho một mục đích tốt lành. Chúng ta đang nghiên cứu con người dưới Trái đất, và những con người đi theo các giáo phái kỳ lạ, lạc lối, đã và sẽ hành hạ con bởi vì họ thật ít hiểu biết. Nhưng bây giờ chúng ta cần bàn về tương lai của con. Thân xác hiện tại của con đã gần đến lúc kết thúc vai trò của nó, và chúng ta cần phải lên kế hoạch để chuẩn bị cho sự kiện này.” Ngài bước bên tôi dọc theo bờ của một con sông đẹp. Nước sông lấp lánh và dường như có sức sống. Cả hai bên sông là những khu vườn kỳ diệu đến nỗi tôi không dám tin vào các giác quan của mình. Bản thân không khí cũng dường như đang rung lên với sự sống. Xa xa có một nhóm người mặc áo choàng Tây tạng, chầm chậm đi đến gặp chúng tôi. Thầy mỉm cười với tôi, “Đây là cuộc họp quan trọng,” Ngài nói, “bởi vì chúng ta đang lên kế hoạch cho tương lai của con. Chúng ta phải lên kế hoạch xem làm thế nào để thúc đẩy nghiên cứu hào quang, vì chúng ta nhận thấy rằng khi mỗi khi từ “hào quang” được đề cập đến ở dưới Trái đất, đa phần mọi người sẽ tìm cách thay đổi chủ đề.”

I soared on and on, leaving the confines of time and space, entering astral plane after astral plane. At last I reached the Land of the Golden Light where my Guide, the Lama Mingyar Dondup waited to receive me.

“Your sufferings have been truly great,” he said, “but all that you have endured has been to good purpose. We have studied the people of Earth, and the people of strange, mistaken cults there who have and will persecute you, for they have little understanding. But now we have to discuss your future. Your present body is nearing the end of its useful life, and the plans which we have for this event must come to pass.” He walked beside me along the banks of a beautiful river. The waters sparkled and seemed to be alive. On either bank there were gardens so wonderful that I could scarce believe my senses. The air itself seemed to vibrate with life. In the distance a group of people, clad in Tibetan robes, came slowly to meet us. My guide smiled at me, “This is an important meeting,” he said, “for we have to plan your future. We have to see how research into the human aura can be stimulated, for we have noticed that when ‘aura’ is mentioned on Earth, most people try to change the subject.”

Nhóm người lại gần, tôi nhận ra những người mà tôi đã từng tôn kính. Họ cười nhân từ với tôi và chào hỏi tôi một cách bình đẳng. “Chúng ta hãy qua nơi nào đó thoải mái hơn,” một vị nói, “như vậy chúng ta vừa thư giãn mà vẫn có thể nói chuyện và thảo luận các vấn đề được.” Chúng tôi đi dọc theo một lối nhỏ dẫn đến chỗ nhóm người vừa xuất phát, rẽ vào một khúc cua trên đường, bất chợt chúng tôi nhìn thấy ngay trước mặt một Đại sảnh to lớn đẹp nguy nga khiến tôi vô tình dừng lại ngẩn ngơ chiêm ngưỡng. Những bức tường dường như toàn bằng pha lê tinh khiết nhất với những gam màu nhạt tinh tế, luôn thay đổi sắc màu khi nhìn vào. Đường vào êm êm dưới bàn chân, và Người Hướng Dẫn của tôi cũng chẳng cần nói nhiều để thuyết phục tôi đi vào đó.

Chúng tôi bước vào bên trong, và giống như là chúng tôi đang ở trong một Ngôi chùa hoành tráng, một Ngôi chùa không có bóng tối, sạch sẽ với bầu không khí làm cho con người cảm thấy đây mới là Cuộc sống. Chúng tôi đi qua phần chính của tòa nhà cho đến chỗ mà, ở dưới trái đất, tôi sẽ gọi là Phòng Trụ trì. Ở đây đơn giản đến dễ chịu, chỉ có một bức tranh duy nhất về Hiện thực Vĩ đại ở trên tường. Bao quanh tường là cây xanh và qua ô cửa sổ rộng người ta có thể nhìn thấy khu vườn bao la.

The group moved nearer, and I recognized those of whom I had stood in awe. Now they smiled benevolently upon me, and greeted me as an equal. “Let us move to more comfortable surroundings,” said one, “so that we may talk and discuss matters at leisure.” We moved along the path in the direction from whence the men had come until, turning to follow a bend in the path, we saw before us a Hall of such surpassing beauty that involuntarily I stopped with a gasp of pleasure. The walls seemed to be of purest crystal, with delicate pastel shades and undertones of colour which changed as one looked. The path was soft underfoot, and it needed little urging on the part of my Guide to persuade me to enter.

We moved in, and it was as if we were in a great Temple, a Temple without dark, clean, with an atmosphere that simply made one feel that this was Life. Through the main body of the building we went, until we came to what on Earth I would have called the Abbot’s room. Here there was comfortable simplicity, with a single picture of the Greater Reality upon the wall. Living plants were about the walls, and from the wide windows one could see across a superb expanse of parkland.

Chúng tôi ngồi trên những cái gối đặt trên sàn giống như ở Tây tạng. Tôi thấy thực sự thoải mái, cảm thấy như mình đang ở nhà. Những suy nghĩ về thân xác của tôi ở lại dưới Trái đất vẫn làm phiền tôi, vì chừng nào vẫn còn nguyên vẹn Sợi chỉ Bạc, thì tôi sẽ còn phải trở về. Vị Sư Trụ trì – tôi sẽ gọi ông như thế mặc dù ông ở vị trí cao hơn nhiều – nhìn quanh mình và nói. “Từ đây chúng ta đã theo dõi tất cả những gì xảy ra với con ở dưới trái đất. Trước hết chúng ta muốn nhắc con rằng con đang phải chịu đựng nỗi thống khổ không phải từ nghiệp chướng của con, mà là con đang hành động như là một công cụ để chúng ta nghiên cứu. Vì tất cả những bất hạnh mà con đang phải chịu đựng bây giờ, về sau con sẽ nhận được trọng thưởng.” Ngài cười với tôi và nói thêm, “Mặc dù điều đó không giúp con được nhiều khi con phải chịu khổ ở dưới trái đất! Tuy nhiên,” Ngài nói tiếp, “chúng ta đã biết được nhiều điều, nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh vẫn chưa được sáng tỏ. Thân xác hiện tại của con đã phải chịu quá nhiều đau khổ và sẽ sớm lìa trần. Chúng ta đã có một mối ở đất nước Anh Quốc. Người đàn ông này muốn từ bỏ thân xác của mình. Chúng ta đã đưa anh ta vào thể vía và thảo luận vấn đề này với anh ta. Anh ta đang sốt sắng rất muốn đi, và sẵn sàng làm tất cả những điều chúng ta yêu cầu. Theo lệnh của chúng ta anh ta đã đổi tên của mình thành một cái tên phù hợp hơn với con. Cuộc sống của anh ta không hạnh phúc, và anh ta đã tự nguyện cắt đứt các mối quan hệ với người thân. Anh ta cũng chưa bao giờ kết bạn với ai. Cơ thể anh ta rất hợp với con. Bây giờ chúng ta sẽ không nói thêm nhiều về anh ta, để sau này, trước khi con nhập vào thân xác của anh ta, con sẽ chỉ cần biết một chút về cuộc đời của anh ấy. Nhiệm vụ của con bây giờ là hãy mang thân xác của con trở lại Tây tạng để nó có thể được bảo tồn. Bằng sự cố gắng và hy sinh của con con đã kiếm được một số tiền bạc, con chỉ cần thêm một chút nữa thôi để đủ tiền đi lại. Nó sẽ lại đến từ những cố gắng không mệt mỏi của con. Nhưng bây giờ thì đủ rồi. Hãy dành trọn một ngày để tham quan nơi đây trước khi quay trở về thân xác của con.”

We sat upon cushions placed upon the floor, as in Tibet. I felt at home, contented almost. Thoughts of my body back on Earth still disturbed me, for so long as the Silver Cord was intact, I would have to return. The Abbot—I will call him that although he was much higher—looked about him, then spoke. “From here we have followed all that has happened to you upon the Earth. We want first to remind you that you are not suffering from the effects of Kharma, but are instead acting as our instrument of study. For all the bad that you now suffer, so shall you have your reward.” He smiled at me, and added, “Although that does not help much when you are suffering upon Earth! However,” he went on, “we have learned much, but there are certain aspects yet to be covered. Your present body has suffered too much and will shortly fail. We have established a contact in the Land of England. This person wants to leave his body. We took him to the astral plane and discussed matters with him. He is most anxious to leave, and will do all we require. At our behest he changed his name to one more suitable to you. His life has not been happy, he willingly discontinued association with relatives. Friends he had never made. He is upon a harmonic of yours. For the moment we will not discuss him further, for later, before you take his body, you will see just a little of his life. Your present task is to get your body back to Tibet that it may be preserved. By your efforts and sacrifices you have amassed money, you need just a little more to pay your fare. It will come through your continued efforts. But enough for now. For a day enjoy your visit here before returning to your body.”

Đây thực sự là một sự hoan hỉ, khi được ở bên Người Hướng Dẫn của mình, Lạt Ma Minh Gia, không phải như một đứa trẻ mà như một người trưởng thành, một người có thể cảm nhận được những khả năng và tính cách khác thường của một con người vĩ đại. Chúng tôi ngồi một mình bên sườn đồi rêu phong nhìn ra vịnh nước xanh biếc. Cây cối đung đưa theo làn gió nhẹ tỏa ra mùi hương của tuyết tùng và thông. Chúng tôi ngồi như vậy hàng giờ, nói chuyện, thảo luận về quá khứ. Lịch sử cuộc đời tôi là cuốn sách mở đối với ngài, bây giờ ngài kể cho tôi về cuộc đời của ngài. Vậy là một ngày đã trôi qua, và khi hoàng hôn màu tím đã tới và bao trùm lên tôi, tôi biết rằng đã đến lúc phải đi, đến lúc phải trở lại trái đất đầy rắc rối với những con người sân si và những miệng lưỡi cay độc, những miệng lưỡi gây ra bao điều độc ác trên trần gian.

This was bliss indeed, to be with my Guide, the Lama Mingyar Dondup, not as a child, but as an adult, as one who could appreciate that great man’s unusual abilities and character. We sat alone on a mossy hillside overlooking a bay of bluest water. The trees swayed to a gentle breeze and wafted to us the scent of cedar and pine. For hours we stayed thus, talking, discussing the past. My history was an open book to him, now he told me of his. So the day passed, and as the purple twilight came upon me, I knew that it was time to go, time to return to the troubled Earth with its bitter man and spiteful tongues, tongues that caused the evils of Earth.

“Hank! Ôi Hank! Cậu ấy tỉnh rồi!” Có tiếng kéo ghế, và khi mở mắt tôi thấy người đàn ông da đen to lớn đang nhìn tôi. Bây giờ ông ấy không mỉm cười, vẻ mặt ông ấy đầy vẻ kính trọng thậm chí còn kinh ngạc. Người phụ nữ chắp tay, hơi cúi đầu về phía tôi. “Cái gì thế? Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi.

“Chúng tôi vừa nhìn thấy một điều kỳ lạ. Tất cả chúng tôi.” Người đàn ông da đen nói, giọng nghẹn ngào.

“Tôi lại làm phiền mọi người à?” Tôi hỏi.

“Không, thưa Thầy, Thầy chỉ mang niềm vui đến cho chúng tôi thôi,” người phụ nữ trả lời.

“Tôi muốn tặng quà cho mọi người.” tôi nói, tay với túi tiền.

Người da đen nói nhỏ nhẹ, “Chúng tôi là dân nghèo, nhưng chúng tôi không lấy tiền của Thầy. Hãy coi đây như là nhà của mình cho đến khi Thầy muốn rời đi. Chúng tôi biết Thầy đang làm gì.”

“Hank! Oh, Hank! He is awake!” There was the creak of a chair being moved, and as I opened my eyes I saw the big Negro looking down at me. He was not smiling now, his face was full of respect, awe, even. The woman crossed herself and bowed slightly as she looked in my direction. “What is it? What has happened?” I asked.

“We have seen a miracle. All of us.” The big negro’s voice was hushed as he spoke.

“Have I caused you any trouble?” I asked.

“No, Master, you have brought us only joy,” the woman replied.

“I would like to make you a present,” I said, reaching for my money.

The negro spoke softly, “We are poor folk, but we will not take your money. Make this your home until you are ready to leave. We know what you are doing.”

“Nhưng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn,” tôi trả lời. “Không có mọi người chắc tôi đã chết rồi.”

“Và đã đi gặp Thượng đế rồi!” người phụ nữ nói thêm, “Thưa thầy, thầy có thể cho chúng tôi cái khác lớn hơn tiền bạc. Hãy dạy cho chúng tôi cách cầu nguyện!”

Tôi im lặng trong giây lát, ngạc nhiên trước đề nghị này. Tôi nói, “Vâng, tôi sẽ dạy mọi người cầu nguyện như tôi đã được dạy.”

“Tất cả mọi tôn giáo đều tin vào sức mạnh của cầu nguyện, nhưng chỉ ít người hiểu được cơ chế này, cũng ít người hiểu được tại sao việc cầu nguyện chỉ có tác dụng với người này và hầu như không ứng với người khác. Phần lớn những người phương Tây tin rằng người phương Đông hoặc là cầu nguyện trước những bức tượng hoặc là không thực hành cầu nguyện một chút nào. Cả hai quan điểm này đều không đúng, và tôi sắp nói với mọi người bây giờ cách làm thế nào để loại bỏ lời cầu nguyện khỏi thế giới huyền bí và mê tín và dùng nó để giúp đỡ người khác, bởi vì cầu nguyện là một việc rất thực tế. Nó là một trong những nguồn sức mạnh lớn nhất trên trái đất khi nó được đem ra sử dụng đúng mục đích.

“But I would like to show my gratitude,” I answered. “Without you I would have died.”

“And gone to Greater Glory!” said the woman, adding, “Master, you can give us something greater than money. Teach us to pray!”

For a moment I was silent, taken aback by the request. “Yes,” I said, “I will teach you to pray, as I was taught.

“All religions believe in the power of prayer, but few people understand the mechanics of the process, few understand why prayers work for some and seemingly not for others. Most Westerners believe that people of the East either pray to a graven image or do not pray at all. Both statements are untrue, and I am going to tell you now how you can remove prayer from the realm of mysticism and superstition and use it to help others, for prayer is a very real thing indeed. It is one of the greatest forces on this Earth when used as it was intended to be used.

“Hầu hết các tôn giáo đều có niềm tin rằng mỗi con người luôn có Thiên thần Hộ mệnh hoặc có ai đó luôn dõi theo mình. Điều đó cũng là thật, nhưng Thiên thần Hộ mệnh cũng chính là bản thân người này, nhưng ở một hình thái khác và đang ở thế giới bên kia. Rất, rất ít người có thể nhìn thấy vị Thiên thần Hộ mệnh này của họ khi họ đang sống trên Trái đất, nhưng ai mà thấy được thì có thể mô tả nó rất chi tiết.

“Vị Thần hộ mệnh này (chúng ta phải gọi là một cái gì đó, vậy hãy gọi là Thần hộ mệnh) không có hình hài dưới dạng vật chất như chúng ta trên trái đất. Nghe có vẻ ma quái; đôi khi người có khả năng thấu thị sẽ thấy nó có bóng hình màu xanh long lanh, rõ nét lớn hơn cơ thể bình thường và được kết nối với cơ thể xương thịt bằng một thứ được biết đến là Sợi chỉ Bạc, Sợi chỉ này rung động và lấp lánh khi truyền tải thông điệp từ cái bóng đến thân xác. Thần hộ mệnh không có thể xác như con người dưới trái đất, nhưng họ vẫn có thể làm được những việc mà con người trên trái đất có thể làm, nhưng bên cạnh đó họ còn làm được rất nhiều việc mà thể xác dưới trái đất không thể làm được. Ví dụ, Thần hộ mệnh có thể đi đến bất kỳ nơi nào trên thế giới này chỉ trong nháy mắt. Cũng chính là Thần hộ mệnh có thể chu du trong thể vía và nhập lại vào thể xác thông qua Sợi chỉ bạc khi cần thiết.

“Most religions have a belief that each person has a Guardian Angel or someone who looks after him. That also is true, but the Guardian Angel is oneself, the other self, the other self which is at the other side of life. Very, very few people can see this angel, this Guardian of theirs, while they are on the Earth, but those who can are able to describe it in detail.

“This Guardian (we must call it something, so let us call it a Guardian) has not a material body such as we have on Earth. It appears to be ghostly; sometimes a clairvoyant will see it as a blue scintillating figure larger than life-size and connected to the flesh body by what is known as the Silver Cord, that Cord which pulses and glistens with life as it conveys messages from one to the other. This Guardian has not a body such as that of Earth, but it is still able to do things which the Earth body can do, with the addition that it can do very many more things which the Earth body cannot. For example, the Guardian can go to any part of the world in a flash. It is the Guardian which does astral traveling and relays back to the body through the Silver Cord that which is needed.

“Khi bạn cầu nguyện, bạn cầu nguyện cho chính mình, cho hình thái khác của bạn, cho bản ngã lớn hơn của bạn. Nếu chúng ta biết cách cầu nguyện đúng chúng ta sẽ cầu nguyện qua Sợi chỉ bạc, nhưng đây giống như là một đường dây điện thoại có nhiều lỗi, và chúng ta phải nhắc đi nhắc lại để đảm bảo rằng thông tin đã được truyền đi. Như vậy khi bạn cầu nguyện, hãy nói như thể bạn đang nói qua điện thoại đến một nơi rất xa, nói thật rõ ràng và lúc đó chỉ nghĩ đến những gì mà bạn đang nói. Tôi muốn nói thêm rằng chúng ta đầy tội lỗi trên thế giới này, đầy khiếm khuyết trong thân xác không hoàn hảo mà ta đang mang, nhưng sai sót không bao giờ tồn tại trong Thần hộ mệnh của chúng ta. Cầu nguyện bằng ngôn ngữ thật đơn giản và đảm bảo rằng những cầu xin của bạn luôn luôn là tích cực và không hề tiêu cực.

“When you pray, you pray to yourself, to your other self, to your Greater Self. If we knew properly how to pray we should send those prayers through the Silver Cord, because the telephone line we use is a very faulty sort of instrument indeed, and we have to repeat ourselves in order to make sure that the message gets through. So when you pray, speak as you would speak through a very long distance telephone line, speak with absolute clarity, and actually think of what you are saying. The fault, I should add, lies with us here on this world, lies with the imperfect body we have on this world, the fault is not in our Guardian. Pray in simple language making sure that your requests are always positive and never negative.

“Hãy làm cho những lời cầu nguyện của bạn phải tuyệt đối tích cực và tuyệt đối rõ ràng không ai có thể hiểu lầm, hãy nhắc lại lười cầu nguyện khoảng ba lần. Ví dụ, giả sử, lúc này bạn đang có người thân bị ốm và đau đớn, và bạn muốn làm một việc gì đó để giúp đỡ – bạn nên cầu nguyện để giải thoát người đó khỏi những nỗi đau. Bạn nên cầu nguyện ba lần và phải nói chính xác như nhau. Bạn phải hình dung có một hình bóng, hình bóng mong manh không có thật đang đi đến nhà của người đó, đi theo con đường mà chính bạn cũng đang đi, bước vào trong nhà và đặt bàn tay lên người đó để cứu chữa. Chút nữa tôi sẽ quay lại chủ đề đặc biệt này, nhưng trước hết cho tôi nói rằng làm đi làm lại việc đó là cần thiết, và nếu bạn thực sự có lòng tin, bạn sẽ thấy có tiến bộ.

“Having framed your prayer to be absolutely positive and to be absolutely clear of any possibility of misunderstanding, repeat that prayer perhaps three times. Let us take an example; suppose, for instance, that you have a person who is ill and suffering, and you want to do something about it—you should pray for the relief of that person’s suffering. You should pray three times saying exactly the same thing each time. You should visualize that shadowy figure, that insubstantial figure, actually going to the house of the other person, following the route which you would follow yourself, entering the house and laying hands on that person and so effecting a cure. I will return to this particular theme in a moment, but first let me say—repeat that as many times as are necessary, and, if you really believe, then there will be an improvement.

“Vấn đề chữa bệnh rất phức tạp, phải, nếu người đó bị cắt một chân thì bao nhiêu lời cầu nguyện cũng không thể trả lại chân cho anh ta được. Nhưng nếu một người bị ung thư hoặc bị một căn bệnh trầm trọng nào đó thì cầu nguyện có thể làm dừng tiến độ bệnh. Rõ ràng là bệnh tật càng ít nghiêm trọng thì phương pháp này càng dễ chữa. Mọi người đều biết những ghi chép về một phương thuốc kỳ diệu trong lịch sử của thế giới. Thị trấn Lourdes (Pháp) và nhiều nơi khác rất nổi tiếng về phương pháp chữa bệnh của họ, và những cách chữa bệnh này đã được chính chính hình thái bản thân khác, tức Thần hộ mệnh của người chữa bệnh, được cộng hưởng bởi danh tiếng của danh tiếng của địa phương.”

“Ví dụ, Lourdes được biết đến trên toàn thế giới như là một nơi có phương thuốc thần kỳ, nên mọi người đến đó đã có niềm tin tuyệt đối là họ sẽ được chữa khỏi, và rất thường xuyên lòng tin đó đã được chuyển đến Thần hộ mệnh của người đó và rồi phương thuốc đó đã phát huy hiệu lực rất dễ dàng. Một số người thích nghĩ rằng đã có một vị Thánh hoặc Thần nào đó hoặc một vị Thánh Cổ xưa đã ra tay cứu chữa, nhưng thực tế mỗi người đã tự chữa cho mình, và nếu như vị thầy thuốc đó liên kết với một người với ý định cứu chữa người bệnh đó thì việc cứu chữa chỉ có thể thông qua Thần hộ mệnh của chính người bệnh.  Như tôi đã nói với bạn từ trước, tất cả những thứ đó nhập vào chính bản thân bạn, con người thật của bạn khi bạn rời bỏ cuộc sống vô hình và bước vào Hiện thực vĩ đại. Trong khi ở trên trái đất tất cả chúng ta đều có xu hướng nghĩ rằng đó là thứ quan trọng duy nhất, nhưng Trái đất, thế giới này – không, đây là thế giới của Ảo Tưởng, thế giới của những khó khăn vất vả, nơi chúng ta đến để học các bài học không dễ tiếp thu trong một thế giới tốt hơn, độ lượng hơn, thế giới mà chúng ta sẽ trở lại.

“This matter of a complete cure; well, if a person has a leg amputated, no amount of prayer will replace that leg. But if a person has cancer or any other grave disease, then that can be halted. Obviously the less the seriousness of the complaint, the easier it is to effect a cure. Everyone knows of the records of miracle cures throughout the history of the world. Lourdes and many other places are famed for their cures, and these cures are effected by the other self, by the Guardian of the person concerned in association with the fame of the locality. Lourdes, for example, is known throughout the world as a place for miracle cures so people go there utterly confident that they will be cured, and very often that confidence is passed on to the Guardian of the person and so a cure is effected very, very easily. Some people like to think that there is a saint or angel, or some ancient relic of a saint, that does the cure, but in reality each person cures himself, and if a healer gets in touch with a person with the intention of curing that sick person, then a cure is effected only through the Guardian of that sick person. It all comes down, as I told you before, to yourself, the real self which you are when you leave this, the shadow life, and enter the Greater Reality. While upon Earth we all tend to think that this is the only thing that matters, but Earth, this world—no, this is the World of Illusion, the world of hardship, where we come to learn lessons not so easily learned in the kinder, more generous world to which we return.

“Bản thân bạn có thể bị tàn tật ở đâu đó, bạn có thể bị bệnh hoặc bạn có thể thiếu sức mạnh bí ẩn mà bạn mong muốn. Cái đó có thể chữa được, bạn có thể vượt qua được điều đó, nếu bạn tin vào điều đó và bạn thực sự mong muốn có nó. Giả sử bạn có một ước nguyện rất lớn, cháy bỏng là được giúp đỡ người khác, bạn có thể muốn là người chuyên đi chữa lành các vết thương. Khi đó hãy cầu nguyện một mình trong phòng riêng hoặc trong phòng ngủ của bạn. Bạn nên nghỉ ngơi ở một tư thế thư giãn nhất có thể, tốt nhất là hai bàn chân chạm vào nhau, các ngón tay đan vào nhau, không phải theo kiểu cầu nguyện thông thường mà là các ngón tay đan hẳn vào nhau. Bằng cách này bạn vừa duy trì được, đồng thời khuếch đại được các vòng từ trường của cơ thể và khi đó hào quang sẽ trở nên mạnh hơn, và Sợi chỉ bạc có thể truyền tải được các thông điệp một cách chính xác hơn. Thế rồi khi bản thân bạn đã ngồi đúng tư thế và tập trung ý thức của mình, lúc đó bạn hãy cầu nguyện.

“You may yourself have some disability, you may be ill, or you may lack the desired esoteric power. That can be cured, it can be overcome, if you believe it and if you really want it. Suppose you have a great desire, a burning desire, to help others; you may want to be a healer. Then pray in the seclusion of your private room, perhaps your bedroom. You should rest in the most relaxed position that you can find, preferably with your feet together and with your fingers interlinked, not in the usual attitude of prayer, but with your fingers interlinked. In that way you preserve and amplify the magnetic circuit of the body, and the aura becomes stronger, and the Silver Cord is able to convey messages more accurately. Then, having got yourself in the right position and in the right frame of mind, you should pray.

“Ví dụ, bạn có thể cầu nguyện: ‘Hãy cho tôi năng lực cứu giúp người khác. Hãy cho tôi năng lực cứu giúp người khác. Hãy cho tôi năng lực cứu giúp người khác.’ Thế rồi sẽ có vài khoảnh khắc trong khi bạn vẫn còn trong trạng thái thư giãn, bạn sẽ thấy hình bóng lờ mờ của bản thân bạn giống hệt cơ thể của chính bạn.”

“Như tôi đã nói với mọi người lúc trước, bạn phải hình dung được con đường bạn nên đi để vào ngôi nhà của người bệnh, và rồi làm cho hình bóng đó du ngoạn trong trí tưởng tượng của bạn đến ngôi nhà của người mà bạn muốn chữa bệnh. Hình ảnh của chính bạn, chính Linh hồn Cao Thượng của bạn đã đến ngôi nhà trước sự hiện diện của người bệnh mà bạn muốn chữa. Hình dung bản thân bạn giơ cánh tay, bàn tay chạm vào người bệnh. Hình dung một luồng sinh khí chạy dọc theo cánh tay, qua những ngón tay truyền vào bên trong người bệnh giống như luồng ánh sáng màu xanh sống động. Hãy tưởng tượng rằng người bệnh dần dần được cứu chữa. Cùng với đức tin và một chút thực hành, việc đó có thể làm được, nó đang được làm, hàng ngày, ở vùng Viễn đông xa xôi.

“You could pray, for example: ‘Give me healing power that I may heal others. Give me healing power that I may heal others. Give me healing power that I may heal others.’ Then have a few moments while you remain in your relaxed position, and picture yourself encompassed in the shadowy outline of your own body.

“As I told you before, you must visualize the route you would take to the sick person’s house, and then make that body travel in your imagination to the home of that person you desire to heal. Picture yourself, your Overself, arrived at the house, arrived in the presence of the person you desire to help. Picture yourself putting out your arm, your hand, and touching that person. Imagine a flow of life-giving energy going along your arm, through your fingers, into that other person like a vivid blue light. Imagine that the person is gradually becoming cured. With faith, with a little practice, it can be done, it is being done, daily, in the Far East.

“Một điều hữu ích là trong tưởng, bạn đặt một tay lên sau gáy của người bệnh, còn tay kia đặt lên hoặc ôm lên chỗ bị đau. Bạn sẽ phải nói lời cầu nguyện với bản thân, mỗi lần lặp lại câu khấn ba lần, vài lần mỗi ngày cho đến khi bạn thấy có kết quả như mong muốn. Và nữa, nếu bạn có lòng tin, bạn sẽ đạt được kết quả. Nhưng tôi xin đưa ra một cảnh báo rất nghiêm trọng. Bạn không thể làm tăng của cải của mình bằng cách này. Có một điều luật rất xa xưa và huyền bí sẽ không cho một người lợi dụng phương pháp cầu nguyện cho lợi ích cá nhân. Bạn không thể làm điều đó cho chính mình trừ khi việc đó để giúp người khác, và trừ khi bạn thành tâm tin rằng việc đó sẽ giúp được người khác. Tôi đã gặp một trường hợp có thật, đó là có một người có thu nhập vừa phải và sống khá thoải mái, ông ta nghĩ rằng nếu ông ta thắng Xổ số Ai-len, thì sẽ dùng số tiền đó để giúp đỡ người khác; ông ta có thể sẽ là ân nhân vĩ đại của loài người.

“It is useful to place one hand in imagination on the back of the person’s neck, and the other hand on or over the afflicted part. You will have to pray to yourself in groups of three prayers a number of times each day until you get the desired results. Again, if you believe, you will get results. But let me issue a grave, grave warning. You cannot increase your own fortune in this way. There is a very ancient occult law which stops one from profiting from prayers for self gain. You cannot do it for yourself unless it is to help others, and unless you sincerely believe that it will help others. I know of an actual case wherein a man who had a moderate income and was fairly comfortably off, thought that if he won the Irish Sweepstake he would help others; he would be a great benefactor of mankind.

“Biết một chút, nhưng không đủ, về những điều bí ẩn, ông lên kế hoạch lớn về những việc sẽ làm. Ông chuẩn bị kỹ lưỡng một lịch trình về cầu nguyện. Ông cầu nguyện theo những dòng đã viết sẵn trong hai tháng liền; ông cầu nguyện rằng ông sẽ chọn được chuỗi số thắng cuộc trong cuộc xổ số này. Trong hai tháng ông cầu nguyện theo nhóm ba câu giống nhau, ba lần một ngày, tất cả là chín lời câu nguyện trong cả ngày. Giống như ông đã hình dung, ông đã thắng cược và đã giành được giải lớn nhất.

“Cuối cùng ông đã có số tiền đó, và đã để nó làm mờ mắt mình. Ông ta đã quên tất cả những dự định tốt trước đây của mình, tất cả những lời hứa hẹn. Ông ta đã quên tất cả trừ việc ông ta đang có một số tiền lớn và bây giờ ông ta có thể làm được bất cứ những gì mình muốn. Ông ta vung tiền để thỏa mãn nhu cầu cho bản thân. Ông ta sống sung sướng được vài tháng, trong thời gian đó ông ta càng ngày càng trở nên vô cảm, và rồi quy luật huyền bí bắt đầu phát tác dụng, và thay bằng việc ông ta giữ tiền để cứu giúp người khác, ông ta đã mất hết mọi thứ đã kiếm được và tất cả những thứ mà ông ta đã có trước đây. Cuối cùng ông ta chết và được chôn trong ngôi mộ của kẻ tế bần.

“Knowing a little, but not enough, of esoteric matters, he made great plans of what he would do. He set out with a carefully prepared program of prayers. He prayed along the lines set out in this chapter for two months; he prayed that he would pick the winner of the Irish Sweepstake. For two months he prayed in groups of three prayers, three times a day—nine prayers in all during the day. As he fully anticipated, he won the Irish Sweepstake, and he won one of the biggest prizes of them all.

“Eventually he had the money and it went to his head. He forgot all about his good intentions, all about his promises. He forgot all about everything except that he had this vast sum of money and he could now do exactly as he wanted to do. He devoted the money to his own self-gratification. For a very few months he had a wonderful time, during which he became harder and harder, and then the inexorable law came into force, and instead of keeping that money and helping others, he lost everything that he had gained, and everything that he had before. In the end he died and was buried in a pauper’s grave.

“Tôi muốn nói với mọi người rằng nếu bạn dùng sức mạnh của cầu nguyện một cách đúng đắn, không vụ lợi cá nhân, không vì nâng cao địa vị cho bản thân, thì bạn sẽ nhận được một trong những sức mạnh vô biên trên trái đất, sức mạnh này lớn đến nỗi nếu chỉ vài người chân chính tập hợp lại và cầu nguyện cho hòa bình thì ở đó sẽ có hòa bình, chiến tranh và thậm chí những suy nghĩ về chiến tranh cũng không còn.”

Sau một hồi im lặng lắng nghe những điều tôi nói, người phụ nữ nói, “Tôi ước gì Thầy có thể ở lại đây một thời gian để dạy cho chúng tôi! Chúng tôi đã tận mắt nhìn thấy điều kỳ diệu, nhưng đã có Người đến đây và bảo chúng tôi không được nói gì về điều đó.”

“I say to you that if you use the power of prayer properly, without thought of self gain, without thought of self-aggrandizement, then you have tapped one of the greatest powers on Earth, a force so great that if just a few genuine people got together and prayed for peace, then there would be peace, and wars and thoughts of wars would be no more.”

For some time after there was silence as they digested what I had told them, then the woman said, “I wish you would stay here awhile and teach us! We have seen a miracle, but Someone came and told us not to talk about it.”

Tôi nghỉ ngơi trong vài giờ, rồi mặc quần áo và viết thư cho các bạn của tôi làm quan chức ở Thượng hải, nói với họ về những điều đã xảy ra với giấy tờ của tôi. Họ gửi bằng máy bay cho tôi cuốn Hộ chiếu mới, và nó đã thực sự cải thiện hoàn cảnh của tôi. Có một lá thư khác từ một người phụ nữ rất giàu có cũng được gửi đến tôi bằng máy bay. “Trong một thời gian”, bà ta viết, “tôi đã cố gắng tìm địa chỉ của cậu. Con gái tôi, người mà cậu đã cứu khỏi quân Nhật, bây giờ đang sống cùng tôi và sức khỏe đã hoàn toàn bình phục. Cậu đã cứu nó khỏi bị cưỡng hiếp và những điều còn tệ hơn thế, và bây giờ tôi muốn trả, dù là một phần, món nợ của chúng tôi đối với cậu. Hãy nói cho tôi biết tôi có thể làm gì cho cậu.”

Tôi đã viết thư phúc đáp và nói với bà ta rằng tôi muốn về nhà ở Tây tạng để chết ở đó. “Tôi có đủ tiền mua vé đến cảng ở Ấn độ,” tôi trả lời, “nhưng không đủ để đi xuyên qua lục địa. Nếu bà thực sự muốn giúp tôi thì hãy mua cho tôi vé từ Bombay đến Kalimpong ở Ấn độ.” Tôi nói vậy cho vui, nào ngờ hai tuần sau tôi nhận được một lá thư và vé tàu biển hạng nhất và vé tàu hỏa cũng hạng nhất đến tận Kalimpong. Ngay lập tức tôi viết thư cho bà bày tỏ lòng biết ơn của tôi, và nói với bà rằng tôi có ý định trao số tiền còn lại của tôi cho gia đình người da đen, những người đã rất tốt với tôi.

I rested for a few hours, then dressed and wrote a letter to my official friends in Shanghai, telling them what had happened to my papers. By airmail they sent me a fresh Passport which certainly eased my position. By airmail there arrived a letter from a very rich woman. “For some time,” she wrote, “I have been trying to find your address. My daughter, whom you saved from the Japanese, is now with me and is completely restored to health. You saved her from rape and worse, and I want to repay, at least in part, our debt to you. Tell me what I can do for you.”

I wrote to her and told her that I wanted to go home to Tibet to die. “I have enough money to buy a ticket to a port in India,” I replied, “but not enough to cross that continent. If you really want to help me, buy me a ticket from Bombay to Kalimpong in India.” I treated it as a joke, but two weeks later I received a letter and first class sea ticket and first class rail tickets all the way to Kalimpong. Immediately I wrote to her and expressed my gratitude, telling her that I intended giving my other money to the negro family who had so befriended me.

Gia đình người da đen rất buồn khi tôi sắp phải rời đi nhưng cũng rất vui khi thấy rằng tôi được một lần trong đời, sẽ có một chuyến đi thoải mái. Tôi đã rất khó khan để thuyết phục họ nhận tiền của tôi. Cuối cùng chúng tôi cùng chia số tiền đó! “Có một điều,” người phụ nữ da đen thân thiện nói, “Thầy đã biết là tiền sẽ đến vì sẽ được sử dụng vào mục đích tốt. Có phải Thầy đã gửi cái mà Thầy gọi là “Hình thái Tư Tưởng” để làm việc đó không?”

“Không,” tôi trả lời, “điều này chắc hẳn đã được thực hiện bởi một thế lực ở cách xa thế giới này.”

Bà ta bối rối. “Thầy đã nói rằng Thầy sẽ kể cho chúng tôi nghe về các Hình thái Tư Tưởng này trước khi ra đi. Bây giờ Thầy còn thời gian không?”

“Có,” tôi trả lời. “Ngồi xuống đi, tôi sẽ kể cho nghe câu chuyện.” Bà ta ngồi xuống và khoanh tay. Người chồng vặn đèn sáng lên và ngồi xuống ghế khi tôi bắt đầu nói:

The negro family were sad that I was going to leave, but overjoyed that for once in my life I was going to have a comfortable journey. It was so difficult to get them to accept money. In the end we shared it between us! “There is one thing,” said the friendly Negro woman. “You knew this money would come as it was for a good purpose. Did you send what you called a ‘thought form’ for it?”

“No,” I answered, “it must have been accomplished by a source far removed from this world.”

She looked puzzled. “You said that you would tell us about thought forms before you left. Will you have time now?”

“Yes,” I replied. “Sit down, and I will tell you a story.” She sat and folded her hands. Her husband turned out the light and sat back in his chair as I began to speak:

“Trên bãi cát nóng bỏng, giữa những tòa nhà bằng đá xám xịt, mặt trời chói lọi trên đầu, có một nhóm nhỏ mấy người đàn ông đang đi qua những đường phố nhỏ hẹp. Vài phút sau họ dừng lại trước một ô cửa trông tồi tàn, gõ cửa và bước vào. Có một vài tiếng ai đó nói lầm bầm, và rồi mọi người được trao những cây đuốc đang cháy xèo xèo làm bắn những giọt nhựa ra xung quanh. Họ đi chầm chậm qua những dãy hành lang rồi đi xuống dưới thấp dần, thấp dần vào sa mạc Ai cập. Bầu không khí ngột ngạt, bốc mùi tanh tưởi. Nó thấm vào lỗ mũi, gây buồn nôn khi bám dính vào màng nhầy.”

“Hầu như không có một tia sáng nào ở đây ngoại trừ ánh sáng từ những ngọn đuốc, những người cầm đuốc dẫn đầu cái đoàn nhỏ. Khi họ đi sâu hơn vào căn hầm dưới lòng đất, mùi trở nên đậm đặc hơn, mùi của Trầm hương, của Nhựa thơm và các loại thảo mộc kỳ lạ từ Phương Đông. Ngoài ra còn có mùi của xác chết, của sự phân hủy và của thảm thực vật mục nát.

“By the burning sands, amid the gray stone buildings with the glaring sun overhead, the small group of men wended their way through the narrow streets. After a few minutes they stopped at a shabby-looking doorway, knocked and entered. A few muttered sentences were uttered, and then the men were handed torches which spluttered and sent drops of resin around. Slowly they made their way through corridors, getting lower and lower into the sands of Egypt. The atmosphere was cloying, sickly. It seeped into the nostrils, nauseating by the manner in which it clung to the mucous membrane.

“There was hardly a glimmer of light here except that which came from the torch bearers, the torch bearers who moved along at the head of the small procession. As they went further into the underground chamber the smell became stronger, the smell of Frankincense, of Myrrh, and of strange exotic herbs from the Orient. There was also the odour of death, of decay, and of decaying vegetation.

“Đối diện với bức tường xa xa là hàng loạt những bình đựng nội tạng bên trong chứa tim và ruột của những người đang được ướp xác. Chúng được dán nhãn cẩn thận trên đó ghi chính xác nội dung bên trong và ngày niêm phong. Đám người đi qua mà không hề rung mình, và bước qua những bể hóa chất nitre (NaNO­3) trong đó các thi thể đang được ngâm trong 90 ngày. Ngay cả bây giờ có vài thi thể đang nổi lên trong bể, nhưng thường xuyên có người đến để dìm chúng xuống nước bằng một cây sào dài và lật trở chúng. Không hề để ý đến các thi thể đang nổi lềnh phềnh, đám người đi vào bên trong căn hầm. Tại đây, nằm trên những tấm gỗ có mùi thơm ngào ngạt là xác của một vị Pharaoh đã chết, được quấn chặt bằng các băng vải lanh, trên người rắc đầy bột thơm thảo dược và được xức dầu thuốc.”

“Against the far wall was a collection of canopic jars containing the hearts and entrails of the people who were being embalmed. They were carefully labeled with the exact contents and with the date of sealing. These the procession passed with hardly a shudder, and went on past the baths of Nitre in which bodies were immersed for ninety days. Even now bodies were floating in these baths, and every so often an attendant would come along and push the body under with a long pole and turn it over. With scarcely a glance at these floating bodies, the procession went on into the inner chamber. There, resting upon planks of sweet smelling wood, was the body of the dead Pharaoh, wrapped tightly with linen bandages, powdered well with sweet smelling herbs, and anointed with unguents.”

“Đám người đi vào, trong đó bốn người nhấc cái xác lên và lật trở nó, rồi đặt vào chiếc quan tài gỗ nhẹ đang được dựng vào tường. Sau đó họ nhấc quan tài lên vai rồi quay ra đi theo những người cầm đuốc ra khỏi căn hầm dưới lòng đất, lại đi qua bể ngâm xác, ra khỏi những căn phòng của những nhà ướp xác của Ai cập. Gần lên đến mặt đất, xác ướp được đưa vào một căn hầm khác nơi chỉ có chút ánh sáng mờ ảo lọt vào. Tại đây xác ướp được chuyển từ quan tài gỗ thô sơ sang một chiếc khác theo đúng hình dáng cơ thể. Hai cánh tay được xếp bắt chéo trước ngực và được buộc chặt bằng băng vải. Một tờ giấy cói được buộc vào đó cho biết lý lịch của xác chết.”

“Vài ngày sau, những linh mục của thần Osiris, thần Isis và thần Horus đã đến đây. Họ tụng bài kinh đầu tiên để đưa tiễn linh hồn về chốn Diêm vương. Cũng tại đây những thầy phù thủy và pháp sư của Ai cập cổ đại đã chuẩn bị sẵn những Hình thái Tư Tưởng, những Hình thái Tư Tưởng này sẽ bảo vệ xác của người chết tránh bị bọn xâm nhập phá mộ và quấy rầy sự bình yên của xác ướp.

“The men entered, and four bearers took the body and turned it about, and put it in a light wooden shell which had been standing against a wall. Then, raising it to shoulder height, they turned and followed the torch bearers out of the underground room, past the baths of nitre, out of the rooms of the embalmers of Egypt. Nearer the surface the body was taken to another room where dim daylight filtered in. Here it was taken out of the crude wooden shell and placed in another one the exact shape of the body. The hands were placed across the breast and tightly bound with bandages. A papyrus was tied to them giving the history of the dead man.

“Here, days later, the priests of Osiris, of Isis, and of Horus came. Here they chanted their preliminary prayers conducting the soul through the Underworld. Here, too, the sorcerers and the magicians of old Egypt prepared their Thought Forms, Thought Forms which would guard the body of the dead man and prevent vandals from breaking into the tomb and disturbing his peace.

“Trên khắp đất nước Ai cập là những lời đồn về sự trừng phạt dành cho những kẻ xâm phạm mồ mả. Lời nguyền đó là: trước tiên kẻ xâm phạm sẽ bị cắt lưỡi, sau đó sẽ bị chặt bàn tay. Vài ngày sau kẻ đó sẽ bị mổ bụng, chôn sống đến cổ trong cát nóng và sẽ chết chỉ trong vài giờ ngắn ngủi.”

“Ngôi mộ của Tutankhamen đã đi vào lịch sử bởi vì tai ương đã ập lên đầu những kẻ xâm phạm ngôi mộ. Tất cả những người đã vào ngôi mộ của Tutankhamen đều bị chết hoặc bị những căn bệnh bí hiểm vô phương cứu chữa.”

“Các tu sĩ Ai cập đã có một nền khoa học mà đã bị lãng quên bởi thế giới hiện đại, đó là khoa học tạo ra những Hình thái Tư tưởng để thực hiện những nhiệm vụ vượt quá khả năng của con người. Nhưng những kiến thức hoa học đó không bị mất đi, bởi vì bất kỳ một người nào chỉ cần có một chút thực hành, một chút kiên trì là có thể thực hiện được Hình thái Tư tưởng đó, thứ mà có thể tác dụng theo hướng thiện lẫn ác.

“Throughout the land of Egypt were proclamations of the penalties which would befall any who violated the tomb. The sentence: first the tongue of the violator would be torn out, and then his hands would be severed at the wrists. A few days later he would be disemboweled, and buried to the neck in the hot sand where he would live out the few short hours of life.

“The tomb of Tutankhamen made history because of the curse which fell upon those who violated that tomb. All the people who entered the tomb of Tutankhamen died or suffered mysterious, incurable illnesses.

“The priests of Egypt had a science which had been lost to the present-day world, the science of creating Thought Forms to do tasks which are beyond the skill of the human body. But that science need not have been lost, because anyone with a little practice, with a little perseverance, can make a thought form which will act for good or for bad.

“Nhà thơ nào đã từng viết: ‘Tôi là thuyền trưởng của linh hồn mình’? Người đó đã nói ra một sự thật vĩ đại, có thể còn vĩ đại hơn ông ta đã nhận thức, vì con người đúng là thuyền trưởng của linh hồn mình. Người phương Tây thường nhìn vào những thứ vật chất, là máy móc, chỉ nghĩ đến bất kỳ thứ gì liên quan đến thế giới trần tục. Họ cố gắng khám phá Vũ trụ, nhưng họ lại thất bại trong việc khám phá điều bí ẩn sâu kín nhất – đó là tiềm thức của con người, bởi vì đối với con người thì 9/10 là tiềm thức, như vậy có nghĩa là chỉ có 1/10 là ý thức. Chỉ 1/10 tiềm năng của con người là tuân theo mệnh lệnh của anh ta. Nếu một người có 1.05/10 ý thức thì con người đó đã là thiên tài, nhưng những thiên tài trên trái đất chỉ là thiên tài theo một hướng, lĩnh vực mà thôi. Thông thường họ lại rất thiếu hụt trong các lĩnh vực khác.

“Who was the poet who wrote: ‘I am the captain of my soul’? That man uttered a great truth, perhaps greater than he knew, for Man is indeed the captain of his soul. Western people have contemplated material things, mechanical things, anything to do with the mundane world. They have tried to explore Space, but they have failed to explore the deepest mystery of all—the sub-consciousness of Man, for Man is nine-tenths sub-conscious, which means that only one-tenth of Man is conscious. Only one-tenth of man’s potential is subject to his volitional commands. If a man can be one and one-half tenths conscious, then that man is a genius, but geniuses upon Earth are geniuses in one direction only. Often they are very deficient in other lines.

“Người Ai cập dưới thời các Pharaoh biết rất rõ về sức mạnh của tiềm thức. Họ chôn các Pharaoh của họ dưới mộ sâu, và bằng các phép thuật cùng với những kiến thức về loài người, họ tạo ra các câu thần chú. Họ tạo ra các Hình thái Tư Tưởng để bảo vệ các ngôi mộ của các Pharaoh đã chết để ngăn ngừa những kẻ ngoại phạm xâm nhập, hoặc phải chịu hình phạt là những căn bệnh khủng khiếp.”

“Nhưng bạn cũng có thể tạo ra những Hình thái tư duy để làm việc thiện, miễn là bạn phải đảm bảo rằng đó là việc thiện, bởi vì Hình thái Tư Tưởng không thể phân biệt xấu và tốt. Nó có thể làm cả hai, tuy nhiên Hình thái Tư tưởng ác độc cuối cùng sẽ báo thù lại chính người tạo ra nó.”

“Câu chuyện của Aladdin chính là câu chuyện về một Hình thái Tư tưởng đã được tạo ra. Nó được dựa theo truyền thuyết cũ của Trung Quốc, truyền thuyết mà hoàn toàn có thật.

“The Egyptians in the days of the Pharaohs well knew the power of the sub-conscious. They buried their Pharaohs in deep tombs, and with their arts, with their knowledge of humanity, they made spells. They made Thought Forms which guarded the tombs of the dead Pharaohs and prevented intruders from entering, under penalty of dire disease.

“But you can make Thought Forms which will do good, but make sure they are for good because a Thought Form cannot tell good from evil. It will do either but the evil Thought Form in the end will wreak vengeance on its creator.

“The story of Aladdin is actually the story of a Thought Form which was conjured up. It is based upon one of the old Chinese legends, legends which are literally true.

“Trí tưởng tượng là sức mạnh lớn nhất trên trái đất. Nhưng rất tiếc, trí tưởng tượng được đặt tên một cách rất không công bằng. Nếu một người dùng từ ‘tưởng tượng’, người đó tự động liên tưởng đến một người tuyệt vọng bị rối loạn thần kinh, nhưng thực ra khống có gì sai sự thật hơn nhận thức này. Tất cả những nghệ sỹ lớn, những họa sỹ vĩ đại và cả những nhà văn lớn cũng vậy, đều đã phải có một trí tưởng tượng xuất sắc và được kiểm soát, nếu không họ đã không thể hình dung ra toàn bộ tác phẩm mà họ muốn tạo ra.”

“Nếu trong cuộc sống hàng ngày chúng ta khai thác được trí tưởng tượng, thì rồi chúng ta có thể đạt được cái mà bây giờ chúng ta coi là thần kỳ. Ví dụ, có thể chúng ta có một người yêu thương đang phải chịu ốm đau bệnh tật, có những bệnh mà y học vẫn chưa giải quyết được. Người đó có thể được cứu chữa nếu có người tạo một Hình thái Tư tưởng, mà Hình thái Tư tưởng này sẽ liên hệ với Linh hồn Cao Thượng của người ốm, và giúp Linh hồn đó thực hiện việc tạo ra những bộ phận mới. Như vậy một người bị bệnh tiểu đường, bằng sự giúp đỡ đúng đắn, có thể tái tạo được các bộ phận của tuyến tụy đã gây ra căn bệnh.

“Imagination is the greatest force upon Earth. Imagination, unfortunately, is badly named. If one uses the word ‘imagination’ one automatically thinks of a frustrated person given to neurotic tendencies, and yet nothing could be further from the truth. All great artists, all great painters, great writers too, have to have a brilliant, controlled imagination, otherwise they could not visualize the finished thing that they are attempting to create.

“If we in everyday life would harness imagination, then we could achieve what we now regard as miracles. We may, for example, have a loved one who is suffering from some illness, some illness for which as yet medical science has no cure. That person can be cured if one makes a Thought Form which will get in touch with the Overself of the sick person, and help that Overself to materialize to create new parts. Thus, a person who is suffering from a diabetic condition could, with proper help, re-create the damaged parts of the pancreas which caused the disease.

“Chúng ta có thể tạo ra Hình thái tư duy bằng cách nào? Thực ra, việc đó dễ thôi. Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề đó ngay bây giờ. Một người trước tiên phải quyết định cái việc mà mình muốn làm, và đảm bảo rằng đó là việc thiện. Sau đó người đó phải gợi trí tưởng tượng tham gia, người đó phải hình dung chính xác kết quả mà họ muốn đạt được. Giả sử một người bị bệnh ở một bộ phận của cơ thể. Khi chúng ta chuẩn bị tạo Hình thái Tư tưởng để giúp người đó, chúng ta phải hình dung chính xác rằng người đó đang đứng trước mặt mình. Chúng ta phải cố gắng hình dung bộ phận cơ thể đang bị bệnh. Có được hình ảnh bộ phận đó trước mặt, chúng ta phải hình dung nó đang dần dần được cứu chữa, và chúng ta phải truyền đạt một sự khẳng định tích cực. Như vậy, chúng ta tạo Hình thái Tư tưởng này bằng việc hình dung ra người bị bệnh, tưởng tượng rằng cái Hình thái Tư tưởng đó đang đứng ở bên cạnh người bệnh, và bằng sức mạnh siêu nhiên đi vào bên trong cơ thể của người bệnh, và sự tiếp xúc mang tính chữa bệnh này đã làm cho bệnh tình biến mất.

“How can we create a Thought Form? Well, it is easy. We will go into that now. One must first decide what one wants to accomplish, and be sure that it is for good. Then one must call the imagination into play, one must visualize exactly the result which one wants to achieve. Supposing a person is ill with an organ invaded by disease. If we are going to make a Thought Form which will help, we must exactly visualize that person standing before us. We must try to visualize the afflicted organ. Having the afflicted organ pictorially before us, we must visualize it gradually healing, and we must impart a positive affirmation. So, we make this Thought Form by visualizing the person, we imagine the Thought Form standing beside the afflicted person and with super-normal powers reaching inside the body of that sick person, and with a healing touch causing the disease to disappear.

“Tất cả mọi lúc, chúng ta cũng phải nói với Hình thái Tư tưởng mà ta đã tạo ra bằng một giọng chắc chắn và tích cực. Không một lúc nào được nghi ngờ về sự tiêu cực cũng như sự do dự. Chúng ta phải nói bằng thứ ngôn ngữ đơn giản nhất có thể và bằng cách trực tiếp nhất có thể. Chúng ta phải nói với nó như nói với một đứa trẻ còn chưa biết gì, bởi vì Hình thái tư duy này không cần biết lý do và chỉ có thể chấp nhận mệnh lệnh trực tiếp hoặc một sự trình bày đơn giản.”

“Có thể có bộ phận bị đau, và chúng ta phải nói điều đó với Hình thái Tư Tưởng: ‘Bây giờ mi hãy chữa lành cho bộ phận này hay bộ phận kia. Các mô đang được kết vào nhau.’ Bạn nên nhắc lại câu đó vài lần mỗi ngày, và nếu bạn hình dung Hình thái tư duy của bạn thực tế đang làm việc, thì nó sẽ làm việc. Điều đó đã có tác dụng với những người Ai Cập cổ đại và nó cũng sẽ có tác dụng cho những con người hiện đại của ngày hôm nay.

“At all times we must speak to the Thought Form which we have created in a firm, positive voice. There must not at any time be any suspicion of negativeness, nor of indecision. We must speak in the simplest possible language and in the most direct manner possible. We must speak to it as we would speak to a very backward child, because this Thought Form has no reason and can accept only a direct command or a simple statement.

“There may be a sore on some organ, and we must say to that Thought Form: ‘You will now heal such-and-such an organ. The tissue is knitting together.’ You would have to repeat that several times daily, and if you visualize your Thought Form actually going to work, then it will indeed go to work. It worked with the Egyptians, and it can work with present-day people.

“Có nhiều trường hợp đã được xác thực là có những ngôi mộ bị ám ảnh bởi những cái bóng người. Điều đó có thật, bởi vì một là những người đã chết, hoặc những người khác, đã nghĩ nhiều và mạnh mẽ đến nỗi họ đã tạo ra một vật thể năng lượng. Người Ai Cập, dưới thời các Pharaoh đã chôn xác ướp của Pharaoh, nhưng họ chọn phương pháp quyết liệt đến mức Hình thái Tư tưởng của họ vẫn còn sống động thậm chí sau hàng ngàn năm. Họ giết những người nô lệ từ từ, đau đớn, nói với họ rằng họ sẽ được giải thoát khỏi những nỗi đau khi sang thế giới bên kia nếu khi chết họ cung cấp những vật chất cần thiết để tạo ra Hình thái Tư tưởng đủ sức mạnh. Nhiều báo cáo khảo cổ đã chứng minh rất nhiều hiện tượng ma ám và những tai họa trong các ngôi mộ và tất cả những điều đó chỉ là kết quả của những quy luật hoàn toàn tự nhiên, hoàn toàn bình thường.

“There are many authenticated instances of tombs being haunted by a shadowy figure. That is because either the dead persons, or others, have thought so hard that they have actually made a figure of ectoplasm. The Egyptians in the days of the Pharaohs buried the embalmed body of the Pharaoh, but they adopted extreme measures so that their Thought Forms would be vivified even after thousands of years. They slew slaves slowly, painfully, telling the slaves that they would get relief from pain in the after-world if in dying they provided the necessary substance with which to make a substantial Thought Form. Archaeological records have long substantiated hauntings and curses in tombs, and all these things are merely the outcome of absolutely natural, absolutely normal laws.

“Hình thái Tư tưởng có thể được tạo ra bởi bất kỳ ai chỉ cần có một chút tập luyện, nhưng bạn trước hết lúc nào cũng phải tập trung vào điều thiện trong Hình thái Tư tưởng bởi vì nếu bạn thử làm điều ác, khi đó chắc chắn Hình thái Tư tưởng đó sẽ quay ra làm hại bạn một cách nặng nề nhất có thể dưới dạng vật chất, có thể dưới dạng tinh thần hoặc có thể ở thể vía.”

Những ngày tiếp theo là những ngày bận rộn, tôi phải đi lấy visa, đã chuẩn bị mọi thứ xong xuôi, một số thứ phải được đóng gói và gửi lại cho các người bạn của tôi ở Thượng Hải. Quả cầu pha lê của tôi đã được đóng gói cẩn thận và được gửi quay về đó để tôi sử dụng sau này, cũng như là những giấy tờ Trung Quốc của tôi, những giấy tờ mà vô tình, đã có một số người có trách nhiệm đã xem nó.

“Thought Forms can be made by anyone at all with just a little practice, but you must first at all times concentrate upon good in your Thought Forms because if you try to make an evil form, then assuredly that Thought Form will turn upon you and cause you the gravest harm perhaps in the physical, in the mental, or in the astral state.”

The next few days were frantic ones, transit visas to obtain, final preparations to be made, and things to be packed up and sent back to friends in Shanghai. My crystal was carefully packed and returned there for my future use, as were my Chinese papers, papers which, incidentally, quite a number of responsible people have now seen.

Đồ cá nhân của tôi tôi chỉ giữ ở mức tối thiểu, bao gồm một bộ vest và vài đồ lót cần thiết để thay đổi. Bây giờ không thể tin vào các quan chức, tôi đã photocopy tất cả mọi thứ, hộ chiếu, vé, giấy chứng nhận sức khỏe, tất cả!” Mọi người có đi tiễn tôi không?” Tôi hỏi những người bạn da đen.

“Không,” họ trả lời. “Chúng tôi không được phép lại gần vì lệnh cấm người da màu!”

Ngày cuối cùng đã đến, tôi đi xe buýt đến bến tàu. Xách theo chiếc vali nhỏ và xuất trình vé, tôi bị hỏi về những hành lý khác của tôi. “Tôi chỉ có thế,” tôi trả lời. “Tôi không mang theo gì nữa.”

Viên quan chức tỏ vẻ khó hiểu và nghi ngờ. “Chờ ở đây”, anh ta càu nhàu rồi vội vàng đi vào một  phòng ở phía trong. Vài phút sau anh ta đi ra cùng với một quan chức cấp cao hơn. “Đây là tất cả hành lý của anh phải không?” Người đàn ông mới ra hỏi.

“Vâng, chỉ có thế.” tôi trả lời.

My personal possessions I kept to the absolute minimum, consisting of one suit of clothing and the necessary change of underwear. Now trusting no officials, I had photographic copies made of everything, passport, tickets, medical certificates and all! “Are you coming to see me off?” I asked my negro friends.

“No,” they replied. “We should not be allowed near because of the color bar!”

The final day arrived, and I went by bus to the docks. Carrying my small case, and presenting my ticket, I was confronted with a demand as to the whereabouts of the rest of my luggage. “This is all,” I replied. “I am taking nothing more.”

The Official was plainly puzzled—and suspicious. “Wait here,” he muttered, and hurried off to an inner office. Several minutes later he came out accompanied by a more senior official. “Is this all your luggage, sir?” the new man asked.

“It is,” I replied.

Anh ta cau mày, nhìn vào vé của tôi, kiểm tra các chi tiết so với thông tin ở trong một quyển sổ, và rồi bước đi chỗ khác cùng với chiếc vé và quyển sổ. Mười phút sau anh ta quay lại trông rất bối rối. Đưa cho tôi tấm vé và một số giấy tờ khác, anh ta nói, “Đây là trường hợp rất không bình thường, có vé toàn chặng đi Ấn độ và không có hành lý!” Anh ta lắc đầu quay đi. Viên thư ký dường như đã quyết định không liên quan đến việc này vì anh ta bỏ đi và không trả lời khi tôi hỏi về vị trí con tàu. Cuối cùng tôi đọc mấy tờ giấy mới được đưa cho, và mới biết rằng một tờ là Vé lên tàu mà đã có tất cả thông tin cần thiết.

He frowned, looked at my tickets, checked the details against entries in a book, and then stalked off with my tickets and the book. Ten minutes later he came back looking very disturbed. Handing me my tickets and some other papers, he said, “This is very irregular, all the way to India and no luggage!” Shaking his head he turned away. The former clerk apparently had decided to wash his hands of the whole affair, for he turned away and would not answer when I asked the location of the ship. Finally I looked at the new papers in my hand and saw that one was a Boarding Card giving all the required details.

Phải đi bộ khá xa mới đến bên mạn tàu và khi tới nơi tôi thấy cảnh sát đang lảng vảng xung quanh nhưng quan sát hành khách rất cẩn thận. Tôi tiến lên phía trước, xuất trình vé và đi lên cầu tàu. Khoảng một giờ sau có hai người đàn ông đến cabin của tôi và hỏi tại sao tôi không mang hành lý. “Nhưng thưa ông” tôi nói, “tôi nghĩ đây là đất nước tự do, phải không ạ? Tại sao tôi lại phải tự làm mình vướng vứu với hành lý? Tôi mang cái gì là việc của tôi, phải không?” Anh ta càu nhàu, lầm bầm, tay mân mê giấy tờ và nói, “Vâng, chúng tôi phải đảm bảo rằng mọi thứ đều hợp lệ. Viên thư ký nghĩ rằng anh đang cố chạy trốn pháp luật vì thấy anh không mang hành lý. Anh ta cũng chỉ cố gắng làm sáng tỏ.”

Tôi chỉ vào vali của tôi. “Tất cả thứ tôi cần là ở đó; đủ để tôi sử dụng cho đến khi đến Ấn Độ. Ở Ấn Độ tôi có thể có thêm hành lý khác.”

Anh ta trông nhẹ nhõm hẳn, “À, vậy là anh sẽ có hành lý khác ở Ấn độ? Vậy thì được.”

Tôi mỉm cười trong lòng khi nghĩ, “cái lúc mà tôi gặp rắc rối khi nhập cảnh hay xuất cảnh một nước là khi tôi làm việc đó một cách hợp pháp, khi tôi có đầy đủ giấy tờ mà thói quan liêu yêu cầu.”

It was a long walk to the ship’s side and when I reached it I saw policemen lounging about but carefully watching passengers. I walked forward, showed my ticket and walked up the gangplank. An hour or so later two men came to my cabin and asked why I had no luggage. “But my dear man,” I said, “I thought this was the land of the free? Why should I be encumbered with luggage? What I take is my own affair, surely?” He muttered and mumbled, and fiddled with papers and said, “Well, we have to make sure that everything is all right. The clerk thought you were trying to escape from justice as you had no luggage. He was only trying to make sure.”

I pointed to my case. “All I need is there; it will get me to India; in India I can pick up other luggage.”

He looked relieved, “Ah! So you have other luggage, in India? Then that is all right.”

I smiled to myself as I thought, “The only time I have trouble in entering or leaving a country is when I do it legally, when I have all the papers Red Tape demands.”

Cuộc sống trên tàu thật tẻ nhạt, những hành khách khác trên tàu rất ý thức về đẳng cấp và câu chuyện rằng tôi mang “chỉ một vali” có vẻ như đã đặt tôi ra ngoài xã hội loài người. Bởi vì tôi không hợp với văn hóa hợm hĩnh phổ biến nên tôi trở nên cô độc như đang ở trong trại giam, chỉ có sự khác nhau lớn là tôi được tự do di chuyển đây đó. Thật buồn cười khi thấy những hành khách khác bảo tiếp viên chuyển ghế của họ ra xa chỗ tôi ngồi.

Chúng tôi đi từ cảng New York đến cảng Eo biển Gibraltar. Tàu đi qua biển Địa trung hải, tạt qua Alexandria, và rồi đến cảng Said, chạy qua kênh đào Suez tiến vào biển Đỏ. Không khí nóng ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của tôi, biển Đỏ gần như đang bốc hơi, nhưng cuối cùng cuộc hành trình cũng đến đoạn kết, tàu đã đi qua biển Ả Rập đến bến cuối ở Bombay. Tôi có vài người bạn ở thành phố này, họ là những tu sĩ Phật giáo và những người bạn khác nữa, tôi ở lại đây một tuần với họ trước khi tiếp tục chuyến đi xuyên Ấn độ để đến Kalimpong. Ở Kalimpong có đầy rẫy gián điệp cộng sản và người làm báo. Những người mới đến thấy cuộc sống của họ trở nên khổ sở bởi những câu hỏi vô nghĩa không bao giờ kết thúc, những câu hỏi mà tôi không bao giờ trả lời và tôi vẫn tiếp tục làm những việc mình đang làm. Thói quen thích soi mói vào công việc của người khác của người phương Tây hoàn toàn kỳ cục đối với tôi, tôi thực sự không hiểu điều đó.

Life aboard the ship was dull, the other passengers were very class conscious and the story that I had brought “only one case!” apparently put me outside the range of human society. Because I did not conform to the snobbish norm I was as lonely as if I had been in a prison cell, but with the great difference that I could move about. It was amusing to see other passengers call a steward to have their deckchairs moved a little further away from me.

We sailed from the port of New York to the Straits of Gibraltar. Across the Mediterranean Sea we steamed, calling at Alexandria, and then going on to Port Said, steaming along the Suez Canal to enter the Red Sea. The heat affected me badly, the Red Sea was almost steaming, but at last it came to an end, and we crossed the Arabian Sea to finally dock at Bombay. I had a few friends in that city, Buddhist priests and others, and I spent a week in their company before continuing my journey across India to Kalimpong. Kalimpong was full of Communist spies and newspaper men. New arrivals found their life was made a misery by the endless, senseless questioning, questions which I never answered but continued what I was doing. This penchant of Western people to pry into the affairs of others was a complete mystery to me, I really did not understand it.

Tôi rất vui khi rời Kalimpong và trở về quê hương tôi, Tây Tạng. Tôi đã được mọi người chờ đợi, và tôi đã được đón tiếp bởi một nhóm các Lạt Ma cấp cao đang đóng giả làm nhà sư hành khất và các nhà buôn. Sức khỏe của tôi đang xấu đi nhanh chóng, và thường xuyên phải dừng lại để nghỉ. Cuối cùng sau một thời gian dài khoảng 10 tuần, chúng tôi đã đến được một tu viện hẻo lánh trên cao trên dãy Himalaya, nhìn xuống thung lũng Lhasa, một tu viện nhỏ bé và khó đi đến nỗi lũ cộng sản Trung Quốc cũng không buồn bận tâm đến.

Tôi nghỉ ngơi vài ngày, cố gắng lấy lại sức khỏe, nghỉ ngơi và thiền định. Bây giờ tôi đã về nhà và lần đầu được hạnh phúc thực sự sau nhiều năm. Sự dối trá và bội bạc của người phương Tây dường như chỉ còn là cơn ác mộng. Hàng ngày, những nhóm người nhỏ đến thăm tôi, nói cho tôi nghe về những sự kiện ở Tây Tạng, và lắng nghe tôi kể về một thế giới xa lạ tàn nhẫn ở bên ngoài biên giới.

I was glad to get out of Kalimpong and move into my own country, Tibet. I had been expected, and was met by a party of high lamas disguised as mendicant monks and traders. My health was deteriorating rapidly, and necessitated frequent stops and rest. At long last, some ten weeks later, we reached a secluded lamasery high in the Himalayas, overlooking the Valley of Lhasa, a lamasery so small and so inaccessible that Chinese Communists would not bother about it.

For some days I rested, trying to regain a little of my strength, rested, and meditated. I was home now, and happy for the first time in years. The deceptions and treachery of Western peoples seemed to be no more than an evil nightmare. Daily, little groups of men came to me, to tell me of events in Tibet, and to listen to me while I told them of the strange harsh world outside our frontiers.

Tôi tham gia vào tất cả các buổi Lễ, tìm kiếm sự thoải mái và khuây khỏa trong các nghi lễ quen thuộc. Nhưng đến lúc này tôi vẫn là một người xa lạ, một người đàn ông chuẩn bị chết đi sống lại. Một người sắp phải trải qua một trong những trải nghiệm kỳ lạ nhất trong thế giới động vật. Nhưng điều đó thật sự có kỳ lạ đến thế không? Nhiều nhà hiền triết cao tay đã làm việc đó từ biết bao đời nay. Bản thân Đạt Lai Lạt Ma cũng đã làm thế, hết lần này đến lần khác nhập vào đứa trẻ sơ sinh. Nhưng sự khác nhau ở chỗ, tôi sắp nhập vào một người trưởng thành và thay đổi cơ thể ông ta thành hình hài của tôi, thay đổi từng phân tử một trong toàn bộ cơ thể chứ không phải chỉ thay đổi bản ngã. Mặc dù không phải là người Kitô giáo, nhưng nghiên cứu của tôi ở Lhasa đòi hỏi tôi phải đọc Kinh Thánh và nghe các bài giảng của họ. Tôi biết rằng trong Kinh thánh nói rằng thân xác của Jesu, con trai của Đức mẹ Mary và Thánh Joseph, là do “Linh hồn con của Chúa” nhập vào và trở thành Chúa Kitô. Tôi cũng biết rằng các linh mục Kitô giáo đã có một công ước vào năm 60 trước công nguyên nghiêm cấm một số giáo lý của Chúa. Cấm tái sinh, cấm nhập vào thân xác của người khác cùng với rất nhiều những điều khác mà Chúa đã dạy.

I attended all the Services, finding comfort and solace in the familiar rituals. Yet I was a man apart, a man who was about to die and live again. A man who was about to undergo one of the strangest experiences to fall to the lot of a living creature. Yet was it so strange? Many of our higher Adepts did it for life after life. The Dalai Lama himself did it, time after time taking over the body of a new-born baby. But the difference was, I was going to take over the body of an adult, and mould his body to mine, changing molecule by molecule the complete body, not just the ego. Although not a Christian, my studies at Lhasa had required me to read the Christian Bible and listen to lectures on it. I knew that in the Bible it was stated that the body of Jesus, the Son of Mary and Joseph, was taken over by the “Spirit of the Son of God” and became Christ. I knew too that the Christian priests had had a Convention in the year sixty (A.D.) to ban certain teachings of Christ. Reincarnation was banned, the taking over of the body of others was banned, together with many, many matters taught by Christ.

Từ ô cửa sổ không kính tôi nhìn xuống thành phố Lhasa xa xa ở phía dưới. Thật khó mà chấp nhận được sự thật là Cộng Sản đang chiếm đóng ở đó. Cho đến nay họ vẫn đang cố gắng quy phục những người Tây Tạng trẻ tuổi bằng những lời hứa tuyệt vời. Chúng tôi gọi đó là “mật ong trên con dao”, càng liếm nhiều mật trên đó thì lưỡi dao sắc ngọt càng sớm hiện ra. Quân đội Trung Quốc đang canh giữ ở Pargo Kaling, quân đội Trung Quốc cũng chiếm giữ lối vào các đền thờ của chúng tôi, giống như người ở các cuộc biểu tình phương Tây, họ đứng đó nhạo báng tôn giáo cổ xưa của chúng tôi. Các nhà sư bị họ sỉ nhục, cư xử thô bạo, và cả những người nông dân mù chữ và những người chăn nuôi gia súc đã được khuyến khích làm những điều tương tự.

Ở đây chúng tôi an toàn khỏi Cộng Sản, an toàn ở những vách đá gần như không thể leo lên được. Quanh chúng tôi là khu vực toàn các hang động lỗ chỗ như tổ ong, và chỉ có một con đường duy nhất trên vách đá lượn quanh những mỏm đá lởm chởm với một dốc đá dựng đứng cao hàng nghìn feet chờ đón những kẻ không may bị trượt xuống. Ở đây, khi mạo hiểm ra ngoài vào ban ngày, chúng tôi thường mặc áo choàng màu xám để lẫn với màu đá. Áo choàng xám đã che dấu chúng tôi khỏi những cái nhìn vô tình qua ống nhòm của quân Trung Quốc.

I looked out of my glassless window at the city of Lhasa so far below. It was hard to realize that the hated Communists were in charge there. So far they were trying to win over the young Tibetans by wonderful promises. We called it “The honey on the knife”, the more one licked the “honey” the sooner was the sharp blade revealed. Chinese troops stood on guard at the Pargo Kaling, Chinese troops stood at the entrances to our temples, like pickets at a Western-world strike, stood jeering at our ancient religion. Monks were being insulted, even manhandled, and the illiterate peasants and herdsmen were encouraged to do likewise.

Here we were safe from the Communists, safe in this almost unclimbable precipice. About us the whole area was honeycombed with caves, and there was but one precipitous path winding round the very edge of the cliffs, with a sheer drop of more than two thousand feet for those who slipped. Here, when venturing out in the open, we used gray robes which blended with the rock face. Grey robes which concealed us from the chance gaze of the Chinese using binoculars.

Từ xa tôi có thể nhìn thấy các chuyên gia Trung Quốc với máy kinh vĩ và thước đo. Họ bò khắp nơi như những con kiến, cắm những cái cọc vào đất rồi ghi chép vào cuốn sổ. Một nhà sư đi ngang qua trước mặt một người lính Trung Quốc, hắn lấy lưỡi lê xiên thẳng vào chân nhà sư. Qua chiếc ống nhòm phóng đại 20 lần – một thứ đồ xa xỉ mà tôi mang theo người, tôi có thể trông thấy máu phun ra và nụ cười tàn bạo trên khuôn mặt của tên lính Trung Quốc. Chiếc ống nhòm rất tốt, nó còn giúp tôi nhìn thấy Potala kiêu hãnh và Tu viện Chakpori của tôi. Có cái gì đó làm tôi bất an, tôi cảm thấy nơi này đang thiếu cái gì đó. Tôi chỉnh lại ống nhòm và nhìn lại một lần nữa. Mặt nước hồ Đền Rắn thật tĩnh lặng. Trên đường phố Lhasa không còn con chó nào sục sạo đánh hơi giữa các đống rác thải. Không có gia cầm hoang, không có chó! Tôi quay lại phía nhà sư đang đứng cạnh tôi. “Cộng sản đã giết hết chúng làm thức ăn rồi. Chó không biết làm việc, vì vậy không được ăn, Cộng sản nói thế, nhưng chúng sẽ là nguồn cung cấp thực phẩm. Bây giờ nuôi chó, hoặc mèo hoặc bất kỳ con vật nuôi nào đều là vi phạm.” Tôi kinh hoàng nhìn nhà sư. Giữ vật nuôi là phạm tội ư! Theo bản năng tôi nhìn lại Chakpori. “Chuyện gì đã xảy ra với những con mèo của tôi ở đó?” Tôi hỏi.

“Bị giết và làm thịt,” ai đó trả lời.

Far off I could see Chinese specialists with theodolites and measuring sticks. They crawled about like ants, placing pegs into the ground, making entries in their books. A monk crossed in front of a soldier, the Chinese jabbed at the monk’s leg with his bayonet. Through the twenty magnification binoculars—my one luxury—which I had brought, I could see the spurt of blood and the sadistic grin on the face of the Chinese. These glasses were good, revealing the proud Potala and my own Chakpori. Something nagged at the back of my mind, something was missing. I refocused the binoculars and looked again. Upon the waters of the Serpent Temple Lake nothing stirred. In the streets of Lhasa no dogs nuzzled among refuse piles. No wild fowl, no dogs! I turned to the monk at my side. “The Communists had them all killed for food. Dogs do not work, therefore they shall not eat, said the Communists, but they shall do one service in providing food. It is now an offence to have a dog or a cat or a pet of any kind.” I looked in horror at the monk. An offence to keep a pet! Instinctively I looked again at the Chakpori. “What happened to our cats there?” I asked.

“Killed and eaten,” was the reply.

Tôi thở dài và nghĩ, “Ôi! Nếu tôi có thể nói cho mọi người biết sự thật về chủ nghĩa Cộng sản, cách họ thực sự đối xử với con người như thế nào. Giá như người phương Tây không ngại đề cập những chuyện nhạy cảm đến thế!”

Tôi nghĩ đến một cộng đồng nữ tu mà tôi vừa được nghe gần đây từ một vị cao tăng, trong chuyến đi của ông, ông đã gặp một người sống sót duy nhất và nghe được câu chuyện của cô trước khi cô chết trong vòng tay của ông. Cô ấy đã kể cho ông rằng cộng đồng nữ tu của cô đã bị một nhóm lính Trung Quốc man rợ xâm chiếm. Chúng đã báng bổ các Thánh vật và lấy cắp tất cả những gì có giá trị. Một vị Quản giáo già đã bị chúng lột quần áo và lấy bơ chà lên người. Thế rồi chúng đốt cháy bà, cười và la hét sung sướng trong tiếng gào thét của bà. Cuối cùng cơ thể cháy đen tội nghiệp của bà nằm yên trên mặt đất, và một tên lính đã lấy lưỡi lê rạch 1 đường dọc theo thân bà để chắc chắn rằng bà đã chết.

I sighed and thought, “Oh! If I could tell people the truth about Communism, how they really treat people. If only the Westerners were not so squeamish!”

I thought of the community of nuns of whom I had heard so recently from a high lama who, upon his journey, had come across a lone survivor and heard her story before she died in his arms. Her community of nuns, she told him, had been invaded by a wild band of Chinese soldiers. They had desecrated the Sacred Objects and stolen all that there was of value. The aged Superior, they had stripped and rubbed her with butter. Then they had set her alight and laughed and shouted with joy at her screams. At last her poor blackened body lay still upon the ground, and a soldier drew his bayonet the length of her body to make sure that she was dead.

Những nữ tu già đều bị lột trần và bị dí sắt nóng đỏ khiến họ chết trong đau đớn tột cùng. Những nữ tu trẻ hơn bị cưỡng hiếp trước mặt những người khác, mỗi người bị cưỡng hiếp 20 hoặc 30 lần trong thời gian 3 ngày bọn lính ở đó. Khi đã chán với “môn thể thao” này, hoặc kiệt sức, bọn lính đã tra tấn những người đàn bà trong sự tàn bạo cuối cùng. Một số người bị cắt các bộ phận của cơ thể, có người bị mổ bụng, còn những người khác bị đuổi đi, trần truồng, ngoài trời lạnh giá.

Một nhóm nhỏ các nhà sư trên đường đến Lhasa đã gặp họ và cố gắng giúp họ, cho họ những chiếc áo choàng của mình, cố gắng giữ được những tia sáng yếu ớt của sự sống. Những người lính Trung Cộng cũng trên đường đến Lhasa đã đến chỗ họ và đã tra tấn các nhà sư vô cùng tàn bạo đến mức không thể tả được. Những nhà sư bị hành hạ đến mức không còn hy vọng sống, được thả ra, không quần áo, chảy máu ròng ròng, cho đến khi chết vì mất máu. Một nữ tu duy nhất sống sót; bà ngã xuống một cái rãnh và ẩn nấp dưới những lá cờ phướn đã bị quân Trung Quốc giật xuống từ trên cột cờ. Rất lâu sau vị Lạt Ma và người hầu mới tới nơi và chứng kiến cảnh kinh hoàng đó và cùng nghe lại toàn bộ câu chuyện từ miệng của người nữ tu sắp chết.

Old nuns were stripped and had red hot irons thrust into them so that they died in agony. Younger nuns were raped in front of each other, each being raped some twenty or thirty times during the three days that the soldiers stayed. Then they tired of the “sport”, or were exhausted, for they turned upon the women in a last frenzy of savagery. Some women had parts cut off, some were slit open. Yet others were driven, still naked, out into the bitter cold.

A little party of monks who were traveling to Lhasa had come upon them and had tried to help them, giving the women their own robes, trying to keep the feeble light of life flickering. The Chinese Communist soldiers, also on the way to Lhasa, had come upon them and had treated the monks with such savage brutality that such things could not be put into print. The monks, mutilated beyond hope of saving, had been turned loose, naked, bleeding, until they died from loss of blood. One woman alone had survived; she had fallen in a ditch and had been hidden by prayer flags which the Chinese had ripped from their posts. At long last, the lama and his attendant acolyte had come upon the gruesome scene and together had heard the full tale from the nun’s dying lips.

“Ôi! Tôi phải nói cho người phương Tây biết sự tàn nhẫn của Cộng Sản,” tôi nghĩ, nhưng như sau này tôi mới nhận thấy, sau những lần phải trả giá, rằng không một ai có thể viết hoặc nói lên sự thật ở phương Tây. Mọi nỗi kinh hoàng phải được làm dịu đi, tất cả phải được chỉnh sửa sao cho “lịch sự”. Vậy những người cộng sản có lịch sự không khi họ hãm hiếp, tra tấn và giết người? Nếu những người phương Tây chịu lắng nghe những câu chuyện có thật từ những người đã bị hành hạ thì họ sẽ biết cách tự cứu mình khỏi những nỗi kinh hoàng đó, bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản rất quỷ quyệt, như bệnh ung thư vậy, và trong khi mọi người chỉ nghĩ rằng chủ nghĩa này chết người này chỉ là sự khác biệt đơn giản về chính trị, nhưng thực tế nó là mối hiểm họa cho toàn thế giới. Cũng là một người đã từng phải chịu khắc khổ, tôi muốn nói – muốn chỉ ra cho mọi người bức tranh (bất kể nó đáng sợ như thế nào) về những gì đang xảy ra phía sau “Bức màn Sắt” này.

“Oh! To tell the Western world of the terrors of Communism,” I thought, but as I was later to find, to my cost, one cannot write or talk of the truth in the West. All horrors must be smoothed over, all must have a patina of “decency”. Are the Communists “decent” when they rape, mutilate, and kill? If the people of the West would listen to the true accounts of those who have suffered, they would indeed save themselves such horrors, for Communism is insidious, like cancer, and while people are prepared to think that this dreadful cult is merely different politics, then there is danger indeed for the peoples of the world. As one who has suffered, I would say—show people in print and pictures (no matter how dreadful) what goes on behind these “Iron Curtains”.

Trong khi tôi đang ngẫm nghĩ về những điều đó và thỉnh thoảng ngắm nhìn phong cảnh trước mặt, thì một người đàn ông có tuổi còng người chống gậy bước vào phòng của tôi. Khuôn mặt ông lộ vẻ khổ hạnh, người gầy giơ xương được bọc trong một lớp da khô héo. Tôi nhận thấy ông ta bị mù, và vươn ra để đỡ lấy tay ông. Hai hốc mắt của ông đỏ ngầu nhìn trừng trừng vẻ tức giận, cử động của ông không dứt khoát, như kiểu người mới bị mù. Tôi để ông ngồi cạnh mình, dịu dàng cầm lấy bàn tay ông và nghĩ rằng ở đây tại một vùng đất bị chiếm đóng này, bây giờ chúng tôi không có gì để có thể làm nhẹ bớt nỗi đau và xoa dịu vết thương cho đôi mắt nhiễm trùng đau đớn này.

Ông cười nhẫn nại và nói, “Đệ đang thắc mắc về đôi mắt của ta phải không, người Anh em. Hôm đó ta đang ở trên Thánh đường và đang phục lạy tại một Đền thờ. Khi ta đứng dậy nhìn về Potala và thật không may một quan chức Trung Quốc đã lọt vào tầm nhìn của ta. Hắn buộc tội ta đã dám nhìn đểu hắn. Ta bị trói bằng sợi dây vào đuôi xe của hắn và bị kéo lê suốt dọc đường ra đến quảng trường. Tại đó đã có rất đông người được chúng quay lại, đứng xem vòng quanh, và trước mặt họ chúng đã khoét mắt và ném vào người ta. Trên người ta, chắc đệ đã thấy, có rất nhiều vết thương đang lành. Người khác đã đưa ta đến đây và bây giờ ta rất vui được gặp đệ.”

While I was ruminating upon these things, and spasmodically scanning the landscape before me, an aged man, bent and walking with a stick, entered my room. His face was lined with much suffering, and his bones stood out prominently, covered only by parchment-tight, withered skin. I saw that he was sightless and I rose to take his arm. His eye-sockets glared as angry red holes, and his movements were uncertain, as are those of the recently blinded. I sat him by me, and gently held his hand, thinking that here in this invaded land we had nothing now with which to alleviate his suffering and ease the pain of those inflamed sockets.

He smiled patiently and said, “You are wondering about my eyes, Brother. I was upon the Holy Way, making my prostrations at a Shrine. As I rose to my feet I gazed upon the Potala, and by a mischance a Chinese officer was in my line of sight. He charged that I was gazing upon him arrogantly, that I was looking at him offensively. I was tied by a rope to the end of his car and dragged along the ground to the square. There spectators were rounded up, and in front of them my eyes were gouged out and thrown at me. My body, as you can surely see, has many half-healed wounds. I was brought here by others and now I am glad to greet you.”

Tôi há hốc miệng kinh ngạc khi ông cởi chiếc áo choàng ra, cả người ông là một khối đỏ lừ vì bị kéo lê trên đường. Tôi rất biết người này. Là một thày tu cấp dưới ông, tôi đã từng nghiên cứu những thứ thuộc về tư duy. Tôi biết ông khi tôi trở thành Lạt Ma, bởi vì ông là một trong những người trợ giúp cho tôi. Ông đã là một trong các Lạt Ma khi tôi còn đang trong hành trình đi xa xuống dưới Potala để thực hiện nghi lễ “Cái chết nhỏ”. Bây giờ ông ngồi bên cạnh tôi và tôi biết ông không còn sống được bao lâu nữa.

“Đệ đã đi xa, đã chứng kiến và đã chịu đựng nhiều,” ông nói. “Bây giờ nhiệm vụ cuối cùng của ta trong kiếp này là giúp đệ có được cái nhìn lướt qua, thông qua Thư viện Akashic về cuộc đời của một người Anh nào đó người đang rất muốn lìa xa thân xác của mình, người mà đệ sẽ nhập vào. Đệ sẽ chỉ thấy sơ bộ thôi, bởi vì phải mất rất nhiều năng lượng mà cả hai chúng ta đều đang rất yếu.” Ông dừng lại, và rồi với nụ cười yếu ớt hiện trên khuôn mặt, ông nói tiếp, “Những cố gắng này sẽ kết thúc cuộc sống hiện tại của ta, và ta rất vui có cơ hội nhận được công đức thông qua nhiệm vụ cuối cùng này. Cám ơn đệ vì đã làm nó trở thành có thể. Khi đệ trở về đây từ chuyến du hành thể vía, ta sẽ chết bên đệ.”

I gasped with horror as he pulled open his robe, for his body was a raw red mass through being dragged along the road. I well knew this man. Under him, as an Acolyte, I had studied things of the mind. I had known him when I became a lama, for he had been one of my sponsors. He had been one of the lamas when I had journeyed far down beneath the Potala to endure the Ceremony of the Little Death. Now he sat beside me, and I knew that his death was not far off.

“You have traveled far and have seen and endured much,” he said. “Now my last task in this Incarnation is to help you obtain glimpses, through the Akashic Record, of the life of a certain Englishman who is most anxious to depart his body that you may take over. You will have glimpses only, for it takes much energy and we are both low in strength.” He paused, and then, with a faint smile on his face, continued, “The effort will finish this present life of mine, and I am glad to have this opportunity of acquiring merit through this last task. Thank you, Brother, for making it possible. When you return here from the Astral Journey, I shall be dead beside you.”

Thư viện Akashic! Thật là một nguồn kiến thức tuyệt vời. Thật là thảm kịch khi con người không chịu nghiên cứu những gì nó mang lại mà lại thích đi chế tạo bom nguyên tử. Mọi thứ chúng ta làm, mọi việc đang xảy ra đều được ghi dấu ấn không phai mờ trong Akasha, một loại phương tiện tinh tế xâm nhập xen kẽ mọi vật chất. Mọi hoạt động đã diễn ra trên trái đất từ khi bắt đầu hình thành đều có sẵn cho những người đã có được sự rèn luyện cần thiết. Đối với những người biết mở to “mắt” thì lịch sử của thế giới luôn ở trước mặt họ. Một nhà tiên tri già đã nói rằng đến hết thế kỷ này các nhà khoa học sẽ có thể sử dụng Thư viện Akashic để nhìn lại lịch sử. Sẽ rất thú vị khi biết những điều Cleopatra đã thực sự nói với Antony, và biết được những bình luận của Ngài Gladstone nổi tiếng là gì. Đối với tôi sẽ thật thú vị khi nhìn thấy vẻ mặt của các nhà phê bình của tôi khi họ nhận thấy họ thực sự ngu ngốc như thế nào, khi họ phải thừa nhận rằng những điều tôi viết hoàn toàn là sự thật, nhưng, thật buồn phải nói rằng, không ai trong chúng ta còn sống đến ngày đó.

The Akashic Record! What a wonderful source of knowledge that was. What a tragedy that people did not investigate its possibilities instead of meddling with atom bombs. Everything we do, everything that happens, is indelibly impressed upon the Akasha, that subtle medium which interpenetrates all matter. Every movement which has taken place on Earth since Earth first was, is available for those with the necessary training. To those with their “eyes” open, the history of the world lies before them. An old prediction says that after the end of this century scientists will be able to use the Akashic Record to look into history. It would be interesting to know what Cleopatra really said to Anthony, and what Mr. Gladstone’s famous remarks were. To me it would be delightful to see my critics’ faces when they saw what asses they really are, when they had to admit that I wrote the truth after all, but, sad to say, none of us will be here then.

Nhưng Thư viện Akashic này, chúng ta có thể giải thích nó rõ ràng hơn không? Mọi việc, khi xảy ra đều tự gây dấu ấn lên cái phương tiện này, một thứ thâm nhập cả không khí. Một khi một tiếng động được phát ra, hay một hành động được thực hiện, thì nó sẽ tồn tại mãi mãi ở đó. Bằng những công cụ thích hợp, bất kỳ ai cũng có thể nhìn thấy. Hãy nhìn nhận nó giống như là ánh sáng, hoặc dưới dạng những rung động mà chúng ta gọi là ánh sáng và thị giác. Ánh sáng di chuyển với một tốc độ nhất định. Như tất cả các nhà khoa học đã biết, chúng ta nhìn thấy các ngôi sao trong đêm, những ngôi sao có thể không còn tồn tại nữa. Một số trong những ngôi sao đó đang ở rất xa đến nỗi ánh sáng phát ra từ đó, mà bây giờ mới tới chỗ chúng ta, có khi đã phải xuất phát trước khi Trái đất hình thành. Chúng ta không có cách nào để biết rằng liệu có phải các ngôi sao đã chết cách đây hàng triệu năm trước hay không, bởi ánh sáng của nó vẫn có thể rọi Trái đất thêm hàng triệu năm nữa. Có thể giải thích dễ hiểu hơn nếu lấy âm thanh làm ví dụ. Chúng ta nhìn thấy ánh sáng lóe lên của tia chớp và một lúc sau mới nghe thấy tiếng sấm. Đó là sự chậm trễ của âm thanh khiến cho việc nghe đi sau việc nhìn thấy tia chớp. Đó là độ trễ của ánh sáng mà nó có thể tạo ra một công cụ để chúng ta có thể “nhìn thấy” quá khứ.

But this Akashic Record, can we explain it more clearly? Everything that happens “impresses” itself upon that medium which interpenetrates even air. Once a sound has been made, or an action initiated, it is there for all time. With suitable instruments anyone could see it. Look at it in terms of light, or the vibrations which we call light and sight. Light travels at a certain speed. As every scientist knows, we see stars at night which may no longer be in existence. Some of those stars are so very far away that the light from them which is now reaching us may have started on its journey before this Earth came into being. We have no way of knowing if the star died a million or so years ago because the light would still reach us for perhaps a million more years. It might be easier to remind one of sound. We see the flash of lightning and hear the sound some time later. It is the slowness of sound which makes for the delay in hearing it after seeing the flash. It is the slowness of light which may make possible an instrument for “seeing” the past.

Nếu chúng ta có thể di chuyển ngay lập tức đến một hành tinh xa xôi đến mức mà phải mất một năm ánh sáng mới tới được từ hành tinh chúng ta vừa rời đi, thì chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng mà nó xuất phát trước chúng ta một năm. Nếu như chúng ta có, (hiện tại mới chỉ là tưởng tưởng), một kính viễn vọng siêu mạnh, siêu nhạy mà có thể nhìn thấy bất kỳ chỗ nào trên trái đất, chúng ta có thể nhìn thấy các sự kiện xảy ra trên trái đất một năm trước đây. Nếu chúng ta có khả năng di chuyển cùng với siêu kính viễn vọng đến một hành tinh xa xôi cách trái đất một triệu năm ánh sáng, thì chúng ta khi đó có thể nhìn thấy trái đất cách đây một triệu năm. Bằng việc di chuyển ngày càng xa hơn và ngay lập tức, tất nhiên cuối cùng chúng ta sẽ có thể tới được vị trí mà từ đó chúng ta có thể thấy sự ra đời của trái, đất hoặc thậm chí sự hình thành mặt trời.

If we could move instantly to a planet so far distant that it took light one year to reach it from the planet which we had just left, we would see light which had started out one year before us. If we had some, as yet imaginary, super-powerful, super-sensitive telescope with which we could focus on any part of the Earth, we would see events on Earth which were a year old. Given the ability to move with our super telescope to a planet so far distant that the light from Earth took one million years to reach it, we should then be able to see Earth as it was one million years ago. By moving further and further, instantly, of course, we should eventually reach a point from which we would be able to see the birth of Earth, or even the sun.

Thư viện Akashic tạo điều kiện cho chúng ta làm việc đó. Bằng sự tập luyện đặc biệt chúng ta có thể di chuyển trong thế giới thể vía nơi thời gian và không gian không tồn tại và là nơi của những khái niệm đo đạc khác hẳn. Khi đó người ta có thể nhìn thấy tất cả. Thời gian và Không gian khác đó là gì? Vâng, một ví dụ đơn giản, giả sử một người có sợi chỉ cotton dài một dặm. Người đó phải di chuyển từ đầu này sang đầu kia sợi chỉ. Với vật lý Trái Đất, chúng ta không thể di chuyển xuyên qua tấm vải cũng không thể đi quanh chu vi của nó. Người đó phải đi trên bề mặt của sợi chỉ, cho hết một dặm rồi lại quay về cũng một dặm ở mặt bên kia. Chuyến đi rất dài. Trong thể vía chúng ta chỉ cần đi xuyên qua. Một ví dụ rất đơn giản, nhưng di chuyển qua Akashic Record cũng đơn giản như vậy, khi người ta biết cách.

The Akashic Record enables us to do just that. By special training we can move into the astral world where Time and Space do not exist and where other “dimensions” take over. Then one sees all. Other Time and Space? Well, as a simple example, suppose one had a mile of thin thread, sewing cotton if you like. One has to move from one side to the other. As things are on Earth we cannot move through the cotton, nor around its circumference. One has to travel all along the surface to the end a mile away, and back the other side, another mile. The journey is long. In the astral we should just move through. A very simple example, but moving through the Akashic Record is as simple, when one knows how!

Thư viện Akashic không thể được sử dụng sai mục đích, không được sử dụng để lấy thông tin làm hại người khác. Cũng không có chế độ phân phát đặc biệt để một người có thể nhìn thấy và sau đó thảo luận về các vấn đề riêng tư của một người khác. Tất nhiên người ta có thể nhìn thấy và thảo luận về những điều đúng đắn về lịch sử. Bây giờ tôi sắp được nhìn sơ lược về cuộc đời riêng tư của một người khác, để rồi cuối cùng tôi phải quyết định; Tôi có nên nhập vào thân xác của người này để thay thế cho thân xác tôi? Thân xác tôi đang yếu đi nhanh chóng, và để hoàn thành nhiệm vụ được giao tôi phải có một cơ thể khác để cho tôi “tạm trú” đến khi tôi có thể thay đổi được từng phân tử của nó trở thành là của tôi.

Tôi ngồi xuống, và chờ vị Lạt Ma mù cất tiếng.

The Akashic Record cannot be used for wrong purposes, it cannot be used to gain information which would harm another. Nor without special dispensation, could one see and afterwards discuss the private affairs of a person. One can, of course, see and discuss those things which are properly the affairs of history. Now I was going to see glimpses of the private life of another, and then I had to finally decide; should I take over this other body to substitute for mine? Mine was failing rapidly, and to accomplish my allotted task, I had to have a body to “tide me over” until I could change its molecules to mine.

I settled myself, and waited for the blind lama to speak.

Người dịch: Phạm Thị Liễu

Biên tập: VMC