Ngôi đền lớn dường như là một sinh vật sống. Từ vị trí thuận lợi cao trên mái nhà, tôi có thể nhìn xuống và thấy toàn bộ phạm vi rộng lớn của nơi này. Sáng sớm hôm nay Thầy của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, và tôi đã đến đây vì một nhiệm vụ đặc biệt. Bây giờ, Ngài đang ở trong phòng riêng với một vị chức sắc cao cấp, còn tôi, được tự do đi lang thang, đã tìm thấy trạm quan sát hợp với mình giữa những thanh xà đồ sộ dùng để chống trần nhà. Khi đang đi vẩn vơ trên mái nhà, tôi phát hiện ra một cánh cửa và liều lĩnh đẩy nó mở ra. Không có tiếng la hét nào phát ra, tôi lén lút nhìn trộm vào bên trong. Nơi này trống rỗng, vì vậy tôi bước vào và thấy mình đang ở trong một căn phòng nhỏ bằng đá, giống như một căn xà lim được khoét vào bức tường đá của Ngôi Đền. Đằng sau là cánh cửa gỗ nhỏ, những bức tường đá ở hai bên và trước mặt tôi là một gờ đá có lẽ cao ba feet.
The great Temple seemed to be a living thing. From my vantage point, high in the roof, I could look down and see the whole vast extent of the place. Earlier in the day my Guide, the Lama Minh Gia Dondup, and I had journeyed to this place on a special mission. Now the Lama was closeted with a high dignitary, and I—free to wander—had found this priestly observation post amid the mighty rafters which supported the roof. Prowling about on the walkway of the roof, I had discovered the door and daringly pushed it open. No loud shout of wrath greeting the action, I peeped inside. The place was empty, so I entered and found myself in a small stone room, like a cell built into the stone of the Temple wall. Behind me was the small wooden door, stone walls on either side, and before me a stone ledge perhaps three feet high.
Tôi lặng lẽ tiến về phía trước và quỳ xuống để chỉ có đầu tôi ở trên gờ đá. Tôi có cảm giác giống như một vị Thần trên thiên đàng đang nhìn xuống những người phàm trần, nhìn xuống sàn nhà tối tăm mờ ảo của Ngôi Đền, rất sâu bên dưới. Bên ngoài Ngôi Đền, hoàng hôn tím đang nhường chỗ cho bóng tối. Những tia sáng cuối cùng của Mặt trời đang lặn mờ dần sau những đỉnh núi phủ đầy tuyết, gửi những tia sáng ánh kim xuyên qua ngọn tuyết vĩnh cửu từ những rặng núi cao.
Silently I moved forward and knelt so that only my head was above the stone ledge. I felt like a God in the Heavens peering down on the lowly mortals, peering down on the dim obscurity of the Temple floor so many many feet below. Outside the Temple the purple dusk was giving way to darkness. The last rays of the sinking Sun would be fading behind the snow covered peaks sending iridescent showers of light through the perpetual spume of snow flying from the very highest ranges.
Bóng tối của Đền thờ tan đi bởi hàng trăm ngọn đèn bơ nhấp nháy được thắp lên ở nhiều nơi. Những chiếc đèn tỏa sáng như những chấm vàng, nhưng vẫn lan tỏa ánh sáng ra xung quanh, trông như thể những ngôi sao ở dưới chân thay vì ở trên đầu tôi. Những cái bóng kỳ lạ âm thầm bắc qua những cây cột đồ sộ; những cái bóng lúc thì mỏng và thon dài, lúc thì ngắn và mập, nhưng luôn méo mó và kỳ quái với ánh sáng đan chéo làm mọi thứ dường như bí hiểm, và lạ thường không thể tả.
The darkness of the Temple was relieved, and in places intensified, by hundreds of flickering butter lamps. Lamps which shone as golden points of light, yet still diffused a radiance around. It looked as if the stars were at my feet instead of over my head. Weird shadows stole silently across mighty pillars; shadows now thin and elongated, now short and squat, but always grotesque and bizarre with the cross lighting making the usual seem unearthly, and the unusual strange beyond description.
Tôi chằm chằm nhìn xuống, cảm giác như ở một nửa thế giới khác, không chắc chắn về những gì tôi đang thấy và những gì tôi đang tưởng tượng. Giữa tôi và sàn của Ngôi Đền là những đám khói hương trầm màu xanh bốc lên tầng tầng lớp lớp, trôi lững lờ khiến tôi có cảm giác rõ hơn về góc độ quan sát của một vị thần đang nhìn xuống dưới xuyên qua những đám mây trên Trái đất. Những đám khói hương trầm dâng lên nhẹ nhàng từ những chiếc Lư hương đung đưa theo bước chân của những chú tiểu trẻ sùng đạo. Họ đi từng bước lên rồi xuống, bước chân không tiếng động với khuôn mặt bất động. Khi họ quay đi và quay lại, một triệu điểm ánh sáng phản chiếu từ các Lư hương bằng vàng và phát ra những tia sáng chói lóa. Từ vị trí thuận lợi, tôi có thể nhìn xuống và thấy những nén nhang đỏ rực, trong làn gió, đôi lúc nó gần như bùng cháy thành ngọn lửa và tỏa ra những tia lửa đỏ, những tia sáng tàn đi nhanh chóng. Được sinh ra trong không khí trong lành, khói nhang bốc lên thành những cột khói màu xanh dày đặc, tạo thành những vệt dài phía trên và đằng sau các chú tiểu. Lên cao hơn, khói hình thành những đám mây khác trong Ngôi Đền. Luồng khói cuồn cuộn và xoắn xuýt bên trên những luồng không khí nhẹ hình thành khi các nhà sư đang di chuyển, nó dường như là một thực thể sống động, giống như một sinh vật, mờ ảo, đang thở và trở mình trong giấc ngủ. Trong một lúc, tôi nhìn chằm chằm, gần như bị thôi miên với ý nghĩ kỳ quặc rằng mình đang ở trong một cơ thể sống, quan sát sự chuyển động và lắc lư của các bộ phận trong nó, lắng nghe âm thanh cơ thể, Sự sống của chính nó.
I peered, staring down, feeling as if in a half-world, uncertain of what I was seeing and what I was imagining. Between me and the floor floated clouds of blue incense smoke rising in layer after layer, reminding me even more of a viewpoint of a God looking down through the clouds of the Earth. Gently rising clouds of incense swirled thickly from the Censers swung by young and devout chelas. Up and down they paced, silent of foot and immobile of face. As they turned and turned again, a million points of light reflected from the golden Censers and sent forth dazzling beams of light. From my vantage I could look down and see the red-glowing incense as, fanned by the breeze, it at times almost flared into flames and sent off showers of red, fast dying sparks. Given fresh life, the incense smoke rose in thicker columns of blue to form trailing paths above and behind the chelas. Rising higher, the smoke formed yet another cloud within the Temple. Wreathing and twisting on the faint air currents from moving monks, it seemed like a thing alive, like a creature, d seen, breathing and turning in sleep. For a while I gazed, becoming almost hypnotised with the fantasy that I was inside a living creature, watching the lift and sway of its organs, listening to the sounds of the body, of Life itself.
Xuyên qua vẻ ảm đạm của những đám mây khói nhang, tôi có thể thấy hàng ngũ các vị lạt ma, các nhà sư và các chú tiểu. Họ ngồi bắt chéo chân trên sàn nhà, thành những hàng dài vô tận cho đến tận những ngách xa nhất của Đền thờ, không thể nhìn thấy được. Trong những chiếc áo choàng của dòng tu, họ xuất hiện như một tác phẩm sống động, gợn sóng với màu sắc quen thuộc. Vàng kim, vàng nghệ, đỏ, nâu và một màu xám rất mờ, màu sắc dường như trở nên sống động và hòa quyện vào nhau khi người mặc chúng di chuyển. Ngồi ở đầu Đền thờ là Đức Thái tuế, Đấng Thậm thâm, Hóa thân thứ mười ba của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Hình tượng được tôn kính nhất trong toàn thế giới Phật giáo.
Through the gloom, through the clouds of incense smoke, I could see the serried ranks of lamas, trappas, and chelas. Sitting cross legged upon the floor they stretched in their endless rows until they became invisible in the farthest recesses of the Temple. All in their Robes of Order they appeared as a living, rippling patch-work of familiar colour. Gold, saffron, red, brown, and a very faint sprinkling of grey, the colours seemed to come alive and flow into each other as their wearers moved. At the head of the Temple sat His Holiness, the Inmost One, the Thirteenth Incarnation of the Dalai Lama, the most revered Figure in the whole of the Buddhist world.
Trong một lúc, tôi đã xem, lắng nghe tiếng tụng niệm của những lạt ma có giọng thâm trầm chen lẫn với giọng cao thanh của những chú tiểu, nhìn những đám mây khói hương trầm rung lên hòa hợp với những rung động sâu hơn. Ánh sáng lập lòe trong bóng tối, nhang cháy dần xuống rồi lại bùng lên những tia lửa đỏ. Buổi lễ cầu nguyện vẫn tiếp tục và tôi quỳ ở đó, mải mê xem. Quan sát những cái bóng nhảy múa lúc thì to ra, lúc lại biến mất trên các bức tường, nhìn những đốm sáng lấp lánh cho đến khi tôi hầu như không biết mình đang ở đâu và đang làm gì.
For a time I watched, listened to the chant of the deep-voiced lamas accented by the high treble of the small chelas. Watched the incense clouds vibrate in sympathy with the deeper vibrations. Lights flickered into darkness and were replaced, incense burned low and was replenished in a shower of red sparks. The service droned on and I knelt there and watched. Watched the dancing shadows grow and die upon the walls, watched the glittering pin-points of light until I hardly knew where I was nor what I was doing.
Một vị lạt ma già, lưng đã còng dưới sức nặng của bề dày năm tháng, di chuyển chậm chạp trước những người Anh em trong Dòng tu. Xung quanh ông là các nhà sư cấp cao, với những cây nhang và đèn trong tay. Cúi đầu trước Đấng thái tuế, và từ từ xoay quanh cúi đầu chào Bốn góc của Trái đất, cuối cùng ông đối diện với các nhà sư trong Đền thờ. Một giọng nói sang sảng đáng ngạc nhiên đối với một người nhiều tuổi như ông, xướng lên một đoạn kinh:
An aged lama, bent under the weight of years far beyond the normal span, moved slowly before his Brothers of the Order. Around him hovered attentive trappas, with sticks of incense and a light at hand. Bowing to the Inmost One, and turning slowly to bow to each of the Four Corners of the Earth, he at last faced the assembly of monks within the Temple. In a surprisingly strong voice for so aged a man, he chanted:
“Hãy nghe những tiếng nói của linh hồn chúng ta. Đây là Thế giới ảo ảnh. Cuộc sống trên Trái đất chỉ là một giấc mơ trong thời gian của Sự sống Vĩnh cửu, nhưng chỉ là một chớp mắt mà thôi. Hãy nghe những tiếng nói của linh hồn chúng ta, hỡi tất cả các bạn đang đau buồn. Cuộc sống trong bóng tối và nỗi buồn này sẽ kết thúc, và Vinh quang của Sự sống Vĩnh cửu sẽ soi sáng chính nghĩa. Cây nhang đầu tiên được thắp lên để dẫn lối cho linh hồn đang bối rối.”
“Hear the Voices of our Souls. This is the World of Illusion. Life on Earth is but a dream that, in the time of the Life Eternal, is but the twinkling of an eye. Hear the Voices of our Souls, all you that are sore depressed. This Life of Shadow and Sorrow will end, and the Glory of the Life Eternal will shine forth on the righteous. The first stick of incense is lit that a troubled Soul may be guided.”
Một vị cao tăng đứng lên và cúi chào Đấng Thái Tuế trước khi chậm rãi quay người cúi chào lần lượt tứ bề Trái đất. Thắp một nén nhang, ông quay lại và cầm cây nhang chỉ vào Tứ Phía. Tiếng tụng kinh trầm ấm vang lên một lần nữa rồi ngưng lại, theo sau đến giọng cao trong trẻo của các chú tiểu trẻ. Một vị lạt ma bệ vệ ngân nga một vài đoạn kinh, ngắt quãng các đoạn kinh bằng cách rung Chuông Bạc của mình một cách mạnh mẽ chỉ khi có sự hiện diện của Đức Thái Tuế. Lặng lẽ ngồi xuống, ông kín đáo nhìn xung quanh để xem bài tụng của mình có tác động tới mọi người hay không .
A trappa stood forth and bowed to the Inmost One before turning slowly and bowing in turn to the Four Corners of the Earth. Lighting a stick of incense, he turned again and pointed with it to the Four Corners. The deep-voiced chant rose again and died, to be followed by the high treble of the young chelas. A portly lama recited certain Passages, punctuating them by ringing his Silver Bell with a vigour occasioned only by the presence of the Inmost One. Subsiding into silence, he looked covertly around to see if his performance had obtained due approval.
Vị Lạt ma cao niên bước lên một lần nữa, và cúi đầu trước Đức Thái Tuế và các vị cao tăng. Một vị cao tăng khác tỏ ra rất chú ý, quá lo lắng trước sự hiện diện của người đứng đầu Nhà nước và Tôn giáo. Vị Lạt ma cao niên xướng lên một đoạn kinh:
The Aged Lama stepped forward once more, and bowed to the Inmost One and to the Stations. Another trappa hovered at ready attention, over-anxious in the Presence of the Head of the State and Religion. The Aged Lama chanted:
“Hãy lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng ta. Đây là Thế giới ảo ảnh. Cuộc sống trên Trái đất chỉ là Thử nghiệm, xem chúng ta có thể làm trong sạch bản thân khỏi những thứ xấu xa tội lỗi và nâng tầm mình lên cao mãi mãi. Hãy lắng nghe Tiếng nói của Linh hồn chúng ta, hỡi tất cả những ai đang hồ nghi. Chẳng mấy chốc, ký ức về cuộc sống trên Trái đất sẽ qua đi, và sau đó sẽ là Bình an, và giải thoát khỏi mọi Khổ đau. Cây nhang thứ hai được thắp lên để dẫn lối cho những linh hồn còn ngờ vực.”
“Hear the Voices of our Souls. This is the World of Illusion. Life on Earth is the Testing, that we may be purified of our dross and soar ever upwards. Hear the Voices of our Souls, all you that are in doubt. Soon the memory of the Earth life will pass away, and there will be Peace, and release from Suffering. The second stick of incense is lit that a doubting Soul may be guided.”
Tiếng tụng niệm của các sư sãi bên dưới tôi dâng lên và mạnh dần lên một lần nữa khi vị cao tăng thắp cây hương lần thứ hai và cúi đầu theo nghi thức trước Đức Thái tuế và lần lượt chỉ cây hương vào từng Góc của Trái đất. Các bức tường của Đền thờ dường như cũng thở, lắc lư cùng với tiếng tụng kinh. Xung quanh vị Lạt ma cao niên hình dáng những hổn ma tụ tập lại, đó là những người đã qua đời gần đây mà không có sự chuẩn bị, và bây giờ đi lang thang cô độc, không được chỉ dẫn.
The chanting of the monks below me increased and swelled again as the trappa lit the second stick and went through the ritual of bowing to the Inmost One and pointing the incense to each Corner in turn. The walls of the Temple appeared to breathe, to sway in unison with the chanting. Around the Aged Lama ghostly forms gathered, those who had recently passed from this life without the preparation, and who now wandered unguided, and alone.
Những cái bóng chập chờn dường như lúc thì lao lên, lúc thì quằn quại như những linh hồn đang đau khổ; tâm thức của tôi, nhận thức của tôi, thậm chí cảm xúc của tôi, chập chờn giữa hai thế giới. Phía bên này, tôi đang nhìn chăm chú vào quá trình của buổi lễ bên dưới tôi. Ở góc độ khác, tôi nhìn thấy “giữa các thế giới”, nơi linh hồn của những người mới ra đi run rẩy vì sợ hãi trước sự lạ lẫm của Thế giới chưa được biết đến. Những linh hồn đơn độc, bị bao phủ trong bóng tối ẩm ướt đang đeo bám, họ than khóc trong nỗi sợ kinh hoàng và cô đơn. Bị tách ra khỏi nhau, bị tách ra khỏi tất cả những người khác vì họ thiếu niềm tin, họ bất động như một con bò yak mắc kẹt trong vũng lầy. Trong bóng tối nhớp nháp “giữa các thế giới”, chỉ có le lói ánh sáng xanh mờ nhạt từ những hình dạng ma quái, cất lên tiếng tụng kinh, Lời mời gọi của vị Lạt ma cao niên:
The flickering shadows seemed to leap and writhe like souls in torment; my own consciousness, my perceptions, my feelings even, flickered between two worlds. In the one I peered with rapt attention at the progress of the Service beneath me. In the other I saw the “between worlds” where the souls of the newly departed trembled in fear at the strangeness of the Unknown. Isolated souls, clad in dank, clinging darkness, they wailed in their terror and loneliness. Apart from each other, apart from all others because of their lack of belief, they were as immobile as a yak stuck in a mountain bog. Into the sticky darkness of the “between worlds,” relieved only by the faint blue light from those ghostly forms, came the chanting, the Invitation, of the Aged Lama:
“Hãy lắng nghe Tiếng nói của Linh hồn chúng ta. Đây là Thế giới của Ảo ảnh. Con người chết đi trong Thực tại Vĩ Đại nghĩa là được sinh ra trên Trái đất, vì vậy anh ta phải chết trên Trái đất để anh ta có thể được tái sinh một lần nữa vào Thực tại Vĩ Đại. Không có cái Chết, mà là Hồi Sinh. Đau đớn của Cái Chết cũng là đau đớn của sự Ra Đời. Cây nhang thứ ba được thắp lên để dẫn lối cho linh hồn đang trong Đau khổ.”
“Hear the Voices of our Souls. This is the World of Illusion. As Man died in the Greater Reality that he might be born on Earth, so must he die on Earth that he may be reborn again to the Greater Reality. There is no Death, but Birth. The pangs of Death are the pangs of Birth. The third stick of incense is lit that a Soul in Torment may be guided.”
Trong tâm thức của tôi xuất hiện tiếng gọi thần giao cách cảm; “Lobsang! Con đang ở đâu? Đến đây với ta ngay bây giờ!” Rất cố gắng để quay trở lại thế giới hiện thực, tôi loạng choạng đứng dậy và lảo đảo bước ra khỏi cánh cửa nhỏ. “Con đang đến đây, thưa Thầy đáng kính!” Tôi gửi tư tưởng đến Thầy mình. Dụi mắt đẫm nước trong trời đêm se lạnh sau làn hơi ấm và khói hương của ngôi đền, tôi loạng choạng và cảm thấy mình lơ lửng phía trên con đường dẫn đến nơi Thầy đang đợi trong một căn phòng ngay phía trên lối vào chính. Thầy mỉm cười khi nhìn thấy tôi. “Lobsang, con của ta! ” Thầy thốt lên, “trông con như thể vừa gặp hồn ma!” “Thưa Thầy!” Tôi trả lời, “Đúng là con đã thấy rồi ạ.”
Into my consciousness came a telepathic command; “Lobsang! Where are you? Come to me now!” Jerking myself back to this world by a great effort, I staggered to my numb feet and tottered out of the little door. “I am coming, Respected Sir!” I thought to my Guide. Rubbing my eyes, watering in the cold night air after the warmth and incense smoke of the Temple, I stumbled and felt my way along high above the ground to where my Guide was waiting in a room right over the main entrance. He smiled as he saw me. “My! Lobsang!” he exclaimed, “you look as if you have seen a ghost!” “Sir!” I replied, “I have seen several.”
“Lobsang, Tối nay chúng ta sẽ ở lại đây,” vị Lạt ma nói. “Ngày mai, chúng ta sẽ đi và nói chuyện với Nhà tiên tri. Con nên có những trải nghiệm thú vị; nhưng bây giờ, trước tiên phải ăn đã, và sau đó thì đi ngủ . . . ” Trong khi ăn, tôi cứ trăn trở; nghĩ về những gì tôi đã thấy trong Đền thờ, băn khoăn tự hỏi về “Thế giới của Ảo ảnh.”; Tôi nhanh chóng hoàn thành bữa ăn tối và đi về phòng đã được dành cho mình. Quấn trong chiếc áo choàng, tôi nằm xuống và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Những giấc mơ, những cơn ác mộng và những ấn tượng kỳ lạ ập đến với tôi suốt đêm.
“Tonight, Lobsang, we shall remain here,” said the Lama. “Tomorrow we shall go and call upon the State Oracle. You should find the experience of interest; but now it is time, first for food, and then for sleep . . .” While we ate I was preoccupied; thinking of what I had seen in the Temple, wondering how this was “the World of Illusion.” Quickly I finished my supper and went to the room allotted to me. Wrapping myself in my robe, I lay down and soon was fast asleep. Dreams, nightmares, and strange impressions plagued me throughout the night.
Tôi mơ thấy mình đang ngồi dậy, hoàn toàn tỉnh táo, và những quả cầu to lớn ập đến mình như bụi trong bão. Tôi đang ngồi dậy và từ khoảng cách rất xa, những đốm nhỏ xuất hiện, ngày càng lớn hơn cho đến khi tôi có thể thấy những quả cầu, như chúng lúc này, có đủ màu sắc. Lớn bằng đầu người, chúng lao đến tôi và vun vút ra xa hơn. Trong giấc mơ của tôi – nếu đó là một giấc mơ! – Tôi không thể quay đầu lại để xem chúng đã đi đâu; chỉ thấy chúng xuất hiện từ hư vô, lao nhanh qua tôi rồi lại đổ vào hư không? Tôi vô cùng ngạc nhiên khi không quả cầu nào đâm vào mình. Chúng trông rắn chắc, nhưng đối với tôi chúng không là vật chất. Với sự đột ngột kinh khủng đến mức khiến tôi giật mình tỉnh giấc, một giọng nói đằng sau tôi cất lên: “Như một hồn ma nhìn thấy những bức tường kiên cố, vững chãi của Ngôi đền, bạn bây giờ cũng vậy!” Tôi rùng mình vì sợ hãi; tôi đã chết rồi ư? Tôi đã chết trong đêm sao? Nhưng tại sao tôi lại lo lắng về “cái chết”? Tôi biết cái gọi là chết chỉ đơn thuần là sự tái sinh. Tôi nằm xuống và cuối cùng ngủ thiếp đi một lần nữa.
I dreamed that I was sitting up, wide awake, and great globes of something came at me like the dust in a storm. I was sitting up, and from the great distance small specks appeared, growing larger and larger until I could see that the globes, as they were now, were of all colours. Growing to the size of a man’s head, they rushed at me and streaked away beyond. In my dream—if it was a dream!—I could not turn my head to see where they had gone; there were just these endless globes pouring out of nowhere and rushing on past me to—nowhere? It amazed me immensely that none of the globes crashed into me. They looked solid, yet to me they had no substance. With such horrid suddenness that it shook me wide awake, a voice behind me said, “As a ghost sees the stout, solid walls of the Temple, so now do you!” I shivered in apprehension; was I dead? Had I died in the night? But why was I worrying about “death”? I knew that so-called death was merely re-birth. I lay down and eventually fell asleep once more.
Cả thế giới rung chuyển, kêu cót két và sụp đổ một cách điên cuồng. Tôi hoảng hốt ngồi dậy, nghĩ rằng Ngôi đền đang đổ ập lên mình. Màn đêm tối đen, chỉ có ánh sáng huyền ảo của những vì sao trên kia mới có thể làm sáng tỏ sự nghi ngờ của ánh sáng. Nhìn thẳng về phía trước, tôi cảm thấy tóc dựng lên vì sợ. Tôi bị tê liệt, không thể cử động dù chỉ một ngón tay và tệ hơn nữa – thế giới ngày càng rộng lớn hơn. Các bức tường đá trơn nhẵn trở thành những tảng đá thô và rỗ như tổ ong từ những ngọn núi lửa đã tắt. Các lỗ trên đá lớn dần lên và chứa đầy những sinh vật đáng sợ mà tôi đã nhìn thấy qua kính hiển vi của Đức Lạt Ma Minh Gia.
The whole world was shaking, creaking, and tumbling in crazy manner. I sat up in great alarm, thinking that the Temple was falling about me. The night was dark, with only the ghostly radiance of the stars above to shed the merest suspicion of light. Gazing straight ahead of me, I felt my hair rise in fright. I was paralysed; I could not move a finger and worse—the world was growing larger. The smooth stone of the walls coarsened and became porous rock from the extinct volcanoes. The holes in the stone grew and grew and I saw that they were peopled with nightmare creatures which I had seen through the Lama Minh Gia Dondup’s good German microscope.
Thế giới ngày càng lớn dần lên, những sinh vật đáng sợ cũng lớn dần đến kích thước đáng kinh ngạc, thời gian qua đi, chúng trở nên khổng lồ đến mức tôi có thể nhìn thấy lỗ chân lông của chúng! Thế giới mỗi lúc một rộng lớn hơn, rồi tôi chợt nhận ra rằng mình ngày càng nhỏ bé dần đi. Tôi biết có một cơn bão bụi đang đến. Từ đâu đó phía sau tôi, những hạt bụi bay ầm ầm, nhưng không có hạt bụi nào chạm vào tôi. Nhanh chóng chúng lớn dần lên. Một số trong chúng to bằng đầu người, một số khác lớn bằng dãy Himalaya. Vậy mà không một cái nào chạm vào tôi. Chúng vẫn ngày càng lớn hơn cho đến khi tôi mất hết cảm giác về kích thước, cho đến khi tôi mất hết cảm giác về thời gian. Trong giấc mơ của mình, tôi dường như đang nằm giữa các vì sao, lạnh lẽo và bất động trong khi dải ngân hà này đến dải ngân hà khác lướt qua mình và biến mất vào khoảng không. Tôi không thể nói được đã ở lại đây bao lâu. Dường như tôi đã nằm đó suốt cõi vĩnh hằng. Rất lâu, kéo dài khi cả một thiên hà, cả một loạt các Vũ trụ lao thẳng xuống tôi. “Đây là lúc kết thúc!” Tôi mơ hồ nghĩ vô số thế giới đang đâm vào tôi.
The world grew and grew, the frightening creatures grew to ponderous size, becoming so vast with the passage of time that I could see their pores! Larger and larger grew the world, then it dawned on me that I was becoming smaller and smaller. I became aware that a dust storm was blowing. From somewhere behind me, the grains of dust roared by, yet none of them touched me. Rapidly they grew larger and larger. Some of them were as large as a man’s head, others were as large as the Himalayas. Yet not one touched me. Still they grew larger until I lost all sense of size, until I lost all sense of time. In my dream I appeared to be lying out among the stars, lying cold and motionless while galaxy after galaxy streaked past me and vanished into the distance. How long I remained thus I cannot say. It seemed as if I lay there throughout eternity. At long, long last a whole galaxy, a whole series of Universes swung down directly upon me. “This is the end!” I thought vaguely as that multitude of worlds crashed into me.
“Lobsang! Lobsang! Con đã tới được Thiên đường chưa? ” Giọng nói trầm và vang khắp vũ trụ, dội lại từ các thế giới … vọng lại từ các bức tường trong căn phòng đá của tôi. Đau đớn, tôi mở mắt ra và cố gắng tập trung. Phía trên tôi là một cụm sao sáng trông có vẻ quen thuộc. Những ngôi sao dần biến mất để thay vào đó là khuôn mặt nhân hậu của Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Nhẹ nhàng Người lay tôi. Ánh nắng chói chang tràn vào phòng. Một tia nắng chiếu sáng vô số những hạt bụi, và chúng lấp lánh đủ màu sắc cầu vồng.
“Lobsang! Lobsang! Have you gone to the Heavenly Fields?” The Voice boomed and re-echoed around the universe, rebounding from worlds . . . re-echoing from the walls of my stone chamber. Painfully I opened my eyes and tried to get them into focus. Above me was a cluster of bright stars which somehow seemed familiar. Stars which slowly vanished to be replaced by the benign face of the Lama Minh Gia Dondup. Gently he was shaking me. Bright sunlight streamed into the room. A sunbeam illuminated some dust motes, and they flashed with all the colours of the rainbow.
“Lobsang! Trời sáng lâu rồi. Ta đã để cho con ngủ, nhưng giờ là lúc con phải dậy ăn sáng, rồi chúng ta sẽ lên đường ”. Tôi mệt mỏi đứng dậy. Sáng nay tôi “khó ở”; cái đầu dường như quá lớn đối với tôi, và tâm trí tôi vẫn đang chìm trong những giấc mơ ban đêm. Nhét mớ tài sản ít ỏi vào phía trước vạt áo choàng, tôi rời phòng đi tìm tsampa, thức ăn chủ yếu của chúng tôi. Tôi xuống thang có ngạnh, treo người một cách chắc chắn vì sợ ngã. Xuống đến chỗ các nhà sư đầu bếp đang ngồi rải rác.
“Lobsang! The morning is far advanced. I have let you sleep but now it is time for you to eat and then we will be upon our way.” Wearily I scrambled to my feet. I was “out of sorts” this morning; my head seemed to be too big for me, and my mind was still dwelling upon the ‘dreams’ of the night. Bundling my scant possessions into the front of my robe, I left the room in search of tsampa, our staple food. Down the notched ladder I went, hanging on grimly for fear of falling. Down to where the cook-monks were lounging about.
“Tôi đến để dùng bữa,” tôi nói một cách nhã nhặn. “Ăn hả? Vào giờ này của buổi sáng à? Cút ngay!” nhà sư đầu bếp gầm lên. Ông ta đưa tay ra định đánh tôi thì một nhà sư khác giọng khàn khàn thì thầm, “Cậu ta đang ở với Lạt ma Minh Gia Đại Đức đấy!” Vị sư đầu bếp nhảy cẫng lên như thể bị ong bắp cày đốt rồi hét lên với người phụ bếp của mình, “Chà !? Còn chờ gì nữa? Đưa bữa sáng cho quí ngài trẻ tuổi! ” Thông thường, lẽ ra tôi phải có đủ lúa mạch trong túi da mà tất cả các nhà sư đều mang theo mình, nhưng trong quá trình đi thăm, nguồn cung cấp của tôi đã cạn kiệt. Tất cả các nhà sư, bất kể là chú tiểu, nhà sư hay Lạt ma, đều mang theo túi lúa mạch bằng da và cái bát để ăn. Tsampa được trộn với trà bơ và đó là lương thực chính của Tây Tạng. Nếu các tu viện Tây Tạng in thực đơn, sẽ chỉ có một từ để in: tsampa!
“I have come for food,” I said meekly. “Food? At this time of the morning? Be off with you!” roared the head cook-monk. Reaching out, he was about to give me a blow when another monk whispered hoarsely, “He is with the Lama Minh Gia Dondup!” The head cook-monk jumped as if he had been stung by a hornet then bellowed to his assistant, “Well!? What are you waiting for? Give the young gentleman his breakfast!” Normally I should have had enough barley in the leather pouch which all monks carry, but as we were visiting, my supplies were exhausted. All monks, no matter whether chelas, trappas or lamas, carried the leather bag of barley and the bowl from which to eat it. Tsampa was mixed with buttered tea and thus provided the staple food of Tibet. If Tibetan lamaseries printed menus, there would be one word only to print; tsampa!
Tỉnh táo hẳn sau bữa ăn, tôi đến gặp Lạt ma Minh Gia Đại Đức và chúng tôi lên ngựa đi đến tu viện của các nhà tiên tri. Chúng tôi không nói chuyện khi đang đi, con ngựa của tôi di chuyển một cách đặc biệt khiến tôi phải tập trung hoàn toàn để ngồi vững trên lưng ngựa. Khi chúng tôi đi dọc theo Đường Lingkhor, những người hành hương, nhìn thấy Thầy tôi trong chiếc áo choàng thứ hạng cao cấp, đã đến xin Ngài ban phước. Rồi họ lại tiếp tục con đường vòng xuyến linh thiêng trông như thể họ đã đi được một nửa chặng đường để được cứu rỗi. Chẳng mấy chốc, chúng tôi dắt ngựa đi qua Willow Grove và đến con đường bằng đá dẫn đến Ngôi nhà của các Bậc Tiên tri. Trong sân, cuối cùng tôi vô cùng biết ơn khi được trượt xuống đất từ lưng ngựa khi những nhà sư hầu cận đến dắt ngựa cho chúng tôi.
Somewhat refreshed after my meal, I joined the Lama Minh Gia Dondup and we set off on horseback for the Lamasery of the State Oracle. We did not talk while journeying, my horse had a peculiar motion which required my full attention if I were to remain in place. As we traveled along the Lingkhor Road, pilgrims, seeing the high rank of my Guide’s robes, called to him for blessing. Receiving it, they continued the Holy Circuit looking as if they were at least half way to salvation. Soon we walked our horses through the Willow Grove and came to the stony path leading to the Home of the Oracle. In the courtyard monk-servants took our horses as thankfully I at last slid to the ground.
Nơi đó đã rất đông người. Những vị Lạt ma cao nhất đã đến từ khắp mọi nơi trên đất nước chúng tôi. Nhà tiên tri đang kết nối với các Quyền lực thống trị thế giới. Theo sự sắp xếp đặc biệt và mệnh lệnh đặc biệt của Đức Thái tuế, tôi đã có mặt. Chúng tôi được chỉ dẫn nơi sẽ ngủ lại, tôi ở cạnh Lạt ma Minh Gia Đại Đức, và không ở trong ký túc xá với các nhà sư khác. Khi chúng tôi đi ngang qua một ngôi đền nhỏ trong tòa nhà chính, tôi đã nghe thấy “Hãy lắng nghe tiếng nói của linh hồn chúng ta. Đây là Thế giới của Ảo ảnh.”
The place was crowded. The highest lamas had traveled the length and breadth of our country to be present. The Oracle was going to get in communication with the Powers that ruled the world. I, by special arrangement, by special command of the Inmost One, was to be present. We were shown to where we would sleep, I next to the Lama Minh Gia Dondup, and not in a dormitory with many other chelas. As we passed a small temple within the main building I heard “Hear the Voices of our Souls. This is the World of Illusion.”
“Thưa Thầy!” Tôi nói với Thầy khi chúng tôi ở một mình, “ ’Thế giới của Ảo ảnh’ là gì ạ?” Người nhìn tôi mỉm cười. “Chà,” Người trả lời, “Cái gì là thật? Con chạm vào bức tường này và ngón tay của con bị bức tường đá chặn lại. Vì vậy, con kết luận rằng bức tường tồn tại như một khối rắn không gì có thể xuyên qua được. Ngoài cửa sổ, những dãy núi của Himalaya vững chãi như xương sống của Trái đất. Tuy nhiên, một hồn ma, hoặc con trong thể vía có thể di chuyển tự do đi xuyên qua đá trên núi như thể con đi trong không khí vậy.” “Nhưng ‘ảo ảnh’ là thế nào?” Tôi hỏi. “Con đã có một giấc mơ đêm qua thực sự là ảo ảnh; Thậm chí ngay cả khi nghĩ về nó con vẫn cảm thấy mờ nhạt!” Người đã lắng nghe tôi kể về giấc mơ đó với sự kiên nhẫn vô hạn và khi tôi kết thúc câu chuyện của mình, Người nói, “Ta sẽ kể cho con nghe về Thế giới ảo ảnh. Tuy nhiên, không phải lúc này, vì trước tiên chúng ta phải đến chào Nhà tiên tri đã ”
“Sir!” I said to my Guide when we were alone, “how is this the ‘World of Illusion’?” He looked at me with a smile. “Well,” he replied, “What is real? You touch this wall and your finger is stopped by the stone. Therefore you reason that the wall exists as a solid that nothing can penetrate. Beyond the windows the mountain ranges of the Himalayas stand firm as the backbone of the Earth. Yet a ghost, or you in the astral can move as freely through the stone of the mountains as you can through the air.” “But how is that ‘illusion’?” I asked. “I had a dream last night which really was illusion; I feel pale even to think of it!” My Guide, with infinite patience, listened while I told of that dream and when I had finished my tale he said, “I shall have to tell you about the World of illusion. Not for the moment, though, as we must first call upon the Oracle.”
Nhà Tiên tri là một người đàn ông trẻ, gầy và vẻ ngoài rất ốm yếu. Tôi đã được giới thiệu với ông ấy và đôi mắt ông chằm chằm nhìn thẳng vào tôi, khiến những cơn kinh hoàng chạy dọc sống lưng. “Đúng! Cậu chính là một người, tôi nhận ra cậu rất rõ, ” ông nói. “Cậu có sức mạnh bên trong; cậu cũng sẽ có kiến thức. Tôi sẽ gặp lại cậu sau.” Lạt ma Minh Gia Đại Đức, người bạn yêu quý của tôi, trông có vẻ rất hài lòng với tôi. ” Lobsang, con vượt qua mọi bài kiểm tra như mọi khi!” Người nói. “Bây giờ đã đến lúc, chúng ta sẽ trở về Đền thờ của các vị Thần và nói chuyện.” Người mỉm cười với tôi khi chúng tôi đi cùng nhau. Người nhắc lại “Lobsang, chúng ta sẽ nói về Thế giới Ảo ảnh.”
The State Oracle was a surprisingly young man, thin, and of very sickly appearance. I was presented to him and his staring eyes burned straight through me, making tingles of fright race up and down my spine. “Yes! You are the one, I recognise you well,” he said. “You have the power within; you shall have the knowledge also. I will see you later.” The Lama Minh Gia Dondup, my beloved friend, looked well pleased with me. “You pass every test, Lobsang, every time!” he said. “Now come, we will retire to the Sanctuary of the Gods and talk.” He smiled down at me as we walked along. “Talk, Lobsang,” he remarked, “about the World of Illusion.”
Đền thờ vắng vẻ, như Thầy của tôi đã biết trước. Những ngọn đèn cháy nhấp nháy trước các bức tượng Linh thiêng, khiến bóng của chúng chuyển động như thể trong một vũ điệu kỳ lạ nào đó. Khói hương trầm phảng phất lan tỏa tạo thành những đám mây phía trên chúng tôi. Chúng tôi ngồi bên nhau trong Thư viện, nơi mọi người có thể đọc những cuốn Sách Thánh linh, trong tư thế kiết già, hai chân bắt chéo và các ngón tay đan vào nhau.
The Sanctuary was deserted, as my Guide knew in advance. Flickering lamps burned before the Sacred Images, causing their shadows to jump and move as though in some exotic dance. Incense smoke spiraled upwards to form a low-lying cloud above us. Together we sat by the side of the Lectern from whence the Reader would read from the Sacred Books. We sat in the attitude of contemplation, legs crossed, and fingers entwined.
“Đây là Thế giới của Ảo ảnh,” Thầy nói, “Vì vậy, chúng ta kêu gọi các linh hồn lắng nghe chúng ta, vì chỉ có họ đang ở trong Thế giới Thực tại. Chúng ta nói, như con cũng biết rõ, Hãy lắng nghe Tiếng nói của Linh hồn chúng ta, chúng ta không nói Hãy lắng nghe tiếng nói của thể xác chúng ta. Hãy lắng nghe thầy, và đừng ngắt lời, vì đây là nền tảng của Niềm tin bên trong của chúng ta. Vì ta sẽ giải thích sau, khi con người chưa đủ tiến hóa trước hết phải có niềm tin để giúp họ chống đỡ, khiến họ cảm thấy rằng có một người Cha hoặc người mẹ nhân từ đang chăm sóc họ. Chỉ khi con người đã phát triển đến giai đoạn thích hợp, người ta mới có thể chấp nhận điều này, là điều mà bây giờ ta sẽ nói với con.” Tôi nhìn chăm chú vào Người, nghĩ rằng Người là cả thế giới đối với tôi, ước gì chúng tôi có thể luôn ở bên nhau.
“This is the World of Illusion,” said my Guide, “Wherefore we call to souls to hear us, for they alone are in the World of Reality. We say, as you well know, Hear the Voices of our Souls, we do not say Hear our Physical Voices. Listen to me, and do not interrupt, for this is the basis of our Inner Belief. As I shall explain later, people not sufficiently evolved must first have a belief which sustains them, makes them feel that a benevolent Father or Mother is watching over them. Only when one has evolved to the appropriate stage can one accept this which I shall now tell you.” I gazed at my Guide, thinking that he was the whole world to me, wishing we could be always together.
“Chúng ta là những sản phẩm sáng tạo của Tinh thần,” Người nói, “chúng ta giống như những vật mang điện tích được ban tặng cho trí thông minh. Thế giới này, cuộc sống này, là Địa ngục, nó là nơi thử thách trong đó Tinh thần của chúng ta được thanh lọc bởi sự khó nhọc của việc học cách kiểm soát cơ thể thô kệch của chúng ta. Giống như một con rối được điều khiển bằng những sợi dây do Bậc thầy Múa rối điều khiển, thì thể xác của chúng ta cũng được điều khiển bằng những sợi dây điện lực từ Chân Ngã, chính là phần hồn của chúng ta. Một Bậc thầy múa rối giỏi có thể tạo ra ảo tưởng rằng những con rối gỗ có sự sống, rằng chúng tự mình hành động. Theo cách tương tự, chúng ta, cho đến khi học cao hơn, coi rằng thể xác của mình là thứ duy nhất quan trọng. Trong bầu không khí đậm đặc của Trái đất, chúng ta quên mất Linh hồn mới thực sự điều khiển chúng ta, ta nghĩ rằng mình làm những việc theo tự do ý chí của bản thân và có thể đáp ứng cho “lương tâm” của ta mà thôi. Vì vậy, Lobsang, chúng ta có Ảo ảnh đầu tiên, ảo tưởng rằng con rối, cơ thể bằng xương bằng thịt, mới là thứ quan trọng.” Người dừng lại trước vẻ mặt tỏ ra khó hiểu của tôi. “Thế nào?” Người hỏi, “con còn băn khoăn điều gì?”
“We are creatures of the Spirit,” he said, “we are like electric charges endowed with intelligence. This world, this life, is Hell, it is the testing place wherein our Spirit is purified by the suffering of learning to control our gross flesh body. Just as a puppet is controlled by strings manipulated by the Puppet Master, so is our flesh body controlled by strings of electric force from our Overself, our Spirit. A good Puppet Master can create the illusion that the wooden puppets are alive, that they act of their own volition. In the same way we, until we learn better, consider that our flesh body is the only thing that matters. In the spirit-strangling atmosphere of the Earth we forget the Soul that truly controls us, we think that we do things of our own free will and are answerable only to our “conscience.” So, Lobsang, we have the first Illusion, the illusion that the puppet, the flesh body, is the one that matters.” He stopped at the sight of my puzzled expression. “Well?” he asked, “and what troubles you?”
“Thưa Thầy!” Tôi nói, “các dây lực điện của con ở đâu? Con không thể thấy bất cứ cái gì kết nối con với Chân Ngã! ” Người cười trả lời: “Con có thể nhìn thấy không khí không, Lobsang? Con không nhìn thấy khi ở trong thể xác”. Cúi người về phía trước, Người nắm lấy áo choàng của tôi, nhìn tôi chằm chằm bằng đôi mắt xuyên thấu của mình. “Lobsang!” Người nói một cách nghiêm khắc, “Toàn thể não của con biến đi đâu rồi? Con chỉ còn từ cổ trở xuống à? Con đã quên Sợi chỉ bạc rồi à, đó là tập hợp các điện lực kết nối con – ở đây – với linh hồn của con? Thật sự, Lobsang à, con đang ở trong Thế giới của Ảo ảnh!” Tôi cảm thấy mặt mình đỏ bừng. Tất nhiên tôi biết về Sợi chỉ bạc, sợi dây ánh sáng hơi xanh kết nối cơ thể vật lý với linh hồn. Nhiều lần khi du hành trong thể vía, tôi đã nhìn thấy Sợi dây lung linh và rung động với ánh sáng và sự sống. Nó giống như sợi dây rốn kết nối người mẹ và đứa trẻ mới sinh ra, ‘đứa trẻ’ vốn là cơ thể vật lý không thể tồn tại trong chốc lát nếu Sợi chỉ bạc bị cắt đứt.
“Sir!” I said, “where are my strings of electric force? I cannot see anything connecting me to my Overself!” He laughed as he replied, “Can you see air, Lobsang? Not while you are in the flesh body.” Leaning forward he grasped my robe, nearly scaring the life out of me as I stared into his penetrating eyes. “Lobsang!” he said sternly, “have all your brains evaporated? Are you really bone from the neck up? Have you forgotten the Silver Cord, that collection of lines of electric force linking you—here—with your soul? Truly, Lobsang, you are in the World of Illusion!” I felt my face grow red. Of course I knew about the Silver Cord, that cord of bluish light which connects the physical body to the spirit body. Many times, when astral travelling, I had watched the Cord shimmering and pulsing with light and life. It was like the umbilical cord which connects the mother and the new-born child, only the ‘child’ which was the physical body could not exist for a moment if the Silver Cord was severed.
Tôi nhìn lên, Người đã sẵn sàng tiếp tục sau khi bị tôi làm gián đoạn. “Khi ở trong thế giới vật chất, chúng ta có xu hướng nghĩ rằng chỉ có thế giới vật chất mới quan trọng. Đó là một trong những thiết bị an toàn của Chân ngã; nếu chúng ta nhớ Thế giới Linh hồn với niềm hạnh phúc của nó thì ta sẽ phải dùng một nỗ lực ý chí mạnh mẽ mới có thể ở lại thế giới này. Nếu nhớ lại những kiếp trước, khi mà ta đã từng là nhân vật nào đó quan trọng hơn kiếp này, thì ta đã chẳng khiêm nhường. Chúng ta cần phải uống trà đã và sau đó ta sẽ chỉ cho con, kể cho con nghe về cuộc sống của một người Trung quốc từ khi chết, tái sinh, rồi lại chết và đến với Thế giới Tiếp theo.” Vị Lạt Ma với tay rung chiếc chuông bạc nhỏ trong Điện thờ, rồi dừng lại trước vẻ mặt của tôi. “Thế nào?” Người hỏi, “câu hỏi của con là gì?” “Thưa Thầy!” Tôi trả lời, “tại sao lại là người Trung Quốc? Tại sao không phải là người Tây Tạng?” “Bởi vì,” Người trả lời, “nếu ta nói ‘một người Tây Tạng’, con sẽ cố gắng liên tưởng với một người con biết – với kết quả không chính xác.” Người rung chuông và một nhà sư hầu cận mang trà cho chúng tôi. Người nhìn tôi một cách ân cần. “Con có nhận ra rằng khi uống loại trà này, chúng ta đang nuốt chửng hàng triệu thế giới không?” Người hỏi. “Chất lỏng có thành phần phân tử thưa thớt hơn. Nếu con có thể phóng đại các phân tử của cốc trà này, con sẽ thấy chúng lăn như những hạt cát bên bờ một hồ nước đầy sóng gió. Ngay cả hơi đốt, ngay cả bản thân không khí cũng được cấu tạo từ các phân tử, các hạt rất nhỏ. Tuy nhiên, đó là một đề tài khác, chúng ta sẽ nói về cái chết và cuộc sống của một người Trung quốc.” Người uống trà và đợi tôi uống hết cốc trà.
I looked up, my Guide was ready to continue after my interruption. “When we are in the physical world we tend to think that only the physical world matters. That is one of the safety devices of the Overself; if we remembered the Spirit World with its happiness we would be able to remain here only by a strong effort of will. If we remembered past lives when, perhaps, we were more important than in this life, we should not have the necessary humility. We will have some tea brought in and then I will show you, or tell you, of the life of a Chinaman from his death, to his rebirth and to his death and arrival in the Next World.” The Lama stretched forth his hand to ring the small silver bell in the Sanctuary, then stopped at my expression. “Well?” he asked, “what is your question?” “Sir!” I answered, “why a Chinaman? Why not a Tibetan?” “Because,” he replied, “if I say ‘a Tibetan’ you will try to associate the name with someone you know—with incorrect results.” He rang the bell and a servant-monk brought us tea. My Guide looked at me thoughtfully. “Do you realise that in drinking this tea we are swallowing millions of worlds?” he asked. “Fluids have a more sparsely molecular content. If you could magnify the molecules of this tea you would find that they roll like the sands beside a turbulent lake. Even a gas, even the air itself is composed of molecules, of minute particles. However, that is a digression, we were going to discuss the death and life of a Chinaman.” He finished his tea and waited while I finished mine.
“Seng là một viên quan già.” Người nói “Cuộc đời của ông ấy may mắn và bây giờ, vào buổi xế chiều của cuộc đời, ông cảm thấy mãn nguyện vô cùng. Gia đình của ông rất lớn, nhiều thê thiếp và nô lệ. Ngay cả chính Hoàng đế Trung Hoa cũng đã chiếu cố ông. Khi đôi mắt già nua của ông nhìn thoáng qua cửa sổ phòng mình, ông có thể lờ mờ nhận ra những khu vườn xinh đẹp với những con công đang khệnh khạng. Nhẹ nhàng vọng đến tai ông tiếng chim hót véo von trên ngọn cây ngày nào giờ đã già đi. Seng nằm xuống, thư giãn trên đệm. Trong chính mình, ông có thể cảm thấy những ngón tay xào xạc của Thần chết đang làm mất mối liên kết của ông với cuộc sống. Mặt trời đỏ như máu từ từ chìm khuất sau ngôi chùa cổ kính. Ông Seng già nua từ từ ngả lưng xuống đệm, một hơi thở khó nhọc rít qua kẽ răng. Ánh sáng mặt trời mờ dần, và những ngọn đèn nhỏ trong phòng sáng lên, nhưng ông già Seng đã ra đi, mang theo những tia nắng cuối cùng đang tắt.” Thầy nhìn tôi để chắc chắn rằng tôi đang theo dõi, sau đó Người tiếp tục.
“Seng was an old mandarin,” said my Guide. “His life had been a fortunate one and now, in the evening of that life he felt a great contentment. His family was large, his concubines and slaves many. Even the Emperor of China himself had shown him favours. As his aged eyes peered short-sightedly through the window of his room he could dimly discern the beautiful gardens with the strutting peacocks. Softly to his failing ears came the song of birds returning to the trees as the day grew old. Seng lay back, relaxed upon his cushions. Within himself he could feel the rustling fingers of Death loosing his bonds with life. Slowly the blood red sun sank behind the ancient pagoda. Slowly Old Seng sank back upon his cushions, a harsh rattling breath hissing through his teeth. The sunlight faded, and the little lamps in the room were lighted, but Old Seng had gone, gone with the last dying rays of the sun.” My Guide looked at me in order to be sure that I was following him, then continued.
“Ông già Seng nằm dài trên đệm, cơ thể phát ra tiếng kêu cót két và khò khè trong im lặng. Máu không còn chảy qua các động mạch và tĩnh mạch, dịch của cơ thể không còn róc rách chảy nữa. Cơ thể của ông già Seng đã chết, đã hoàn thành trọn vẹn, không còn sử dụng được nữa. Nhưng một nhà thấu thị, nếu có mặt, hẳn sẽ nhìn thấy một đám mây mù màu xanh nhạt xung quanh cơ thể của ông già Seng, tạo thành hình, sau đó trồi lên khỏi cái xác, nổi ngang lên trên, được gắn bởi sợi Dây bạc mỏng. Dần dần Sợi dây bạc mỏng dần, và đứt ra. Linh hồn đã từng là ông già Seng trôi đi, trôi đi như một đám khói hương, nhanh chóng biến mất qua các bức tường.” Vị Lạt Ma rót đầy cốc, nhìn tôi uống trà, rồi tiếp tục.
“Old Seng lay slumped upon his cushions, with his body sounds creaking and wheezing into silence. No longer did blood rush through arteries and veins, no longer did body fluids gurgle within. The body of Old Seng was dead, finished with, of no more use. But a clairvoyant, if one had been present, would have seen a light blue haze form around the body of Old Seng. Form, then lift over the body, floating horizontally above, attached by the thinning Silver Cord. Gradually the Silver Cord thinned, and parted. The Soul which had been Old Seng floated off, drifted like a cloud of incense smoke, vanished effortlessly through the walls.” The Lama refilled his cup, saw that I also had tea, then continued.
“Linh hồn trôi dạt qua các cõi, qua các chiều không gian mà những người duy vật không thể hiểu được. Cuối cùng thì nó cũng đến được một công viên kỳ diệu, rải rác với những tòa nhà to lớn mà một trong số đó ông ta đã dừng chân, tại đây Linh hồn của ông già Seng đi vào và băng qua một sàn lấp lánh. Lobsang à, một linh hồn trong cõi của nó, cũng vững chắc như con đang ở trên thế giới này. Linh hồn trong thế giới linh hồn, có thể bị giam giữ bởi những bức tường, và bước đi trên sàn nhà. Linh hồn ở đó có những khả năng và tài năng khác với những người chúng ta biết trên Trái đất. Linh hồn này đi lang thang và cuối cùng bước vào một căn phòng nhỏ. Ngồi xuống, ông ta nhìn chằm chằm vào bức tường trước mặt. Đột nhiên bức tường dường như biến mất, và tại vị trí của nó, ông nhìn thấy những cảnh tượng, những cảnh đời của mình. Ông ta đã thấy cái mà chúng ta gọi là Bản ghi Tiên Thiên Khí Ảnh Akashic, là cái ghi lại tất cả những gì đã từng xảy ra và có thể được nhìn thấy dễ dàng bởi những người được huấn luyện. Nó cũng được nhìn thấy bởi tất cả những người đã sang thế giới bên kia, để Con người nhìn qua Bản Ghi thấy những thành công và thất bại của chính mình. Con người nhìn thấy quá khứ của mình và đánh giá chính mình. Không có thẩm phán nào cao hơn chính Con Người. Chúng ta không ngồi run rẩy trước một Đức Chúa Trời; chúng ta ngồi và xem tất cả những gì chúng ta đã làm và tất cả những gì chúng ta muốn làm.” Tôi ngồi im lặng, tôi thấy tất cả những điều này khá hấp dẫn. Tôi có thể nghe bài này hàng giờ — còn hơn là các bài tập buồn tẻ!
“The Soul drifted on through realms, through dimensions which the materialist mind cannot comprehend. At last it reached a wondrous parkland, dotted with immense buildings at one of which he stopped, here the Soul that had been Old Seng entered and made his way across a gleaming floor. A soul, Lobsang, in its own surroundings, is as solid as you are upon this world. The soul in the world of the soul, can be confined by walls, and walk upon a floor. The soul there has different abilities and talents from those we know upon the Earth. This Soul wandered on and at last entered a small cubicle. Sitting down, he gazed at the wall before him. Suddenly the wall appeared to vanish, and in its place he saw scenes, the scenes of his life. He saw that which we term The Akashic Record, which is the Record of all that has ever happened and which can be seen readily by those who are trained. It is also seen by everyone who passes from the Earth life to the life beyond, for Man sees the Record of his own successes and failures. Man sees his past and judges himself. There is no sterner judge than Man himself. We do not sit trembling before a God; we sit and see all that we did and all that we meant to do.” I sat silent, I found all this of quite absorbing interest. I could listen to this for hours—better than dull lessonwork!
“Linh hồn từng là ông già Seng-một quan lại Trung Quốc đã ngồi và nhìn lại cuộc sống mà ông, khi còn ở trên Trái đất, đã nghĩ là rất thành công,” Thầy của tôi tiếp tục. “Ông ta nhìn thấy và đau buồn vì nhiều lỗi lầm của mình, rồi đứng dậy và rời khỏi căn phòng, đi nhanh đến một căn phòng lớn hơn, nơi những người đàn ông và phụ nữ của Thế giới Linh hồn đang chờ đợi ông. Im lặng, mỉm cười với lòng trắc ẩn và sự hiểu biết, họ chờ đợi sự tiếp cận của ông, chờ đợi ông yêu cầu được chỉ dẫn. Ngồi trong phòng của họ, ông kể cho họ nghe về những lỗi lầm của ông, về những điều ông đã cố gắng làm, có nghĩa là đã thực hiện và đã thất bại”. “Nhưng con tưởng Thầy đã nói ông ta không bị phán xét, ông ta tự mình đánh giá!” Tôi nói nhanh. “Đúng vậy, Lobsang,” Thầy tôi trả lời. “Sau khi đã nhìn thấy quá khứ và những sai lầm của mình, giờ đây ông ấy đã tiếp cận những Cố vấn này để nhận được lời khuyên của họ – nhưng đừng ngắt lời, hãy lắng nghe ta và giữ lại câu hỏi của con để hỏi sau.”
“The Soul that had been Old Seng the Chinese Mandarin sat and saw again the life that he, upon Earth, had thought so successful,” continued my Guide. “He saw, and sorrowed for his many faults, and then he rose and left the cubicle, going speedily to a larger room where men and women of the Soul World awaited him. Silently, smiling with compassion and understanding, they awaited his approach, his request to be guided. Sitting in their company he told them of his faults, of the things he had attempted to do, meant to do, and failed.” “But I thought you said he was not judged, he judged himself!” I said quickly. ”That is so, Lobsang,” replied my Guide. “Having seen his past and his mistakes, he now approached these Advisors in order to receive their suggestions—but do not interrupt, listen to me and save your questions for after.”
“Như ta đã nói,” vị Lạt ma tiếp tục, “linh hồn ngồi với các Cố vấn và kể cho họ nghe về những thất bại của mình, nói với họ về những phẩm chất mà ông ta phải ‘phát triển’ cho Linh hồn mình trước khi có thể tiến hóa hơn nữa. Đầu tiên là trở lại xem cơ thể của ông ấy, sau đó sẽ đến một khoảng thời gian nghỉ ngơi – hàng năm hoặc hàng trăm năm – và rồi ông ấy cần được giúp đỡ để tìm ra những điều kiện cần thiết cho sự phát triển tiếp theo. Linh hồn của ông già Seng đã quay trở lại Trái đất để cuối cùng nhìn thấy cái xác của mình, bây giờ đã sẵn sàng để chôn cất. Sau đó, không còn là Linh hồn của ông già Seng nữa, mà là một Linh hồn đã sẵn sàng cho sự yên nghỉ, ông ta quay trở lại Thế giới bên kia. Trong một khoảng thời gian không xác định, ông ấy nghỉ ngơi và hồi phục sức khỏe, học những bài học của kiếp trước, chuẩn bị cho kiếp sau. Ở đây, trong cuộc sống bên ngoài cái chết này, các đồ vật và vật chất vẫn là những vật thể rắn khi ông ta chạm vào như chúng đã từng như vậy ở trên Trái đất. Ông ấy nghỉ ngơi cho đến khi thời gian và điều kiện được thu xếp”. “Con thích điều này!” Tôi thốt lên, “Con thấy nó rất thú vị.” Người mỉm cười với tôi trước khi tiếp tục.
“As I was saying,” continued the Lama, “the soul sat with the Advisors and told them of his failures, told them of the qualities which he had to ‘grow’ into his Soul before he could evolve further. First would come the return to view his body, then would come a period of rest—years or hundreds of years—and then he would be helped to find conditions such as were essential for his further progress. The Soul that had been Old Seng went back to Earth to gaze finally upon his dead body, now ready for burial. Then, no longer the Soul of Old Seng, but a Soul ready for rest, he returned to the Land Beyond. For a time unspecified he rested and recuperated, studying the lessons of past lives, preparing for the life to come. Here, in this life beyond death, articles and substances were as solid to his touch as they had been on Earth. He rested until the time and conditions were pre-arranged.” “I like this!” I exclaimed, “I find it of great interest.” My Guide smiled at me before continuing.
“Vào thời điểm đã được xác định trước, Linh hồn đang chờ đợi được gọi và được dẫn thẳng đến Thế giới Loài Người bởi một người có nhiệm vụ thực thi công việc này. Họ dừng lại, vô hình trước đôi mắt của những người bằng xương bằng thịt, quan sát cha mẹ tương lai, nhìn ngôi nhà, đánh giá khả năng ngôi nhà này có điều kiện cần thiết cho những bài học trong kiếp tới không. Hài lòng, họ rút lui. Nhiều tháng sau, người Mẹ sắp sinh cảm thấy trong mình đột ngột đập nhanh khi Linh hồn nhập vào và Đứa bé chào đời. Rồi đúng thời điểm, Đứa bé được sinh ra trong Thế giới Loài người. Linh hồn từng trong cơ thể của ông già Seng giờ phải vật lộn với thần kinh và bộ não bất đắc dĩ của đứa trẻ Lee Wong, sống trong hoàn cảnh éo le ở một làng chài của Trung Quốc. Một lần nữa những rung động cao của một Linh hồn được chuyển đổi thành những rung động quãng tám thấp hơn của một cơ thể xác thịt ”.
“At some pre-determined time, the Soul in Waiting was called and was led forth into the World of Mankind by one whose task was such service. They stopped, invisible to the eyes of those in the flesh, watching the parents-to-be, looking at the house, assessing the probabilities that this house would afford the desired facilities for learning the lessons which had to be learned this time. Satisfied, they withdrew. Months later the Mother-to-Be felt a sudden quickening inside her as the Soul entered and the Baby came to life. In time the Baby was born to the World of Man. The Soul that had once activated the body of Old Seng now struggled anew with the reluctant nerves and brain of the child Lee Wong living in humble circumstances in a fishing village of China. Once again the high vibrations of a Soul were converted to the lower octave vibrations of a flesh body.”
Tôi ngồi và suy nghĩ. Sau một lúc ngẫm nghĩ, cuối cùng tôi nói, “Thưa Lạt ma tôn kính, vậy tại sao mọi người lại sợ hãi cái chết, khi đó là sự giải thoát khỏi những rắc rối trên Trái đất?” “Lobsang, một câu hỏi hay đấy.” Người trả lời. “Đúng vậy, nhưng nhớ được những niềm vui ở Thế giới khác sẽ làm nhiều người trong chúng ta sẽ không thể chịu được những khó khăn vất vả ở đây, vì vậy chúng ta đã gieo vào lòng mình nỗi sợ hãi về cái chết.” Liếc nhìn tôi một cách dò hỏi, Người nhận xét, “Một số người không thích trường học, không thích những kỷ luật cần thiết ở trường. Tuy nhiên, khi người ta lớn lên và trưởng thành, lợi ích của trường học trở nên rõ ràng. Không nên trốn học mà lại mong muốn tiến bộ trong học tập; cũng như người ta không nên kết thúc cuộc sống khi phần thời gian dành cho họ chưa kết thúc.” Tôi băn khoăn về điều này, bởi vì chỉ vài ngày trước có một nhà sư già, thất học và ốm yếu, đã tự buông mình xuống từ một am thất trên cao. Đó là một ông già cáu kỉnh, với tính khí khiến ông từ chối mọi lời đề nghị giúp đỡ. Phải rồi, ông già Jigme thì nên tránh xa, tôi nghĩ vậy. Tốt hơn cho chính ông ấy. Tốt cho cả những người khác.
I sat and thought. Then I thought some more. At last I said, “Honourable Lama, as this is so, why do people fear death, which is but a release from the troubles of Earth?” “That is a sensible question, Lobsang,” replied my Guide. “Did we but remember the joys of the Other World many of us would not be able to tolerate hardships here, wherefore we have implanted within us a fear of death.” Giving me a quizzical sideways glance, he remarked, “Some of us do not like school, do not like the discipline so necessary at school. Yet when one grows up and becomes adult the benefits of school become apparent. It would not do to run away from school and expect to advance in learning; nor is it advisable to end one’s life before one’s allotted time.” I wondered about this, because just a few days before an old monk, illiterate and sick, had thrown himself from a high hermitage. A sour old man he had been, with a disposition that made him refuse all offers of help. Yes, old Jigme was better out of the way, I thought. Better for himself. Better for others.
“Thưa Thầy!” Tôi nói, “vậy thì sư ông Jigme đã có lỗi khi tự kết liễu cuộc đời mình không?” “Phải, Lobsang, ông ấy có lỗi rất nhiều,” Người trả lời. “Một người đàn ông hay đàn bà đều có một khoảng thời gian nhất định sống trên Trái đất. Nếu một người kết thúc cuộc sống của mình trước thời điểm đó, thì người đó sẽ phải quay trở lại gần như ngay lập tức. Vì vậy, chúng ta có cảnh tượng một đứa trẻ được sinh ra để sống có lẽ chỉ vài tháng. Đó sẽ là linh hồn của một kẻ tự sát quay trở lại để tiếp nhận cơ thể và sống khoảng thời gian đáng lẽ phải sống trước đây. Tự tử không bao giờ là chính đáng; đó là một sự xúc phạm nghiêm trọng chống lại chính mình, chống lại Chân ngã.” “Nhưng thưa Thầy,” tôi nói, “thế còn những người Nhật ở tầng lớp quí tộc tự sát theo nghi lễ để chuộc lỗi cho sự ô nhục của gia đình? Chắc chắn phải là người dũng cảm mới làm được điều đó”. “Không phải vậy đâu, Lobsang,” Thầy nhấn mạnh. “Không phải vậy. Sự dũng cảm không phải là chết mà là sống trong khó khăn, đối mặt với đau khổ. Chết thì dễ, sống – đó là hành động dũng cảm! Ngay cả màn biểu diễn về niềm tự hào trong ‘Nghi lễ Tự tử’ cũng không thể khiến người ta mù quáng trước sự sai trái của nó. Chúng ta ở đây để học hỏi và chúng ta chỉ có thể học hỏi thông qua việc sống hết mình. Tự tử không bao giờ là chính đáng!” Tôi lại nghĩ về sư ông Jigme. Ông đã rất già khi tự sát, vì vậy khi ông ấy quay lại để sống một lần nữa, tôi nghĩ, có lẽ chỉ ở lại rất ngắn thôi.
“Sir!” I said, “then the monk Jigme was at fault when he ended his own life?” “Yes, Lobsang, he was very much at fault,” replied my Guide. “A man or woman has a certain allotted span upon the Earth. If one ends his or her life before that time, then he or she has to return almost immediately. Thus we have the spectacle of a baby born to live perhaps a few months only. That will be the soul of a suicide returning to take over the body and so live out the time which should have been lived before. Suicide is never justified; it is a grave offence against oneself, against one’s Overself.” “But Sir,” I said, “how about the high born Japanese who commits ceremonial suicide in order to atone for family disgrace? Surely he is a brave man that he does that.” “Not so, Lobsang,” my Guide was most emphatic. “Not so. Bravery consists not of dying but in living in face of hardship, in face of suffering. To die is easy, to live—that is the brave act! Not even the theatrical demonstration of pride in ‘Ceremonial Suicide’ can blind one to its wrongness. We are here to learn and we can only learn through living our allotted span. Suicide is never justified!” I thought again of old Jigme. He was very old when he killed himself, so when he came again, I thought, it would be for a short stay only.
“Thưa Lạt ma tôn kính,” tôi hỏi, “mục đích của sự sợ hãi là gì? Tại sao chúng ta phải chịu đựng quá nhiều nỗi sợ hãi? Con đã phát hiện ra rằng những điều con sợ nhất không bao giờ xảy ra, nhưng con vẫn sợ chúng!” Vị Lạt ma cười và nói, “Điều đó xảy ra với tất cả chúng ta. Chúng ta sợ cái Không Biết. Tuy nhiên, sợ hãi là cần thiết. Nỗi sợ hãi thúc đẩy chúng ta, nếu không có nó chúng ta trở nên lười biếng. Sự sợ hãi giúp chúng ta có thêm sức mạnh để tránh tai nạn. Sợ hãi là một chất xúc tác giúp chúng ta có thêm sức mạnh, thêm động lực và khiến chúng ta vượt qua khuynh hướng lười biếng của chính mình. Con sẽ không học bài vở ở trường trừ khi con sợ giáo viên hoặc sợ mình tỏ ra ngu ngốc trước mặt người khác ”.
“Honourable Lama,” I asked, “what is the purpose of fear? Why do we have to suffer so much through fear? Already I have discovered that the things I fear most never happen, yet I fear them still!” The Lama laughed and said, “That happens to us all. We fear the Unknown. Yet fear is necessary. Fear spurs us on when otherwise we should be slothful. Fear gives us added strength with which to avoid accidents. Fear is a booster which gives us added power, added incentive, and makes us overcome our own inclination to laziness. You would not study your school work unless you feared the teacher or feared appearing stupid in front of others.”
Các nhà sư đang đi vào Đền thờ; các nhà sư trẻ tỏa ra xung quanh đi thắp thêm nhiều đèn bơ hơn, nhiều hương trầm hơn. Chúng tôi đứng dậy và bước ra ngoài trời mát mẻ của buổi tối, nơi làn gió nhẹ vờn qua những chiếc lá liễu. Những tiếng kèn lớn vang lên rất xa từ Potala, và những tiếng vọng mơ hồ quẩn quanh các bức tường của Tu viện của các nhà Tiên tri.
Monks were coming into the Sanctuary; chelas darted around lighting more butter lamps, more incense. We rose to our feet and walked out into the cool of the evening where a slight breeze played with the leaves of the willows. The great trumpets sounded from the Potala so far away, and dimly the echoes rolled around the walls of the State Oracle Lamasery.