ALGERNON REGINALD ST. CLAIR DE BONKERS ngã xuống sàn phòng tắm, người sũng nước. Algernon nằm trên sàn, và từ người anh ta phát ra tiếng lọc bọc, rên rỉ. Ở bên ngoài hành lang một cô hầu gái đi ngang qua bỗng dừng lại, và cảm thấy như thể có những ngón tay lạnh buốt của sự sợ hãi trườn trên sống lưng cô. Cô gọi qua cánh cửa, giọng run run, ‘Ngài có sao không, thưa ngài Algernon? Ngài Algernon, ngài có sao không?’ Không thấy có tiếng trả lời, cô xoay núm cửa và đi vào phòng tắm.
ALGERNON REGINALD ST. CLAIR DE BONKERS fell to the floor of the bathroom with a soggy scrunch. Algernon lay upon the floor and from him there came bubbling, mewling sounds. Out in the corridor a chambermaid who was passing stopped in her tracks and felt the icy fingers of fear crawl up and down her spine. Tremulously she called through the door, ‘Are you all right, Sir Algernon? Sir Algernon, are you all right?‘ Receiving no reply she turned the door handle and entered the bathroom.
Ngay lập tức, cô kinh hoàng hét lên, trong suốt đời đi làm của mình cô chưa bao giờ hét như vậy, và cô tiếp tục hét, tiếng hét càng ngày càng cao. Khi không còn hơi nữa, cô khuỵu xuống nằm bất tỉnh trên sàn bên cạnh Algernon.
Rồi có tiếng người vọng lại, theo sau là tiếng chân bước vội lên cầu thang và dọc hành lang. Những người đến đầu tiên khựng lại đột ngột đến nỗi họ làm toạc tấm thảm ra khỏi móc, rồi túm tụm lại như thể việc đó sẽ khiến họ tự tin hơn họ nhìn chăm chăm qua cánh của mở.
Immediately her hair stood up on her neck, and drawing a tremendous breath she let go with the most marvellous scream of her career, and continued to scream, getting higher and higher up the scale as she did so. Thoroughly out of breath, she collapsed in a dead faint by the side of Algernon on the floor.
There came the sound of excited voices. There came the sound of pounding feet up the stairs and along the corridor. The first-comers stopped with such abruptness that they tore the carpet from its fastening, then clustered together as if to give each other confidence they peered in the open doorway.
Algernon Reginald St. Clair de Bonkers nằm sấp trên sàn, máu chảy ra xối xả từ một vết thương dài trên họng thấm đẫm cơ thể bất tỉnh của cô hầu gái nằm bên cạnh. Đột nhiên cô hầu gái thở hắt ra, người giật mạnh và mở mắt. Trong mấy giây cô nhìn vào vũng máu cạnh mình, rùng mình, và sau một tiếng hét rùng rợn làm hoảng hồn hết thảy những người xung quanh cô lại ngất đi, lần này khuôn mặt cô ngập trong máu của chủ cô, dòng máu được cho là quí tộc.
Algermon nằm trên sàn. Anh ta cảm thấy mọi thứ đang quay, mọi thứ đều không thực một cách không tưởng. Anh ta nghe thấy một tiếng kêu bi thảm, một âm thanh rên rỉ và rồi là tiếng lọc bọc ghê rợn khi máu chảy ra khỏi cơ thể tàn phế của anh ta.
Algernon Reginald St. Clair de Bonkers lay upon his face on the bathroom floor, blood pouring from a gash across his throat and soaking the unconscious body of the chambermaid lying beside him. Suddenly she took a quick gasp, twitched, and opened her eyes. For seconds she looked at the pool of blood beneath her, shuddered, and then with an eldritch scream which jarred the nerves of those around she slumped again into her faint, this time her face well immersed in the alleged blue blood of her employer.
Algernon lay upon the ground. He felt that everything was spinning, everywhere was fantastically unreal. He heard a keening, mewling noise and then hideous bubbling’s which gradually became less bubbly as the blood seeped out of his mutilated body.
Algernon cảm thấy những chuyển động rất lạ trong mình. Rồi có một tiếng kêu thất thanh rất kinh khủng và cô hầu gái ngã xuống cạnh anh ta, va vào cơ thể đang biến đổi của anh ta. Với một chấn động đột ngột, ngài Algernon bị kéo ra khỏi cơ thể mình và bay thẳng lên như một quả bóng bay buộc vào đầu một sợi dây.
Trong một vài giây anh ta nhìn ra xung quanh, kinh ngạc trước khung cảnh hết sức lạ lùng. Anh ta giống như là một gương mặt đang trôi trên trần nhà, rồi anh ta nhìn xuống hai cơ thể bên dưới và thấy một sợi dây bạc nối giữa cơ thể mới của anh ta và cơ thể cũ đang nằm bất động. Anh ra nhìn sợi dây và thấy nó dần chuyển thành màu xám, những đốm nhỏ gớm guốc xuất hiện tại chỗ nối với cơ thể dưới đất, và rồi sợi dây teo nhỏ dần và đứt lìa đi như cái cuống rốn. Nhưng còn Algernon thì vẫn ở đó như thể bị dán lên trần nhà. Anh ta kêu lên để cầu cứu, không nhận ra rằng anh ta đã ra khỏi cơ thể đã chết của mình và ở trong thể vía. Anh ta ở đó, dính chặt lên cái trần nhà đầy hoa văn trong căn nhà của tổ tiên. Anh ta ở đó, vô hình với tất cả những gương mặt đang sững sờ nhìn vào trong phòng tắm, hết người này đến người khác. Anh ta nhìn thấy cô hầu gái bất tỉnh, nhìn vào vũng máu cô ta ngã vào, hét lên thất thanh và lại bất tỉnh.
Algernon felt very strange workings within him. Then there was a terrific screech and the chambermaid fell down beside him, bumping his body in the process. With the sudden jar Sir Algernon was pushed right out of his body and jumped upwards like a balloon on a string.
For some seconds he looked about, amazed at the strange, strange viewpoint. He seemed to be floating face down from the ceiling, and then, as he gazed down at two bodies beneath him he saw a Silver Cord extending from his ‘new‘ body to the old one lying supine. As he watched the Cord turned dark grey, hideous spots appeared where it joined the body on the floor, and then it withered and dropped away like an umbilical cord. But Algernon stayed there as if glued to the ceiling. He made loud shouts for help not realising that he was out of a dead body and into the astral plane. He stayed there, stuck against the ornamental ceiling of the ancestral home. He stayed there invisible to the gawking faces which peered into the bathroom, took an inordinate time to look around, and then disappeared to be replaced by others. He saw the chambermaid recover consciousness, gaze at the blood into which she had fallen, screech and faint again.
Giọng nói nặng nề của người quản gia cất lên phá vỡ sự im lặng. ‘Bây giờ,’ ông ta nói, ‘chúng ta không được hoảng loạn. Anh, Bert,’ ông ta chỉ anh đầy tớ, ‘anh đi gọi cảnh sát, gọi bác sĩ Mackintosh và tôi nghĩ là anh nên gọi cả người lo việc đám ma nữa.’ Nói xong, ông ta ra hiệu cho anh đầy tớ đi nhanh và quay lại nhìn hai cơ thể. Kéo ống quần lên cao quá đầu gối, ông cúi xuống và thận trọng cẩm cổ tay của cô hầu gái, ông ta kêu lên một cách ghê tởm khi tay ông ta chạm phải máu. Ông ta nhanh chóng thu tay lại và chùi máu bằng chiếc váy của cô hầu gái. Và rồi ông ta cầm một chân – một mắt cá chân – cô hầu gái và kéo cô ra khỏi phòng tắm. Cố tiếng cười khúc khích khi váy của cô hầu gái bị mắc và bị kéo lên tới hồng và tận vai, tiếng cười khúc khích nhanh chóng xụi đi trước cái lườm của người quản gia.
The heavy studied voice of the butler broke the silence. ‘Now, now,‘ he said, ‘let us not have panic. You, Bert,‘ pointing to a footman, ‘go and call the Police, call Dr. Mackintosh, and I think you should call the Undertaker as well.‘ Having concluded that oration, he gestured imperiously to the footman and turned to the two bodies. Pulling up his trousers so they should not crease over his knees, he stooped down and very gingerly caught hold of the wrist of the chambermaid, exclaiming in extreme distaste as his hand encountered blood. Quickly he removed his hand and wiped the blood off on the chambermaid’s skirt. Then, grasping the poor maid by one leg – by one ankle – he pulled her straight out of the bathroom. There were subdued titters as the poor maid’s skirt rolled up around her waist and up to her shoulders, titters which were quickly suppressed at a glare from the butler.
Bà vú nuôi bước lên trước, thẹn thùng cúi xuống và sửa lại váy cho cô hầu gái. Sau đó hai người hầu nam nâng cô hầu gái lên và mang cô đi xuống hành lang, chiếc váy thẫm máu cô mặc rỏ xuống nhuốm suốt dọc đường đi.
Người quản gia đi sâu vào trong phòng tắm và cảnh giác nhìn xung quanh. ‘À, đúng rồi,’ ông ta nói, ‘đây là thứ mà ngài Algernon đã dùng để kết liễu đời mình.’ Ông ta chỉ vào một cái dao cạo nhuốm máu đã trượt trên sàn đến tận góc bồn tắm.
Ông ta đứng im như tượng ở cửa buồng tắm cho đến khi bên ngoài có tiếng chân ngựa phi nước đại. Rồi anh hầu đi vào và nói, ‘Cảnh sát đã đến, thưa ông Harris, còn bác sĩ thì đang trên đường tới đây.’
Có tiếng người nói sôi nổi ở sảnh ra vào, rồi một dáng người rất nặng nề và đường bệ xuất hiện trên cầu thang và đi dọc hành lang.
The housekeeper stepped forward and demurely bent down, and in the interests of modesty rearranged the chambermaid’s skirts around her. Then two menservants lifted the chambermaid and hurried down the corridor with her, trailing blood from her blood-soaked clothes as they did so.
The butler eased further into the bathroom and looked cautiously around. ‘Ah, yes,‘ he said, ‘there is the instrument with which Sir Algernon ended his life.‘ He pointed to a blood-stained open razor which had skidded along the floor to the side of the bath.
He stood like a monolith in the bathroom doorway until the sound of galloping horses was heard outside. Then there came the footman who said, ‘The Police are here, Mr. Harris, and the doctor is on his way.‘
There were excited voices in the hallway and then a very heavy, very majestic tread came up the stairway and down the corridor.
‘Xem nào, xem nào, chúng ta có gì ở đây thế này?’ giọng nói thô ráp vang lên, ‘Theo tôi hiểu thì đã có một vụ tự tử, nhưng ông không chắc chắn rằng đây không phải là một vụ giết người?’ Người vừa nói, một cảnh sát trong bộ đồng phục màu xanh dương, thò đầu vào trong phòng tắm, máy móc tìm cuốn sổ ghi chép luôn luôm sẵn sàng ở trong túi ngực. Ông ta cầm lấy mẩu bút chì, liếm đầu bút môt cái rồi cẩn thận mở quyển sổ ghi chép ra. Rồi có tiếng vó ngựa phi nước kiệu nhanh, có thêm nhiều tiếng huyên náo ở cửa ra vào, rồi sau đó một bóng người nhỏ nhắn hơn nhiều và cũng nhanh nhẹn hơn nhiều xuất hiện trên cầu thang. Một người đàn ông trẻ mảnh khảnh mang theo một cái túi đen đi tới : ‘À, ông Harris,’ người đàn ông trẻ, chính là một bác sĩ, nói ‘Tôi được biết là ông có một người bệnh ở đây, có phải là bệnh nguy kịch?’
‘Bác sĩ,’ viên cảnh sát mặt đỏ nói, ‘chúng tôi vẫn chưa điều tra xong. Chúng tôi phải tìm ra nguyên nhân của cái chết – ’
‘Well, well, and what have we here?‘ said a rough voice, ‘I understand that there has been a suicide, but are you sure it is not murder?‘ The speaker, a policeman in blue uniform, poked his head into the bathroom, automatically reaching for the notebook ever-ready in his breast pocket. Taking the stub of a pencil, he licked it and then carefully opened the notebook. Then there came the sound of a fast-trotting horse, and more commotion at the doorway, followed by a much lighter, much quicker tread on the stairs. A slim young man came along carrying a black case: ‘Ah, Mr. Harris,‘ said the young man who was, in fact, the doctor, ‘I understand you have some illness here, some tragedy maybe, eh?‘
‘Now, now, doctor,‘ said the red-faced policeman, ‘we have not finished our investigations yet. We must find the cause of death –‘
‘Nhưng thưa ngài cảnh sát,’ vị bác sĩ nói, ‘ngài có chắc là anh ta đã chết rồi không? Chúng ta nên kiểm tra trước đã chứ?’
Im lặng, viên cảnh sát chỉ tay vào cái xác và vào việc đầu của cái xác đã gần như bị cắt lìa khỏi cổ. Vết thương há to miệng và toàn bộ máu đã chảy ra khỏi cái xác, thấm ra hết cả sàn phòng tắm và ra cả tấm thảm ngoài hành lang. Viên cảnh sát nói, ‘Bây giờ, ông Harris, chúng ta hãy nghe ý kiến của ông. Ai đã làm viêc này?’
Người quản gia liếm môi lo lắng vì ông ta không vui chút nào khi mà mọi thứ lại xoay chuyển theo chiều hướng này. Ông ta cảm thấy như thể ông ta bị kết tội giết người, mặc dù ngay cả người không được học hành cũng có thể thấy là vết thương trên cái xác là do tự gây ra. Tuy nhiên ông ta biết rằng ông ta phải thi hành theo pháp luật, vì thế ông ta bắt đầu:
‘But, sergeant,‘ said the doctor, ‘are you sure that he really is dead? Shouldn’t we see to that first?‘
Mutely the sergeant pointed to the body and to the fact that the head was almost cut off from the neck. The wound gaped wide now that all the blood had drained out of the body and seeped all over the bathroom floor and all along the carpet in the corridor. The sergeant said, ‘Now, Mr. Harris, let’s have your account of it. Who did it?‘
The butler licked his nervous lips as he was not at all happy at the way things were turning. He felt as if he were being accused of murder, but even the meanest intellect would have seen that the injuries on the body were self-inflicted. But he knew he had to keep in with the Law, and so he started:
‘Như các ngài biết rõ, tên tôi là George Harris. Tôi là quản gia trưởng của ngôi nhà này. Gia nhân trong nhà và tôi đều giật mình khi nghe thấy tiếng hét của cô hầu gái – Alice White – giọng cô ta càng ngày càng cao đến mức chúng tôi cảm thấy dây thần kinh như căng ra muốn vỡ, rồi có một tiếng ngã uỵch và không còn gì nữa. Vì thế chúng tôi chạy vội lên đây và chúng tôi thấy – ’ ông ta dừng lại vì xúc động, rồi ông ta đưa tay chỉ về phía buồng tắm và nói, ‘cái này!’
Viên cảnh sát lẩm bẩm một mình và mân mê chòm râu quai nón. Rồi ông nói, ‘Hãy gọi cô Alice White lên đây. Tôi cần thẩm vấn cô ta bây giờ.’
‘As you well know, my name is George Harris. I am the head butler to this household. The staff and I were startled to hear a chambermaid – Alice White – screaming, her voice going higher and higher until we thought that our nerves would break under the strain, and then there was a thud and nothing more. So we raced up here and we found –‘ he paused dramatically, and then thrust his hands in the direction of the bathroom and said, ‘this!‘
The sergeant mumbled to himself and chewed at his moustache, a long drooping affair which had trailers at each side of his mouth. Then he said, ‘Produce this Alice White. I will interrogate her now.‘
Bà vú nuôi vội vàng đi dọc hành lang và nói, ‘Ôi không xin đừng, thưa ngài cảnh sát, chúng tôi phải tắm cho cô ý, người cô ý toàn máu và cô ý đang bị kích động mạnh. Linh hồn tội nghiệp, tôi hoàn toàn hiểu được. Liệu ông có thấy rằng ông đang làm khó cho chúng tôi vì chúng tôi không hề gây nên chuyện này, và tôi phải nhắc ông nhớ những lúc ông đến phòng ăn phía sau của tôi để có một bữa tối ngon miệng!’
Vị bác sĩ rụt rè lên tiếng, ‘Tôi nghĩ chúng ta nên xem xét cái xác, có vẻ chúng ta đang lãng phí thời gian mà không đi đến đâu cả.’ Nói vậy, anh ta liền bước vài bước lên phía trước, tháo cái khuy giả cài ống tay áo ra, cho nó vào túi và xắn tay áo lên cao sau khi đã đưa áo khoác cho người quản gia cầm hộ.
The housekeeper came bustling down a corridor saying, ‘Oh no you won’t, sergeant, we are having to bath her, she is covered in blood and she has a fit of hysterics. Poor soul, I don’t wonder at it either. Now don’t you think you can come here bullying us because we did not do this thing, and I’ll have you remember all the times you’ve come to my back kitchen of a night to have a good meal!‘
The doctor moved forward very gingerly, and said, ‘Well, we’d better have a look at the body, we seem to be wasting a lot of time and getting nowhere in the process.‘ So saying, he stepped forward and carefully took the links out of his starched cuffs, put them in his pocket, and then rolled up his sleeves, after passing his jacket to the butler for his care.
Vị bác sĩ cú người xuống cẩn thận quan sát cái xác mà không chạm vào nó. Rồi với một cái đá chân nhanh nhẹn, anh ta lật ngửa cái xác lên. Cái xác bây giở nằm ngửa mặt lên trần, đôi mắt nhìn trân trân lên trần nhà.
Ngài Algernon ở trên trần nhà nhìn xuống và thấy tất cả với một sự kinh ngạc vô cùng. Anh ta cảm thất rất kì lạ về chuyện này, trong một lúc anh ta không thể hiểu chuyện gì đang diễn ra. Nhưng có một lực giữ anh ta gắn chặt lên trần nhà đối diện, và linh hồn của Algernon nhìn chăm chăm vào đôi mắt mở trừng trừng, đầy máu của cơ thể đã chết của mình.
Stooping down, the doctor carefully examined the body without touching it. Then, with a quick movement of his foot, he flipped the body right over until it was facing up with the staring eyes gazing up.
The entity who had been Sir Algernon was looking down in fascination at all this. He felt very strange about it, for a moment he could not understand what had happened, but some force kept him pinned to the ceiling upside-down, the living Algernon gazing down into the dead, glazed, bloody eyes of the dead Algernon. He rested upside-down against the ceiling in rapt attention, spellbound at the strange experience. His attention was riveted at the words of Mr. Harris.
‘Ngài Algernon đáng thương đây đã từng là một đại úy trong cuộc chiến tranh Boer. Ngài đã chiến đấu một cách cao thượng chống lại người Boer và đã bị thương rất nặng. Không may ngài đã bị thương ở một chỗ nhạy cảm nhất mà tôi không thể giải thích một cách rõ ràng hơn trước mặt các quí cô ở đây, và càng ngày sự bất lực trong việc – à – làm việc đó đã khiến ngài trở nên suy sụp, và trong nhiều dịp chúng tôi và những người khác đã nghe ngài nói rằng cuộc sống này không còn đáng sống nữa và ngài dọa rằng sẽ kết thúc tất cả.’
‘Yes, poor Sir Algernon was a subaltern in the Boer War. He fought very nobly against the Boers and he was badly wounded. Unfortunately he was wounded in a most delicate place which I cannot describe more adequately in front of the ladies present, and increasingly of late his inability to – ah – perform has led to bouts of depression, and on numerous occasions we and others have heard him threaten that life without his necessities was not worth living, and he threatened to end it all.‘
Bà vú nuôi sụt sịt vì thương cảm, và một cô hầu gái khác cũng sụt sịt theo. Anh đầy tớ lúc nãy thì khẽ khẳng định rằng anh ta cũng đã từng nghe thấy điều tương tự. Rồi vị bác sĩ nhìn vào chồng khăn tắm được xếp rất ngay ngắn trên giá và, với một động tác nhanh nhẹn anh ta gạt chúng xuống dưới đất. Anh ta dùng chân chùi vũng máu trên sàn đã bắt đầu đông lại. Sau đó anh ta nhìn vào cái tay vịn buồng tắm và thấy một cái một cái thảm dùng cho phòng tắm khá daỳ. Anh ta liền đặt nó lên sàn bên cạnh cái xác và quì xuống. Anh ta lấy cái ống nghe bằng gỗ, cởi cúc áo của người chết, đặt một đầu ống nghe lên ngực người chết và đặt tai mình lên đầu kia để nghe. Mọi người đều im lặng, nín thở, và rồi cuối cũng vị bác sĩ lắc đầu và nói, ‘Không còn dấu hiệu của sự sống nữa, ông ta đã chết.’ Rồi vị bác sĩ cất cái ống nghe đi, để nó vào bên trong một cái bao trong một cái túi đặc biệt và đứng lên, chùi tay vào một mảnh vải mà bà vú nuôi đưa cho.
The housekeeper gave a sniff of commiseration, and the second housemaid sniffed in sympathy. The first footman muttered assent that he, too, had heard such things. Then the doctor gazed at all the towels so neatly arrayed on the racks and with a quick movement spread them all on the bathroom floor. With a foot he swept away the blood which even now was commencing to coagulate. Then, turning his eyes to the bath rail, he saw a bath mat there, quite a thick thing. He placed it on the floor beside the body and knelt down. Taking his wooden rod stethoscope he unbuttoned the clothing of the corpse and put the wooden button end to the chest and applied his ear to the recess shaped in the wood at the other end. Everyone was still, everyone held their breath, and then at last the doctor shook his head in negation saying, ‘No, life is extinct, he is dead.‘ With that, he removed his wooden stethoscope, tucked it inside his trousers in a special pocket, and stood up, wiping his hands on a cloth handed to him by the housekeeper.
Viên cảnh sát chỉ tay vào cái dao cạo và nói, ‘Bác sĩ, đây có phải là vật đã lấy mạng người chết?’ Vị bác sĩ nhìn xuống, dùng chân gạt cái dao cạo và cầm một mảnh vải nhặt nó lên. ‘Đúng,’ anh ta nói, ‘vật này đã cắt từ động mạch chủ qua tĩnh mach chủ và lại vào động mạch chủ. Cái chết gần như đến ngay lập tức. Tôi cho là chỉ mất khoảng bảy phút.’
Viên cảnh sát Murdock bận rộn liếm đầu cái bút chì và ghi chép lia lịa vào quyển sổ tay. Một cỗ xe ngựa nặng nề đi đến. Một lần nữa tiếng chuông gọi cửa lại vang lên trong nhà bếp, tiếng người lại vang lên trong sảnh, và rồi một người đàn ông hoạt bát thấp bé đi lên cầu thang. Ông ta cúi đầu kiểu cách chào người quản gia, vị bác sĩ và viên cảnh sát theo thứ tự. ‘A, đó có phải là cái xác cần tôi xử lí?’ ông ta hỏi. ‘Người ta bảo tôi đến đây để nhận một xác chết, xác của một người tự tử.’
The sergeant pointed to the razor and said, ‘Doctor, is that the instrument which ended this body’s life?‘ The doctor glanced down, moved the razor with his foot, and then picked it up through the folds of the cloth. ‘Yes,‘ he said, ‘this has severed from the carotid through the jugular and onto the carotid. Death must have been almost instantaneous. I estimate that it took about seven minutes to die.‘
Sergeant Murdock was very busy licking his pencil and writing copious notes in his book. Then there came a heavier rumble as of a wagon being drawn by horses. Again the doorbell pealed in the kitchen. Again there were voices in the hall, and then a dapper little man came up the stairs, bowed ceremoniously to the butler, to the doctor, and to the sergeant in that order. ‘Ah, is the body ready for me?‘ he asked. ‘I was asked to come here and collect a body, the body of a suicide.‘
Viên cảnh sát nhìn vị bác sĩ, vị bác sĩ nhìn viên cảnh sát, rồi cả hai cùng nhìn ông Harris. ‘Ông có gì để nói không, ông Harris? Ông có biết liệu có người họ hàng nào của người chết cũng đang đến đây không?’ viên cảnh sát hỏi.
‘Không, thưa ngài cảnh sát, họ không thể đến đây nhanh như vậy được. Tôi tin là người họ hàng ở gần nhất cũng sống cách đây một nửa ngày đi ngựa nếu con ngựa đó đi nhanh, và tôi cũng đã gửi một người đưa tin đi rồi. Tôi nghĩ sẽ là hợp lý nếu để người thầu việc đám ma mang cái xác về chỗ ông ta, bởi vì hiển nhiên là chúng ta không thể để người thân của ngài Algernon nhìn thấy ngài trong tình trạng bi thảm như thế này phải không?’
The sergeant looked at the doctor, the doctor looked at the sergeant, then they both looked at Mr. Harris. ‘Do you have anything to say about this, Mr. Harris? Do you know if any of the corpse’s relatives are coming?‘ asked the sergeant.
‘No, sergeant, they would have no time to come here so quickly. I believe the nearest relative lives about half an hour’s journey by fast horse, and I have already sent a messenger. I think it would be in order to have the undertaker take the body away to his parlour because, obviously, we cannot have the relatives seeing Sir Algernon in such a deplorable condition, can we?‘
Viên cảnh sát đưa mắt nhìn vị bác sĩ, vị bác sĩ nhìn viên cảnh sát, rồi cả hai cùng nói. ‘Đúng vậy.’ Viên cảnh sát với tư cách là người đại diện pháp luật nói, ‘Được rồi, hãy mang cái xác đi, nhưng các ông hãy làm một bản tường trình đầy đủ gửi cho đồn cảnh sát sớm nhất có thể. Ngài Đồn trưởng muốn có báo cáo trước sáng mai.’
Vị bác sĩ nói, ‘tôi sẽ thông báo cho điều tra viên về vụ việc này, có thể là ông ta sẽ muốn tiến hành một cuộc khám nghiệm tử thi.’ Vị bác sĩ và viên cảnh sát đi ra ngoài. Người thầu việc đám ma yêu cầu ông quản gia, anh đầy tớ, bà vú nuôi và cô hầu gái đi chỗ khác, sau đó hai người trợ tá của ông ta đi lên cầu thang mang theo một cái quan tài nhẹ. Họ để chiếc quan tài trên sàn bên ngoài buồng tắm và bỏ nắp quan tài ra. Bên trong quan tài là mạt cưa chiếm đến một phần tư. Rồi họ đi vào phòng tắm, nâng cái xác lên, và không một chút kiểu cách họ thả cái xác vào trong đống mạt cưa rồi đặt cái nắp quan tài về đúng chỗ.
The sergeant looked at the doctor and the doctor looked at the sergeant, and then simultaneously they said, ‘Yes.‘ So the sergeant as the representative of the Law said, ‘All right, take away the body, but let us at the Station have a very full report at the earliest possible moment. The Superintendent will want it before the morning.‘ The doctor said, ‘I shall have to inform the Coroner of this, it is probable that he will want to conduct an autopsy.‘
The doctor and the sergeant moved away. The undertaker gently shooed away the butler, the footmen, the housekeeper and the maids, and then two of his men came up the stairs carrying a light casket. Together they put the casket on the floor outside the bathroom and removed the lid. Inside it was about a quarter full of sawdust. Then they moved into the bathroom and lifted up the body, dropping it unceremoniously into the sawdust in the casket, carefully putting the lid back into position.
Họ rửa tay lấy lệ dươi vòi nước và không tìm thấy một cái khăn sạch nào hết, họ chùi bàn tay rỉ nước của mình lên tấm rèm cửa. Rồi họ đi ra hành lang, dấu chân dính đầy máu đang đông lại của họ trải dài suốt tấm thảm ngoài hành lang.
Với nhiều tiếng càu nhàu, họ nhấc cái quan tài lên và khiêng nó xuống cầu thang. ‘Để một tay ở đây, anh kia,’ ông chủ nói với hai người trợ tá, ‘Giữ lấy phía đầu thấp hơn, đừng có để cho ông ta rơi ra ngoài.’ Hai người đàn ông sải chân, cẩn thận đưa chiếc quan tài xuống cầu thang và ra bên ngoài, rồi đẩy nó vào trong cái thùng xe màu đen. Người chủ thầu đám ma chui vào bên trong xe, hai người trợ tá thì ngồi lên trên thùng, dây cương ngựa căng lên và những con ngừa bắt đầu chầm chậm đi nước kiệu.
Perfunctorily they rinsed their hands under the tap and, not finding any clean towels, they wiped their dripping hands on the curtains. Then out they went into the corridor, treading half congealed blood all over the corridor carpet.
With many a grunt they lifted the casket and proceeded towards the stairs. ‘Bear a hand here, you men,‘ called the undertaker to two footmen, ‘take the lower end, we mustn’t tip him out.‘ Two men hurried forward, and carefully the casket was eased down the stairs and out into the open, and slid into a black covered wagon. The undertaker got inside, the two assistants got up on the box, the reins were picked up and the horses ambled off at a leisurely pace.
Viên cảnh sát Murdock lại leo lên cầu thang một cách vất vả rồi ông ta đi vào phòng tắm. Ông ta dùng một miếng vải nhặt cái dao cạo lên và để nó sang một bên. Sau đó ông ta tiếp tục khám nghiệm hiện trường để tìm bất cứ thứ gì có thể dùng làm bằng chứng.
Linh hồn của ngài Algernon bị dính chặt vào trần nhà và nhìn xuống với một sự kinh ngạc hoàn toàn. Và rồi, vì một lí do nào đó, viên cảnh sát Murdock ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, ông ta kêu lên một tiếng đầy sợ hãi và ngồi sụp xuống làm lung lay cả cái toilet. Cùng với việc đó linh hồn của ngài Algernon biến mất, và anh ta không còn nhận thức được nữa. Anh ta chỉ cảm nhận thấy một vài tiếng vo ve rất lạ, một luồng xoáy kì cục, những đám mây đen cuộn lại giống như khói bay ra từ cái đèn đọc sách dùng dầu hỏa mà lửa quá to, và rồi anh ta thấy như mình bị bỏ lại một mình trong một căn phòng.
Sergeant Murdock moved ponderously up the stairs again and went into the bathroom. With a cloth he picked up the open razor and put it aside. Then he carried out an inspection to see if anything else of use as evidence could be found.
The spirit of Sir Algernon, glued to the ceiling, looked down in utter fascination. Then for some reason Sergeant Murdock turned his eyes to the ceiling, emitted a bellow of fright, and fell down with a honk that cracked the toilet seat. With that the spirit of Sir Algernon vanished, and he himself lost consciousness, being aware only of a strange humming, a weird swirling, and clouds of rolling blackness like the smoke from a paraffin reading lamp which had been turned too high and left unattended in a room.
Và rồi bóng tối bao phủ lấy anh ta, linh hồn của ngài Algernon không còn có chút hứng thú nào với việc tiếp tục nữa, chí ít là lúc này.
Algernon Reginald St. Clair de Bonkers cựa mình một cách không dễ dàng trong một thứ như là một giấc ngủ sâu do dùng thuốc. Những ý nghĩ kì lạ đến rồi đi trong nhận thức mơ hồ của anh ta. Có tiếng nhạc của thiên đàng và cả âm thanh của địa ngục. Algernon cựa mình một cách bực bội, và khi đã nhận thức được rõ hơn, anh ta cựa quậy và nhận ra trong sự kinh ngạc rằng cử động của anh ta dật dờ, lờ đờ giống như anh ta đang ở trong một đống bầy nhầy khổng lồ.
And so darkness fell upon him, and the spirit of Sir Algernon took no further interest in the proceedings, at least for the time being.
Algernon Reginald St. Clair de Bonkers stirred uneasily in what seemed to be a deeply drugged sleep. Strange thoughts swarmed across his half-submerged consciousness. There came bursts of heavenly music followed by wild outpourings of hellish sound. Algernon stirred fretfully, and in one period of greater consciousness he stirred and found to his astonishment that his movements were sluggish, torpid, as though he were immersed in a gooey mess.
Algernon Reginald St. Clair de Bonkers giật mình tỉnh dậy, anh ta cố ngồi thẳng dậy nhưng nhận ra rằng làm thế là chẳng ích gì, anh ta chỉ có thể cử động một cách rất chậm. Hoảng sợ, anh ta cố gắng vùng vẫy khổ sở nhưng nhận ra rằng động tác của mình rất chậm chạp, lờ đờ, và điều đó làm anh ta bình tĩnh lại khá nhiều. Anh ta cố xem xem mắt mình đang nhắm hay mở, bởi vì anh ta không thấy một chút ánh sáng nào. Vấn đề không phải là ở chỗ mắt anh ta nhắm hay mở, anh ta không cảm giác thấy ánh sáng. Anh ta đặt tay xuống để cảm nhận chất liệu của chiếc giường, nhưng rồi anh ta thét lên kinh hãi bởi vì không có chiếc giường nào bên dưới anh ta cả, anh ta đang lơ lửng – đúng như anh ta nghĩ – ‘giống như một con cá mắc kẹt trong nước xi rô trong bể cá.’
Algernon Reginald St. Clair de Bonkers woke up with a start and tried to sit erect but found his movements constricted, he could only move in slow motion. Panic struck and he tried to flail about in his anguish but found his movements were slow, turgid, and it calmed him down quite a lot. He felt for his eyes to see if they were open or shut because he could see no light. It did not matter if his eyes were open or shut, there was no sensation of light. He put his hands down to feel the texture of the bed, but then he shrieked in shock because there was no bed beneath him, he was suspended – as he himself put it – ‘like a fish stuck in syrup in a fish tank‘.
Trong môt lúc anh ta cố gắng đập tay một cách yếu ớt như là một người đang bơi, cố gắng đẩy một cái gì đó lên phía trước để anh ta có được sự thỏa mãn là mình đã di chuyển được một chút. Nhưng anh ta càng cố gắng để đẩy với bàn tay xòe rộng, với cánh tay và đôi bàn chân ấn mạnh xuống, thì ‘cái gì đó’ lại càng kéo anh ta lại.
Anh ta kinh ngạc thấy rằng những nỗ lực đó không làm anh ta thở dốc, không làm anh ta mệt mỏi, vì vậy, nhìn thấy sự vô dụng của những nỗ lực dùng cơ bắp, anh ta nằm xuống bất động và suy nghĩ.
‘Mình đang ở đâu thế này?’ anh ta tự hỏi. ‘À phải, mình nhớ ra rồi, mình đã quyết định tự sát, mình đã quyết định rằng có tiếp tục sống như mình vẫn đang sống, bị cách li khỏi phụ nữ vì chứng bất lực, thì cũng là sống vô ích. Không may làm sao,’ anh ta tự lẩm bẩm với mình, ‘là những tên Boer bẩn thỉu lại bắn mình ngay đúng CHỖ ĐÓ!’
For a time he feebly flailed with his arms as does a swimmer, trying to push against something so he would have the satisfaction of getting somewhere. But as hard as he pushed with his wide-spread hands and arms and his thrusting feet, so did ‘something’ hold him back.
To his astonishment all his efforts failed to make him breathless, failed to make him tired, so, having seen the uselessness of an attempt at physical effort, he just lay still and thought.
‘Where was I?‘ he thought back. ‘Oh yes, I remember, I decided to kill myself, I decided that it was useless going on as I had been going on, bereft of female society because of the nature of my disability. How unfortunate it was,‘ he muttered to himself, ‘that the filthy Boers should have shot me THERE!‘
Trong một lúc anh ta nằm đó nghĩ về qua khứ, nghĩ về tên Boer râu quai nón, kẻ đã giương súng lên và chủ tâm, hoàn toàn chủ tâm, nhắm vào anh ta không với mục đích giết anh ta, mà với mục đích mà người ta có thể gọi một cách lịch sự là cướp đi sự nam tính của anh ta. Anh ta nghĩ về ‘Vicar thân mến’ kẻ đã tiến cử nhà của anh ta như một chỗ trú thân an toàn cho những cô hầu gái cần mưu sinh kiếm sống. Anh ta cũng nghĩ về bố anh ta, người đã nói khi chàng trai trẻ vẫn còn đang đi học, rằng ‘Algernon à, con phải học một vài thực tế của cuộc sống, con phải thực hành trên một vài người hầu gái chúng ta có ở đây, con sẽ thấy bọn chúng khá là hữu dụng để vui đùa nhưng hãy chắc chắn rằng con không có ý định gì nghiêm túc. Những tầng lớp hạ lưu này chỉ là để phục vụ cho con thôi, phải không nào?’
For some moments he lay there thinking of the past, thinking of the bearded Boer who had raised his rifle and deliberately, quite deliberately, aimed at him not with a view to killing him, but with the definite objective of what must politely be termed robbing him of his manhood. He thought of the ‘dear Vicar‘ who had recommended Algernon’s house as a very safe refuge for servant girls who had to earn a living. He thought, too, of his father who had said while the young man was still a schoolboy, ‘Well, Algernon, m’lad, you have to get to learn the facts of life, you have to practice on some of the servant girls we have here, you’ll find them quite useful to play with but be sure you do not take things too seriously. These lower classes are there for our convenience, aren’t they?‘
‘Đúng vậy’, anh ta nghĩ, ‘ngay cả bà vú nuôi cũng cười đầy ý nhị khi một cô hầu gái đặc biệt xinh đẹp đến xin làm việc. Bà vú nuôi nói, ‘Cô sẽ hoàn toàn an toàn ở đây, cô gái thân mến, cậu chủ sẽ không làm phiền cô chút nào đâu, cậu ý như một trong những con ngựa ngoài đồng kia, cô biết đấy, chúng đã được đi gặp bác sĩ. Đúng vậy, cố sẽ an toàn tuyệt đối ở đây,’ và bà vú nuôi quay đi với một cái cười khúc khích tinh quái.’
Algernon nhìn lại từng chi tiết của cuộc đời mình. Viên đạn đã làm cho mọi thứ đảo lộn, anh ta đã ngã quị và nôn mửa trong đau đớn. Tai anh ta vẫn còn nghe thấy tiếng cười khàn khàn của người nông dân già người Boer khi ông ta nói ‘Không còn gì cho mày nữa, mày sẽ không có người nối dõi. Bây giờ mày sẽ như những tên hoạn quan mà chúng ta đã từng nghe đến.’
‘Yes,‘ he thought, ‘even the housekeeper had smiled a peculiar little smile when a particularly comely young maid servant was engaged. The housekeeper said, “You’ll be quite safe here, dear, the Master will not bother you at all, he’s like one of those horses in the field, you know, they’ve been doctored. Yes, you’ll be quite safe here,” and the housekeeper had turned away with a sly little chuckle.‘
Algernon reviewed his life in some detail. The shattering impact of the bullet and how he had doubled up and vomited in anguish. Still in his ears he could hear the raucous laughter of the old Boer farmer as he said, ‘No more gels for you, m’lad, we’ll stop you from continuing the family name. Now you’ll be like them there eunuchs we used to hear about.‘
Algernon cảm thấy toàn thân nóng ran vì nhục nhã, và nó làm anh ta nhớ tới kế hoạch tự sát mà anh ta đã dày công chuẩn bị, sau khi quyết định là anh ta không thể tiếp tục sống với tình trạng này. Anh ta không thể tha thứ được việc Vicar đã cạnh khóe về bệnh tật của anh khi hắn ta đề nghị anh, nói rằng hắn ta vui làm sao khi có một người đàn ông trẻ tuổi, an toàn giúp cho buổi họp mặt phụ nữ, buổi học may chiểu chủ nhật và tất cả những thứ kiểu đó bởi vì – như Vicar nói – ‘Cẩn thận không bao giờ thừa đúng không? Chúng ta không được phép để cho danh tiếng của Nhà thờ chúng ta bị nghi ngờ.’
Algernon felt himself grow hot all over with the shame of it, and it reminded him of the long-term plan he had made, a plan to commit suicide following the decision that he could not go on living under such strange conditions. He found it quite intolerable when the Vicar called upon him and made oblique references to his ailment, and said how glad he would be to have such a safe young man help with the Women’s meetings and the Sunday afternoon sewing sessions and all that sort of thing because – the Vicar said – ‘We cannot be too careful, can we? We must not impugn the good name of our Church, must we?‘
Và rồi cả lão bác sĩ gia đình già, bác sĩ Mortimer Davis, kẻ đã cưỡi con ngựa già Wellington của ông ta đến viếng thăm vào một buổi tối. Bác sĩ Davis đáng lẽ đã có thể ngồi trong phòng làm việc của anh ta và cả hai cùng thoải mái uống rượu, nhưng ông ta đã làm hỏng đi sự thoải mái khi ông ta nói, ‘Ngài Algernon à, tôi nghĩ là tôi nên khám cho ngài, chũng ta nên chắc chắn là ngài không đang phát triển một vài đặc tính nữ, bởi vì trừ phi chúng ta kiểm soát một cách chặt chẽ nhất có thể, ngài có thể sẽ thấy râu ngài rụng đi và ngài sẽ phát triển – e hèm – một bộ ngực của phụ nữ. Một trong những điều chúng ta có thể nhận ngay thấy, đó là bất kì thay đổi nào trong giọng nói của ngài, bởi vì giờ đây khi trong người ngài đã không còn một số tuyến, hooc môn trong cơ thể ngài cũng thay đổi theo.’ Lão bác sĩ nhìn anh bằng một cái nhìn chế nhạo để xem phản ứng của anh, rồi nói, ‘Nào, tôi nghĩ là tôi có thể uống thêm một cốc rượu nữa, ngài có những loại rượu đắt tiền nhất ở đây, người cha thân yêu của ngài là một người rất sành sỏi về của ngon vật lạ trên đời, đặc biệt là phụ nữ, hê hê hê!’
And then there was the doctor, the old family doctor, Dr. Mortimer Davis who used to ride up of an evening on his old horse Wellington. Dr. Davis would sit down in the study and together they would have a comfortable glass of wine, but the comfort was always ruined when the doctor would say, ‘Well, Sir Algernon, I think I should examine you, we have to make sure you do not develop feminine characteristics because unless we exercise the most extreme supervision you may find that your facial hair will fall out and you will develop – ahem – female breasts. One of the things for which we must be most observant is for any change in the timbre of your voice because now that you have lost certain glands the chemistry of your body has changed.‘ The doctor looked at him most quizzically to see how he was taking it, and then said, ‘Well now, I think I could do with another glass of wine, you have most excellent wine here, your dear father was a great connoisseur of the luxuries of life especially with the distaff side of the luxuries, he, he, he!‘
Algernon tội nghiệp đạt đến mức không thể chịu đựng được nữa khi một ngày anh ta nghe thấy ông quản gia nói với bà vú nuôi, ‘Thật là một chuyện khủng khiếp, bà biết đấy, chuyện đã xảy ra với ngài Algernoon, một chàng trai trẻ sôi nổi, nam tính làm sao, cậu ta đã làm vẻ vang cho cả giới quí tộc. Tôi biết rất rõ về việc, trước khi bà đến đây và trước khi cậu ấy tham gia chiến tranh, cậu ấy đã từng đi săn chó sói và tạo được một ấn tượng rất tốt đẹp trong mắt các mệnh phụ trong vùng. Họ luôn mời cậu Algernon đến các buổi tiệc, họ luôn nhìn cậu ấy như một chàng rể thích hợp nhất và đáng thèm muốn nhất cho con gái họ. Còn bây giờ – những bà mẹ trong vùng nhìn cậu ấy bằng vẻ thương cảm, nhưng ít nhất họ biết là cậu ta không cần có một người đi kèm khi cậu đi chơi với con gái họ. Một chàng trai rất an toàn, thật sự là một chàng trai rất an toàn.’
Poor Algernon had all that he could take when one day he heard the butler talking to the housekeeper, ‘A terrible thing, you know, how it happened to Sir Algernon, such a lively virile young man, such a credit to his class. I know well how, before you came here and before he went to the War, he used to ride to hounds and made a very favourable impression on the matrons of the district. They were always inviting Sir Algernon to parties, they always looked upon him as a most eligible young man and a very desirable suitor for a daughter who had just come out. But now – well, the mothers of the district look upon him with commiseration but at least they know he doesn’t need a chaperone when he goes out with their daughters. A very safe young man, a very safe young man indeed.‘
‘Phải,’ Algernon nghĩ, ‘thật sự là một chàng trai rất an toàn. Minh tự hỏi là họ sẽ làm gì ở địa vị của mình, nằm đó trên chiến trường với cái quần ống túm của bộ quân phục nhuộm một màu đỏ, rồi bác sĩ phẫu thuật tới nơi, cắt quần áo của anh ta ra, và với một con dao sắc lẹm ông ta cắt đi phần còn sót lại của của cái khiến anh ta khác với một người đàn bà. Ôi! Sự đau đớn của việc đó. Ngày nay có một thứ người ta gọi là thuốc mê được kê để giảm đau, để khiến một người không còn cảm thấy cơn đau trong khi phẫu thuật, nhưng lúc đó trên chiến trường, không, không có gì hết ngoài một con dao sắc và một viên đạn cắn giữa hai hàm răng để anh ta khỏi hét lên. Và nỗi nhục nhã của việc đó, của việc bị mất đi CÁI ĐÓ. Những kể cấp dưới nhìn anh ta xấu hổ, và cùng lúc đó thì thốt ra những câu chuyện tục tĩu sau lưng anh ta.’
‘Yes,‘ thought Algernon, ‘a very safe young man indeed. I wonder what they would have done in my place, lying there on the battlefield bleeding with my uniform breeches soaked in red, and then the surgeon coming along in the field and cutting off my clothing and with a sharp knife just amputating the tattered remnants of what made him different from a woman. Oh! The agony of it. Nowadays there is this thing they call chloroform which is stated to relieve pain, to give one surcease from the agony of operations, but on the field, no, nothing but a slashing knife and the bullet between one’s teeth so one can bite down on the bullet and stop oneself from screaming. And then the shame of it, the shame of being deprived – THERE. The sight of one’s fellow subalterns looking embarrassed and, at the same time, uttering salacious stories behind one’s back.‘
‘Đúng vậy, thật là nhục nhã. Thành viên cuối cùng của một gia tộc lâu đời, dòng họ De Bonker, những người đã tham gia vào cuộc chinh phạt của người Norman, định cư tại một vùng vô cùng trù phú của nước Anh, xây dựng nên một lãnh địa lớn và có nông dân làm thuê. Giờ đây anh ta, người cuối cùng của dòng họ, vì phục vụ cho tổ quốc mà trở nên bị bất lực, bị bất lực và bị chế nhạo bởi những kẻ ngang hàng với anh ta. Và có gì để mà chế nhạo’ anh ta nghĩ, ‘ở một người đàn ông bị thương vì lợi ích của những người khác cơ chứ?’ Anh ta nghĩ tới việc vì đã chiến đấu cho đất nước mà giờ đây dòng họ của anh ta đã tuyệt tự.’
Algernon nằm đó, không phải trong không khí, không phải trên mặt đất. Anh ta không thể đoán chắc được anh ta đang ở đâu hay anh ta đang là gì. Anh ta nằm đó bập bềnh như một con cá và nghĩ, ‘Minh đã chết chưa nhỉ? Cái chết là gì? Mình đã thấy mình chết, vậy thì làm thế nào mà mình lại đang ở đây?’
‘Yes, the shame of it, the shame of it. The last member of an old family, the deBonkers who came over with the Norman invasion and who settled in that very salubrious part of England and built a large manor house and had tenant farmers. Now he, the last of the line, impotent through service to his country, impotent and laughed at by his peers. And what is there to laugh at?‘ he thought, ‘in a man becoming maimed in the service of others? He thought that now, because he had fought for his country, his line would fall into desuetude.‘
Algernon lay there, neither in the air, neither on the ground. He could not decide where he was, he could not decide what he was. He lay there flapping like a newly-landed fish, and then thought, ‘Am I dead? What is death? I saw myself dead, then how am I here?‘
Suy nghĩ của anh ta không tránh khỏi quay về những sự kiện kể từ khi anh ta quay lại Luân Đôn. Anh ta thấy lại hình ảnh mình đi lại một cách khó khăn, và việc anh ta chăm chú để ý tới lời nói và hành động của những người hàng xóm, của gia đình và những người giúp việc trong nhà. Ý nghĩ đó càng ngày càng lớn, ý nghĩ về việc anh ta nên tự kết liễu đời mình, kết thúc cái cuộc sống vô ích này. Có một lần anh ta đã tự khóa mình trong phòng làm việc, lấy súng ra, cẩn thận lau chùi nó, cẩn thận cho đạn vào súng và nhồi thuốc nổ. Rồi anh ta đăt nòng súng lên thái dương bên phải và bóp cò. Nhưng chỉ có một tiếng thịch ẩm ướt vang lên. Trong một lúc lâu anh ta ngồi đó sửng sốt, không tin vào những gì vừa xảy ra, khẩu súng trung thành mà anh ta đã mang theo mình và sử dụng trong chiến tranh cuối cùng đã phản bội anh ta, anh ta vẫn còn sống. Anh ta trải một miếng giấy sạch lên bàn và đặt khẩu súng lên đó. Mọi thứ đều ổn, thuốc súng, đạn, và nắp súng, mọi thứ đều hoàn hảo. Anh ta lắp súng lại lần nữa, thuốc súng, đạn và nắp súng, và không nghĩ ngợi gì anh ta kéo cò. Một tiếng nổ lớn vang lên, anh ta đã bắn vỡ cửa sổ. Có tiếng chân người chạy đến và rồi tiếng đấm thình thịch vào cửa. Một cách châm chạp anh ta đứng lên, đi ra mở cửa và nhìn thấy gương mặt trắng bệch đầy sợ hãi của người quản gia. ‘Ôi, ngài Algernon, ngài Algernon, tôi cứ nghĩ rằng một sự rủi ro chết người đã xảy ra,’ người quản gia nói trong một cơn kích động đáng kể.
Inevitably his thoughts turned again to events since his return to England. He saw himself walking with some difficulty, and then carefully noting the expressions and the actions of his neighbours, of his family, and of his servants. The idea had grown that he should kill himself, that he should end a useless life. He had at one time locked himself away in his study and got out his pistol, carefully cleaned it, carefully loaded it and primed it. Then he had put the muzzle to his right temple and pulled the trigger. Just a sodden thunk had resulted. For moments he had sat there bemused, unbelieving, his trusty pistol which he had carried and used throughout the War had betrayed him at last, he was still alive. He spread a sheet of clean paper on the desk in front of him and lowered the pistol on to it. Everything was as it should be, powder, ball, and cap, everything was perfectly in order. He assembled it again, powder, ball, and cap, and without thinking he pulled the trigger. There was a loud bang, and he had shot out his window. There came running feet and a pounding on the door. Slowly he had risen to his feet and unlocked the door to admit a white-faced, frightened butler. ‘Oh, Sir Algernon, Sir Algernon, I thought some dreadful mishap had occurred,‘ said the butler in considerable agitation.
‘Ồ không, mọi thứ đều ổn, tôi chỉ đang lau chùi lại khẩu súng và súng cướp cò – ông có thể bảo ai đó đến thay cửa sổ được chứ?’
Rồi trong một lần cưỡi ngựa, anh ta chọn một con ngựa cái già màu xám và cưỡi nó ra khỏi chuồng thì nghe thấy thằng bé dắt ngựa thì thầm với người trông chuồng ngựa, ‘Hai con ngựa cái già đi cùng nhau, ê, ông nghĩ thế nào?’ Anh ta quay lại, quất thằng bé dắt ngựa bằng cái roi quất ngựa, rồi quẳng cái dây cường qua cổ con ngựa, anh ta nhảy xuống đất và quay vội về nhà, không bao giờ cưỡi ngựa lại nữa.
‘Oh no, it’s quite all right, I was just cleaning my pistol and it went off – get a man to replace the window, will you?‘
Then there had been the attempt at horse riding. He had taken an old grey mare and had been riding out of the stables when a stable boy had tittered and murmured to another, ‘Two old mares together now, eh, what d’you think of that?‘ He turned and struck at the boy with his riding crop, and then flung the reins over the horse’s neck, jumped to the ground and hastened back to his home, never to ride a horse again.
Một lần khác anh ta đã nghĩ tới một cái cây kì lạ có nguồn gốc từ một đất nước gần như không được biết đến Brazil, một cái cây có thể đem lại cái chết tức thì khi một người ăn quả của nó và nước độc của nó trôi xuống họng người đó. Anh ta đã làm thế, anh ta đã có được cái cây đó, đó là quà của một người đã đi du lịch khắp thế giới. Trong nhiều ngày anh ta cẩn thận tưới cho cái cây, chăm sóc nó như là đứa con đầu tiên của mình, và rồi khi cái cây ra quả và mạnh khỏe, anh ta hái quả của nó và cho đầy vào mồm. ‘Ôi, nỗi đau đớn của việc đó,’ anh ta nghĩ. ‘sự nhục nhã của việc đó. Không phải là cái chết, mà là những thứ tồi tệ hơn cái chết cả nghìn lần. Dạ dày bị xáo trộn khủng khiếp! Chưa bao giờ trong lịch sử,’ anh ta nghĩ. ‘lại có một loại thuốc xổ khiến anh ta không kịp cả đi vào nhà xí. Và cú sốc của bà vú nuôi khi bà cầm lấy đống quần áo bẩn thỉu của anh ta và đưa cho người giặt là.’ Chỉ nghĩ vậy thôi đã khiến mặt anh ta đỏ lựng.
Then another time he thought of that strange plant which had come from the almost unknown country of Brazil a plant which was supposed to give instant death to those who chewed its berries and got the poisonous juice down one’s throat. He had done that, he had such a plant which had been presented to him by a world traveller. For days he had carefully watered the plant, nourished it like a first-born child, and then when the plant was blooming and healthy he had taken off the berries and stuffed them in his mouth. ‘Oh! The agony of it,‘ he thought, ‘the shame of it. No death, but things a thousand times worse than death. Such a gastric disturbance! Never in all history,‘ he thought, ‘had there been such a purge, such a purge that he could not even take himself in time to the littlest room. And the shock of the housekeeper when she had to take his very soiled clothes and pass them to the laundry woman.‘ His face burned red at the mere thought of it.
Và rồi là cố gắng cuối cùng này. Anh ta đã nhờ đến người thợ rèn kiếm tinh xảo nhất ở Luân Đôn, và anh ta đã nhận được một cái dao cạo tốt nhất và sắc nhất, một dụng cụ tuyệt đẹp trên đó có khắc tên và huy hiệu của người làm ra nó. Ngài Algernon liếc đi liếc lại lưỡi dao trên một miếng da. Và rồi với một với nhát cắt nhanh gọn, anh ta cắt cuống họng mình từ tai này sang tai kia, chỉ còn có xương cổ là giữ cho đầu anh ta còn gắn trên vai.
Bây giờ thì anh ta đã chết. Anh ta biết là mình đã chết bởi vì anh ta đã tự giết mình, vì anh ta đã nhìn từ trên trần xuống và thấy anh ta nằm trên sàn, đôi mắt nhanh chóng trở nên băng giá. Anh ta nằm đó trong bóng tối, và suy nghĩ.
And then this latest attempt. He had sent up to London to the finest sword smith of that city, and there had been obtained for him the best and sharpest of razors, a beautiful instrument deeply engraved with the maker’s name and crest. Sir Algernon had taken that wonderful blade and stropped it and stropped it and stropped it. And then, with one quick slash, he had cut his throat from ear to ear so that only the support of the spine in the neck had kept his head upon his shoulders.
So he had seen himself dead. He knew he was dead because he knew he had killed himself, and then he had looked from the ceiling and seen himself on the floor with rapidly glazing eyes. He lay there in the darkness, in the turgid darkness, and thought and thought and thought.
Cái chết? Cái chết là gì? Liệu có cái gì sau cái chết không? Anh ta và cấp dưới của anh ta và những người sĩ quan khác thường hay tranh luận về vấn đề này trong buổi giảng đạo. Cha sứ đang cố gắng giải thích về cuộc sống bất tử, về việc lên thiên đường, thì một người lính kị binh táo bạo, một thiếu tá nói, ‘Ôi không, thưa cha, tôi chắc chắn là cha đã hoàn toàn sai rồi. Khi một người chết thì là người đó chết và chỉ có thế thôi. Có phải cha đang nói rằng nếu tôi giết một tên Boer thì hắn sẽ đi thẳng lên thiên đường hay là một chỗ khác? Nếu tôi giết hắn với một viên đạn xuyên qua tim và dẫm chân lên ngực hắn, thì tôi có thể nói với cha rằng hắn chắc chắn là ở dưới chân tôi, đã chết, chết như một con lợn bị nhồi. Chết là hết, đó là tất cả.’
Anh ta nghĩ về tất cả mọi luận điểm về cuộc sống sau khi chết. Anh ta tự hỏi vì sao người ta lại có thể nói rằng có cuộc sống sau khi chết. ‘Nếu mày giết một người đàn ông – vậy thì anh ta chết và đó là tất cả. Nếu linh hồn có tồn tại thì chắc hẳn mày sẽ nhìn thấy một cái gì đó rời khỏi thân xác người chết, phải không?’
Death? What WAS death? Was there anything after death? He and his fellow subalterns and other officers in the Mess had often debated the subject. The Padre had tried to explain about the life immortal, about going to Heaven, and one dashing Hussar, a major had said, ‘Oh no, Padre, I am sure it’s absolutely wrong. When one is dead one is dead and that’s all there is to it. If I go and kill a Boer are you telling me that he’ll go straight to Heaven or the Other Place? If I kill him with a bullet through his heart and I am standing there with my foot on his chest, I can tell you that he’s very much under me, dead, dead as a stuffed pig. When we’re dead we’re dead and there’s nothing more to it.‘
He thought again of all the arguments for life after death. He wondered why anyone could say there was life after death. ‘If you kill a man – well, he’s dead and that’s all there is to it. If there was a soul then you’d see something leave the body at death, wouldn’t you?‘
Algernon nằm đó và cân nhắc về toàn bộ vấn đề, tự hỏi điều gì đã xảy ra, anh ta đang ở đâu? Và rồi anh ta có một ý nghĩ khủng khiếp là có thể tất cả chỉ là một cơn ác mộng, rằng anh ta đã bị mất trí và bị nhốt vào trong trại thương điên. Anh ta cẩn thận cảm nhận có dây buộc nào không. Nhưng không, anh ta đang trôi, chỉ có vậy thôi, anh ta đang trôi như con cá trong nước. Vì vậy, anh ta quay trở lại để tự hỏi nó là gì. ‘Chết ư? Tôi chết rồi sao? Rồi sau đó, nếu tôi đã chết thì tôi đang ở đâu, tôi đang làm gì trong tình trạng trôi lơ lửng kỳ lạ này? ‘
Algernon lay there and pondered the whole matter, wondering what had happened, where was he? And then he had the terrible thought that perhaps it was all a nightmare and he had had a brainstorm and was confined in an asylum for the mad. Carefully he felt about him to see if there were any restraining straps. But no, he was floating, that’s all there was to it, he was floating like a fish in water. So he returned to wonder what it was. ‘Death? Am I dead? Then if I am dead where am I, what am I doing in this strange condition floating idly?‘
Lời của cha sứ vọng lại trong tai anh ta: ‘Khi con rời khỏi thân xác, một thiên thần sẽ đến để đón con và chỉ dẫn cho con. Con sẽ được Chúa phán xét, và con sẽ nhận lấy mọi hình phạt mà Chúa ra lệnh.’ Algernon băn khoăn về toàn bộ chuyện này. ‘Nếu Chúa tốt bụng, tại sao một người lại bị trừng phạt ngay khi người ta vừa chết? Và nếu như người đó đã chết rồi thì làm sao một hình phạt lại ảnh hưởng đến anh ta được? Bây giờ anh ta ở đây’ anh ta nghĩ, ‘nằm yên lặng, không có đau đớn gì đặc biệt, không có niềm vui gì đặc biệt, chỉ nằm đó yên lặng.’
Words of the Padre came back to him: ‘When you leave your body an angel will be there to greet you and to guide you. You will be judged by God Himself, and then you will have whatever punishment God Himself decrees.‘ Algernon wondered about that whole matter. ‘If God was a kind God why did a person have to be punished as soon as he was dead? And if he was dead how could a punishment affect him? He was here now‘ he thought, ‘lying quietly, no particular pain, no particular joy, just lying there quietly.‘
Đúng lúc đó Algernon bắt đầu cảm thấy sợ. Một cái gì đó vừa quét qua anh ta. Giống như có một bàn tay luồn vào trong sọ anh ta. Anh ta có một ấn tượng, không phải là một giọng nói, mà là một ấn tượng, một cảm giác là ai đó đang nói với anh ta bằng ý nghĩ, ‘Bình an, im lặng, lắng nghe.’
Trong một lúc Algernon vùng vẫy, cố gắng chạy trốn. Điều này quá bí ẩn, quá lộn xộn, nhưng mà anh ta bị kẹt ở đó. Và một lần nữa anh ta lại có ấn tượng đó, ‘Bình an, im lặng, và rũ bỏ mọi thứ.’
Algernon tự nhủ, ‘ta là một sĩ quan và là một quí ông. Ta không được hoảng sợ, ta phải làm gương cho binh lính của mình.’ Vì vậy, mặc dù bối rối nhưng anh ta tự trấn tĩnh lại và để cho yên tĩnh và bình an tràn vào trong mình.
At that moment Algernon started with fear. Something had brushed by him. It was like having a hand put inside one’s skull. He got an impression, not a voice, but an impression, a sensation that someone was thinking at him, ‘Peace, be still, listen.‘
For a few moments Algernon flailed away, trying to run. This was too mysterious, this was too unsettling, but he was stuck there. And so once again he had the impression, ‘Peace, be still, and be freed from this.‘
Algernon thought to himself, ‘I am an officer and a gentleman, I must not panic, I must be an example to my men.‘ So, confused though he was, he composed himself and let tranquillity and peace enter within him.
Dịch giả: Cộng đồng thiền Việt Nam