Chương 9: Ba kiếp sống – Lobsang Rampa

ba kiếp sống

‘Mình đang ở trong vòng tay của các thiên thần. Ôi trời ơi, ôi trời ơi!’ Hogy tự nhủ.

Đột nhiên, có một lực kéo mạnh khiến ông thấy mình tuột ra khỏi vòng tay của các thiên thần, ông đang rơi, đang rơi, ông cảm thấy mình đang lộn nhào, lộn nhào xuyên qua bóng đêm dày đặc bao quanh.

Đột nhiên mọi thứ dừng lại, Hogy như nẩy tung lên trên một tấm cao su hay như đang chơi trò yo-yo.Ông bối rối và hoàn toàn mất phương hướng, ông dường như đang ‘ở đâu đó’, nhưng ở đâu thì ông không thể nói được. Ông xoay người và rồi như thể đang nhìn qua một cái lỗ trên trần nhà hay một cái lỗ trên sàn nhà, ông nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ.

‘Borne aloft in the arms of angels. Oh boy, oh boy!’ said Hogy to himself. Then suddenly there was a tremendous pull on Hogy and he found himself torn away from the arms of the angels, down, down, down he fell turning head over feet, head over feet through the living darkness. As suddenly as it occurred it ceased and Hogy seemed to be bouncing on the end of a piece of rubber or acting like a yo-yo. He was confused and quite disoriented, he seemed to be ‘somewhere’, but where he could not tell. He twisted about and then, as though he were peering through a hole in the ceiling or a hole in the floor, he saw a weird scene.

Hogy đang nhìn xuống nhà tang lễ. Ông rùng mình sợ hãi khi nhìn thấy những cơ thể trần truồng đang nằm trên những chiếc bàn đặc biệt và tất cả đang bị đối xử một cách tàn nhẫn nhất. Một số thì đang bị rút hết máu, số khác thì đang cố gắng chặn máu rỉ ra từ các lỗ trên cơ thể, và trong căn phòng nhỏ, Hogy đã thấy chính mình.

Đó là thân xác mà ông vừa rời bỏ. Ông đang nằm trên một trong những chiếc bàn kỳ dị đó và một người phụ nữ trẻ với điếu thuốc trể nải ở môi dưới đang cúi xuống cơ thể ông.

He shuddered with fright as he looked and saw all those naked bodies there on peculiar tables and all having the most diabolical things done to them. Some were having blood drained out, others were having ‘body orifices’ stopped up to prevent leakage, and off in a little cubicle Hogy saw HIMSELF!

The body which he had left. He was on one of these strange tables and bending over him was a young woman with a cigarette drooping loosely from her lower lip.

Hogy thực sự giật mình kinh ngạc khi ông quan sát thấy người phụ nữ đang cạo mặt cho cái xác của ông. Cũng khi đó ông thấy một người đàn ông vội vã băng qua phòng đứng bên cạnh và nói: ‘Làm tốt lắm, Beth, Ngài Mac Ogwascher là một người rất quan trọng, chúng ta phải trưng bày ông ấy vào chiều nay. Cô làm liệu có kịp không?’ Người phụ nữ chỉ gật đầu và tiếp tục công việc của mình.

Hogy really started with astonishment when he observed that the woman was shaving the face of his dead body. As he watched a man hurried across the floor beneath and said, ‘Do a good job, Beth, Mr. MacOgwascher was a very important man, we’ve got to have him on display by this afternoon. Get on with it, will you?’ The woman just nodded her head and went on with her work.

Cô cạo râu cho ông thực sự rất kỹ lưỡng, rồi cô trang điểm cho ông. Cô chải những sợi tóc còn lại trên đầu cho ông và nhuộm cho đều các mảng màu xám khác nhau. Rồi cô cẩn thận nhìn lại cơ thể ông và bước đến cửa phòng nói lớn: ‘Này sếp, cái xác này đã sẵn sàng. Hãy đến kiểm tra xem đã được chưa?’

She shaved him very, very closely indeed, then she applied make-up. She brushed his hair or what hair he had left on his head and applied dye to various gray patches. Then she looked critically at his body and walked to the door of the cubicle and yelled, ‘Hey boss, this stiff’s ready. Come and okay, will ya?’

Ông sếp vội vã bước ra khỏi căn phòng nhỏ ở phía xa và lao về phía cô gái, nói to một cách phấn chấn ‘Cô không được nói những câu như vậy, Beth, cô không được nói như vậy. Đây là xác của ngài Hogy MacOgwascher, một người rất quan trọng ở địa phương này. Tôi yêu cầu phải tôn trọng tất cả những cái xác này.’

The boss hurried out of the little cubicle at the far end and rushed toward her screaming excitedly, ‘You mustn’t say things like that, Beth, you mustn’t say things like that. This is the body of Mr. Hogy MacOgwascher, a very important local man. I demand that all these bodies be treated with respect.’

‘Sếp à, ông cũng không tôn trọng với một số người trong đó đấy thôi’, Beth đáp lại. ‘Tôi nhớ ông đã vùi vài cái xác vào trong mùn cưa và đóng nắp quan tài thật nhanh, chắc họ không trả nhiều tiền, phải không? Nhưng được thôi, ông cứ làm theo cách của mình, ông là sếp mà. Tạm biệt Ngài MacOgwaschaer,’ cô nói rồi vui vẻ đi làm công việc khác.

Hogy kinh ngạc quay đi. Sau không biết bao lâu, ông buộc phải nhìn xuống lần nữa và phát hiện thi thể của mình đã biến mất và một thi thể khác đang được đưa vào.

‘Well boss, you don’t show respect to some of them,’ Beth replied. ‘I mind some of the stiffs you’ve tumbled in the sawdust and screwed down quick, they didn’t get much, did they? But okay, have it your way, you’re the boss. Okay, goodbye Mr. MacOgwascher,’ she said as she sauntered jauntily off to another job.

Hogy turned away in amazement. When, after some un determined time, he was compelled to look down again he found that his body had vanished and another body was being brought in.

Đó là một cái xác được bọc hoàn toàn trong một tấm giấy bóng kính lớn, được gấp lại như một gói đồ giặt, ông nghĩ. Ông chú ý quan sát khi tấm giấy bóng kính được mở ra thì một cơ thể lộ diện. Đó là một người phụ nữ, ông sếp và trợ lý nam chẳng mấy chốc cởi bỏ hết quần áo cô ấy ra.

Hogy – người đàn ông lịch sự nhất, tránh mắt không nhìn và phóng tầm mắt ra xa hơn chỗ này và ông nhìn thấy một trong các ‘Phòng trưng bày’.

Ông đang ở đó, được đặt trong một quan tài rất đắt tiền và có rất nhiều người đang nhìn chằm chằm vào ông. Ông thấy họ đang uống cà phê.

It was all wrapped up in a whole mass of cellophane, folded up like a parcel of laundry, he thought. He watched with interest as the cellophane sheeting was unwrapped and the body was exposed. It was a woman and the bossman and male assistant soon got her clothes off.

Hogy, a most modest man, averted his eyes and in doing so he looked rather further than he had seen before and he saw one of the ‘Display Rooms.’

There he was, propped up in a very expensive casket and there were people gazing down on him. They were drinking coffee, he saw.

Một người đặt tách cà phê của mình lên trên nắp quan tài. Hogy nhìn xuống xác mình và nghĩ rằng ông trông như một ngôi sao điện ảnh theo cách mà ông được tô vẽ, đánh phấn, nhuộm tóc, cạo râu và tất cả những thứ còn lại. Ông kinh tởm quay đi. Thời gian trôi qua. Bao lâu rồi? Không ai biết, cũng phải được hai, ba ngày rồi.

One put his coffee cup down on the casket. Hogy looked down at himself and thought that he looked just like a film star the way he had been painted and powdered and dyed and shaved and all the rest of it. He turned away in disgust. Time passed. How long? No one knows, it must have been two or three days anyway.

Thời gian không có ý nghĩa gì đối với cuộc sống bên kia. Nhưng Hogy đã mắc kẹt tại thời khắc này, và rồi đột nhiên ông lại được di chuyển. Ông nhìn xuống và thấy mình ở trong một chiếc xe tang đang chạy đến Nhà thờ, ông thấy quan tài được đưa vào trong nhà thờ và ông thấy buổi Lễ tưởng niệm của Công giáo La mã.

Rồi ông thấy giáo sĩ đi lên bục giảng và đọc một bài điếu văn về Hogy MacOgwascher, ông ta ngân nga: ‘Người anh em yêu quý bây giờ đang trong vòng tay của chúa Giê-xu trên thiên đàng, đang hưởng phần thưởng xứng đáng cho một con người nhân đức’.

Time does not matter in the life beyond this. But Hogy was stuck in a certain spot, and then suddenly he was moved again. He looked down and found that he was in a hearse being driven to a Church, he saw the casket taken into the Church and he saw the Roman Catholic Memorial Service.

Then he saw the parson go up into his pulpit and give a Eulogy on Hogy MacOgwascher,: ‘This dearly beloved brother,’ intoned the parson, ‘is now in the arms of Jesus in Heaven enjoying the rewards of the virtuous.’

Hogy quay đi nhưng không thể đừng được, ông lại nhìn lướt xuống và thấy rằng mình đang được đưa ra ngoài nghĩa trang nhà thờ. Sau đó lại một cái lễ nữa diễn ra, rồi ông nhảy dựng lên khi một cục đất lớn được ném xuống quan tài.

Rồi ông thực sự cảm thấy ngu ngốc khi nhận ra rằng xác mình thì đang ở dưới kia còn mình thì đang ở trên này. Nhưng với suy nghĩ đó, cộng thêm việc mộ đang được lấp kín, Hogy lại cảm thấy tự do.

Hogy turned away and when next he looked it was because of an insistent tugging; downwards his gaze swept to find that he was being carried into the churchyard. Then there followed more service, and he jumped as a great clod of earth came tumbling down onto the casket.

But then he felt very foolish indeed as he realized that the body was down ‘there’ and he was up ‘here’, wherever there and here was. But with that, with the filling-in of the grave, Hogy felt free.

Ông bay vụt lên trên bởi một lực ngoài sự kiểm soát của mình, rồi có một tiếng va chạm nhỏ và ông vô cùng ngạc nhiên thấy mình lại đang nghỉ ngơi trong vòng tay của các thiên thần. Ngay khi ông ở trong vòng tay của họ, đôi cánh của họ bắt đầu vỗ và họ bắt đầu mỉm cười, họ cùng nâng ông bay lên, ông không biết họ đi bằng đường nào, ông phải nói là ‘chẳng biết đường nào’ nhưng họ đã tăng tốc xuyên qua bóng tối như thể đang tồn tại, bóng tối tựa như nhung đen vậy.

He soared upwards with a force beyond his control and then there was a little ‘clunk’ and he found to his complete amazement that he was again resting in the arms of these angels. As soon as he was in their arms their wings started flapping and their faces started smiling, they bore him upwards well, he did not know which way they were going, he would have said ‘every which way’ but they travelled at speed through a darkness which seemed to be living, it seemed to be a darkness made of black velvet.

Nhưng rồi sau đó, ở phía xa xuất hiện ánh sáng màu vàng rực rỡ. Hogy căng mắt nhìn theo hướng phát ra ánh sáng. Họ tăng tốc về phía trước và ánh sáng trở nên rạng rỡ hơn, mở rộng hơn, khiến Hogy nhấp nháy mắt theo cường độ của nó.

But then in the distance light appeared a glorious golden light. Hogy strained his eyes in the direction from which the light came. They sped onwards and the light became brighter and bigger, leaving Hogy blinking with the intensity of it.

Khi các thiên thần hiện ra từ nơi dường như là một đường hầm dài, Hogy nhìn thấy Cánh Cổng bằng ngọc trai lấp lánh xa xa phía trước mặt, những cánh cổng đồ sộ bằng vàng, lốm đốm nổi lên khắp nơi là những viên ngọc trai lớn. Một bức tường trắng sáng bóng kéo dài từ cổng sang hai bên trái và phải, qua song sắt của chiếc cổng, Hogy có thể thấy những mái vòm khổng lồ và những chóp nhọn của các nhà thờ nguy nga tráng lệ.

Then as the angels emerged from what seemed to have been a long tunnel Hogy saw the Pearly Gates sparkling away in front of him, great golden gates speckled all over with immense pearls. There was a gleaming white wall extending from the Gates to the left and to the right, and through the bars of the Gates Hogy could see immense domes of cath edrals and spires of noble churches.

Có tiếng nhạc ngân nga trong không trung, những bản thánh ca, bản nhạc ‘Ở lại với con’ với vài nhịp của bài thánh ca ‘Tinh binh Thiên Chúa tiến lên’ phát ra từ nơi khác. Họ đã tiến gần đến cổng mà các thiên thần vẫn giữ chặt ông với đôi cánh đang vỗ.

Thánh Peter hay một vị thánh nào đó, xuất hiện tại Cổng và hỏi: ‘Ai nhân danh Chúa đến đây thế?’ Một trong các thiên thần trả lời ‘Đây là ông Hogu MacOgwascher, vừa ở dưới Trái đất lên đây. Chúng tôi yêu cầu được chấp nhận.’

There was the sound of music in the air, holy music, ‘Abide with me’ music with a few bars of ‘Onward Christian Soldiers’ coming from somewhere else. But they approached the Gates with the angels still clutching him and their wings still flapping.

St. Peter or some saint, appeared at the Gates and demanded, ‘Who comes in the name of the Lord?’ One of the angels answered, ‘Mr. Hogy MacOgwascher, late of Earth, comes. We demand admission.’

Cánh Cổng mở ra và Hogy nhìn thấy vị thánh đầu tiên của mình ở khoảng cách rất gần. Vị thánh dường như mặc một chiếc áo choàng dài màu trắng giống như một chiếc váy ngủ kiểu cũ dài từ cổ đến mắt cá chân. Ngài có một đôi cánh gắn ở phía sau, luôn sẵn sàng đập cánh, và đâu đó sau lưng Ngài có thanh đồng sáng loáng nhô cao trên đầu vài inch, và trên đỉnh đầu Ngài có một Vầng hào quang sáng chói.

Vị thánh nhìn Holy, và Holy nhìn vị thánh, Ngài nói, ‘Con phải đến gặp Vị Thánh Ghi Danh trước, để biết chắc rằng con thực sự đã được tiếp nhận. Ở đằng kia, cánh cửa thứ hai bên phải’.

The Gates swung open and Hogy saw his first saint close up. The saint seemed to be clad in a long white robe like an old-fashioned nightgown reaching from his neck down to his ankles. He had a pair of wings stuck on behind which flapped easily, and from somewhere at his back a shining brass rod extended a few inches above his head and from the topmost point there was a shining golden Halo.

The saint looked at Hogy, and Hogy looked at the saint; the latter said, ‘You will have to go to the Recording Angel first to make sure that you are indeed entitled to enter. Over there, second door to the right.’

Các thiên thần lại kẹp chặt lấy Hogy làm ông có cảm giác như đang ở trong tay những người giao hàng! và cánh họ bắt đầu đập. Chậm rãi các thiên thần đưa ông dọc theo con đường trơn tru, sạch sẽ. Dọc hai bên đường có những vị thánh hoặc những cư dân đang ngồi trên bãi cỏ tập chơi đàn hạc, ồn ào không thể diễn tả vì họ đang chơi những bản nhạc khác nhau.

The angels took a fresh grip of Hogy he felt that he was in the hands of delivery men! and their wings started to flap. Slowly the angels bore him along the smooth, clean roadway. Along the sides of the roadway there were saints or heavenly inhabitants sitting on grassy banks practicing harp playing, the noise was quite indescribable because they were all trying different musical pieces.

Ngay sau đó, họ đến văn phòng của Vị Thánh Ghi Danh. Thật nhẹ nhàng, những người đón tiếp đỡ Hogy để ông đứng trên đôi chân của mình, nhẹ nhàng đẩy ông về phía trước. ‘Vào trong đó đi’, một người nói, ‘hãy cung cấp tất cả chi tiết cần thiết, ngày mất và tất cả các thứ còn lại. Chúng tôi sẽ đợi.’ Vậy là Hogy tiến vào trong và ông nhìn thấy một vị thánh cao niên nhân từ đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu cao, đôi cánh đang vỗ và nhìn chằm chằm vào Hogy qua cặp kính cận gọng vàng. Ngài liếm ngón tay cái của mình và lật qua vài trang cuốn sổ cái to lớn, vừa lật vừa lẩm bẩm một mình, rồi đột ngột dừng lại và giữ trang sách trong khi tay trái giơ lên cao. ‘Ta thấy rồi’, Ngài nói ‘Tên là Hogy MacOgwacher, nam, chết đột ngột. Đúng, người đó đây, đó chính là con. Ta đã có ảnh của con ở đây’.

But soon they reached the office of the Recording Angel. Gently the attendants upended Hogy so that he stood on his feet, gently they propelled him forward. ‘In there,’ said one, ‘give all the necessary details, date of death and all the rest of it. We’ll wait.’ So in Hogy went and he saw a benevolent old saint sitting on a high stool, his wings flapping and looking over gold-rimmed spectacles peering short-sightedly at Hogy. He licked his thumb and pushed over a few pages of an immense ledger muttering to himself as he did so, then he stopped suddenly and held the page while his left hand extended upwards. ‘I’ve got it,’ he said, ‘name Hogy MacOgwascher, male, died unexpectedly. Yes, that’s him, that’s you; I’ve got your picture here.’

Hogy im lặng đứng nhìn. Đây dường như là một qui trình diễn ra đặc biệt. Đôi cánh của vị thánh cao niên đập đập và chúng phát ra tiếng động như thể một thứ đang bị gỉ sét. Vị Thánh Ghi Danh giơ ngón tay cái qua vai  mình và nói, ‘Lối này, lối này, họ đang đợi con ở bên ngoài, họ sẽ làm những việc cần thiết cho con’. Hogy cảm thấy mình đang di chuyển, ông không phải làm gì cả, ông chỉ di chuyển thôi, và ông ra ngoài mà không cần đi qua cửa. Bên ngoài, ngay khi nhìn thấy ông, những người tiếp đón bắt đầu vỗ cánh và mỉm cười với ông.

Họ ôm lấy Hogy và đưa ông lướt nhanh trong không trung. Một người nói,’Bây giờ bạn sẽ phải đến nhà Thờ,’ Một người khác nói, ‘Đúng vậy, hãy bắt theo nhịp ngay từ đầu.’ Nói rồi họ sà xuống và đi vào tiền sảnh rộng rãi của một Nhà thờ. Bên trong có những thiên thần ngồi khắp nơi, đôi cánh của họ vỗ theo điệu nhạc.

Hogy looked on dumbly. It seemed to be a peculiar process to be going on like this. The old fellow’s wings were flapping about and they were making a noise as if the things were rusty. The Recording Angel jerked his thumb over his shoulder and said, ‘Thataway, thataway, they’re waiting for you outside, they’ll do the right thing by you.’ Hogy found himself moving, it was nothing to do with him, he was just moving, and he went out without going through a doorway. Outside, as soon as they saw him, his attendants started their wings flapping again and their faces smiling.

‘Now you’ll have to go to Church,’ said one. ‘Yes, just as well get in the swing of things at the start,’ said the other. And with that they swooped down and entered the massive front entrance of a Cathedral. Inside there were angels sitting all over the place, their wings flapping in tune to the music.

Hogy càng lúc càng thấy sốc, đây trông có vẻ là một sự bắt chước, nhưng ông ở lại tham dự buổi lễ mà dường như kéo dài vô tận, đâu đâu cũng đều có các thiên thần vỗ cánh, khoanh mình và cúi đầu trước bàn lễ. Cuối cùng thì tất cả cũng kết thúc và tất cả các thiên thần bay lên như một đàn chim bồ cầu và Hogy bị bỏ lại trong nhà thờ trống rỗng.

Hogy was becoming more and more shocked, this seemed to be a travesty of things, but he stayed for the service which seemed to go on for an endless time, and all the way through the angels were flapping their wings, crossing themselves, and bowing to the altar. At last it was all over and all the angels flew up like a flock of doves or pigeons and Hogy was left in the empty Cathedral.

Ông nhìn xung quanh và ngạc nhiên. Không thể nào đây lại là thiên đường. Ông đã bị lừa dối suốt cả đời. Cuộc nói chuyện của các thiên thần thật là vớ vẩn, cuộc nói chuyện của những người suốt ngày hát hò và đi lễ thật quá vô lý để có thể tin được, và ngay lập tức khi Hogy nhận ra rằng toàn bộ sự việc thật nực cười thì có một âm thanh như tiếng sấm vang lên, dường như có một tia chớp mảnh phát ra từ bầu trời đánh xuống mặt đất, như thể một bức màn lớn đã bị xé toang và rơi xuống.

He looked about him and marvelled. It was impossible that this could be Heaven. He had been misled all the way along. This talk of angels was nonsense, this talk of people singing and going to services all the time it was too absurd to be believed, and immediately it came to Hogy that the whole thing was ridiculous there was a sound like a clap of thunder and there seemed to be a rippling flash go down from the sky to the ground and it was as though a great curtain was rent and fell away.

Hogy kinh ngạc nhìn lên. Cha ông đang tiến về phía ông, cười và dang rộng cánh tay: ‘Ôi Hogy con trai ta’, MacOgwascher Cha nói ‘Con đã bị ảo giác về tín ngưỡng của mình trong một thời gian khá dài phải không? Đừng bận tâm, cha cũng đã trải qua những điều tương tự, ngoại trừ ảo giác đã dẫn cha đến gặp các nhà tiên tri.

Hogy looked up astounded. There was his father coming toward him laughing and with his arms outstretched: ‘Oh Hogy my boy,’ said Father MacOgwascher, ‘you did hold to your religion bred hallucin ation for quite a time, didn’t you? Never mind, I went through all the same thing except that my hallucination led me to see Moses.

Nào, bây giờ con đã thoát ra khỏi đó và chúng ta có thể cùng nhau và nói về mọi thứ. Đi với ta nào, con trai, đi cùng với ta, con có rất nhiều bạn bè và người thân ở đây, họ muốn nói chuyện với con.’ Rồi MacOgwascher Cha dẫn đường đến một công viên rất đẹp có vẻ như có rất đông người tụ tập.

Well, now you’ve come out of that we can get together and talk about things. Come with me, my boy, come with me, you have a lot of friends and relatives here, they want to talk to you.’ And Father MacOgwascher led the way out to a beautiful, beautiful park which seemed to be thronged with people.

Công viên đẹp hơn bất cứ thứ gì mà Hogy từng thấy trong đời trước đây khi sống trên Trái đất. Cỏ có một sắc thái xanh đặc biệt dễ chịu và có những bông hoa mà ông chưa từng thấy bao giờ, và ông biết Trái đất không có loại hoa này. Các lối đi được giữ gìn một cách tuyệt vời và không hề thấy một hạt bụi hay cọng rác nào. Tiếng chim hót trên cây và những con vật nhỏ chạy quanh như chó, sóc và một số loài khác mà Hogy chưa biết đến khiến ông thích thú đến ngạc nhiên. ‘Cha!’ Hogy kêu lên, ‘Động vật cũng đến đây à?’

The park was more beautiful than anything Hogy had ever seen in his life before his life on Earth, of course. The grass was of a peculiarly pleasant shade of green and there were flowers the like of which he had never seen before, and he knew they were not flowers of Earth. The paths were wonderfully kept and there was not a speck of dust or litter to be seen. To Hogy’s amazed delight there were birds singing in the trees and there were small animals about, dogs and squirrels, and some other animals which were quite unknown to Hogy. ‘Father!’ exclaimed Hogy, ‘Do animals come here as well, then?’

Khi đó MacOgwascher Cha cười ‘Hogy, cậu bé của ta’, ông nói ‘Cậu không phải gọi tôi là “Cha” nữa vì làm vậy cũng giống như việc gọi một diễn viên trong một vở kịch bằng cái tên mà anh ấy đã sử dụng trong vở kịch đó. Sau khi vở kịch kết thúc, diễn viên có thể đổi vai và đổi tên. Ở kiếp sống vừa qua trên Trái đất, tôi là cha của cậu, nhưng trong một số kiếp trước, cậu đã là cha của tôi, hoặc thậm chí có thể là mẹ của tôi đấy!’

Đầu của Hogy tội nghiệp hoàn toàn quay cuồng trước điều này, nó vẫn còn quá xa lạ với ông. ‘Vậy giờ con phải gọi cha là gì?’ Ông hỏi.

‘Ồ cho đến khi mọi việc được thu xếp ổn định hơn, thì cứ gọi ta là “Cha” nếu cậu muốn, điều đó có thể giúp giảm bớt sự phức tạp’. MacOgwascher Cha nói.

Then Father MacOgwascher laughed, ‘Hogy, my boy,’ he said, ‘you must not call me “Father” any more for to do so would be just the same as calling an actor in a play by the name he used in that play. After the play is over the actor can change his role and change his name. On the last life on Earth I was your father, but in some previous life you have been my father, or perhaps even my mother!’

Poor Hogy’s head absolutely reeled under that, it was so strange to him still. ‘But what am I to call you, then?’ he asked.

‘Oh until we get things settled more go on, call me “Father” if you want to, it may save complications,’ said Father MacOgwascher.

Hogy nhìn cha mình, rồi nói, ‘Nhưng hãy nói cho con biết, chúng ta đang ở đâu? Đây rõ ràng không phải là Thiên đường vì cha là người Do Thái và người Do Thái không được nhận vào Thiên đường.’ MacOgwascher Cha cười lớn. Mọi người nhìn về phía họ và mỉm cười, họ đã thấy những điều như thế này xảy ra rất nhiều lần rồi.

‘Hogy, cậu bé của tôi, Hogy à, một số quan niệm trên Trái đất là hoàn toàn sai lầm. Ta là một người Do Thái, như con nói, ta sẽ bảo với con rằng ta là một người Do Thái khi còn ở trên Trái đất, còn bây giờ ta thuộc về một tôn giáo chân chính, tôn giáo duy nhất, và tôn giáo duy nhất là thế này: Nếu con tin vào một vị Thượng Đế hoặc một tôn giáo nào đó thì đó là tôn giáo tốt. Ở đây không quan trọng con là người Do Thái giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo hay bất cứ cái gì khác. Nhưng cái khó là khi người ta được dạy đủ thứ chuyện hoang đường của một tôn giáo nào đó, thì khi sang cõi này, người ta bị thôi miên bởi những gì họ mong đợi, và đó là tất cả những gì họ có thể nhìn thấy.

Hogy was looking at his father, and then he said, ‘But do tell me, where are we? This is obviously not Heaven because you are a Jew and Jews are not admitted to Heaven.’ Father MacOgwascher laughed uproariously. People looked in their direction and smiled, they had seen this sort of thing happen so many, many times.

‘Hogy, my boy, Hogy, some of the concepts on Earth are completely wrong. I am a Jew, you say; well, I will tell you that I was a Jew while on Earth, now well, I belong to the true religion, the only religion, and the only religion is this: If you believe in a God or in a religion then that is a good religion. It doesn’t matter here if you are a Jew, a Catholic, a Protestant, a Moslem, or anything else. But the difficulty is that when one is taught all the old fables of a certain religion then when one comes over here one is so hypnotized by what one expects that that is all that one can see.

Trên Trái đất, có những người luôn gặp ảo giác, họ nghĩ rằng họ là thế này, là thế kia, hoặc là cái gì khác. Con có thể đến bệnh viện dành cho những người bệnh tâm thần trên Trái đất và con có thể tìm thấy một vài Napoléon, một vài Chúa Jesus hoặc có lẽ một vài người tự gọi mình là Nhà tiên tri. Những người này thực sự tin rằng họ là những gì mà họ nghĩ ra. Ví dụ như,’ Ông chỉ ra phía đằng xa, ‘ Hãy nhìn kỹ ở đằng kia, ở đó hiện giờ đang có một quý ông vừa mới tới.

On Earth there are people who go about hallucinating all the time, they think they are this, that, or something else. You may go to a hospital for the mentally afflicted on Earth and you might find a few Napoleons, a few Jesus Christs or perhaps a few who call themselves Moses. These people really do honestly believe that they are what they pretend to be. Take, for instance,’ he pointed off into the distance, ‘over there well, over there at present there is a gentleman but newly arrived.

Khi ở dưới Trái đất, anh ta được dạy rằng khi lên Thiên đường, anh ta sẽ có mọi thứ mình muốn, hàng tá gái nhảy, v.v và v.v… Hiện giờ anh ta ở đó đang sống trong một thế giới thần tiên. Gái nhảy ở khắp mọi nơi, và chừng nào anh ta chưa có thể nhận thấy tất cả những cái đó là giả dối thì không ai có thể giúp anh ta được, anh ta có thể tiếp tục trong nhiều năm và mơ về Thiên đường đặc biệt này với đầy gái nhảy và vô số món ăn. Ngay khi anh ta nhận ra sai lầm cũng giống như con đã làm với các thiên thần và đôi cánh của họ thì khi ấy anh ta mới có thể được giúp đỡ.’

‘Có đồ ăn không, thưa cha,’ Hogy nói. ‘Cha vừa nói những điều thực sự có lí, nhưng ở nơi này chúng ta kiếm đồ ăn ở đâu? Con đang đói!’

While on Earth he was taught that when he went to Heaven he would have everything he wanted, dancing girls by the dozen, etc., etc. He is over there now living in a world of fantasy. There are dancing girls all over the place, and until he can see the fallacy of it all then no one can help him, he may go on for years and years dreaming of this peculiar Heaven which is peopled by dancing girls and loads and loads of food. As soon as he sees the fault the same as you did with your angels and their wings then he can be helped.’

‘Food, father, food,’ said Hogy. ‘Now you have said something very sensible indeed, where do we go to get food in this place? I am hungry!’

MacOgwascher Cha nhìn Hogy và nói, ‘Hogy con trai của ta, bây giờ đáng lẽ con phải tỉnh ngộ rồi chứ. Nghe này, con đã đến đây và con nghĩ rằng con đang ở trên Thiên đường với các thiên thần ở khắp nơi, và còn nhiều thiên thần nữa đang chơi đàn hạc và ca hát, nhưng bây giờ con đã nhận ra rằng đó chỉ là ảo giác. Người bạn của chúng ta ở đằng kia cũng vậy, anh ta nghĩ rằng anh ta đang có những cô gái nhảy xung quanh mình: anh ta chẳng có gì cả, đó chỉ là từ cái trí tưởng tượng thiếu kiểm soát của anh ta, cũng như chính sự hình dung của con đã khiến con nhìn thấy các thiên thần.

Father MacOgwascher looked at Hogy and said, ‘Hogy my boy, it should have dawned on you by now listen you came here and you thought you were in Heaven with angels all over the place, and more angels playing harps, and singing away and all that, but now you realize that it was mere hallucination. It is the same with our friend over yonder, he thinks he has dancing girls around him: he doesn’t, it is just his uncontrolled imagination, as it was your imagination which led you to see angels.

Tương tự như vậy, nếu con muốn có thức ăn, hãy tưởng tượng ra nó. Con có thể kiểm soát trí tưởng tượng của mình và có thể có bất kỳ món ăn nào con muốn, con có thể có thịt bò nướng, xúc xích, hay một chai rượu whisky nếu con muốn. Tất nhiên, đó chỉ là ảo giác, nhưng nếu con vẫn có những ý nghĩ ngớ ngẩn rằng con muốn có thức ăn thì con sẽ phải tiếp tục suy nghĩ mọi thứ một cách hoàn toàn logic. Con ăn thức ăn vào để rồi sau đó phải loại bỏ một số thứ trong quá trình đào thải thông thường. Vậy là con phải tưởng tượng ra các thiết bị vệ sinh, và con phải ngồi trên một thiết bị đó và tưởng tượng, liên tục tưởng tượng, tất cả là như vậy. Con sẽ chẳng đạt được tiến bộ gì khi chỉ luẩn quẩn nghĩ tới những thứ ngớ ngẩn của cõi trần.’

In the same way, if you want food well, imagine it. You can control your imagination and you can have whatever food you need, you can have roast beef if you want to, you can have hot dogs if you want to, or you can have a bottle of whiskey. It’s merely illusion, of course, but if you do go through with this rubbish that you want food then you’ll have to follow everything through quite logically. You take in food so then later you have to get rid of certain things in the ordinary process of elimination. So you have to imagine toilet facilities, and you have to sit on such an appliance and imagine, imagine, imagine, and that’s all it is. You won’t make progress while you are just bound to the silly things of the world.’

‘Nhưng con thực sự cảm thấy đói, đó không phải là tưởng tượng, thực sự con cảm thấy rất đói, vì vậy nếu con không được phép có thức ăn vì đó là ảo tưởng thì con phải làm gì để thoát khỏi cơn đói của mình?’ Hogy nói giọng nóng nảy.

MacOgwascher Cha đáp lại một cách nhẹ nhàng, ‘Tất nhiên là con cảm thấy đói vì con mang cái lịch trình đó trong suốt cuộc đời. Con thường ăn vào những giờ nhất định, và bây giờ con đã có thói quen đó. Thay vì tưởng tượng đang đưa một miếng thịt chín vào trong người, thì con hãy nghĩ đến những rung động lành mạnh, khi đó con sẽ không cảm thấy đói nữa. Hãy nghĩ xem, Hogy, xung quanh con luôn có năng lượng sống động, nó đang tràn vào con từ khắp mọi nơi. Ngay khi con nhận ra rằng đây chính là thức ăn của mình, là cái cốt lõi của mình, con sẽ không cảm thấy đói. Tưởng tượng ra đồ ăn và nước uống hoàn toàn là cơ chế giả tạo, nó sẽ làm chậm sự tiến bộ của con.’

‘Well, I do feel hungry, that’s not imagination, I feel very hungry indeed, so if I am not allowed to have food because it is illusion what am I to do to get rid of my hunger?’ Hogy sounded quite petulant.

Father MacOgwascher responded mildly, ‘Of course you feel hungry because you have had such a pattern all your life. At certain stated hours you used to take in food, and you’ve got a habit of it now. If instead of imagining dead meat going into you, you think of healthy vibrations then you won’t feel hungry. Think, Hogy, all around you there is vibrant energy, it’s pouring into you from everywhere. As soon as you realize that this is your food, your substance, you will not feel hungry. To imagine meats and drinks is entirely a backyard manoeuvre which will delay your progress quite a bit.’

Hogy suy nghĩ về vấn đề này, rồi ông há miệng ra để kiểm chứng và thấy rằng mình không đói nữa! ‘Cha,’ Hogy nói, ‘cha trông giống hệt như khi còn ở Trái đất. Làm thế nào mà có thể như thế được? Cha đã ở đây một thời gian. Đáng lẽ cha trông phải già đi nhiều và, bất luận thế nào, thì cha bây giờ có lẽ chỉ là một linh hồn, điều đó khiến con rất bối rối, con không biết phải tin cái gì hay phải làm gì nữa.’

Hogy pondered the problem, and then he opened his mouth to protest and found that he was not hungry any more! ‘Father,’ Hogy said, ‘you look precisely as you looked when you were on Earth. How can that possibly be? You have been here some time. Surely you should be looking a lot older and, in any case, as you are presumably just a soul now well, it’s got me so confused I don’t know what to believe or what to do.’

MacOgwascher Cha nở một nụ cười đầy thương cảm. ‘Tất cả chúng ta đều trải qua điều này, Hogy, con biết đấy. Một số người trong chúng ta có thể  hòa hợp nhanh hơn những người khác, nhưng giả sử ta xuất hiện trước con như là một cô gái trẻ hay một chàng trai trẻ, liệu con có nhận ra ta là người mà con đã biết trên Trái đất không? Nếu ta đến gặp con và nói chuyện với con bằng một giọng nói khác, với nét mặt và thân hình khác, thì con chắc sẽ nghĩ rằng đó chỉ là ai đó đang thực hiện phép thử lòng tin đối với con.

Father MacOgwascher smiled a smile of compassion. ‘We all go through this, you know Hogy. Some of us can rationalize more quickly than others, but suppose I had appeared to you as oh, let me say a young woman or a young man, would you have recognized me as the person you knew on Earth? If I came to you and talked to you with a different voice and with different features and a different frame you would have thought it was just someone practising a confidence trick on you.

Vì vậy, ở đây ta xuất hiện trước con như hình ảnh con vẫn nhớ về ta, ta nói với con bằng giọng điệu mà con vẫn nhớ. Tương tự như vậy, bạn bè, người thân của con đang ở đây, đều sẽ xuất hiện như những người quen thuộc mà con đã từng biết trên Trái đất, xuất hiện trước con theo cách như vậy bởi vì con chỉ thấy những gì mà con muốn thấy. Nếu ta nhìn vào ông X, ta biết ta đang nhìn thấy cái gì.

So here I appear to you as you remembered me, I speak to you in the tone that you remembered. In the same way, your friends who are here, your relatives who are here will all appear as the familiar persons you knew on Earth, appear to you as such because you only see what you want to see. If I look at Mr. X, I know what I see;

Đối với ta ông X trông sẽ như thế này, nhưng quan niệm của con về ông X. có thể hoàn toàn khác và vì vậy con sẽ thấy một ông X cũng hoàn toàn khác. Nó giống như thể chúng ta đang đứng đối mặt với nhau và một người trong chúng ta giơ đồng xu lên thì người này sẽ thấy mặt trước, người kia sẽ thấy mặt sau; vẫn là một đồng xu ấy thôi nhưng chúng ta sẽ thấy các mặt khác nhau của nó. Ở đây nó là như vậy, thậm chí ở dưới Trái đất cũng thế. Không ai biết chính xác cách người ta nhìn thấy một người khác như thế nào. Đó là điều không bao giờ được đem ra thảo luận, nó không bao giờ được nghĩ đến. Vì vậy, ở đây chúng ta xuất hiện trước những người khác như chúng ta đã làm trên Trái đất.

Mr. X looks in a certain way to me, but your conception of Mr. X. may be quite different and so you will see a different Mr. X. It’s as though we were standing facing each other and one of us holds up a coin; one of us will see the head, the other will see the other side; it is the same coin but we shall see different aspects of it. So it is here, so it is on Earth even. No one knows precisely how one sees another person. The thing is never discussed, it is never thought about. So here we appear to others as we did upon Earth.’

Hogy nhìn ra công viên và ngạc nhiên trước những gì mình nhìn thấy; một cái hồ êm dịu với những những chiếc thuyền trên mặt nước và ai đó đang chèo chúng. Hogy ngồi đó trên băng ghế công viên, nhìn chăm chú vào những chiếc thuyền. MacOgwascher Cha quay sang ông và nói, ‘Thế đấy, Hogy, tại sao họ lại không vui chơi thoải mái chứ? Họ không ở trong địa ngục, con biết đấy, họ đang làm những gì họ thích và thật tốt khi được làm điều mình thích. Ở đây họ có thể nghĩ đến một chiếc thuyền, và họ có thể đi chơi trên sông, tận hưởng một vài cảm giác, mặc dù những cảm giác đó được nâng cao hơn rất nhiều so ở nơi đây với những gì mà họ được tận hưởng trên Trái đất.’

Hogy had been looking out across the park and he started with amazement at what he saw; there was a very pleasant lake and on the lake there were boats and there were people in the boats rowing, sculling. Hogy sat there on a park bench absolutely staring across at the boats. Father MacOgwascher turned to him and said, ‘Well, why shouldn’t they have some fun, Hogy? They are not in hell, you know, they are doing what they like to do and that is a very good state to be in. Here they can think up a boat, and they can go out on the river and enjoy some of the sensations, al though greatly enhanced here, that they enjoyed so much on Earth.’

Hogy nhất thời không thể trả lời, ông quá kinh ngạc, quá sững sờ, rồi bật thốt lên: ‘Nhưng con nghĩ ở đây chúng ta là những linh hồn, những linh hồn bay lơ lửng. Con nghĩ chúng ta nên đi đâu đó hát thánh ca và đọc kinh cầu nguyện, đây không phải là điều con mong đợi ở Thiên đường.’

For a time Hogy could not reply, he was too amazed, too dumbfounded, and then he burst out, ‘But I thought we here were spirits, souls floating around. I thought we should go about singing hymns and reciting prayers, this isn’t a bit what I expected of Heaven.’

‘Nhưng Hogy, Hogy à, con không ở trên Thiên đường, mà đang ở một chiều không gian khác, nơi con có thể làm những điều không thể làm ở Trái đất. Con đang ở đây như một kiểu trạm dừng chân nghỉ giữa đường. Một số người trải qua chấn thương nghiêm trọng khi chết cũng giống như những đứa trẻ sinh ra trên Trái đất có thể bị tổn thương rất nặng khi được sinh ra, chúng có thể phải đỡ đẻ bằng dụng cụ và kết quả là chúng bị một chấn thương nào đó. Chết cũng vậy. Một số người, đặc biệt nếu họ có cuộc sống tồi tệ, họ đã phải rất khó khăn để vượt qua và giải thoát mình khỏi xiềng xích của Trái đất. Một minh họa đơn giản là cách con muốn có thức ăn mà con không cần, con biết đấy, con chỉ cần nghĩ tới thức ăn và quần áo của mình.’

‘But Hogy, Hogy, you are not in Heaven, you are in a different dimension in which you can do things you couldn’t do on Earth. You are here as a sort of half way station. Some people experience considerable trauma in dying in the same way that babies born to Earth may have considerable trauma when they are born, they may have to be delivered by instruments and then they get some damage as a result. Well, it’s the same with dying. Some people, particularly if they have led a bad life, have a hard time in getting over and getting free of the shackles of Earth. A mild illustration is the way in which you have been wanting food you don’t need it, you know, you just think up your food and your clothes.’

Hogy nhìn xuống chính thân mình rồi nói, ‘Cơ thể, cơ thể. Nếu chúng ta là những linh hồn tại sao chúng ta lại có những cơ thể này, chúng ta cần chúng để làm gì? ‘

MacOgwascher Cha mỉm cười và nói, ‘Nếu bây giờ con có thể xuất hiện trên Trái đất, con sẽ là một bóng ma, nhiều khả năng con sẽ hoàn toàn vô hình. Mọi người sẽ đi xuyên qua con và con sẽ đi xuyên qua họ vì sự khác biệt về rung động. Ở đây con thấy ta, con có thể chạm vào ta, ta đang ở thể đặc đối với con và con cũng ở thể đặc đối với ta, chúng ta có một số cơ chế để có được bản thể của mình, chúng ta đến từ Trái đất và bây giờ chúng ta có một dạng cơ thể khác trên cõi trung giới này. Cơ thể của chúng ta vẫn có một linh hồn, linh hồn vươn đến tận cùng tới Chân Ngã ở những cảnh giới tít trên cao. Chúng ta cũng có một cơ thể ở đây để học hỏi theo cách khổ sở như trên Trái đất, dù bản chất nhẹ nhàng hơn nhiều. Nhưng khi chúng ta đi lên, giả sử như là chiều không gian thứ chín đi, thì ta vẫn sẽ có một cơ thể tương thích với chiều không gian thứ chín này. Nếu một người ở chiều không gian thứ chín xuống đây bây giờ, anh ta sẽ vô hình với chúng ta và chúng ta cũng sẽ vô hình với anh ta vì chúng ta quá khác biệt.

Chúng ta tiến hóa từ cõi này sang cõi khác, và dù chúng ta ở đâu, bất kể ở cõi nào, bất kể điều kiện nào, ta luôn có một cơ thể phù hợp với điều kiện đó.’

Hogy looked down at himself and then he said, ‘Bodies bodies. If we are souls why do we have these bodies, what do we need them for?’

Father MacOgwascher smiled and said, ‘If you could appear on Earth now you would be a ghost, although more likely you would be quite invisible. People would walk through you and you would walk through them because of the difference in vibration. Here you see me, you can touch me, I am solid to you and you are solid to me, we’ve got to have some sort of vehicle in order to have our being, we’ve come from Earth and now we have a different body on this intermediate plane. Our bodies still have a soul, the soul goes all the way up to the Overself which is many planes above. We have a body here that we may learn things still by suffering as on Earth although of a much milder nature. But when we get up to, let us say, the ninth dimension we shall still have a body suitable to the ninth dimension. If a ninth dimension person came down here now he would be invisible to us and we would be to him because we are so different.

We progress from plane to plane, and wherever we be, no matter the plane, no matter the condition, we always have a body suitable for that condition.’

MacOgwascher Cha cười rồi nói, ‘Con nghĩ rằng con đang nói chuyện với ta, Hogy, nhưng không phải,  không phải vậy, con đang làm tất cả việc đó bằng thần giao cách cảm. Chúng ta không sử dụng lời nói ở đây ngoại trừ trong những điều kiện bất thường nhất. Thay vào đó, chúng ta sử dụng thần giao cách cảm. Nhưng chúng ta phải đi rồi, con trai của ta. Con phải đến Sảnh Ký ức, và ở trong đó chỉ có con và chính con sẽ thấy mọi thứ mình đã làm và suy nghĩ  khi còn ở trên Trái đất. Con sẽ thấy mình đã muốn làm gì, con sẽ thấy những thành công của mình, và chúng sẽ không còn quan trọng nữa, và con sẽ thấy cả những thất bại của mình.

Father MacOgwascher laughed before saying, ‘You think you are talking to me, Hogy, but you’re not, you’re not, you are doing it all by telepathy. We don’t use speech here except under the most unusual conditions. We use telepathy instead. But we have to go, my boy. You have to go to the Hall of Memories, and in that Hall you and you alone will see everything that you have done and thought about doing while on the Earth. You will see what you wanted to do, you will see your successes, and they will appear unimportant, and you will see your failures.

Hogy, con tự đánh giá mình, tự đánh giá lại bản thân mình. Không có Đức Chúa Trời giận dữ nào ngồi phán xét và mong muốn tống con vào địa ngục hoặc trừng phạt con mãi mãi. Không có cái gọi là địa ngục, nếu có thì địa ngục chính là Trái đất và không có cái gọi là trừng phạt mãi mãi. Trên Trái đất, con đã trải nghiệm những điều nhất định và cố gắng thực hiện một số nhiệm vụ nhất định. Con có thể không hoàn thành được những nhiệm vụ đó nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là cách người ta cố gắng thực hiện, cách người ta đã dẫn dắt cuộc đời của mình như thế nào, và con hay Chân Ngã của con sẽ đánh giá cách con đã sống và chết như thế nào trên Trái đất. Con sẽ quyết định mình phải làm thêm những gì nữa để hoàn thành nhiệm vụ đã tự đặt ra và có thể chưa hoàn thành được. Nhưng đi thôi, chúng ta không phải ngồi đây để nói chuyện vu vơ.’ MacOgwascher Cha đứng dậy và Hogy cũng đứng dậy theo, họ dạo bộ trên bãi cỏ cắt ngắn, dừng lại một chút bên bờ hồ để ngắm những con thuyền, ngắm những con chim đang đùa rỡn trên mặt nước, và rồi họ lại đi tiếp.

You judge yourself, Hogy, you judge yourself. There is no wrathful God sitting in judgment and panting to consign you to hell or to eternal damnation. There is no such thing as hell well, there is, hell is Earth and there is no such thing as eternal damnation. On Earth you experience certain things and you try to do certain tasks. You may fail at those tasks but that isn’t important. What IS important is how one tried to do a thing, how one led one’s life, and you or your Overself will judge how you lived and died on Earth. You will decide what else has to be done to accomplish the task you set out to do and maybe have not completed. But come, we must not stay here chatting idly.’ Father MacOgwascher got to his feet and Hogy rose with him, together they strolled over the green close-cut lawns stopping for a short time by the banks of the lake to admire the boats, to admire the waterfowl playing on the surface, and they then continued on their way.

Hogy cười phá lên khi họ vòng qua một khúc quanh của con đường và tiến về phía một cái cây rất thú vị, có một cành đâm ngang ra, vì trên cành cây nằm ngang đó có ba con mèo đang nằm dài hết cỡ, đuôi rủ xuống mép của cành cây, và ba con mèo đang nằm kêu gừ gừ trong cái mà Hogy gọi là nắng ấm buổi chiều. Họ dừng lại một chút để ngắm những con mèo, chúng ngẩng đầu lên, mở mắt và mỉm cười trước sự kinh ngạc của Hogy. Thế rồi sau khi vui đùa, lũ mèo lại gục đầu vào cành cây và chìm vào giấc ngủ. ‘Không ai ở đây có thể làm hại chúng, Hogy ạ,’ MacOgwascher Cha nói ‘ở đây có bình an và tin tưởng lẫn nhau. Cảnh giới sống đặc biệt này không tệ chút nào.’

Hogy laughed out loud as they rounded a bend in the path and came along toward a very pleasant tree which had a bough stretching horizontally from it, for on that horizontal bough three cats were lying full length, tails drooping over the edge of the bough, and the three cats were purring, and purring, and purring in what Hogy regarded as the warm afternoon sunlight. They stopped for a moment to look at the cats, the latter raised their heads, opened their eyes and smiled at the sight of Hogy’s amazement. Then, having had their amusement, the cats put their heads back on the bark of the bough and drifted off to sleep. ‘No one here would harm them, Hogy,’ said Father MacOgwascher ‘here there is peace and trust in each other. This particular plane of existence is not a bad one at all.’

‘Ồ!’Hogy thốt lên,’Vậy thì có rất nhiều cõi tồn tại phải không?’

‘Ồ, đúng vậy, cần bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu,’ MacOgwascher Cha trả lời. ‘Mọi người sẽ lên cảnh giới phù hợp nhất với họ. Người ta đến đây để nghỉ ngơi một chút và quyết định xem họ sẽ làm gì, họ có thể làm gì. Một số người có thể vội vã quay trở lại Trái đất để nhận lấy một cơ thể mới ở đó, những người khác được đưa lên một cảnh giới tồn tại cao hơn. Không quan trọng là đang ở đâu, người ta vẫn phải học và kết luận rút ra. Nhưng dù sao thì chiều tà đến sớm rồi, chúng ta phải nhanh lên vì hôm nay phải đưa con đến Sảnh Ký ức. Chúng ta đi tiếp nhé?’

‘Oh!’ exclaimed Hogy, ‘Then there are many planes of existence, are there?’

‘Oh yes, there are as many as are needed,’ replied Father MacOgwascher. ‘People go to the stage most suitable for them. People come here to have a little rest and to decide what they are going to do, what they can do. Some people may be hurried back to Earth to take up a fresh body there, others are sent upwards to a higher plane of existence. it just doesn’t matter where one is, one still has lessons to learn and conclusions to draw. But anyway, the afternoon is well advanced, we must hurry because we have to get you to the Hall of Memories on this day. Let’s get a move on, shall we?’

MacOgwascher Cha bước đi nhanh hơn và dường như chân của ông thậm chí còn chưa chạm xuống đường. Khi Hogy nghĩ về điều đó, ông cũng không thể cảm nhận được con đường dưới chân mình. Tất cả đều kỳ lạ đến đáng sợ, ông nghĩ. Nhưng dù sao, điều tốt nhất nên làm, ông kết luận, là giữ im lặng và xem những người khác đã làm gì, họ đã ở đây lâu hơn rất nhiều.

Father MacOgwascher walked faster and it seemed that his feet were not even touching the walks. When Hogy came to think about it he couldn’t feel the path under his feet either. It was all so frightfully strange, he thought. But, anyway, the best thing to do, he concluded, was to keep quiet and see what others did, they had been here so much longer.

Họ vòng qua một khúc quanh nhỏ trên con đường, và thẳng phía trước là Đại sảnh Ký ức, một tòa nhà màu trắng có vẻ như được làm bằng đá cẩm thạch sáng bóng. MacOgwascher Cha nói, ‘Hãy ngồi xuống đây một lát, Hogy, chúng ta không biết con sẽ ở trong Hội trường bao lâu và thật tuyệt khi được nhìn mọi người xung quanh, phải không?’

They rounded a little curve in the path, and straight ahead of them was the great Hall of Memories, a white building which seemed as though it were made of brilliantly polished marble. Father MacOgwascher said, ‘Let’s sit down here for a few moments, Hogy, we don’t know how long you will be in the Hall and it’s nice to look at all the people around, isn’t it?’

Họ ngồi xuống cái có vẻ là một cái ghế đá ở công viên. Hogy thích thú vì chiếc ghế đã ôm lấy hình dáng cơ thể của ông, tức là thay vì đá cứng và khó uốn, thì nó đã tự điều chỉnh theo dáng người của ông. Ông dựa vào lưng ghế và nó cũng tự biến sang hình khiến ông thoải mái nhất.

They sat down on what appeared to be a stone park bench. Hogy was fascinated that the bench took up his form, that is, instead of being hard and unyielding it gave a little and adapted to his shape. He leaned against the back and that too adopted the most comfortable shape for him.

‘Nhìn kìa’ MacOgwascher Cha nói. Ông chỉ về phía lối vào của Sảnh Ký ức. Hogy nhìn theo hướng tay của ông và không thể không mỉm cười. Một con mèo đen to lớn đang đi lừ đừ, vẻ mặt trông xấu hổ và đầy tội lỗi. Con mèo nhìn lên, thấy họ, và rẽ ngoặt rồi biến mất sau các bụi cây. MacOgwascher Cha cười lớn: ‘Con biết không, Hogy, ở đây trên cõi này, đến cả những con vật cũng phải đến Sảnh Ký ức.

‘Look!’ said Father MacOgwascher. He pointed towards the entrance of the Hall of Memories. Hogy followed his pointing finger and could scarce repress a smile. Slouching along was a big black cat looking as shamefaced and as guilty as could be. The cat looked up, saw them, and made a sharp turn and disappeared behind some bushes. Father MacOgwascher laughed: ‘Do you know, Hogy, here on this plane even the animals have to go to a Hall of Memories.

Tất nhiên, chúng không nói theo kiểu của con người, và con cũng vậy khi con vào trong đó, tất cả đều bằng thần giao cách cảm.’ Hogy há hốc mồm kinh ngạc nhìn người trước đây vốn là cha của mình: Ý cha muốn nói là ĐỘNG VẬT cũng vào Sảnh Ký Ức à? Chắc cha đùa phải không?’

They don’t speak in human terms, of course, but you won’t either when you get there, it’s all done by telepathy.’ Hogy looked at his former father with open-mouthed amazement: ‘Do you mean to tell me that ANIMALS go to the Hall of Memories? You must be joking surely?’

MacOgwascher Cha lắc đầu và phá lên cười. ‘Hogy, con thật chẳng thay đổi gì cả? Con nghĩ rằng con người là đỉnh cao của sự tiến hóa, con nghĩ rằng động vật là những sinh vật cấp thấp, phải không? Chà, con nhầm rồi, rất nhầm. Con người không phải là dạng hoàn hảo nhất, có rất rất nhiều dạng khác nữa, mọi thực thể đều có ý thức, mọi thực thể đều đang sống, ngay cả chiếc ghế mà chúng ta đang ngồi đây cũng chỉ là một tập hợp của các rung động.

Father MacOgwascher shook his head and laughed outright. ‘Hogy, Hogy you haven’t changed at all, have you? You think that humans are the top of the rung of evolution, you think that animals are inferior creatures, don’t you? Well, you are wrong, you are very wrong. Humans are not the ultimate form of perfection, there are so many, many other forms, everything that IS has a consciousness, everything that IS lives, even this bench upon which we now sit is just a collection of vibrations.

Nó cảm nhận những điểm lồi ra trên cơ thể của con và nó nhường chỗ cho những điểm lồi ra đó và đổ khuôn theo dáng hình của con để làm cho con thoải mái hơn. Con nhìn xem!’ Ông ấy đứng dậy, chỉ tay và Hogy nhìn vào chỗ ông vừa ngồi. ‘Chiếc ghế đang trở lại trạng thái bình thường của nó, khi ta ngồi lên đó…” Ông nói đi đôi với hành động hay hành động đi đôi với lời nói, bạn muốn nói thế nào cũng được, rồi ông ngồi xuống, và ngay lập tức chiếc ghế liền ôm lấy hình dáng của ông. ‘Nhưng, như ta đã nói, Hogy, mọi thứ đều có ý thức; mọi thực thể đều ở trong trạng thái tiến hóa.

It senses high points on your anatomy and it yields to those high points and moulds to you to give you greater comfort. Look!’ He stood up and pointed and Hogy looked at the place where he had been sitting. ‘The bench is returning to its normal state, when I sit down on it.’ He suited the words to the action or the action to the words, whichever way you like to put it, and sat down, and immediately the bench took up his anatomical form. ‘But, as I was saying Hogy, everything has a consciousness; everything that IS, is in a state of evolution.

Giờ thì, mèo không bao giờ trở thành người cũng như con người không trở thành mèo, chúng là những dòng tiến hóa khác nhau giống như hoa hồng không trở thành bắp cải hay bắp cải không trở thành hoa hồng. Nhưng nó đã được chứng minh ngay cả trên Trái đất rằng thực vật cũng có xúc cảm; những xúc cảm đó đã được thiết bị điện tử nhạy cảm phát hiện, đo lường và vẽ thành biểu đồ. Chà, ở đây trên thế giới này, con người đã đến giai đoạn trung gian, ở đây chúng ta gần gũi với động vật hơn so với trên Trái đất. Hogy, đừng nghĩ rằng đây là Thiên đường, không phải đâu, những cảnh giới trên nó, trên nữa cũng không phải.

Now, cats do not become humans any more than humans become cats, they are different lines of evolution in the same way that a rose does not become a cabbage or a cabbage does not become a rose. But it has been proved even on Earth that plants have feelings; those feelings have been detected, measured and plotted by sensitive electronic equipment. Well, here on this world people come to an intermediate stage, here we are closer to the animals than we are on Earth. Don’t think, Hogy, that this is Heaven, it is not, nor is the stage above, or above that, or even above that.

Ở đây là nơi mà chúng ta có thể coi như một trạm dừng chân giữa đường, một nơi để quyết định xem con người sẽ đi tiếp lên cõi cao hơn? Hay sẽ quay trở lại Trái đất? Ta đã học được rất nhiều điều kể từ khi ta đến đây, và ta biết rằng chúng ta đang ở rất gần Trái đất, chúng ta như là sự khác biệt giữa đài AM thông thường và đài FM.

Here is what we might term a half way station, a place of sorting where it is decided what people will do will they go up to a higher plane? Or will they go back to Earth? I have learnt a lot since I have been here, and I know that we are very, very close to the Earth plane, we are the difference between the ordinary AM radio and FM radio.

FM có chất lượng tốt hơn rất nhiều so với AM, nó có rung động nhanh hơn, sắc nét hơn và ở đây trên thế giới này, rung động của chúng ta tốt hơn rất nhiều so với trên Trái đất, chúng ta có thể nhận thức được nhiều thứ hơn, chúng ta đang ở trạng thái giữa Thế giới vật chất trên Trái Đất và thế giới Chân ngã Tâm linh. Chúng ta đến đây bởi đã tháo bỏ được rất nhiều giới hạn. Đó là, trên Trái đất, chắc ta sẽ nghĩ rằng ai đó bị điên nếu họ bảo rằng một con mèo có thể nói chuyện, có thể có lý trí và những điều khác nữa. Ở đây ta biết rằng đúng, chúng có lý trí, thậm chí còn rất sáng suốt trong một số trường hợp. Nhưng trên Trái đất, chúng ta không hiểu được điều đó bởi vì hình thái lý trí đặc biệt của chúng khác với hình thái của con người.’

FM is a lot better quality than is AM, it has faster vibrations, finer vibrations, and here on this world our vibrations are much, much better than those on Earth, we can perceive things more, we are in a state between the Earth-physical and the Overself spiritual. We come here because we lose so many inhibitions. That is, on Earth I would have thought anyone was mad if they told me that a cat could talk, could have reason and all the rest of it. Here I learn that yes, they do have reason, very brilliant reason too in some cases. But on Earth we do not understand that because the precise pattern of reason is different from that of humans.’

Họ ngồi đó một lúc; chỉ có thể nhìn thấy đường nét của con mèo ở đằng xa. Nó đang nhìn xung quanh vẻ tội lỗi và sau đó dường như nó nhún vai và nằm xuống dưới ánh sáng rực rỡ và ngủ. Có phải ánh nắng mặt trời không? Hogy nhìn bầu trời, và rồi nhớ rằng không có mặt trời ở đây, mỗi thứ là một mặt trời thu nhỏ. MacOgwascher Cha rõ ràng đang đọc được suy nghĩ của Hogy bởi vì ông nhận xét, ‘Ồ không, không có mặt trời ở đây. Chúng ta lấy năng lượng từ môi trường xung quanh, nó được bức xạ tới chúng ta, và ở đây chúng ta không phải ăn thức ăn theo kiểu Trái đất, chúng ta không phải bài tiết theo kiểu Trái đất. Nếu chúng ta lấy năng lượng bức xạ từ đây, chúng ta luôn có bao nhiêu tùy thích và không cần hơn, nhưng thực phẩm kiểu Trái đất luôn có rất nhiều sự lãng phí và việc giải quyết vấn đề này là một trong những bài toán lớn của nhân loại hiện nay.

They sat there for some moments; they could just see the outline of the cat in the distance. He was looking about rather guiltily and then he seemed to shrug his shoulders and lay down in the bright light and went to sleep. Sunlight? Hogy looked at the sky, and then remembered that there was no sun here, everything was a miniature sun. Father MacOgwascher had obviously been following his thoughts because he remarked, ‘Oh no, there is no sun here. We take our energy from our surroundings, it is radiated to us, and here we do not have to eat Earth-type food, we do not have to indulge in the Earth-type form of eliminations. If we take the radiant energy from here we always have as much as we want and no more, but of Earth-type food well, there is always such a lot of wastage and getting rid of it is one of the big problems of humanity at the present time.

Vì vậy, hãy nhớ, Hogy, con không cần phải nghĩ đến ăn uống ở đây. Hãy cứ là chính mình và cơ thể con sẽ lấy tất cả năng lượng cần thiết và con sẽ không thấy đói trừ khi con cứ nghĩ đến thức ăn kiểu Trái đất, và rồi một thời gian ngắn sau, con sẽ lại có thể có cảm giác thèm ăn.’

So, remember Hogy, you don’t need to think up a meal here. Just let yourself be and your body will take all the energy it requires and you will not get hungry unless you think of Earth-type food, and then, for a short time you will possibly have a craving for it.’

Ngay lúc đó một người đàn ông đi qua và Hogy thực sự kinh ngạc. Người đàn ông đang hút tẩu! Anh ta vừa sải bước, vừa vung tay, hút điếu thuốc một cách nhiệt tình và phun ra những đám khói. MacOgwascher Cha nhìn Hogy và lại cười. ‘Hogy,’ ông ấy nói, ‘Ta đã nói với con rằng một số người thèm thức ăn kiểu Trái đất, một số người thèm hút thuốc hoặc cả uống rượu nữa, họ có thể có nó nếu họ muốn nhưng không cái đó chẳng để làm gì cả.

Just at that moment a man came by and Hogy started in real amazement. The man was smoking a pipe! Striding along, swinging his arms, he puffed heartily on a pipe and was belching clouds of smoke. Father MacOgwascher looked at Hogy and laughed again. ‘Hogy,’ he said, ‘I’ve been telling you that some people crave for Earth-type food, some people crave to have a smoke or a drink well, they can have it if they want to but there just isn’t any point in it.

Điều đó có nghĩa là họ chưa tiến hóa đến giai đoạn cần phải bỏ được những thói quen cũ trên Trái đất. Anh bạn đó đang hút thuốc; Ồ, được thôi, anh ta thích nó, nhưng đến một lúc nào đó anh ta sẽ nhận ra rằng điều đó thật ngớ ngẩn. Anh ta nghĩ về thuốc lá, rồi anh ta nghĩ đến một túi thuốc lá, sau đó anh ta đặt tay vào bộ quần áo mà anh ta đã nghĩ ra và tưởng tượng ra một túi thuốc lá mà anh ta lấy ra để nhồi vào chiếc tẩu tưởng tượng. Tất nhiên đó là ảo ảnh, là ảo giác, là tự thôi miên, nhưng con cũng thấy được như thế ở các bệnh viện tâm thần trên Trái đất. Con thấy có một anh chàng cầm rất nhiều những ốc vít đã bị tháo lỏng, thậm chí một số cái đã rơi ra, và anh ta mất trí ở mức độ nặng nhẹ như thế nào mà nghĩ rằng anh ta đang lái xe hơi hoặc cưỡi ngựa

It means that they have not evolved to the stage necessary for them to shuck off old Earth habits. That fellow is smoking; well, okay, he likes it, but at some time he will come to the realization that it is just silly. He thinks of tobacco, then he thinks of a tobacco pouch, then he puts a hand in a suit of clothes which he has thought up and produces an imaginary pouch of tobacco with which he fills an imaginary pipe. Of course it is illusion, it is hallucination, it is self hypnosis, but you get the same in mental hospitals on the Earth. You get a fellow who’s got a lot of screws loose, some may even have dropped out, and the fellow being insane to a greater or lesser degree thinks he is driving a car or riding a horse.

Ta nhớ có lần đến một bệnh viện tâm thần lớn ở Ireland và ở đó ta thấy một người đàn ông có thái độ vô cùng kỳ lạ và ta hỏi anh ta nghĩ anh ta đang làm gì. Anh ấy nhìn ta như thể ta là một thằng ngốc không nhận ra anh ta là ai và nói, ‘Chà, ông nghĩ tôi đang làm gì vậy? Ông không nhìn thấy con ngựa của tôi à? Con ngốc này mệt đến nỗi nằm lăn ra đất và ta không thể cưỡi nó cho đến khi con ngựa ngu ngốc này đứng dậy.’ Người đàn ông mất trí sau đó cẩn thận rời khỏi con ngựa tưởng tượng của mình và vừa bước đi vừa nói xấu về tất cả những người bị điên trong bệnh viện tâm thần!’

I remember once going to a big mental hospital in Ireland and there I saw a man in a most peculiar attitude and I asked him what he thought he was doing. He looked at me as if I was an idiot not realising that HE was and said, “Well, what do you think I’m doing? Can’t you see my horse? The fool is tired he’s lying on the ground and we can’t possibly ride along until the fool horse gets to his feet.” The insane man then carefully got off his imaginary horse and walked off in disgust talking about all the lunatics there were in the mental home!’

Hogy tỏ ra lúng túng. Ông không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình. Ông cảm thấy thật kỳ lạ; dường như ông là một miếng kim loại bị nam châm hút. Vì một lý do kỳ lạ nào đó, ông nắm lấy tay của chiếc ghế băng. MacOgwascher Cha quay về phía ông và nói, ‘Đã đến lúc rồi đó, Hogy, họ đang gọi con đến Sảnh Ký Ức, con nên đi đi. Ta sẽ đợi ở đây cho đến khi con ra, ta có thể giúp con, nhưng khi con ra thì hãy gọi ta là Moses, không phải là Cha, ở đây ta không phải là cha của con nữa. Nhưng bây giờ hãy đi đi.’

Hogy squirmed. He couldn’t understand what was happening to him. He felt most peculiar; it seemed that he was a piece of metal being drawn to a magnet. For some strange reason he grasped the arm of the bench. Father MacOgwascher turned toward him and said, ‘The time has come, Hogy, they are calling you to the Hall of Memories you’d better go. I’ll wait here until you come out, I may be able to help you, but when you come out call me Moses, not Father, I am not your father here. But now go.’

Hogy đứng dậy và thậm chí trong quá trình đứng dậy, ông thấy mình đã bị kéo gần hơn đến Sảnh Ký ức. Với một chút bối rối, ông hướng mặt về phía cửa ra vào và sau đó thấy rằng ông gần như đang chạy, dù sao thì ông đang đi nhanh hơn mình muốn. Nhưng những bậc đá khổng lồ đã hiện ra trước mặt. Bây giờ, gần đến mức này, ông vô cùng ngạc nhiên trước kích thước của Đại sảnh, kích thước của lối vào rộng lớn khiến ông vô cùng sợ hãi.

Hogy rose to his feet and even in the process of rising to his feet he found that he had been drawn much closer to the Hall of Memories. In some confusion he turned to face the entrance and then found that he was almost running, he was going faster than he wanted to, anyway. But the great stone steps loomed ahead of him. Now, this close, he was amazed at the size of the Hall, the dimensions of the great entrance thoroughly frightened him.

Ông có cảm giác giống như một con kiến cảm nhận khi đi qua sảnh đường của một cung điện nào đó trên Trái đất. Ông bước lên các bậc thang; mỗi bậc sau dường như cao hơn bậc trước. Hay nó là thế này? Có thể người ông đang nhỏ dần đi theo mỗi bậc mà ông bước lên. Nhỏ hơn theo ước tính của riêng mình. Nhưng ông đã lấy thêm can đảm và bước tiếp lên. Chẳng bao lâu ông đã đến được nơi dường như là một mặt phẳng rộng lớn, ông dường như đang ở trên một cao nguyên, một cao nguyên không có gì đặc biệt ngoại trừ phía trước ông có một cánh cửa khổng lồ như vươn lên đến tận Thiên đường. Hogy tiến về phía trước và khi ông đến gần cánh cửa lớn, nó mở ra và Hogy bước vào bên trong Sảnh Ký ức. Cánh cửa đóng lại sau lưng ông.

He felt as possibly an ant might feel going through the entrance to some palace on Earth. He ascended the steps; each one seemed to be higher than the one before. Or was it that way? Possibly he was growing smaller with each step he took. Smaller in his own estimation certainly. But he summoned up his courage a bit more and progressed upwards. Soon he reached what seemed to be a vast flat surface, he seemed to be on a plateau, a featureless plateau except that ahead of him there was a great door which seemed to reach up into the heavens. Hogy walked forward and as he approached the great door it opened and Hogy entered into the Hall of Memories. The door closed behind him.