Giữa buổi sáng, buổi lễ kết thúc; bọn con trai chúng tôi vội chạy vào lớp, xô đẩy nhau để cố gắng không phải là người vào lớp cuối cùng. Không phải vì chúng tôi quan tâm đến việc học, mà vì Sư Thầy của lớp này có một thói quen đáng sợ là lấy gậy vụt vào đứa vào sau cùng. Còn tôi, thật vui là đã kịp vào đầu tiên và tận hưởng niềm sung sướng được thầy mỉm cười khen ngợi. Nóng nảy ra hiệu cho những đứa khác khẩn trương, ông đứng cạnh cửa và bợp tai những đứa tỏ ra chậm chập. Cuối cùng tất cả chúng tôi đã yên vị, ngồi khoanh chân trên chiếc chiếu trải trên sàn nhà. Theo phong tục, chúng tôi ngồi quay lưng lại với Sư Thầy, người liên tục giám sát từ phía sau để chúng tôi không thể biết được ông đang ở chỗ nào và vì thế chúng tôi phải học chăm chỉ.
The mid-morning Service had ended; we boys rushed along to our classroom, shoving and pushing in an effort not to be the last one in. Not because of our interest in education, but because the Master at this class had the horrid habit of taking a swipe with his cane at the last one in! I, joy of joys, managed to be first one in and basked in the glow of approval of the Master’s smile. Impatiently he motioned the others to hurry, standing by the door and cuffing those who even appeared to be slow. At last we were all seated, sitting cross legged upon the seat-mats spread on the floor. As is our custom, we had our backs toward the Master, who constantly patrolled behind us so that we never knew where he was and thus we had to work hard.
“Hôm nay chúng ta sẽ bàn luận các tôn giáo giống nhau như thế nào,” Ông ngân nga. “Chúng ta thấy câu chuyện về trận Đại hồng thủy đã trở nên phổ biến cho tất cả những tín đồ trên thế giới như thế nào. Bây giờ chúng ta sẽ quan tâm đến chủ đề về Mẹ đồng trinh. Thậm chí người kém thông minh nhất,” ông nói và nhìn tôi nghiêm khắc, “cũng biết rằng Mẹ đồng trinh của chúng ta, Mẹ Dolma cứu rỗi, Mẹ đồng trinh Nhân từ, cũng tương đương với Mẹ đồng trinh của các nhánh tôn giáo khác của Đức tin cơ đốc giáo.” Có bước chân vội vã dừng lại trên bậc thềm của lớp học. Một vị sư đưa tin bước vào và cúi lạy Sư Thầy. “Kính chào Đạo sư uyên bác,” ông nói khẽ. “Đức Lạt ma Minh gia Đại đức đã có lời khen ngợi và yêu cầu cậu Tuesday Lobsang Rampa phải rời lớp ngay – đây là việc khẩn.” Ông thầy cau có; “Thằng nhóc!” ông ta gầm lên, “mày là đứa quậy phá và phiền toái trong lớp, ra ngay!” Tôi vội vàng bật dậy, cúi chào Sư Thầy rồi lao ra chạy theo vị sứ giả đang đi nhanh. “Có việc gì vậy?” tôi thở hổn hển. “Tôi không biết,” ông ta nói, “tôi cũng đang thắc mắc đây. Lạt ma Đại đức đáng kính đang chuẩn bị giải phẫu cái gì đó, ngựa cũng đã sẵn sàng rồi.” Chúng tôi vội vã lên đường.
“Today we will discuss how all religions are similar,” he intoned. “We have observed how the story of the Flood is common to all beliefs throughout the world. Now we will give our attention to the theme of the Virgin Mother. Even the meanest intelligence,” he said, looking hard at me, “knows that our Virgin Mother, the Blessed Dolma, the Virgin Mother of Mercy, corresponds to the Virgin Mother of certain sects of the Christian Faith.” Hurrying footsteps stopped at the entrance of the classroom. A monk-messenger entered and bowed low to the Master. “Salutations to you, Learned One,” he murmured. “The Lord Lama Mingyar Dondup presents his compliments and requests that the boy Tuesday Lobsang Rampa be released from class immediately—the matter is urgent.” The Master scowled; “Boy!” he thundered, “you are a nuisance and a disturber of the class, get out!” Hastily I jumped to my feet, bowed to the Master, and rushed after the hurrying Messenger. “What is it?” I gasped. “Don’t know,” he said, “wondered myself. Holy Lama Dondup has surgical things ready, horses ready too.” We hurried on.
“A, Lobsang đây rồi! Vậy là con cũng có thể nhanh nhẹn đấy chứ!” Thầy cười khi chúng tôi đến gặp Ngài. “ Chúng ta sẽ xuống làng Sho, ở đó đang cần phẫu thuật.” Ngài lên ngựa và ra hiệu cho tôi lên ngựa của mình. Đây luôn luôn là một việc khó; Ngựa và tôi dường như không bao giờ đồng điệu khi tôi trèo lên. Tôi đi về phía con ngựa, và con vật này đi sang một bên để tránh tôi. Tôi luồn sang phía bên kia và làm một cú nhảy trước khi con ngựa biết được việc gì đang xảy ra. Sau đó tôi cố gắng làm giống như một thanh niên vùng sơn cước, tôi tóm chặt quyết không rời. Cam chịu một cách miễn cưỡng, con ngựa khịt mũi, không cần tôi điều khiển, nó quay ra đi theo con ngựa của Thầy xuống con đường. Con ngựa của tôi có một thói quen rất đáng sợ là hay dừng lại ở những đoạn dốc nhất và nhìn sang bên đường, cúi đầu và làm động tác nhún nhảy. Tôi chắc chắn tin rằng nó có khướu hài hước (nhưng bị đặt nhầm chỗ!) và hoàn toàn biết trước tác động của việc đó đến tôi. Chúng tôi lóc cóc đi trên đường và chẳng bao lâu qua Pargo Kaling, hoặc Cửa Tây, rồi đi lên Làng Sho. Thầy dẫn đường đi qua các con phố cho đến khi Ngài đến một tòa nhà lớn mà tôi nhận ra là nhà tù. Lính gác vội vàng chạy ra giữ ngựa. Tôi cầm lên hai chiếc hộp của Thầy– Lạt ma Minh gia Đại đức – và mang chúng vào một chỗ khá tối. Thực sự đây là một nơi khó chịu, kinh khủng, tôi có thể ngửi thấy mùi sợ hãi, có thể thấy những hình tư tưởng xấu xa của những kẻ lầm lỡ. Nó đúng là một nơi mà bầu không khí khiến tôi dựng tóc gáy.
“Ah! Lobsang! So you can hurry!” laughed my Guide as we came upon him. “We are going down to the Village of Shö where our surgical services are required.” He mounted his horse and motioned for me to mount mine. This was always a difficult operation; horses and I never seemed to be of one mind when it came to mounting. I walked toward the horse, and that creature walked sideways away from me. I slipped round to the other side and took a running jump before the horse knew what was happening. Then I tried to emulate mountain lichen with the tenacity of my grip. Snorting with exasperated resignation, the horse turned without help from me and followed the horse of my Guide down the path. This horse of mine had the horrible habit of stopping at the steepest parts and looking over the edge, lowering his head and doing a kind of shimmy. I firmly believe he had a (misplaced!) sense of humour and was fully aware of the effect he had upon me. We clattered down the path and soon passed the Pargo Kaling, or Western Gate, and thus came upon the Village of Shö. My Guide led the way through the streets until he came to a big building which I recognised as the prison. Guards hurried out and took our horses. I picked up the two cases of my Guide the Lama Mingyar Dondup, and carried them into the gloomy place. This was unpleasant, a horrible spot indeed, I could smell the fear, see the evil thought-forms of wrong-doers. It was indeed a place the atmosphere of which made the hairs stand out upon the back of my neck.
Tôi đi theo Thầy vào một căn phòng khá rộng. Ánh sáng ngoài trời rọi qua các khung cửa sổ. Một số lính canh đứng rải rác, và vị Thẩm phán làng Sho đang đứng chờ đón Lạt ma Minh gia Đại đức. Khi họ nói chuyện, tôi đứng nhìn quanh. Tôi khẳng định đây là chỗ các tội phạm bị xét xử và kết án. Xung quanh tường là các tập hồ sơ và sách. Trên sàn nhà, trong góc có một cái bó đang rên rỉ. Tôi nhìn về phía đó cùng lúc nghe thấy ngài Thẩm phán nói với Thầy của tôi; “ Đây là một người Trung Quốc, tôi nghĩ là một tên gián điệp, thưa Lạt ma tôn kính. Anh ta đang cố gắng trèo lên Ngọn núi thiêng, có vẻ như đang cố gắng lẻn vào Potala. Anh ta đã bị trượt chân và ngã xuống. Từ độ cao bao nhiêu à? Có lẽ phải vài chục mét. Tình trạng anh ta đang rất xấu.” Thầy tôi đi đến bên cạnh anh ta. Một người kéo tấm phủ ra và trước mặt chúng tôi là một người đàn ông Trung Quốc, khoảng trung tuổi. Ông ta khá nhỏ người và trông rất lanh lẹ – giống như một diễn viên xiếc – tôi nghĩ vậy. Bây giờ ông ta đang rên rỉ vì đau đớn, mặt ướt đẫm mồ hôi, da có phần xanh xao.
I followed my Guide into a fairly large room. The sunlight was streaming through the windows. A number of guards were standing about, and waiting to greet the Lama Mingyar Dondup was a Magistrate of Shö. While they talked I looked about me. This, I decided, was where criminals were tried and sentenced. Around the walls were records and books. On the floor, to one side, was a groaning bundle. I looked toward it, and at the same time heard the Magistrate talking to my Guide; “Chinese, a spy we think, Honourable Lama. He was trying to climb the Holy Mountain, apparently trying to creep into the Potala. He slipped and fell. How far? Perhaps a hundred feet. He is in a bad way.” My Guide moved forward, and I went to his side. A man pulled back the covers and before us we saw a Chinese man, of about middle age. He was fairly small and looked as though he had been remarkably agile—something like an acrobat—I thought. Now he was groaning with pain, his face wet with perspiration, and his complexion of a muddy greenish tinge.
Tình trạng người này rất tồi tệ, ông ta đang run rẩy và nghiến răng trong cơn đau. Lạt ma Minh gia Đại đức nhìn ông ta vẻ thương cảm. “ Gián điệp, có thể là sát thủ, hay là gì đi nữa thì chúng ta cũng phải làm cái gì đó giúp anh ta,” Ngài nói. Thầy tôi quỳ xuống bên người đàn ông và đặt tay lên thái dương của nạn nhân, nhìn vào mắt ông ta. Trong vài giây, người bệnh thư giãn, đôi mắt hé mở, và nở một nụ cười mơ hồ. Thầy kéo thêm tấm phủ sang một bên rồi cúi xuống đôi chân của ông ta. Tôi cảm giác buồn nôn với thứ mà tôi nhìn thấy; xương cẳng chân của ông ta thò ra ngoài ống quần. Đôi chân có vẻ như bị dập nát hoàn toàn. Bằng một con dao sắc nhọn, Thầy tôi đã cắt bỏ quần áo của ông ta. Những người chứng kiến cảm thấy nghẹt thở khi họ nhìn thấy cái chân với xương đã hoàn toàn bị dập nát từ bàn chân lên đến đùi. Thầy chạm nhẹ vào chúng. Người đàn ông bị thương không cựa quậy hay co người lại, ông ta đã bị thôi miên sâu. Những mảnh xương vỡ va vào nhau và phát ra tiếng lạo xạo như cát ở trong túi rỗng. “Những chiếc xương này đã bị dập nát quá rồi không thể xếp lại được,” Thầy nói, “Đôi chân dường như bị dập nát hoàn toàn; chúng ta sẽ phải cắt bỏ chúng.” “Thưa Lạt ma tôn kính,” vị Thẩm phán nói, “Ngài có thể làm cho anh ta nói cho chúng ta biết anh ta làm gì ở đây được không? Chúng tôi e rằng anh ta là sát thủ.” “ Chúng ta phải cắt bỏ chân của anh ta trước đã,” Vị Lạt ma trả lời, “rồi chúng ta mới có thể hỏi anh ta được.” Ngài lại cúi xuống người đàn ông và nhìn chằm chằm vào mắt của ông ta một lần nữa. Người Trung Quốc thư giãn hơn và có vẻ như đang đi vào giấc ngủ sâu.
The man was in a bad state, shivering and grinding his teeth in his agony. The Lama Mingyar Dondup looked at him with compassion. “Spy, would-be assassin, or whatever he is, we must do something for him,” he said. My Guide knelt beside the man and put his hands on the suffering wretch’s temples and gazed into his eyes. Within seconds the sick man relaxed, eyes half open, a vague smile on his lips. My Guide pulled the coverings further aside then bent over his legs. I felt sick at what I saw; the man’s leg bones protruding through his trousers. The legs appeared to be completely shattered. With a sharp knife my Guide cut off the man’s clothing. There was a gasp from the onlookers as they saw the leg, with bones completely shattered from feet to thighs. The Lama gently felt them. The injured man did not stir or flinch, he was deeply hypnotised. The leg bones grated and sounded like half-filled sand bags. “The bones are too shattered to set,” said my Guide, “his legs seem to be pulverized; we shall have to amputate them.” “Honourable Lama,” said the Magistrate “can you make him tell us what he was doing? We fear he was an assassin.” “We will remove his legs first,” replied the Lama, “then we can ask him.” He bent over the man again and gazed once more into his eyes. The Chinese relaxed even more and appeared to go into a deep sleep.
Tôi mở những cái túi và đổ sẵn nước sát trùng thảo dược ra cái âu. Thầy nhúng ngập hai bàn tay vào đó. Tôi chuẩn bị sẵn các dụng cụ cho vào một cái âu khác. Theo chỉ đạo của Thầy, tôi lau rửa mình và chân của người đàn ông. Một cảm giác kỳ lạ chạy khắp người khi tôi chạm vào đôi chân này; có cảm giác là mọi thứ đã bị nghiền nát. Hiện giờ chúng có màu xanh lốm đốm với những mạch máu hiện ra giống như những sợi dây màu đen. Theo sự chỉ dẫn của Thầy, người vẫn đang ngâm tay, tôi đặt những cái đai nẹp đã được khử trùng lên chỗ cao nhất có thể trên đôi chân của người Trung Quốc, cao đến mức chúng có thể nối với thân trên. Xỏ một cái que vào cái vòng, tôi vặn cho tới khi chặt cứng. Rất nhanh Lạt ma cầm lấy con dao và cắt phần thịt thành hình chữ V. Tại vết cắt Ngài cưa phần xương còn lại, rồi đóng hai cạnh của chữ V vào sao cho đầu xương được bảo vệ bởi hai lớp thịt. Tôi đưa cho Ngài chỉ khâu tiệt trùng làm bằng một số bộ phận của bò yak, và nhanh chóng Ngài khâu chặt các miếng thịt vào với nhau. Từ từ, một cách thận trọng, tôi nới dần băng nẹp chân, sẵn sàng xiết chặt lại nếu vết cắt bị chảy máu. Vết khâu tốt, không chảy máu. Đằng sau tôi một người lính gác nôn thốc nôn tháo, mặt trắng bệch rồi ngã vật xuống sàn ngất đi!
I had the bags unrolled and the sterilizing herbal fluid ready in the bowl. My Guide dipped in his hands so that they could soak. I had his instruments already in another bowl. At his direction I washed the man’s body and legs. Touching those legs sent a peculiar feeling through me; it felt as though everything was shattered. Now they were a blue, mottled colour, with the veins standing out like black cords. Under the directions of my Guide, who was still soaking his hands, I placed sterilized bands as high as I could on the Chinese man’s legs, high, where they joined the body. Sliding a stick into a loop I turned until the pressure stopped the circulation. Very quickly the Lama Mingyar Dondup seized a knife and cut the flesh in a vee. At the point of the vee he sawed through the leg bone—what was left of it—and then tucked in the two flaps of the vee so that the end of the bone was protected by a double layer of flesh. I passed him thread made from the sterilized parts of yak, and speedily he stitched the flaps tightly together. Slowly, carefully, I eased the pressure of the band about the man’s leg, ready to tighten again should the stump bleed. The stitches held, no blood flowed. Behind us a guard retched violently, turned chalk white and fell to the floor in a faint!
Thầy cẩn thận băng vết thương và lại rửa tay vào dung dịch sát trùng. Tôi để ý đến cái chân kia, chân trái, và lại luồn que vào cái vòng trên băng nẹp. Lạt ma gật đầu, và tôi lại quay cái que một lần nữa để ngăn máu chảy ra từ cái chân. Chẳng mấy chốc cái chân này đã được đặt bên cạnh cái kia. Thầy tôi quay về phía một người lính canh đang đứng nhìn chăm chú và bảo anh ta cầm lấy những cái chân này và gói vào một tấm vải. “ Chúng ta phải trả lại những cái chân này cho Phái bộ Trung Quốc,” Ngài nói, “nếu không họ sẽ nói rằng chúng ta tra tấn người của họ. Tôi sẽ nói với Đức Thái Tuế hãy trả người này về với dân tộc của họ. Nhiệm vụ của anh ta là gì không quan trọng; nó đã bị thất bại giống như tất cả những mưu đồ tương tự.” “Nhưng thưa Lạt ma đáng kính!” vị Thẩm phán nói, “Phải buộc người này nói ra anh ta làm gì ở đây và tại sao.” Thầy không nói gì, nhưng quay lại chỗ người đàn ông đang bị thôi miên và nhìn sâu vào đôi mắt bây giờ đã mở của ông ta. “ Anh làm gì ở đây?” Ngài hỏi. Người đàn ông rên rỉ và đảo mắt. Thầy hỏi lại: “Anh định làm gì ở đây? Có phải anh định ám sát Đức Thái Tuế ở Potala phải không?” Ông ta sùi bọt mép, miễn cưỡng gật đầu xác nhận. “Phải nói ra!” Lạt ma ra lệnh. “Một cái gật đầu là không đủ.” Vậy là, dần dần, câu chuyện được hé mở. Tên sát thủ đã phải trả giá cho tội giết người, trả giá cho việc khấy động một đất nước đang yên bình. Tên sát thủ này đã thất bại, cũng như tất cả những kẻ khác cũng vậy, chúng đều không biết được các biện pháp phòng vệ của chúng ta! Khi tôi đang suy tư về việc đó thì Lạt ma đứng dậy. “Ta sẽ đi gặp Đức Thái Tuế, Lobsang, con hãy ở lại đây canh chừng người này,” Ngài nói.
Carefully my Guide bandaged the stump and again washed his hands in the solution. I gave my attention to the other leg, the left, and slid the stick through the loop in the band. The Lama nodded, and I turned the stick once more to shut off the blood from that leg. Soon that limb was lying beside the other. My Guide turned to a staring guard and told him to take the legs and wrap them up in cloth. “We must return these legs to the Chinese Mission,” said the Lama, “or they will say that their man has been tortured. I shall ask the Inmost One that this man be returned to his people. His mission does not matter; it failed as all such attempts will.” “But Honourable Lama!” said the Magistrate, “The man should be forced to tell what he was doing, and why.” My Guide said nothing, but turned again to the hypnotised man and looked deeply into his now-opened eyes. “What were you doing?” he asked. The man groaned and rolled his eyes. My Guide asked him again; “What were you going to do? Were you going to assassinate a High Person within the Potala?” Froth formed around the Chinese man’s mouth then, reluctantly, he nodded his head in confirmation. “Speak!” commanded the Lama. “A nod is not enough.” So, slowly, painfully, the story came out. An assassin paid to do murder, paid to stir up trouble in a peaceful country. An assassin who had failed, as all would fail, through not knowing of our safety devices! As I was musing upon this the Lama Mingyar Dondup rose to his feet. “I will go to see the Inmost One, Lobsang, you stay here and guard this man,” he said.
Người đàn ông rên rỉ. “ Cậu sẽ giết tôi à?” ông ta hỏi yếu ớt. “Không!” tôi trả lời, “ Chúng tôi không giết ai cả.” Tôi dấp nước vào môi ông ta và lau lông mày. Ngay sau đó ông ta lại nằm im; tôi nghĩ ông ta đã ngủ sau khi kiệt sức vì trọng thương. Vị Thẩm phán trông cáu kỉnh, nghĩ rằng các tu sỹ thật điên rồ khi muốn cứu một tên sát thủ sắp ra tay. Ngày như dài ra. Những người lính canh đã đổi gác. Tôi cảm thấy bụng dạ mình như đang vỡ vụn vì đói. Cuối cùng tôi nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc, và Lạt ma Minh gia Đại đức bước vào phòng. Đầu tiên Ngài đến và quan sát bệnh nhân, để biết chắc rằng ông ta đang dễ chịu nhất có thể và rằng vết cắt không bị chảy máu. Đứng lên, Ngài nhìn vào vị quan chức cấp cao, và nói, “ Căn cứ vào quyền hạn mà Đức Thái Tuế đã trao cho ta, ta ra lệnh cho ông lấy hai cái cáng, ngay lập tức, mang người này cùng với những cái chân của anh ta đến Phái bộ Trung Quốc.” Ngài quay lại phía tôi; “Con sẽ đi theo những người này và báo cáo lại cho ta nếu họ hành xử thô bạo không cần thiết trong khi khênh cáng.” Tôi cảm thấy thật u ám; ở đây là tên sát nhân bị cụt chân – còn dạ dày của tôi đang sôi lên ùng ục như trống chùa vì trống rỗng không chút đồ ăn. Trong khi những người đàn ông chạy đi tìm cáng, tôi chạy ào ra ngoài đến chỗ uống trà của quan chức! Tôi lên giọng yêu cầu – và nhận được – một sự giúp đỡ hào phóng. Tôi vội vàng nhồi tsampa vào họng và vội vã quay lại.
The man groaned. “You kill me?” he asked weakly. “No!” I replied, “we kill no one.” I moistened his lips and mopped his brow. Soon he was still again; I think he slept after the exhausting ordeal. The Magistrate looked on sourly, thinking that priests were crazy to want to save a would-be assassin. The day dragged on. Guards went and others came. I felt my interior crumble with hunger. At last I heard familiar footsteps, and the Lama Mingyar Dondup strode into the room. First he came and looked at the patient, making sure that the man was as comfortable as the circumstances permitted and that the stumps were not bleeding. Rising to his feet, he looked at the senior lay official, and said, “By virtue of the authority vested in me by the Inmost One I command you to obtain two litters, immediately, and take this man and his legs to the Chinese Mission.” He turned to me; “You will accompany these men and report to me if they are unnecessarily rough in their handling of the man’s litter.” I felt distinctly gloomy; here was this assassin with his legs cut off—and my stomach rumbling away as empty of food as a temple drum. While the men were absent in search of litters I rushed outside to where I had seen the officials drinking tea! In a haughty voice I demanded—and got—a generous helping. Hastily cramming tsampa down my throat, I rushed back.
Chậm chạp, ủ rũ, những người đàn ông đi vào trong phòng, mang theo hai cái cáng tạm bợ, có tấm vải căng qua hai cái cọc. Một cách cục cằn, họ nhặt đôi chân và đặt lên trên một cái cáng. Dưới ánh mắt săm soi của Lạt ma Minh gia Đại đức, họ nhẹ nhàng đặt người đàn ông Trung Quốc lên chiếc cáng kia. Họ phủ tấm vải lên người ông ta và buộc lại phía dưới cáng để cho ông ta không bật rơi xuống được. Thầy tôi quay về phía viên quan chức cấp cao và nói, “Ông sẽ đi cùng với những người này và chuyển lời chào của tôi đến ngài Đại sứ Trung Hoa, nói với ông ta là chúng ta trao trả lại một trong số những người của họ. Còn con, Lobsang,” Ngài quay lại nói với tôi, “con sẽ đi cùng với họ và khi trở về con hãy báo cáo cho ta biết.” Ngài quay đi, những người đàn ông chậm chạp lê bước ra khỏi căn phòng. Ngoài trời không khí lạnh giá, còn tôi run rẩy trong chiếc áo cà sa mỏng. Chúng tôi chậm chạp đi xuống Mani Lhakhang, người ta khênh cái chân đi trước, rồi đến hai người khênh cáng có người Trung Quốc. Tôi bước đi bên cạnh và vị quan chức cấp cao đi bên kia. Chúng tôi rẽ phải, qua hai công viên và đi thẳng về phía cơ quan Phái bộ Trung Quốc.
Silently, sullenly, the men filed into the room after me, carrying two rough litters, cloth stretched between the poles. Grumpily they picked up the two legs and put them on one litter. Gently, under the keen eyes of the Lama Mingyar Dondup, they placed the Chinese man upon the other litter. A cover was placed over his body and tied under the litter so that he could not be jolted off. My Guide turned to the senior lay official and said, “You will accompany these men and you will present my compliments to the Chinese Ambassador and tell him we are returning one of his men. You, Lobsang,” he turned to me, “will accompany them and on your return you will report to me.” He turned away, and the men trudged out of the room. The air was chilly outside and I shivered in my light robe. Down the Mani Lhakhang we trudged, the men carrying the legs first, then the two men carrying the litter with the Chinese. I walked to one side and the senior lay official walked on the other. We turned off to the right, passed the two Parks and headed on towards the Chinese Mission.
Dòng sông Hạnh phúc lấp lánh phía trước chúng tôi, phơi những đốm sáng rực rỡ qua khoảng trống ở trên cây, chúng tôi đi đến bức tường xa nhất của cơ quan phái bộ. Cằn nhằn, những người đàn ông hạ cáng xuống một lát để cơ bắp đang đau nhức của họ được nghỉ ngơi và tò mò nhìn vào bên trong bức tường Phái bộ. Người Trung Quốc rất khó chịu với những ai cố tình xâm nhập vào địa phận của họ. Đã có trường hợp một số cậu bé “vô tình” bị bắn khi chúng đi ngang qua như bọn trẻ vẫn thế. Bây giờ chúng tôi phải vào bên trong! Nhổ nước bọt vào tay, những người đàn ông lại khom người nhấc cáng lên. Chúng tôi rẽ trái vào đường Lingkhor và đi vào địa phận của Phái bộ. Những người đàn ông cáu kỉnh bước đến cửa và viên quan chức cấp cao nói, “Tôi có vinh hạnh được trả lại cho các ngài một trong những người của các ngài đã cố gắng đi lạc vào Đất Thánh. Anh ta đã bị ngã và phải cắt cụt chân. Đây là chân của anh ta để các ngài kiểm tra.” Những người bảo vệ cáu kỉnh cầm lấy tay cáng và vội vã đi vào bên trong tòa nhà cùng với người của họ và đôi chân của anh ta. Những người khác giơ súng xua tay đuổi chúng tôi đi. Chúng tôi rút lui xuống đường. Không ai nhìn thấy tôi bị trượt chân sau một cái cây. Những người khác vẫn tiếp tục đi. Những tiếng la hét và quát tháo xé tan bầu không khí. Nhìn quanh tôi không thấy có tên lính gác nào, tất cả họ đã vào bên trong khu Phái bộ. Với sự bốc đồng dại dột, tôi rời cái cây và lặng lẽ đến bên cửa sổ. Người đàn ông bị thương đang nằm trên sàn, một tên lính gác ngồi lên ngực anh ta, trong khi hai tên nữa ngồi lên hai cánh tay. Tên thứ tư đang châm những điếu thuốc cháy dở vào vết thương của ông ta. Đột nhiên tên thứ tư bật dậy, rút khẩu sung ngắn và bắn vào giữa trán người bị thương.
With the Happy River glinting ahead of us, showing flecks of bright light through gaps in the trees, we came to the farthermost wall of the Mission. Grunting, the men put down their loads for a time while they rested their aching muscles and looked curiously at the Mission wall. The Chinese were very offensive to any who tried to intrude on their ground. There had been cases of small boys being shot “by accident” when they trespassed as small boys will. Now we were going inside! Spitting on their hands, the men stooped and picked up the litters again. Marching on we turned left into the Lingkhor Road and entered the Mission grounds. Surly men came to the door and the senior official said, “I have the honour to return to you one of your men who attempted to stray into Holy Ground. He fell and his legs had to be amputated. Here are the legs for your inspection.” Scowling guards seized the handles and rushed into the building with the man and his legs. Others, at gunpoint, waved us away. We retreated down the path. I slipped unseen behind a tree. The others marched on. Screams and shouts rent the air. Looking about, I saw that there were no guards; they had all entered the Mission. On a foolish impulse, I left the doubtful security of the tree and ran silently to the window. The injured man was lying on the floor, one guard was sitting on his chest, while two more sat on his arms. A fourth man was applying burning cigarettes to his amputated stumps. Suddenly the fourth man jumped to his feet, drew his revolver and shot the injured man between the eyes.
Có tiếng cành cây gãy sau lưng tôi. Nhanh như chớp tôi quỳ thụp xuống và quay lại nhìn quanh. Một tên lính gác Trung Quốc khác xuất hiện và chĩa súng vào đầu tôi. Tôi lao vào giữa hai chân hắn ta, xô hắn ta khiến khẩu súng rơi xuống đất. Vội vàng tôi chạy từ cái cây này sang cái cây khác. Đạn bay vèo vèo xuyên qua những cành cây thấp rồi có tiếng chân chạy thình thịch phía sau tôi. Đây hoàn toàn là lợi thế của tôi. Tôi nhanh chân chạy còn tên lính Trung Quốc thì thường xuyên phải dừng lại để ngắm bắn tôi. Tôi chạy vội đến cuối khu vườn – chiếc cổng ở đó cũng có lính gác – tôi trèo lên một cái cây vừa phải và thận trọng bám theo một cái cành để có thể buông mình xuống bức tường rào. Vài giây sau tôi đã trở lại con đường, đứng trước những người đồng hương vừa phải khênh người đàn ông bị thương. Ngay sau khi họ nghe câu chuyện tôi kể, họ liền rảo chân bước. Họ không còn nấn ná hy vọng sẽ thấy một điều gì đó thú vị nữa; giờ họ muốn tránh đi. Tên lính gác người Trung Quốc nhảy từ trên đỉnh tường xuống đường và nhìn tôi chằm chằm đầy nghi ngờ. Tôi cũng bình thản nhìn lại. Vẻ mặt cau có, anh ta lầm bầm chửi thề thể hiện sự bất lực về nguồn gốc huyết thống của tôi, rồi quay mình bỏ đi. Chúng tôi tăng tốc đi về.
A twig cracked behind me. Like a flash I dropped to my knees and turned about. Another Chinese guard had appeared and was aiming a rifle at where my head had been. I dived between his legs, tripping him and causing him to drop his rifle. Hastily I ran from tree to tree. Shots came ripping through the low branches and there was the thud of running feet behind me. Here the advantage was wholly mine; I was fleet of foot and the Chinese stopped often to take shots at me. I rushed to the back of the garden—the gate was now guarded—climbed up a convenient tree and inched along a branch so that I could drop on to the top of the wall. Seconds later I was back on the road ahead of my countrymen who had carried in the injured man. As soon as they heard my story they hurried up their footsteps. No longer were they tarrying in the hope of seeing some Excitement; now they wanted to avoid it. A Chinese guard dropped off the top of the wall onto the road and glared at me most suspiciously. I blandly gazed back at him. With a scowl and a muttered oath which reflected adversely on my parentage he turned away. We put on speed!
Trở về đến làng Sho, những người đàn ông bỏ tôi lại một mình. Nhìn lại đằng sau với chút lo lắng, tôi chạy vội trên đường về Chakpori. Một vị sư già đang ngồi nghỉ bên đường gọi với theo tôi, “Con bị làm sao thế, Lobsang? Con chạy gì mà như ma đuổi vậy!” Thở không ra hơi, tôi vội vàng lao vào phòng Thầy, Lạt ma Minh gia Đại đức. Tôi đứng hổn hển một lát, cố gắng lấy lại hơi thở. “Ôi!” cuối cùng tôi vừa thở vừa nói, “Người Trung quốc đã giết người đàn ông đó rồi; họ đã bắn ông ấy!”Tôi kể một mạch tất cả những gì đã xảy ra. Thầy im lặng một lúc, rồi nói, “Rồi con sẽ nhìn thấy rất nhiều bạo lực trong cuộc đời con, Lobsang ạ, vì vậy con không phải quá suy nghĩ về sự việc này. Đây là cách thức ngoại giao thường dùng; giết những kẻ thất bại và khử bỏ những điệp viên đã bị bắt. Việc đó diễn ra khắp nơi, ở tất cả các nước trên toàn thế giới.”
Back at the Village of Shö the men left me. Looking somewhat apprehensively over my shoulder, I hurried on and soon was speeding up the path to Chakpori. An old monk resting by the wayside called after me, “What is wrong with you Lobsang? You look as if all the Demons were after you!” I rushed on and, breathless, entered the room of my Guide, the Lama Mingyar Dondup. For a moment I stood panting, trying to get my breath. “Ow!” I gasped at last, “The Chinese murdered that man; they shot him!” In a torrent of words I told all that had happened. My Guide was silent for a moment. Then he said, “You will see much violence in your life, Lobsang, so do not be too distressed at this event. This is the usual method of diplomacy; kill those who fail and disclaim spies who are caught. It goes on all over the world, in all countries of the world.”
Ngồi trước Thầy tôi, tôi dần hồi phục trước vẻ bình thản trầm tĩnh của Ngài, tôi lại nghĩ về một vấn đề khác khiến mình trăn trở. “Thưa Thầy!” tôi thốt lên, “Thôi miên hoạt động như thế nào ạ?” Ngài nhìn sang tôi nở một nụ cười. “ Con ăn lần cuối cùng là khi nào?” Ngài hỏi. Cơn đói trong tôi lại ào đến. “À, khoảng 12 giờ trước ạ,” tôi rầu rĩ trả lời. “Vậy bây giờ chúng ta ăn cái đã, ở đây, và khi chúng ta đã thoải mái phần nào chúng ta mới có thể bàn luận về thuật thôi miên được.” Ngài vẫy tay bảo tôi im lặng, và Ngài ngồi trong tư thế thiền định. Qua thần giao cách cảm tôi biết được thông điệp của Ngài gửi đến người phục vụ – là đồ ăn và trà. Tôi cũng nhận được thông tin qua thần giao cách cảm gửi đến cho ai đó ở Potala, người phải đến ngay chỗ Đức Thái Tuế để tấu trình chi tiết. Thần giao cách cảm của tôi bị chặn và gián đoạn khi người phục vụ vào phòng mang theo đồ ăn và trà…!
Sitting in front of my Guide, recovering in the calm serenity of his presence, I thought of another matter which was troubling me. “Sir!” I exclaimed, “How does hypnotism work?” He looked across at me with a smile on his lips. “When did you eat last?” he queried. With a rush all my hunger came back. “Oh, about twelve hours ago,” I replied somewhat ruefully. “Then let us eat now, here, and then when we are somewhat refreshed we can discuss hypnotism.” He waved me to silence, and sat in the attitude of meditation. I caught his telepathic message to his servants—food and tea. I caught too a telepathic message to someone at the Potala, someone who had to go to the Inmost One in a hurry to give a detailed report. But my “interception” of the telepathic message was interrupted by the entry of a servant bringing food and tea . . . !
Tôi ngồi xuống, ăn no nê, cảm giác no thậm chí còn khó chịu hơn. Tôi đã có một ngày vất vả, bị đói trong nhiều giờ, nhưng (ý nghĩ đang giày vò nội tâm tôi) liệu bây giờ mình đã ăn quá nhiều quá ngu xuẩn không? Đột nhiên thấy nghi ngờ, tôi nhìn lên.Thầy tôi đang nhìn tôi tỏ vẻ thích thú ra mặt. “ Đúng đấy, Lobsang,” Ngài nhận xét, “con đã ăn quá nhiều. Ta hy vọng rằng con có thể theo được buổi nói chuyện của ta về thôi miên.” Ngài quan sát khuôn mặt đỏ ửng của tôi rồi vẻ mặt ông dịu lại: “ Lobsang tội nghiệp, con đã có một ngày vất vả. Bây giờ con hãy đi nghỉ đi và chúng ta sẽ tiếp tục nói chuyện vào ngày mai.” Ngài đứng lên và ra khỏi phòng. Tôi mệt mỏi leo lên phòng của mình và gần như loạng choạng đi dọc hành lang. Ngủ! Đó là tất cả những gì tôi muốn bây giờ. Đồ ăn à? Phù! Tôi đã ăn quá nhiều rồi. Tôi đến bên chiếc đệm của mình rồi cuộn tròn trong áo choàng. Thực ra giấc ngủ cũng bị quấy rầy; tôi đã có ác mộng, trong đó người đàn ông cụt chân đã săn đuổi tôi qua những cánh rừng nhỏ và tên lính Trung quốc khác cầm súng nhảy lên vai tôi cố gắng quật ngã tôi.
I sat back, replete with food, feeling even more uncomfortably full. I had had a hard day, I had been hungry for many many hours, but (the thought troubled me internally) had I eaten too much too unwisely now? Suddenly, suspiciously, I looked up. My Guide was gazing down upon me with obvious amusement on his face. “Yes, Lobsang,” he remarked, “you have eaten too much. I hope you will be able to follow my talk on hypnotism.” He studied my flushed face and his own look softened: “Poor Lobsang, you have had a hard day. Go to your rest now and we will continue our discussion on the morrow.” He rose to his feet and left the room. I climbed wearily to mine and almost tottered along the corridor. Sleep! That was all I wanted. Food? Pfaugh! I had had too much of that. I reached my bedplace and rolled myself in my robes. Sleep was troubled indeed; I had nightmares in which legless Chinese chased me through wooded groves and other Chinese armed with guns kept jumping on my shoulders in an attempt to bring me down.
“Bụp!” Một cú đánh vào đầu tôi trên sàn. Một trong những tên lính gác Trung Quốc đang đá tôi. “Bụp” Lại một cú đá nữa vào đầu. Tôi lờ đờ mở mắt ra và thấy một thầy dòng đang hăng hái đập vào đầu và đá tôi trong nỗ lực đánh thức tôi dậy. “Lobsang, tôi cứ tưởng cậu đã chết. Cậu đã ngủ suốt đêm, quên cả các buổi lễ, và chỉ có Thầy của cậu, Lạt ma Minh gia Đại đức can thiệp thì mới cứu cậu khỏi các Giám thị. Dậy đi!” Anh ta quát lên, vì tôi lại định lăn ra ngủ tiếp.
Bây giờ tôi đã hoàn toàn tỉnh táo. Qua ô cửa sổ tôi thấy những tia nắng sớm ló rạng trên dãy Himalaya cao vời vợi, chiếu sáng lên những tòa nhà cao nhất trong thung lũng, khoe những mái nhà sắc vàng của Sera phía xa, rực sáng dọc theo mái nhà của Pargo Kaling. Hôm qua tôi đã đến làng Sho – À! Đó không phải là giấc mơ. Hôm nay, hôm nay tôi hy vọng đã bỏ lỡ mấy bài học và sẽ học trực tiếp từ người Thầy yêu quý của mình. Cũng học về thuật thôi miên nữa! Chẳng bao lâu tôi đã ăn xong bữa sáng và đang trên đường đến lớp, không phải để ở lại và học thuộc lòng 108 cuốn Kinh, mà để giải thích tại sao tôi lại không phải làm như vậy!
“Thump!” went my head on the ground. One of the Chinese guards was kicking me. “Thump!” went my head again. Blearily I opened my eyes to find an acolyte energetically banging my head and kicking me in a desperate attempt to wake me. “Lobsang!” he exclaimed as he saw that my eyes were open. “Lobsang, I thought you were dead. You have slept all through the night, missed the Services, and only the intervention of your Master, the Lama Mingyar Dondup, has saved you from the Proctors. Wake up!” he shouted, as I almost lapsed into sleep again.
Consciousness flooded into me. Through the windows I saw the early morning rays of sunlight peering over the high Himalayas and lighting up the tallest buildings in the valley, showing the golden roofs of the distant Sera, glowing along the top of the Pargo Kaling. Yesterday I had gone to the Village of Shö—ah! that was not a dream. Today, today I hoped to miss some lessons and learn direct from my beloved Mingyar Dondup. Learn about Hypnotism, too! Soon I had finished my breakfast and was on my way to the classroom, not to stay and recite from the hundred and eight Sacred Books, but to explain why I was not!
“Thưa thầy!” tôi nói khi thấy thầy giáo vừa bước vào lớp, “Thưa thầy! Con phải diện kiến Lạt ma Minh gia Đại đức hôm nay. Con xin phép được nghỉ học.” “À, đúng rồi! cậu bé,” Thầy giáo nói với giọng dịu dàng không ngờ. “Ta đã có hứa với Thầy của con, Lạt ma tôn kính. Ông ấy thật tốt khi nhận xét rất tốt về những tiến bộ của con dưới sự dạy dỗ của ta. Ta phải thừa nhận là ta rất hài lòng, rất hài lòng.” Tôi ngạc nhiên khi thấy ông dang tay đặt lên vai tôi trước khi bước vào lớp. Cảm thấy rất vui và băn khoăn không biết điều kỳ diệu nào đã làm thay đổi ông như vậy, tôi đi lang thang về Khu vực của các Lạt ma.
“Sir!” I said, as I saw the Teacher just going into the classroom, “Sir! I have to attend the Lama Mingyar Dondup this day. I beg to be excused from class.” “Ah, yes! my boy,” said the Teacher in amazingly genial tones. “I have had a word with the Holy Lama your Guide. He was good enough to comment favourably upon your progress under my care; I confess I am most gratified, most gratified.” Astonishingly, he extended his hand and patted me upon the shoulder before entering the classroom. Bemused, and wondering what sort of magic had been worked upon him, I wandered off towards the Lamas’ Quarters.
Tôi cứ đi mà không cần quan tâm gì đến thế giới. Băng qua một cánh cửa hé mở. “Ồ!” tôi chợt thốt lên và đứng khựng lại. “ Quả óc chó ngâm!” Mùi hương của nó rất đậm. Âm thầm theo dõi, tôi lặng lẽ nhìn qua khe cửa. Một vị sư già đang nhìn chăm chăm xuống sàn nhà bằng đá, lẩm bẩm câu gì đó nhưng không phải là cầu nguyện, mà là tiếc rẻ vì đã mất cả lọ óc chó ngâm, cái lọ không biết bằng cách nào ông ta có được từ Ấn Độ. “Con có thể giúp gì được cho ông không, thưa Lạt ma?” tôi hỏi một cách lễ phép. Ông già quay bộ mặt dữ tợn về phía tôi và đáp lại bằng vẻ mặt đó khiến tôi chạy thục mạng dọc theo hành lang. “ Tất cả những lời kêu than này chỉ vì mấy quả óc chó thôi à!” Tôi ghê tởm tự nói với chính mình.
On I strolled without a care in the world. Past a half-opened doorway. “Ow!” I exclaimed suddenly, coming to a sudden stop. “Pickled walnuts!” The scent of them was strong. Back-tracking silently, I peered through the doorway. An old monk was staring down at the stone floor, muttering things which were not his prayers, mourning the loss of a whole jar of pickled walnuts which had somehow been obtained from India. “May I help you, Reverend Lama?” I asked politely. The old man turned a ferocious face to me and made such a rejoinder that I raced off along the corridor while I was still able. “All those words just for a few walnuts!” I said disgustedly to myself.
“Vào đi!” Thầy nói khi tôi vừa đến cửa. “Ta cứ nghĩ là con đã quay về đi ngủ rồi.” “Thưa Thầy!” tôi nói, “Con đến đây để nghe Thầy chỉ giáo. Con lo lắng việc phải biết được bản chất của thôi miên.” “Lobsang,” Thầy nói, “con sẽ phải học rất nhiều hơn thế. Trước hết con phải học những kiến thức cơ bản về thôi miên. Nếu không con sẽ không biết được chính xác con đang làm gì. Ngồi xuống đi.” Tôi ngồi xuống, dĩ nhiên là khoanh chân trên sàn. Thầy ngồi đối diện với tôi. Ngài như chìm trong suy tư một lát, rồi nói: “Đến bây giờ con nên nhận thức rằng tất cả mọi thứ đều có rung động, đều là điện. Cơ thể con người có rất nhiều chất hóa học nằm trong các bộ phận của nó. Một số các hóa chất này đã được chuyển lên não bằng đường máu. Như con biết, não là nơi được cung cấp máu tốt nhất và trong máu có các hóa chất. Đó là kali, mangan, carbon và nhiều các thành phần khác, tạo nên các mô não. Sự tương tác giữa chúng tạo ra một dao động đặc biệt của các phân tử mà chúng ta gọi là “dòng điện”. Khi người ta nghĩ, đó là người ta đang thiết lập sự vận động một loạt các điều kiện dẫn đến hình thành dòng điện và, đó là, ‘sóng điện não’.
“Come in!” said my Guide as I approached his door. “I thought you had gone back to sleep.” “Sir!” I said, “I have come to you for instruction. I am anxious to know the nature of hypnotism.” “Lobsang,” said my Guide, “you have to learn much more than that. You have to learn the basis for hypnotism first. Otherwise you do not know exactly what you do. Sit down.” I sat, cross legged of course, upon the floor. My Guide sat opposite me. For a time he seemed lost in thought, and then said: “By now you should have realised that everything is vibration, electricity. The body has many different chemicals in its composition. Certain of those chemicals are conveyed to the brain by the blood stream. The brain, you know, has the best supply of blood and its contained chemicals. Those ingredients, potassium, manganese, carbon, and many others, form the brain tissue. Interaction between them makes a peculiar oscillation of molecules which we term an ‘electric current’. When one thinks one sets in motion a chain of circumstances which results in the formulation of this electric current and, hence, ‘brain waves’.”
Tôi suy nghĩ về toàn bộ vấn đề; Tôi đã không thể thấy được tất cả những cái đó. Nếu có dòng điện trong não của tôi, tại sao tôi không bị điện giật? Một thằng bé đang thả diều, tôi nhớ lại, đã bị điện giật như vậy trong trận mưa bão có sấm sét. Tôi nhớ có tia chớp màu xanh sáng rực chạy dọc theo sợi dây diều bị ướt; Tôi rùng mình nhớ lại cậu ấy đã ngã xuống đất và cháy đen như một miếng thịt khô chiên giòn. Và có lần chính tôi cũng bị sét đánh, nhưng chỉ ở mức bị tê tê so với các trường hợp khác, nhưng “sự tê tê” đó cũng đủ để hất văng tôi ra xa hàng chục feet.
“Thưa Lạt ma tôn kính!” tôi phản biện, “làm thế nào để có điện ở trong não? Nó có thể khiến người ta phát điên vì đau đớn!” Thầy ngồi xuống và cười. “Lobsang!”, Ngài nói, “cơn sốc mà một lần con đã bị đã cho con suy nghĩ hoàn toàn sai về điện. Lượng điện trong não thực ra là chỉ cần rất nhỏ. Những máy móc rất nhạy mới có thể đo được nó và có thể lập được biểu đồ biến thiên của nó khi một người đang nghĩ hoặc thực hiện một động tác vật lý nào đó.” Ý nghĩ có một người lại đo điện áp của người khác là quá sức đối với tôi, tôi bật cười. Thầy chỉ tủm tỉm và nói: “Chiều nay chúng ta hãy đến Potala. Ở chỗ Đức Thái Tuế có một thiết bị có thể giúp chúng ta nói chuyện dễ hơn về chủ đề điện này. Bây giờ con hãy ra và tự chơi – hãy đi ăn, mặc một chiếc cà sa đẹp nhất rồi gặp ta ở đây vào lúc trưa.” Tôi đứng lên, cúi chào và rời khỏi đó.
I pondered the whole matter; I could not see all this. If there were ‘electric currents’ in my brain, why did I not feel the shock? That boy who was flying a kite, I recalled, had been doing so in a thunderstorm. I remembered the vivid blue flash as lightning traveled along his wet kite line; I remembered, with a shudder, how he had fallen to the ground as a dried-up, fried crisp of flesh. And once I too had had a shock from the same source, a mere tingle compared to the other, but “tingle” enough to throw me a dozen feet.
“Honourable Lama!” I expostulated, “how can there be electricity in the brain? It would drive a man mad with the pain!” My Guide sat and laughed at me. “Lobsang!” he chuckled, “the shock you once had has given you a wholly incorrect idea of electricity. The amount of electricity in the brain is of a very small order indeed. Delicate instruments can measure it and can actually chart the variations as one thinks or undertakes some physical action.” The thought of one man measuring another man’s voltage was almost too much for me, I started to laugh. My Guide merely smiled and said: “Let us this afternoon walk over to the Potala. The Inmost One has there a device which will enable us to talk more easily on this electrical subject. Go now and entertain yourself—have a meal, put on your best robe and meet me here when the sun is at noon.” I rose to my feet, bowed, and went out.
Trong suốt hai tiếng đồng hồ, tôi đi lang thang, trèo lên mái nhà và ném vu vơ những viên đá cuội nhỏ vào đầu những ông sư không chút nghi ngờ đi ngang qua bên dưới. Mệt mỏi với trò nghịch đó, tôi cúi đầu chui qua một cái cửa lật dẫn xuống một hành lang tối. Đang bị treo ngược chân thì tôi vừa kịp nghe thấy tiếng bước chân đang đến. Tôi không thể nhìn thấy gì vì ô cửa ở trong góc. Tôi thè lưỡi, tạo bộ mặt dữ tợn và chờ đợi. Một ông già rẽ vào góc đường và vì không thể nhìn thấy tôi nên đã va mạnh vào tôi. Cái lưỡi ướt át của tôi chạm vào má của ông ta. Ông ta kêu rú lên, và đánh rơi chiếc khay đang cầm kêu loảng xoảng, ông ta chạy biến với một tốc độ kinh ngạc so với một ông già cỡ đấy. Tôi cũng bị bất ngờ; ông sư già va vào làm chân tôi tuột ra khỏi chỗ bám lỏng lẻo. Tôi ngã ngửa xuống hành lang. Chiếc cửa sập cũng rơi theo kèm với một tiếng động lớn và cả đống bụi đến ngạt thở trút xuống người tôi! Choáng váng, tôi loạng choạng đứng dậy và lao đi nhanh nhất có thể về hướng ngược lại.
For two hours I wandered around, climbing to the roof and idly flicking small pebbles on to the unsuspecting heads of monks passing below. Tiring of that sport, I lowered myself head first through a trap-hatch leading down to a dark corridor. Hanging upside down by my feet I was just in time to hear approaching footsteps. I could not see, because the trap-hatch was at a corner. Sticking out my tongue, and making a ferocious face I waited. An old man came round the corner and, not being able to see me, bumped into me. My wet tongue touched his cheek. He emitted a shriek, and dropping the tray he was carrying with a crash, he disappeared at a speed surprising in such an old man. I too had a surprise; as the old monk bumped into me it dislodged my feet from their precarious hold. I fell on my back into the corridor. The trap-hatch fell with a resounding crash and a whole load of choking dust fell on top of me! Scrambling dizzily to my feet I made off as fast as I could in the opposite direction.
Vẫn còn đau từ cú ngã, tôi thay áo choàng và đi ăn; cũng không choáng đến mức quên hết mọi việc! Rất đúng giờ, khi mặt trời đứng bóng và vào đúng giữa trưa, tôi đã có mặt trước Thầy mình. Ngài cố gắng tỏ ra quan trọng khi nhìn thấy tôi. “Lobsang, có một nhà sư già thề rằng ông ấy vừa bị một con quỷ ngáng đường ở hành lang phía Bắc. Một nhóm ba lạt ma đã đến đó để xua đuổi con quỷ. Không nghi ngờ gì nữa ta sẽ phải làm phần việc của mình là đưa con quỷ ấy – chính là con – đến Potala như kế hoạch. Đi thôi!” Ngài quay đi và bước ra khỏi phòng. Tôi đi theo đằng sau, e ngại liếc nhìn xung quanh. Rốt cuộc, người ta sẽ không bao giờ biết được chắc chắn chuyện gì đã xảy ra nếu như các lạt ma làm lễ trừ tà. Tôi mơ hồ hình dung thấy mình đang bay trên không trung để đến một nơi nào đó vô định, có thể không được thoải mái.
Still suffering from the shock, I changed my robe and had a meal; I was not shocked enough to forget that! Punctually, as the shadows vanished, and the day was at noon, I presented myself before my Guide. With some effort he composed his features as he saw me. “An elderly monk, Lobsang, swears that he was beset by a devil in the North corridor. A party of three lamas has gone there to exorcise the devil. No doubt I shall be doing my part if I take him—you—to the Potala as arranged. Come!” He turned and walked out of the room. I followed behind, casting apprehensive glances about me. After all, one never knew for sure what would happen if the Lamas were exorcising. I had vague visions of finding myself flying through the air to some unknown, probably uncomfortable, destination.
Chúng tôi bước ra ngoài trời. Hai con ngựa nhỏ đang được các nài ngựa giữ ở đó. Lạt ma Minh gia Đại đức cưỡi lên một con và chầm chậm đi xuống núi. Tôi được giúp trèo lên con ngựa của mình, và một nài ngựa đã tinh nghịch đập tay vào con ngựa. Con ngựa cũng đùa theo. Đầu nó cúi xuống, mông nó chổng lên, khiến tôi tuột xuống khỏi chiếc lưng cong như vòng cung của nó. Nài ngựa giữ con vật lại trong khi tôi lồm cồm bò dậy từ mặt đất và phủi bụi bám vào áo. Rồi tôi lại trèo lên ngựa một lần nữa, cẩn thận quan sát xem liệu các nài ngựa có làm thêm trò gì nữa không.
Con ngựa biết rằng đang có một kẻ ngốc nghếch trên lưng. Nó cứ đi ngớ ngẩn vào những chỗ nguy hiểm và dừng lại ở sát mép đường. Rồi nó cúi đầu chăm chú nhìn vào nền đá ở tít xa bên dưới. Cuối cùng tôi xuống ngựa và dắt nó đi theo. Như thế còn nhanh hơn. Đến chân núi Sắt tôi lại lên ngựa và đi theo Thầy tôi đi vào Làng Sho. Ngài có việc gì đó ở đấy khiến chúng tôi phải ở lại trong ít phút. Thời gian đó cũng đủ để tôi lấy lại hơi thở và bình tĩnh trở lại. Sau đó lại lên ngựa, chúng tôi leo lên những bậc thang rộng dẫn lên Potala. Tôi mừng vì được giao con ngựa của mình cho các nài ngựa đang chờ sẵn. Tôi còn vui hơn khi được đi theo Thầy đến căn phòng riêng của Ngài. Niềm vui của tôi tăng lên khi biết rằng sẽ được ở lại đây suốt ngày hoặc có thể lâu hơn.
Out we went, into the open. Two ponies were being held by grooms. The Lama Mingyar Dondup mounted and slowly rode off down the mountain. I was helped on to my pony, and one of the grooms playfully gave him a slap. The pony felt playful too. Down went his head. Up went his rear, and off his back in an arc went I. A groom again held the animal while I picked myself from the ground and brushed off some of the dust. Then I mounted again, watching warily in case the grooms tried anything else.
That pony knew he had a duffer aboard; the moronic animal kept walking to the most dangerous places and stopping on the very edge. Then he would lower his head and gaze earnestly at the rocky ground so far below. At last I dismounted and towed the pony behind me. It was quicker. At the bottom of Iron Mountain I again mounted and followed my Guide into the Village of Shö. He had some business there which detained us for a few moments. Time enough for me to regain my breath and my shattered composure. Then, mounting again, we climbed up the broad, stepped Way to the Potala. Gladly I relinquished my pony to the waiting grooms. Even more gladly I followed the Lama Mingyar Dondup to his own apartment. My pleasure was increased by the knowledge that I should be staying here for a day or so.
Chẳng mấy chốc đã đến giờ dự buổi lễ ở ngôi đền bên dưới. Ở Potala, theo tôi, các buổi lễ rất trang trọng, các quy tắc quá chặt chẽ. Đã có quá đủ phấn khích trong một ngày, cũng như phải chịu đựng nhiều vết bầm tím nhỏ, tôi vẫn giữ được thái độ tốt nhất và buổi lễ đã kết thúc mà không có sự cố nào xảy ra. Bây giờ phải chấp nhận một việc là khi Thầy đang ở Potala thì tôi nên ở lại trong một căn phòng nhỏ thông với phòng của Ngài. Tôi đến đó và ngồi xuống chờ các sự kiện, biết rằng Lạt ma Minh gia Đại đức đang tham gia vào các vấn đề của Nhà nước cùng với một quan chức cao cấp vừa trở về từ Ấn Độ. Thật hấp dẫn khi ngắm cảnh qua ô cửa sổ và nhìn thấy thành phố Lhasa ở phía xa. Quang cảnh ở đây có một vẻ đẹp vượt trội; những cái hồ có hàng liễu rủ quanh bờ, những tia sáng lấp lánh từ Jo Kang, và đám đông những người hành hương đang chen chân dưới chân núi Thánh với hy vọng được nhìn thấy Đức Thái Tuế (hiện Người đang sống ở đây) hoặc ít ra cũng được nhìn thấy một quan chức cấp cao nào đó. Một dãy dài vô tận các thương gia cùng những con vật của họ đang chậm chạp đi qua Pargo Kaling. Tôi đang chăm chú để ý đến đống hàng kỳ lạ của họ thì có tiếng bước chân nhẹ nhàng phía sau.
Soon it was time to attend the service in the Temple below. Here at the Potala, services were—I thought—excessively formal, the discipline too strict. Having had more than enough of excitement for one day, as well as suffering from many small bruises, I remained on my best behavior and the service was concluded without incident. It was now an accepted thing that when my Guide was at the Potala I should occupy a small room adjoining his. I went there and sat down to await events, knowing that the Lama Mingyar Dondup was engaged in matters of State with a very senior official who had recently returned from India. It was fascinating to look out of the window and see the City of Lhasa in the distance. The view was one of surpassing beauty; willow fringed lakes, golden gleams from the Jo Kang, and the milling throng of pilgrims who clamoured at the foot of the Holy Mountain in the hope of seeing the Inmost One (who was in residence) or at least some high official. An interminable string of traders and their beasts were just wending their slow way past the Pargo Kaling. I dwelt for a moment upon their exotic loads, but was interrupted by a soft footstep behind me.
“Lobsang, chúng ta uống trà rồi sẽ tiếp tục câu chuyện nhé,” Thầy vừa vào, nói. Tôi đi theo đến phòng của Ngài, căn phòng được bài trí rất khác với những căn phòng thường được dùng cho các nhà sư nghèo. Trà, đương nhiên rồi, nhưng cả những đồ ngọt cũng từ Ấn Độ. Tất cả những cái đó rất hợp với khẩu vị của tôi. Thông thường tu sỹ không bao giờ nói chuyện trong khi ăn; nó bị coi là không tôn trọng đồ ăn, nhưng hôm nay Thầy đang nói với tôi rằng người Nga đang có ý đồ quấy rối Tây Tạng, đang cố gắng cài gián điệp vào đây. Chẳng mấy chốc chúng tôi xong bữa và cùng đến những căn phòng là nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đang lưu giữ rất nhiều máy móc kỳ lạ từ các vùng đất xa xôi. Chúng tôi nhìn quanh một lát, Lạt ma Minh gia Đại đức chỉ vào những đồ vật cổ và giải thích công dụng của chúng. Cuối cùng Ngài dừng lại ở góc một căn phòng và nói, “Lobsang, Hãy nhìn cái này!” Tôi đến bên Ngài và chẳng có chút ấn tượng nào với thứ đang nhìn thấy.
“We will have tea, Lobsang, and then we will continue with our talk,” said my Guide who had just entered. I followed him to his room where was laid out fare very different from that normally served to a poor monk. Tea, of course, but sweet things from India too. It was all very much to my taste. Normally monks never talk when they eat; it is considered to be disrespectful to the food, but on this occasion my Guide told me that the Russians were attempting to make trouble for Tibet, were attempting to infiltrate spies. Soon we finished our meal and then made our way to the rooms where the Dalai Lama stored many strange devices from far-off lands. For a time we just looked about us, the Lama Mingyar Dondup pointing out odd objects and explaining their uses. At last he stopped in a corner of one room and said, “Look at this, Lobsang!” I moved to his side and was not at all impressed with what I saw.
Trước mắt tôi, trên một cái bàn nhỏ là một cái bình thủy tinh. Bên trong có hai sợi dây mảnh, mỗi đầu treo một quả cầu nhỏ bằng chất liệu có vẻ như lõi cây liễu. “ Cốt lõi vấn đề là ở đây!” Thầy nói khô khan khi tôi nhận xét về vấn đề này. Thầy nói “Lobsang, con nghĩ điện là một cái gì đó khiến con bị giật. Nhưng có một loại hình khác, một biểu hiện khác mà chúng ta gọi là tĩnh điện. Bây giờ hãy nhìn xem!”
Từ cái bàn, Lạt ma lấy ra một cái que sáng bóng, có lẽ dài khoảng ba mươi đến ba lăm phân. Ngài chà mạnh cái que vào áo choàng và sau đó mang nó đến gần cái bình thủy tinh. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy hai quả cầu văng mạnh sang hai bên và vẫn đứng cách xa nhau kể cả khi cái que đã được rút lại. “Tiếp tục quan sát nhé!” Thầy tôi khuyến khích. Vâng, con đang quan sát đây. Sau vài phút hai quả cầu lại từ từ rơi xuống dưới tác động thông thường của trọng lực. Ngay sau đó chúng lại được treo thẳng xuống như trước khi làm thí nghiệm.
Before me, on a small table, stood a glass jar. Inside there depended two thin threads, each supporting at their far end a small sphere of something that appeared to be pith from a willow tree. “It is pith!” commented my Guide dryly, when I remarked upon the matter. “You, Lobsang,” said the Lama, “think of electricity as something that gives you a shock. There is another kind, or manifestation, which we term static electricity. Now watch!”
From the table the Lama Mingyar Dondup took a shiny rod, possibly about twelve to fourteen inches long. Briskly he rubbed the rod on his robe and then brought it close to the glass jar. To my intense surprise the two pith spheres flew violently apart—and stayed apart even when the rod was withdrawn. “Keep watching!” exhorted my Guide. Well, that is what I was doing. After some minutes the pith balls slowly sank down again under the normal pull of gravity. Soon they were hanging straight down as they had before the experiment.
“Con thử đi,” Lạt ma đề nghị, đưa cái que màu đen cho tôi. “ Lạy Mẹ Dolma phù hộ cho con!” tôi kêu lên, “Con không chạm vào cái đó đâu!” Thầy cười ấm áp trước biểu hiện quá lo sợ của tôi. “Lobsang, cứ thử đi,” Ngài dịu dàng nói, “vì ta chưa bao giờ lừa con cả.” “Vâng,” tôi làu nhàu, “nhưng đây là lần đầu tiên.” Ngài ấn cái que vào người tôi. Thận trọng tôi cầm lấy cái vật kỳ quái này. Miễn cưỡng và chần chừ (sợ bị giật bất cứ lúc nào), tôi chà cái que vào áo choàng. Không có cảm giác gì, không bị giật hay bị tê. Cuối cùng tôi cầm nó đi đến bên chiếc bình và – thật kỳ diệu – những quả cầu gỗ lại văng tách nhau ra. “Lobsang, như con thấy đấy,” Thầy nhận xét, “vẫn đang có điện, thậm chí con không cảm thấy bị giật. Điện não là như thế đấy. Hãy đi với ta.” Ngài dẫn tôi tới một cái bàn khác trên đó đang để một thiết bị đáng chú ý nhất. Nó có vẻ là một chiếc bánh xe mà trên bề mặt của nó có vô số những tấm kim loại. Có hai thanh được cố định lại để cho một bó dây dẫn trần gắn vào đó chạm nhẹ vào hai tấm kim loại. Từ những cái thanh này các dây dẫn được kéo dài đến hai quả cầu kim loại cách nhau khoảng ba mươi phân. Cái này chẳng có ý nghĩa gì với tôi cả. “Hình tượng của ma quỷ,” tôi nghĩ. Thầy xác nhận ấn tượng đó bằng động tác tiếp theo. Nắm lấy tay cầm để giữ bánh xe từ phía sau, Ông quay mạnh bánh xe. Với một tiếng gầm rất lớn, chiếc bánh xe trở nên sống động; lóe sáng và nhấp nháy. Từ những quả cầu kim loại xuất hiện một lưỡi lớn ánh chớp màu xanh, rít lên và nổ lách tách. Có một cái mùi là lạ như thể chính không khí đang bị cháy. Tôi không chờ lâu hơn nữa; đây chắc chắn không phải là chỗ giành cho tôi. Tôi lẩn ngay xuống gầm chiếc bàn lớn nhất và cố gắng luồn ra ô cửa phía xa.
“You try it,” commanded the Lama, extending the black rod to me. “By the Blessed Dolma!” I cried, “I’m not touching that thing!” My Guide laughed heartily at my more-than-distressed expression. “Try it, Lobsang,” he said mildly, “for I have never played a trick on you yet.” “Yes,” I grumbled, “but there is always a first time.” He pressed the rod upon me. Gingerly I took the awful object. Reluctantly half-heatedly (expecting a shock at any moment) I rubbed the rod on my robe. There was no sensation, no shock or tingle. At last I held it toward the glass jar and—wonder of wonders!—the pith balls flew apart again. “As you observe, Lobsang,” remarked my Guide, “electricity is flowing, yet even you feel no shock. Such is the electricity of the brain. Come with me.” He led me to another table upon which rested a most remarkable device. It appeared to be a wheel upon whose surface there were innumerable metal plates. Two rods were fixed so that a spray of wires from each lightly touched two of the metal plates. From the rods wires trailed to two metal spheres which were about a foot apart. The thing made no sense at all to me. “Statue of a devil,” I thought. My Guide confirmed that impression by his next move. Grasping a handle which projected from the back of the wheel he gave it a very hearty twirl. With a growl of rage the wheel sprang to life; flashing and winking. From the metal spheres a great tongue of blue lightning leaped, hissing and crackling. There was a strange smell as if the air itself were burning. I waited no longer; this most definitely was not the place for me. I dived beneath the biggest table and tried to wriggle my way to the far distant door.
Không còn tiếng rít và tiếng tách tách, thay vào đó là một âm thanh khác. Tôi kiểm tra lại cuộc chạy trốn của mình và ngạc nhiên lắng nghe, âm thanh đó có phải là tiếng cười không? Không thể nào! Từ nơi ẩn nấp, tôi lo lắng nhìn ra ngoài. Lạt ma Minh gia Đại đức đang cười rũ rượi, chảy cả nước mắt với khuôn mặt đỏ ửng vì thú vị. Ngài cũng dường như không thở được. Cuối cùng Ngài nói, “Ôi, Lobsang, lần đầu tiên ta thấy có người sợ cái máy Wimshurst này đấy. Những thiết bị này đang được dùng ở nhiều nước khác để chứng minh các thuộc tính của điện.”
Tôi chui ra, cảm giác khá ngốc ngếch, và lại gần xem chiếc máy kỳ lạ. Lạt ma nói, “Ta sẽ giữ hai sợi dây này, còn con, Lobsang, hãy quay cái tay quay này nhanh nhất có thể. Con sẽ thấy tia chớp trên khắp người ta, nhưng nó sẽ không có hại với ta và cũng không làm ta đau. Chúng ta hãy thử đi. Ai mà biết được? Biết đâu con lại có dịp để cười ta!” Ngài cầm hai sợi dây dẫn, mỗi tay một cái, rồi gật đầu ra hiệu cho tôi bắt đầu. Một cách dứt khoát, tôi cầm lấy tay quay và quay nó nhanh nhất có thể. Tôi kêu lên thích thú khi thấy những dải tia chớp màu tím chạy qua đôi tay và gương mặt Thầy. Ngài vẫn hoàn toàn bình thản. Tuy nhiên cái mùi khó chịu lại xuất hiện. “Khí ozon đấy, hoàn toàn vô hại,” Thầy nói.
The hissing and crackling stopped, to be replaced by another sound. I checked my flight and listened in amazement, was it the sound of laughter? Never! Nervously I peered from my sanctuary. There was the Lama Mingyar Dondup almost doubled up with laughter. Tears of merriment were trickling from his eyes, while his face was red with amusement. He seemed to be gasping for breath, too. “Oh, Lobsang!” he said at last, “that is the first time I have known anyone to be frightened of a Wimshurst Machine. These devices are used in many foreign countries that the properties of electricity may be demonstrated.”
I crept out, feeling rather silly, and had a closer look at the strange machine. The Lama said, “I will hold these two wires, Lobsang, and you turn the handle as fast as you can. You will see lightning flash all over me, but it will not harm me nor cause me pain. Let us try. Who knows? Perhaps you will have an opportunity to laugh at me!” He took two wires, one in each hand, and nodded for me to start. Grimly I seized the handle and turned as fast as I could. I shouted in amazement as great purple and violet bands of lightning streamed across my Guide’s hands and face. He was quite unperturbed. Meanwhile the smell had started again. “Ozone, quite harmless,” said my Guide.
Cuối cùng tôi cũng bị thuyết phục cầm dây trong khi Lạt ma quay bánh xe. Tiếng rít và lách tách nghe cũng đáng sợ, nhưng về cảm giác nó giống như một làn gió mát hơn là bất kỳ cái gì khác! Lạt ma lấy những đồ bằng thủy tinh khác nhau từ trong một cái hộp và tiếp xúc từng cái một với chiếc máy qua các dây dẫn. Khi ông quay, tôi thấy một ngọn lửa sáng bùng cháy trong mộtchai thủy tinh, và trong những cái chai khác, một hình chữ thập và những hình khác bằng kim loại được vẽ lên bởi ngọn lửa. Nhưng tôi không cảm thấy bị điện giật ở đâu cả.Với cái máy Wimshurst, Thầy đã chứng minh rằng một người không có khả năng thấu thị có thể nhìn thấy hào quang của con người như thế nào, và còn nhiều thứ sau đó.
Cuối cùng, trời tối dần khiến chúng tôi dừng cuộc thí nghiệm và quay trở về phòng của Lạt ma. Trước tiên lại có một buổi lễ tối nữa, cuộc sống của chúng tôi ở Tây tạng dường như hoàn toàn bị bó hẹp bởi việc tuân thủ các nghi thức tôn giáo. Sau khi xong buổi lễ, chúng tôi lại quay về tịnh thất của Lạt ma Minh gia Đại đức, tại đây chúng tôi ngồi hoa sen trên sàn như thường lệ, ở giữa là một chiếc bàn nhỏ, có lẽ cao khoảng ba lăm phân.
At last I was persuaded to hold the wires with the Lama turning the handle. The hissing and crackling was fearsome in the extreme, but as for feeling—it was more like a cool breeze than anything else! The Lama took various glass things from a box and one by one connected them to the machine by wires. As he turned the handle I saw a bright flame burning inside a glass bottle, and, in other bottles, a cross and other metal shapes outlined by living fire. But nowhere could I get a feeling of electric shock. With this Wimshurst Machine my Guide demonstrated how a person who was not clairvoyant could be enabled to see the human aura, but more of that later.
Eventually, the fading light caused us to desist from our experiments and to return to the Lama’s room. First there was the evening service again, our life in Tibet seemed to be completely circumscribed by the needs for religious observance. With the service behind us we returned once again to my Guide the Lama Mingyar Dondup’s apartment, here we sat in our usual cross legged attitude upon the floor with the little table, perhaps fourteen inches high, between us.
“Lobsang,” Thầy nói, “bây giờ chúng ta phải quay lại vấn đề thôi miên, nhưng trước hết chúng ta phải quyết định lên hoạt động của bộ não con người. Ta đã cho con thấy – ta hy vọng thế – rằng dòng điện có thể đi qua mà không gây đau đớn hoặc khó chịu. Bây giờ, ta muốn con thấy rằng khi một người suy nghĩ anh ta sẽ tạo ra dòng điện. Chúng ta không cần phải đi sâu vào vấn đề dòng điện kích thích vào các sợi cơ và gây ra phản ứng như thế nào, toàn bộ sự quan tâm của chúng ta lúc này là dòng điện – sóng não, cái mà được đo rất rõ ràng và được y học phương Tây vẽ thành biểu đồ.” Tôi phải thú nhận rằng thấy điều đó có phần nào hấp dẫn vì theo cách suy nghĩ thiển cận của mình, tôi cũng đã hiểu rằng ý thức cũng có sức mạnh, vì tôi nhớ đến cái ống bằng giấy da được đục lỗ xù xì mà tôi đã sử dụng khi ở tu viện, và tôi đã chỉ dùng sức mạnh của tư duy để làm quay cái ống đó.
“Lobsang! Con lại nghĩ lan man rồi đó!” Thầy nói. “ Con xin lỗi, thưa thầy tôn kính!”, tôi trả lời, “Con chỉ đang suy nghĩ về bản chất rõ ràng của sóng thần kinh, và con thấy thú vị từ cái ống giấy mà Thầy đã giới thiệu cho con cách đây mấy tháng.”
“Now Lobsang,” said my Guide, “we have to get down to this matter of hypnotism, but first of all we have to decide upon the operation of the human brain. I have shown you—I hope!—that there can be the passage of an electric current without one experiencing pain or discomfort therefrom. Now, I want you to consider that when a person thinks he generates an electric current. We need not go into the matter of how an electric current stimulates muscle fibre and causes reaction, our whole interest for the moment is the electric current—the brain waves which have been so clearly measured and charted by Western medical science.” I confess that I found this to be of some interest to me because in my small and humble way it had already occurred to me that thought had force, because I remembered that parchment roughly perforated cylinder which I had used at times in the Lamasery, and which I had caused to rotate by thought power alone.
“Your attention is wandering, Lobsang!” said my Guide. “I am sorry, Honourable Master,” I replied, “I was merely reflecting upon the undoubted nature of thought waves, and considering the amusement I derived from that cylinder to which you introduced me some months ago.”
Thầy nhìn tôi và nói, “Con là một thực thể, một cá nhân, và con có suy nghĩ của riêng con. Con có thể cân nhắc xem có thực hiện một hành động, ví dụ như nhấc cái tràng hạt đó. Thậm chí trong khi cân nhắc một hành động, não của con cũng tạo ra một dòng điện từ các thành phần hóa học của nó, và sóng điện chuẩn bị các cơ của con cho hành động sắp tới. Nếu có một lực điện từ lớn hơn xuất hiện trong não con, thì ý định đầu tiên của con là nhấc cái tràng hạt này lên sẽ bị ngăn trở. Rât dễ để thấy rằng nếu như ta thuyết phục con rằng con không thể nhấc cái tràng hạt lên được, thì não của con – đã vượt quá sự kiểm soát tức thì của con – sẽ tạo ra và gửi đi một sóng đối ngược. Khi đó con sẽ không thể nhấc được cái tràng hạt hoặc thực hiện hành động đã được suy tính.” Tôi nhìn Ngài và nghĩ về việc đó, và nó thực sự không có nhiều ý nghĩa với tôi, bởi vì Ngài đã có thể tác động như thế nào, bao nhiêu điện được tạo ra từ não của tôi? Tôi nghĩ về điều đó, nhìn Ngài và tự hỏi liệu có nên nói ra nghi ngờ của mình không. Tuy nhiên, không cần thiết, vì Ngài đã đoán được điều đó và vội vàng trấn an tôi. “Lobsang, ta có thể đảm bảo với con rằng cái điều mà ta nói là sự thật có thể chứng minh được, và ở phương Tây chúng ta có thể chứng minh được tất cả những cái đó bằng một thiết bị có thể vẽ biểu đồ ba sóng não cơ bản, tuy nhiên ở đây, chúng ta không có những thiết bị đó và chúng ta chỉ có thể bàn luận về vấn đề này mà thôi. Não sinh ra điện, nó tạo ra sóng, và nếu con quyết định nhấc tay mình lên thì não của con sẽ tạo ra sóng dựa trên quyết định của con. Nếu ta có thể – tốt hơn là bằng các thuật ngữ kỹ thuật – đưa vào não con các điện tích âm, khi đó ý định ban đầu của con sẽ bị thất bại. Nói cách khác, con sẽ bị thôi miên!”
My Guide looked at me and said, “You are an entity, an individual, and you have your own thoughts. You may consider that you will do some course of action, such as lift that rosary. Even in considering an action your brain causes electricity to flow from its chemical constituents, and the wave from the electricity prepares your muscle for the impending action. If a greater electrical force should occur in your brain, then your original intention of lifting that rosary would be thwarted. It is easy to see that if I can persuade you that you cannot lift that rosary, then your brain—being beyond your immediate control—will generate and send out an opposing wave. You will then be unable to lift the rosary or do the contemplated action.” I looked at him, and thought of the affair, and it really did not make much sense to me, for how could he influence how much electricity my brain was generating? I thought about it, and looked at him, and wondered if I should voice my doubt. There was no necessity to, however, for he divined it and hastened to set my mind at rest. “I can assure you, Lobsang, that what I say is demonstrable fact, and in a Western country we should be able to prove all this under a piece of apparatus which would chart the three basic brain waves, here however, we have no such facilities and we can only debate the matter. The brain generates electricity, it generates waves, and if you decide to lift your arm then your brain generates waves on the intention of your decision. If I can—in rather technical words—feed a negative charge into your brain, then your original intention would be frustrated. In other words, you would be hypnotised!”
Điều đó thực sự bắt đầu có ý nghĩa; Tôi đã nhìn thấy cái máy Wimshurst đó, và tôi đã thấy những chứng minh khác nhau được thực hiện nhờ sự trợ giúp của nó, và tôi cũng đã thấy có thể thay đổi cực của dòng điện như thế nào và như vậy nó làm cho dòng điện xoay chiều. “ Thưa Lạt ma tôn kính,” tôi thốt lên, “ bằng cách nào mà Thầy có thể đưa điện tích âm vào não con được? Thầy không thể bóc đỉnh đầu con ra và nhét điện vào bên trong được, vậy thì nó được thực hiện như thế nào?” “Lobsang thân mến của ta,” Thầy nói, “không cần thiết phải nhét vào đầu con vì ta không tạo ra bất kỳ dòng điện nào và nhét nó vào trong đầu con cả, ta có thể đưa ra những đề xuất thích hợp mà nhờ đó con sẽ bị thuyết phục về tính đúng đắn của tuyên bố hoặc đề xuất của ta, và rồi – không cần đến bất kỳ sự kiểm soát chủ động nào từ phía con – con sẽ tự mình tạo ra dòng điện âm.”
This really did begin to make sense; I had seen that Wimshurst Machine, and I had seen various demonstrations conducted with its assistance, and I had seen how it was possible to alter the polarity of a current and so cause it to flow in the opposite direction. “Honourable Lama,” I exclaimed, “how is it possible for you to feed a current into my brain? You cannot take off the top of my head and put some electricity inside, how then may it be done?” “My dear Lobsang,” said my Guide, “it is not necessary to get into your head because I do not have to generate any electricity and put into you, I can make appropriate suggestions whereby you will be convinced of the accuracy of my statement or suggestions, and you will then—without any voluntary control on your part—generate that negative current yourself.”
Ngài nhìn tôi và nói, “Ta tuyệt đối không muốn thôi miên bất kỳ ai mà họ không muốn trừ khi trong trường hợp cần thiết phải phẫu thuật, nhưng ta nghĩ rằng với sự hợp tác của con thì việc chứng minh một vấn đề nhỏ,đơn giản của thuật thôi miên có thể sẽ là một ý kiến hay.”Tôi vội vàng thốt lên, “Ồ vâng, chắc con sẽ thích được trải nghiệm về thôi miên!”Ông mỉm cười trước sự phấn khích của tôi và hỏi, “Lobsang, hiện tai, bình thường con không thích làm việc gì? Ta hỏi con vậy bởi vì ta muốn thôi miên để con sẽ làm một việc mà con không muốn làm để cho cá nhân con có thể khẳng định rằng trong khi làm việc đó con đã hành động một cách vô thức, bị động.”Tôi suy nghĩ một lát, và thực sự rất khó nói, có rất nhiều thứ mà tôi không muốn làm! Thầy tôi đã cứu vãn tôi khỏi phải suy nghĩ tiếp, Ngài nói, “Ta biết!Con đã lo lắng khi phải đọc đoạn văn có liên quan ở tập 5 của Kangyur. Ta tin rằng, con đang e ngại một số thuật ngữ được dùng sẽ phản lại con, và phản lại sự thật rằng trong cái môn đặc biệt đó con đã không học chăm chỉ như gia sư của con mong muốn!”
He looked at me and said, “I am most unwilling to hypnotise anyone against their will except in a case of medical or surgical necessity, but I think that with your co-operation it might be a good idea to demonstrate a simple little matter of hypnotism.” I exclaimed hastily, “Oh yes, I should love to experience hypnotism!” He rather smiled at my impetuosity and asked, “Now, Lobsang, what would you be unwilling to do, normally? I ask you that because I want to hypnotise you into doing something that you would not willingly do so that you personally can be assured that in doing this thing you are acting under involuntary influence.” I thought for a moment, and really I hardly knew what to say, there were so many things that I did not want to do! I was saved further thought on this matter by my Guide, who exclaimed, “I know! You were not at all anxious to read that rather involved passage in the fifth volume of the Kangyur. You were, I believe, rather afraid that some of the terms used would betray you, and betray the fact that on that particular subject you had not studied so assiduously as desired by your tutor!”
Tôi cảm thấy khá mơ hồ về điều đó, và phải thú nhận rằng tôi cũng cảm thấy má mình ửng đỏ vì bối rối. Điều đó hoàn toàn đúng, có một đoạn văn đặc biệt khó trong Cuốn Sách ấy khiến tôi vô cùng khó khăn, tuy nhiên, vì khoa học, giờ tôi đã bị thuyết phục để sẵn sàng đọc nó. Thực tế tôi luôn có nỗi sợ phải đọc đoạn văn đặc biệt này! Thầy mỉm cười và nói, “ Cuốn sách đang ở đằng kia, ngay bên cạnh cửa sổ, con hãy cầm nó ra đây, lật đến đoạn văn đó và đọc to lên, và nếu con cố gắng không đọc nó – hoặc nếu con cố gắng làm rối tinh mọi thứ – thì điều đó sẽ là một phép thử tốt hơn nhiều.” Tôi miễn cưỡng đi lấy cuốn sách,và uể oải lật giở các trang. Những trang sách Tây Tạng của chúng tôi lớn hơn – nặng hơn nhiều – so với sách của phương Tây. Tôi lóng ngóng, dờ dẫm và kéo dài công việc càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, cuối cùng cũng giở đến đoạn cần thiết, và tôi phải thú nhận rằng đoạn văn đặc biệt này, vì những sự cố trước đây với gia sư, nó thực sự khiến tôi cảm thấy gần như phát ốm.
I felt rather gloomy about that, and I confess I also felt my cheeks redden with some embarrassment. It was perfectly true, there was a particularly difficult passage in The Book which caused me extreme difficulty, however, in the interests of science I was quite prepared to be persuaded to read it. Actually I had almost a phobia against reading that particular passage! My Guide smiled and said, “The Book is over there just to the side of the window, bring it here, turn to that passage and read it aloud, and if you will try not to read it—if you will try to mess up the whole thing—then that will be a much better test.” I reluctantly went across and fetched The Book, and unwillingly turned over the pages. Our Tibetan pages are much bigger—much heavier—than Western books. I fumbled and fumbled, and made the thing as long-drawn-out as possible. In the end, though, I turned to the appropriate passage, and I confess that this particular passage, because of some earlier incident with a tutor, really did make me feel almost physically sick.
Tôi đứng đó với cuốn sách ở trước mặt, và cố gắng nhất có thể nhưng chẳng thể đọc rõ ràng được các từ trong đó. Nghe có vẻ lạ nhưng đó là sự thật bởi vì tôi đã được một gia sư kém hiểu biết dạy dỗ không tốt khiến tôi sinh ra căm ghét những câu văn thiêng liêng đó. Thầy nhìn tôi – không làm gì khác – chỉ nhìn tôi, và rồi dường như có cái gì đó chạm vào bên trong đầu, và rất ngạc nhiên tôi thấy rằng mình đang đọc, không chỉ là “đọc” mà đọc trôi chảy, dễ dàng, không hề ngại ngùng. Khi đến cuối đoạn văn, tôi có cảm giác khó lý giải nhất. Tôi đặt cuốn sách xuống và đi ra giữa phòng và đứng cắm đầu xuống đất! “Tôi bị điên rồi!” tôi nghĩ. “ Không biết Thầy sẽ nghĩ gì về mình vì đã có biểu hiện vô cùng ngu ngốc như vậy?” Thế rồi điều đó đã xảy ra với tôi, rằng Thầy tôi đang xui khiến tôi – tác động đến tôi – để tôi hành xử như vậy. Nhanh chóng tôi bật lại đứng trên hai chân, và thấy Ngài đang cười rất hài lòng với tôi. “Lobsang, đó thực sự là một việc dễ nhất, là tác động đến người khác, chẳng có một chút khó khăn nào khi người ta làm chủ được vấn đề cơ bản. Ta chỉ nghĩ đến một số điều nhất định và con đã nắm được ý nghĩ của ta bằng thần giao cách cảm, và việc đó đã làm cho não con phản ứng lại bằng cách mà ta đã đoán trước. Do đó những biến động nhất định trong cấu hình não bình thường của con đã tạo ra kết quả rất thú vị này!”
I stood there with The Book in front of me, and try as I might I could not articulate those words. It may seem strange but it is a fact that because I had been so ill-used by an un-understanding tutor I had developed a real hatred for those sacred sentences. My Guide looked at me—nothing more—just looked at me, and then something seemed to click inside my head, and I found to my very considerable surprise that I was reading, not just “reading” but reading fluently, easily, without a trace of hesitation. As I reached the end of the paragraph I had the most inexplicable sensation. I put down The Book and I went to the middle of the room and I stood on my head! “I’m going crazy!” I thought. “Whatever will my Guide think of me for behaving in this utterly foolish manner?” Then it occurred to me, that my Guide was making me—influencing me—to behave thus. Quickly I jumped to my feet, and found that he was smiling most benevolently upon me. “It really is a most easy matter, Lobsang, to influence a person, there is no difficulty at all when one has mastered the basic matter. I merely thought of certain things and you picked up my thoughts telepathically, and that caused your brain to react in the manner I had anticipated. Thus certain fluctuations in your normal brain pattern were caused which produced this quite interesting result!”
Thưa Lạt ma tôn kính!” tôi nói, “vậy có phải nếu ta có thể đưa một dòng điện vào não người khác thì ta có thể sai khiến người đó làm bất cứ việc gì mình muốn?” “Không, nó hoàn toàn không có nghĩa là như vậy,” Thầy nói. “ Mà có nghĩa là nếu ta có thể thuyết phục được một người thực hiện một chuỗi các hành động nhất định nào đó, và cái chuỗi hành động ấy không đi ngược lại với lòng tin của người này, khi đó anh ta sẽ thực hiện mà không mảy may nghi ngờ gì cả chỉ bởi vì sóng não của anh ta đã bị thay đổi, và bất kể ý định ban đầu của anh ta là gì, thì anh ta vẫn sẽ phản ứng theo yêu cầu của người thôi miên. Trong phần lớn các trường hợp một người nhận các yêu cầu từ người thôi miên, nhưng không có tác động thực sự nào khác từ người thôi miên ngoài tác động của chính yêu cầu đó. Người thôi miên, bằng những mẹo nhỏ nhất định, có thể xui khiến một hành động ở nạn nhân ngược lại với hành động đã có chủ định từ trước.” Ngài nghiêm nghị nhìn tôi một lát rồi nói thêm, “Tất nhiên con và ta có những năng lực khác thế. Con sẽ có khả năng thôi miên một người ngay lập tức thậm chí cả khi người ta không muốn, món quà đó chỉ dành cho con vì bản chất đặc biệt khác thường của cuộc đời con, vì sự khó nhọc vô cùng, và cũng vì công việc đặc biệt mà con đang phải hoàn thành.”
“Honourable Lama!” I said, “then does it mean that if we can put an electric current into a person’s brain we can make that person do anything we want?” “No, it does not mean that at all,” said my Guide. “It means instead that if we can persuade a person to do a certain course of action, and the course of action which we desire to persuade is not contrary to that person’s belief, then he will undoubtedly do it merely because his brain waves have been altered, and no matter what his original intention, he will react as suggested by the hypnotist. In most cases a person receives suggestions from a hypnotist, there is no real influence exerted by the hypnotist other than the influence of suggestion. The hypnotist, by certain little tricks, is able to induce a course of action in the victim contrary to that which was originally contemplated.” He looked at me seriously for a moment and then added, “Of course you and I have other powers than that. You will be able to hypnotise a person instantly even against a person’s wishes, that gift is being made unto you because of the peculiar nature of your life, because of the very great hardships, because of the exceptional work which you are going to have to achieve.”
Ngài ngồi xuống nhìn tôi chăm chú để có thể biết chắc rằng tôi đã lĩnh hội được những thông tin mà Ngài vừa nói, hài lòng thấy tôi đã hiểu, Ngài tiếp tục, “Sau này – không phải bây giờ – con sẽ được học thật nhiều hơn nữa về thuật thôi miên và làm thế nào để thôi miên nhanh. Ta muốn nói với con rằng năng lực thần giao cách cảm của con sẽ mạnh lên, bởi vì khi con từ đây đi thật xa đến các nước khác con sẽ cần phải giữ liên lạc với với chúng ta thường xuyên, và nhanh nhất và cách thích hợp nhất là bằng thần giao cách cảm.” Tôi cảm thấy hoàn toàn mơ hồ với tất cả những điều đó. Tôi dường như lúc nào cũng phải học những cái mới, và càng học nhiều thì càng ít thời gian cho riêng bản thân, dường như đối với tôi càng ngày càng có thêm nhiều việc mà chẳng bỏ bớt đi được việc nào!
He sat back and gazed at me in order that he might determine if I had assimilated the information which he had given me, satisfied that I had, he continued, “Later—not yet—you will be taught much more about hypnotism and how to hypnotise quickly. I want to tell you that you will also have your telepathic powers increased, because when you journey from here far out into other countries you will need to keep in touch with us all the time, and the quickest and the most accurate way is by telepathy.” I felt quite gloomy over all this. I seemed the whole time to be learning something fresh, and the more I learned the less time I had for myself, it seemed to me that more and more work was being added to me but none was being lifted off!
“Nhưng, thưa Lạt ma tôn kính!” tôi nói, “thần giao cách cảm hoạt động như thế nào? Có vẻ không có gì xảy ra giữa chúng ta, vậy mà Thầy biết hầu hết những suy nghĩ của con, đặc biệt kể cả khi con không muốn như vậy!” Thầy nhìn tôi cười và nói, “Đó là vấn đề hoàn toàn đơn giản, thần giao cách cảm, người ta chỉ phải kiểm soát sóng não của mình. Nhìn vào việc đó theo cách này; con suy nghĩ, não con tạo ra dòng điện dao động phù hợp với sự thay đổi trong suy nghĩ của con. Thông thường, suy nghĩ của con sẽ kích hoạt một cơ bắp để một chi có thể được nâng lên hoặc hạ xuống, hoặc con có thể đang nghĩ về một chủ đề nào đó ở khoảng cách xa, dù đó là cách nào đi nữa, thì năng lượng tinh thần của con được lan truyền — nghĩa là, năng lượng từ não của con được phát ra một cách bừa bãi theo mọi hướng. Nếu như có một phương pháp nào đó mà bằng cách đó con có thể tập trung suy nghĩ, thì khi đó nó sẽ có cường độ lớn hơn rất nhiều, đi theo hướng đang được tập trung suy nghĩ.” Tôi nhìn Ngài, và nhớ lại một thí nghiệm nhỏ mà Ngài đã chỉ cho tôi xem trước đây; chúng tôi đã ở vị trí rất giống như bây giờ, đó là trên cao ở trên The Peak (mà như người Tây tạng chúng tôi gọi là Potala). Vị Lạt ma Thầy tôi trong bóng đêm đã thắp một ngọn nến nhỏ phát ra ánh sáng yếu ớt le lói ra xung quanh. Nhưng rồi Ngài đặt một cái kính phóng đại phía trước ngọn nến, và bằng cách điều chỉnh khoảng cách của cái kính với ngọn nến, Ngài có thể chiếu lên tường hình ngọn lửa nến sáng hơn nhiều. Để nâng cao bài học, Ngài lại đặt một cái bề mặt sáng bóng ở phía sau ngọn nến, và lần này nó đã tập trung ánh sáng nhiều hơn để cho hình ảnh trên tường thậm chí còn lớn hơn. Tôi chỉ ra điều đó và Ngài đã nói, “Phải! Điều đó hoàn toàn đúng, bằng các thủ thuật khác nhau mà người ta có thể tập trung suy nghĩ và gửi suy nghĩ đó đi theo một hướng đã xác định từ trước. Trên thực tế, mỗi người đều có cái mà chúng ta có thể gọi là bước sóng riêng biệt, đó là lượng năng lượng trên sóng cơ bản phát ra từ não của bất kỳ một người nào đều phải tuân theo kiểu chính xác của dao động, và nếu chúng ta có thể xác định được tốc độ của dao động của sóng não cơ bản của người khác và làm cho nó phù hợp với dao động cơ bản đó thì chúng ta sẽ không khó khăn gì để truyền tải thông điệp của chúng ta bằng cách mà chúng ta gọi là thần giao cách cảm,bất chấp khoảng cách.” Ngài nhìn tôi vẻ cương quyết và nói thêm, “Lobsang, con phải hiểu rõ trong đầu, rằng khoảng cách không có nghĩa lý gì khi nói đến thần giao cách cảm, thần giao cách cảm có thể băng qua đại dương, thậm chí nó có thể vượt qua các thế giới khác nhau!”
“But, Honourable Lama!” I said, “how does telepathy Work? Nothing appears to happen between us, yet you know almost everything I think especially when I do not want you to!” My Guide looked at me and laughed, and said, “It really is quite a simple matter, telepathy, one merely has to control the brain waves. Look at it in this way; you think, your brain generates electric currents which fluctuate in accordance with the variations of your thought. Normally your thoughts go to activate a muscle so that a limb may be raised or lowered, or you may be thinking of a certain subject at a distance, whatever way it is, your mental energy is broadcast—that is, the energy-force from your brain is emitted indiscriminately in all and every direction. If there was some method whereby you could focus your thought, then it would be of a very much greater intensity in the direction in which it was focused.” I looked at him, and I remembered a little experiment which he had shown me some time before; we had been in much the same position as now, that is high up on The Peak (as we Tibetans call the Potala). The Lama, my Guide, had in the darkness of the night lighted a small candle and the light glimmered faintly around. But then he had put a magnifying glass in front of the candle, and by adjusting the distance of the magnifying glass from the flame he had been able to project upon the wall a much brighter image of the candle flame. To increase the lesson, he had put a shiny surface behind the candle, and that, in turn, had concentrated the light more so that the image upon the wall was even greater. I mentioned this to him, and he said, “Yes! That is perfectly correct, by various tricks it is possible to focus the thought and to send it in a certain predetermined direction. Actually, every person has what we might term an individual wave-length, that is, the amount of energy on the basic wave emitted from the brain of any one person follows a precise order of oscillation, and if we could determine the rate of oscillation of the basic brain wave of another person and tune in to that basic oscillation, we should have no difficulty whatever in conveying our message by so-called telepathy, irrespective of the distance.” He gazed firmly at me, and added, “You must get it quite clear in your mind, Lobsang, that distance means nothing whatever when it comes to telepathy, telepathy can span oceans, it can even span worlds!”
Thú thực rằng điều mà tôi lo lắng nhất là làm thế nào để thực hiện được nhiều hơn trong lĩnh vực thần giao cách cảm, tôi có thể hình dung mình đang nói chuyện với những người bạn đang ở các tu viện khác, như tu viện Sera, hoặc thậm chí ở các quận xa xôi. Tuy nhiên, dường như đối với tôi, tất cả nỗ lực phải được dành cho những thứ có thể giúp ích cho bản thân trong tương lai, một tương lai — mà theo tất cả các lời tiên tri, thực sự sẽ rất u ám.
Thầy lại cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi, “Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề thần giao cách cảm sau. Chúng ta cũng sẽ bàn về vấn đề thấu thị, bởi vì con có những khả năng khác thường về thấu thị, và sẽ dễ dàng cho con nếu được biết trước về cơ chế hoạt động của nó. Tất cả chỉ xoay quanh sóng não và làm gián đoạn Hồ sơ Akashic, nhưng đêm xuống rồi, chúng ta phải dừng cuộc thảo luận ở đây và chuẩn bị đi ngủ để phục hồi sức khỏe trong đêm, chuẩn bị cho buổi lễ sáng.”
I confess that I was most anxious to do more in the realm of telepathy, I could visualise myself talking to those of my fellows who were at other lamaseries, such as Sera, or even in far-off districts. It seemed to me, though, that all my efforts had to be devoted to things which would help me in the future, a future—which, according to all prophecies, would be a gloomy affair indeed.
My Guide interrupted my thoughts again, “We will go into this matter of telepathy later. We will also go into the matter of clairvoyance, for you will have abnormal powers of clairvoyance, and it will ease things for you if you are aware of the mechanics of the process. It all revolves around brain waves and interrupting the Akashic Record, but night is upon us, we must cease our discussion for the moment and prepare for sleep that we may during the night hours be refreshed in time for the first service.”
Ngài đứng lên và tôi cũng đứng lên theo. Tôi kính cẩn cúi chào Ngài, và tôi mong rằng tôi có thể thể hiện được nhiều hơn sự kính trọng sâu sắc của tôi dành cho con người vĩ đại này, một người thân thiết đối với tôi.
Một nụ cười thoáng qua trên môi Ngài, Ngài đi về phía trước và tôi cảm thấy bàn tay ấm áp của Ngài đặt trên vai tôi. Nhẹ nhàng vỗ vai tôi, Ngài nói, “Lobsang, chúc ngủ ngon, chúng ta phải ngủ ngay thôi kẻo không sẽ lại thành đầu đơ mất – không thể dậy được khi đến lúc chúng ta phải tham gia buổi lễ.” Trong phòng riêng, tôi đứng một lát bên cửa sổ trong không khí lạnh trời đêm. Tôi nhìn xuống những ánh đèn của thành phố Lhasa, và suy nghĩ về tất cả những gì đã được nghe, những gì mà tôi chưa được học. Rõ ràng là càng học thì càng có nhiều thứ phải học, và tôi tự hỏi không biết bao giờ thì nó mới kết thúc. Thở dài, có lẽ vì thất vọng, tôi quấn chặt cà sa vào người rồi lăn ra ngủ trên sàn lạnh.
He rose to his feet, and I rose to mine. I bowed to him in the attitude of respect, and I wished that I could show more adequately the profound respect which I felt for this great man who had so befriended me.
Briefly, a fleeting smile crossed his lips, and he stepped forward and I felt his warm handclasp upon my shoulder. A gentle pat, and he said, “Goodnight, Lobsang, we must not delay any longer, or we shall be logheads again—unable to awaken when it is time for us to attend to our devotions.” In my own room I stood for some moments by the window with the cold night air blowing in. I gazed out upon the lights of Lhasa, and reflected upon all that had been told to me, and upon all that I had yet to learn. It was obvious to me that the more I learned—the more there was to learn, and I wondered where it would all end. With a sigh, perhaps of despair, I rolled myself more tightly in my robe and lay down upon the cold floor to sleep.
Người dịch: Phạm Thị Liễu
Biên tập: VMC Việt Nam