Tóm tắt nội dung bài viết
UDANA – TRUNG TÂM CỦA HƠI THỞ
Đây là trung tâm đưa ra các lệnh tự động để vận hành cơ ngực. Điều này có nghĩa là, nó là trung tâm kiểm soát hơi thở của chúng ta. Trên thực tế, nó là nguồn ánh sáng trắng xanh phát ra từ mạng dây thần kinh cuống họng. Một người có nhãn thông, như vừa nói, nhìn thấy nó như một ánh sáng màu trắng xanh.
This is a centre which conveys the automatic commands to operate the chest muscles. That is, it is our breath control centre. Actually, it is the bluish-white light which emanates from the pharyngeal plexus. The clairvoyant, as just stated, sees this as a bluish-white light.
UNMANI – TRẠNG THÁI XUẤT VÍA
Đây là trạng thái khi chúng ta ra khỏi cơ thể, tức là khi thể vía được rút ra khỏi cơ thể vật lý, chẳng hạn như trong khi du hành thể vía hay khi ở trong trạng thái thôi miên, chúng ta được cho là ở trạng thái Unmani.
This is the stage when we are out of the body, that is, when the astral body is withdrawn from the physical body, such as during astral travel or during a trance, we are said to be in a state of Unmani.
UPADANA – VẬT LIỆU NGUYÊN THỦY
Đây là vật liệu mà từ đó vạn vật cấu thành. Mọi vật đều được tạo ra từ một chất tương ứng với trạng thái của vật đó. Nồi bạc được làm bằng bạc, cửa sổ kính được làm bằng thủy tinh, con người được làm bằng xương bằng thịt, và không gì có thể thay đổi được sự thật rằng con người được hình thành từ xương từ thịt. Đó là ‘Upadana.’
This is the material from which all things are made. Everything is made from a substance corresponding to the state of the thing which is made. A silver pot is made of silver, a glass window is made of glass, a human is made of flesh and bones, and nothing can change the fact that a human is made of flesh and bones. That is ‘the Upadana.’
UPADHI – SỰ LÃNG QUÊN
Đây là sự quên lãng mà Chân Ngã đã áp lên con người trong thân xác. Sẽ là không thỏa đáng nếu tất cả mọi người, bất kể ở trình độ tiến hóa nào, có thể nhớ hết các tiền kiếp của họ. Những người từng là hoàng tử sẽ không thỏa mãn khi nhớ lại đời sống quý tộc của mình nếu họ trở lại là một nông dân nghèo khổ, và những người từng là nông dân sẽ có mặc cảm tự ti khi tái sinh làm hoàng tử. Vì vậy, trước khi một linh hồn đầu thai, anh ta hoặc cô ta sẽ ‘Uống canh Lú’ để rồi tỉnh dậy trong cơ thể một đứa trẻ.
Thật là một sự sắp đặt khôn ngoan khi những người tái sinh thường quên mất (khi còn ở trong thân xác) những gì họ đã từng làm trong quá khứ, mặc dù những kiến thức đó luôn có sẵn cho họ khi họ đến cõi trung giới bằng du hành thể vía, và nhờ đó có thể tham khảo Thư viện Akashic.
Đôi khi từ Upadhi được gắn thêm một chữ ‘s’ và trở thành Upadhis, trong trường hợp này, nó đề cập đến toàn bộ con người trên Trái đất và ngoài cơ thể. Nó đề cập đến ba thể của anh ta – hay ba thể cơ bản của anh ta – đó là:
- Thể nhân quả.
- Thể vi tế.
- Thể thô trược.
This is the ignorance which the Overself imposes upon the human in the flesh. It would be most unsatisfactory if all humans, irrespective of their progress, could remember all their past lives. Those who had been princes would be dissatisfied if they remembered their princely reign when they came back as an impoverished peasant, and the one who had been a peasant would feel a sense of inferiority possibly when reincarnating as a prince. Thus, it is that before a human soul incarnates he or she ‘Drinks of the Waters of Forgetfulness’ before awakening to consciousness in the body of a baby.
It is a wise provision that those who are incarnating normally forget (while in the flesh) what they have been in the past, although such knowledge is available to them when they get to the astral world by way of astral travel, and so can consult the Akashic Record.
Sometimes Upadhi is given an ‘s’ and becomes Upadhis, and in that case it refers to the whole man upon the Earth and out of the body. It refers to his three bodies — his three basic bodies — which are :
-
The causal body.
-
The subtle body.
-
The gross body.
UPANAYANA – LỄ UPANAYANA
Khi một cậu bé được đào tạo để trở thành một tu sĩ Ấn Độ giáo, cậu ta sẽ thực hiện nghi lễ ‘Sợi chỉ thiêng’, một nghi lễ mang tính tượng trưng trong đó cậu bé sẽ nguyện tuân theo một số tiết hạnh nhất định, đó là:
- Sự thuần khiết tuyệt đối.
- Tính trung thực tuyệt đối.
- Sự tự chủ và tự kiểm soát tuyệt đối.
When a boy is training to become a monk of the Hindu faith he takes ‘a Sacred Thread,’ a symbolical ceremony during which the boy vows to observe certain virtues, which are :
- Absolute purity.
- Absolute truthfulness.
- Absolute self-control and self-restraint.
Compared to the Christian belief, it is much the same as ‘being confirmed.’
UPANISHAD – ÁO NGHĨA THƯ
Đây là những kinh điển cấu thành nên triết học Vệ đà. Những Kinh sách này đề cập đến những vấn đề huyền bí, cũng như bản chất của Con Người và Chân Ngã.
Có một trăm lẻ tám Áo nghĩa thư (một trăm lẻ tám là một Con số thiêng liêng ở Tây Tạng). Những Kinh sách chính là:
- Isha.
- Kena.
- Katha.
- Prasna.
- Mundaka.
- Mandukya.
- Chandogya.
- Brihadaranyaka.
- Aitareya.
- Taittiriya.
Các Kinh của Áo nghĩa thư kết thúc từng bộ trong số bốn bộ kinh Vệ đà, và do đó có chữ ‘anta’ nghĩa là kết thúc ở sau chữ Veda (Vệ đà), ghép lại thành từ “Vedanta” có nghĩa là “phần cuối của kinh Vệ đà.”
These are certain books which constitute the philosophical portion of the Vedas. These Sacred Scriptures deal with the more mystical matters, and the nature of Man and Man’s Overself.
There are one hundred and eight Upanishads (a hundred and eight is a Sacred Number in Tibet). The chief ones are :
- Isha.
- Kena.
- Katha.
- Prasna.
- Mundaka.
- Mandukya.
- Chandogya.
- Brihadaranyaka.
- Aitareya.
- Taittiriya.
The Upanishads brought to a close each of the four Vedas, and so they had at the end of Vedas the word ‘anta’ meaning end, thus becoming ‘Vedanta’ which means ‘the end of the Vedas.’
UPARATI – CHẤM DỨT HAM MUỐN CÁ NHÂN
Đây là điều mà tất cả chúng ta phải nỗ lực hướng tới; sự tận cùng của mọi ham muốn cá nhân.
This is for which we must all strive ; the end of all personal desires.
Dịch và biên tập: Cộng đồng VMC Việt Nam