Chương 1: Sống với vị Lạt ma – Lobsang Rampa

sống với vị Lạt ma

LỜI NÓI ĐẦU

FOREWORD

“Mày mất trí rồi Feef” vị Lạt ma nói. “Ai sẽ tin chú mày viết sách cơ chứ” Ông mỉm cười cúi xuống nhìn và vuốt ve cằm tôi theo cách mà tôi thích trước khi bước ra khỏi phòng đi công chuyện.

“You’ve gone off your head, Feef,” said the Lama. “Who will believe that YOU wrote a book?” He smiled down at me and rubbed under my chin in just the way I liked best before he left the room on some business.

Tôi ngồi xuống suy ngẫm “Tại sao mình lại không thể viết sách” tôi nghĩ. Đúng vậy! Tôi là một chú mèo, nhưng đâu phải một chú mèo bình thường. Trời ạ! Tôi là một chú Mèo Xiêm, một kẻ đã đi đây đi đó và đã thấy rất nhiều. “THẤY!”, ồ, dĩ nhiên là giờ tôi đã bị mù và phải nhờ tới Lạt ma và bà Ku’ei miêu tả khung cảnh hiện tại, tuy vậy, tôi vẫn có ký ức!

I sat and pondered. “Why should I not write a book?” I thought. True that I am a Cat,  but not an ordinary cat. Oh dear! No! I am a Siamese Cat who has traveled far and seen much. “Seen?” Well, of course, I am quite blind now, and have to rely on the Lama and the Lady Ku’ei to tell me of the present scene, but I have my memories!

Đúng là tôi đã già, rất già là đằng khác, và cũng không ít bệnh tật, nhưng đó chẳng phải là lý do thuyết phục để tôi viết ra giấy những sự kiện của đời mình khi còn có thể hay sao? Vậy nên đây là câu chuyện của tôi về Cuộc Sống với vị Lạt ma, những chuỗi ngày hạnh phúc nhất đời tôi, những ngày tươi sáng sau một quãng dài tăm tối.

Of course I am old, very old indeed, and not a little infirm, but is that not good reason why I should put on paper the events of my life, while I am able? Here, then, is my version of Living with the Lama, and the happiest days of my life; days of sunshine after a lifetime of shadows.

Ký tên

(Cô mèo) Fifi Greywhiskers.

CHƯƠNG 1

CHAPTER ONE

Bà Mẹ Tương Lai lắc đầu “Tôi muốn một chú mèo Tôm”, bà hét lên “Một chú mèo Tôm khỏe đẹp” Tiếng gào thật khủng khiếp, Con người than vãn. Rồi sau đó, Bà Mẹ lại rất nổi tiếng vì tiếng kêu the thé đó. Với nhu cầu cấp thiết của bà, tất cả các trại mèo tốt nhất ở Paris đã bị lục tung để tìm cho được một chàng mèo Tôm giống Xiêm thuần chủng. Tiếng Mèo Mẹ càng lúc càng lớn và đinh tai nhức óc. Và nó càng làm cho Con người quyết tâm hơn khi quay lại cuộc tìm kiếm.

Mother-to-Be was shrieking her head off. “I want a Tom,” she yelled, “A nice STRONG Tom!” The noise, the People said, was TERRIBLE. But then, Mother was renowned for her loud calling voice. At her insistent demand, all the best catteries in Paris were combed for a suitable Siamese Tom with the necessary pedigree. Shriller and louder grew Mother-to-Be’s voice. More and more distraught grew the People as they turned with renewed strength to the search.

Cuối cùng một ứng cử viên sáng giá được tìm thấy, anh ta và Mèo Mẹ được giới thiệu với nhau. Từ buổi gặp đó, sau một thời gian, tôi được sinh ra và chỉ riêng tôi là được phép sống, các anh chị em còn lại đều bị vứt xuống hồ.

At last a very presentable candidate was found and he and Mother-to-Be were formally introduced. From that meeting, in course of time, I appeared, and I alone was allowed to live, my brothers and sisters were drowned.

Mẹ và tôi sống cùng một gia đình người Pháp, họ có một điền trang rộng lớn ở vùng ngoại ô Paris. Ông chủ là một nhà ngoại giao cấp cao, thường vào thành phố làm việc hầu hết các ngày trong tuần. Ông ấy thường không về nhà mỗi tối mà ở lại thành phố với nhân tình của mình. Bà chủ sống cùng chúng tôi, Bà Đại Sứ, là một phụ nữ cứng rắn, hẹp hòi, đầy bất mãn. Với bà ta, loài mèo chúng tôi không phải là “Người” (như đối với Lạt ma) mà chỉ là thứ đồ chơi để khoe mẽ tại các buổi tiệc trà.

Mother and I lived with an old French family who had a spacious estate on the outskirts of Paris. The Man was a diplomat of high rank who journeyed to the City most days of the week. Often he would not return at night but would stay in The City with his Mistress. The woman who lived with us, Mme. Diplomat, was a very hard woman, shallow and dissatisfied. We cats were not “Persons” to her (as we are to the Lama) but just things to be shown off at tea parties.

Mẹ tôi có một vẻ ngoài lộng lẫy, với gương mặt đen tuyền và chiếc đuôi thẳng đứng. Bà đã thắng rất nhiều giải thưởng. Một ngày nọ trước khi tôi chính thức cai sữa, bà đã hát một bài với giọng lớn hơn thường lệ. Bà Đại Sứ nổi cơn tam bành và thét gọi người làm vườn. “Pierre” bà ta lớn tiếng, “Quẳng nó ra hồ ngay, tôi không thể chịu nổi tiếng ồn này.” Pierre, một gã người Pháp nhỏ con với khuôn mặt xệ, không ưa chúng tôi chỉ vì chúng tôi thi thoảng giúp gã làm vườn bằng việc kiểm tra các rễ cây để xem chúng có đang phát triển hay không, vậy là ông ta quắp người mẹ xinh đẹp của tôi, nhét bà vào một bao tải khoai tây bẩn thỉu và xách đi. Đêm ấy, cô đơn và sợ hãi, tôi khóc đến thiếp đi trong một nhà kho lạnh lẽo nơi Bà Đại Sứ sẽ không bị quấy rầy bởi những lời than khóc của tôi.

Mother had a glorious figure, with the blackest of black faces and a tail that stood straight up. She had won many many prizes. One day, before I was properly weaned, she sang a song rather more loudly than usual. Mme. Diplomat flew into a tantrum and called the gardener. “Pierre,” she shouted, “Take her to the pond instantly, I cannot bear the noise.” Pierre, an undersized, sallow faced little Frenchman who hated us because we sometimes helped him with the gardening by inspecting plant roots to see if they were growing, scooped up my beautiful Mother and put her into a dirty old potato sack and marched off into the distance. That night, lonely and afraid, I cried myself to sleep in a cold outhouse where Mme. Diplomat would not be disturbed by my lamentations.

Tôi trằn trọc, xoay đi xoay lại trên chiếc giường lạnh lẽo làm từ các tờ báo cũ trên sàn bê tông. Cơn đói cồn cào quấn lấy thân thể nhỏ bé và tôi tự hỏi mình sẽ xoay sở ra sao.

Khi những tia sáng bình minh đầu tiên miễn cưỡng len lỏi qua cửa sổ đầy mạng nhện của nhà kho, tôi run rẩy nghe những bước chân nặng nhọc đang tiến lại gần trên lối đi, ngập ngừng trước cửa rồi sau đó đẩy cửa tiến vào. “Ah” Tôi thở phào nhẽ nhõm, “chỉ là bà quản gia Albertine thôi mà.” Vừa thở hổn hển, bà vừa từ từ cúi thân hình to lớn xuống mặt sàn, nhúng một ngón tay to tướng vào trong một bát sữa ấm và dịu dàng dỗ tôi uống.

I tossed restlessly, feverishly, on my cold bed of old Paris newspapers thrown on the concrete floor. Pangs of hunger wracked my small frame and I wondered how I would manage.

As the first streaks of dawn reluctantly struggled through the cobweb-covered windows of the outhouse, I started with apprehension as heavy footsteps clattered up the path, hesitated at the door, then pushed it open and entered. “Ah!” I thought in relief, “It is only Madame Albertine, the housekeeper.” Creaking and gasping she lowered her massive frame to the floor, dipped a gigantic finger into a bowl of warm milk and gently persuaded me to drink.

Ngày qua ngày, tôi bước đi trong nỗi buồn u ám, tiếc thương người mẹ bị sát hại chỉ vì giọng hát tuyệt vời của bà. Những ngày ấy, tôi chẳng còn cảm thấy hơi ấm của mặt trời, cũng chẳng được vui mừng mỗi khi nghe âm thanh của tiếng kêu thân thuộc. Tôi đói khát và sống hoàn toàn nhờ vào lòng tốt của bà Albertine. Nếu không có bà, tôi chắc chắn đã chết đói vì tôi còn quá nhỏ và chưa thể tự ăn một mình.

For days I walked in the shadow of sorrow, grieving for my murdered Mother, murdered solely because of her glorious singing voice. For days I felt not the warmth of the sun, nor thrilled to the sound of a well-loved voice. I hungered and thirsted, and depended wholly upon the good offices of Madame Albertine. Without her I should have starved to death, for I was then too young to eat unaided.

Ngày kéo dài thành tuần. Tôi đã học được cách tự vệ, nhưng nỗi vất vả của những ngày chào đời đã khiến tôi có thể trạng yếu ớt. Điền trang rất rộng lớn và tôi thường tha thẩn, tránh xa con người cùng những bước chân vụng về của họ. Cây cối là niềm yêu thích của tôi, tôi trèo lên chúng, vươn người dọc theo những cành cây thân thiện và tắm mình dưới nắng. Cây cối thì thầm cùng tôi, nói cho tôi nghe về những ngày hạnh phúc sẽ đến khi cuộc đời tôi xế bóng. Tôi không hiểu điều đó nhưng tôi tin chúng và gìn giữ những lời ấy thậm chí trong những giờ phút đen tối nhất.

The days dragged on, and became weeks. I learned to fend for myself, but the hardships of my early life left me with an impaired constitution. The estate was huge, and I often wandered about, keeping away from People, and their clumsy, unguided feet. The trees were my favourites, I climbed them and stretched at length along a friendly bough, basking in the sun. The trees whispered to me, telling me of the happier days to come in the evening of my life. Then I understood them not, but trusted, and kept the words of the trees ever before me, even in the darkest moments.

Một buổi sáng nọ tôi thức giấc với một ham muốn kỳ lạ. Tôi buột miệng thốt lên một vài câu hỏi, và thật xui xẻo, Bà Đại Sứ đã nghe thấy. “Pierre!”, bà ta gọi, “Tìm con mèo đi, bất kỳ là con nào cũng phải làm cho nó hết kêu.” Thế là trong ngày hôm đó, tôi bị bắt và ném một cách thô bạo vào trong một hộp gỗ. Trước khi tôi kịp hoàn hồn, thì một gã mèo già đáng ghét nhảy chồm lên lưng. Mẹ đã không có bất cứ cơ hội nào để kể cho tôi về “những thực tế của cuộc đời”, vì thế mà tôi chưa được chuẩn bị tinh thần cho những điều xảy đến. Gã mèo già nhảy lên lưng và tôi cảm thấy một cú sốc. Trong khoảnh khắc tôi nghĩ rằng một trong những Con người đã đá mình. Một cơn đau xẹt qua và có cảm giác cái gì đó bị rách. Tôi rú lên đau đớn, sợ hãi và cào cấu gã mèo già; máu tứa ra từ một chiếc tai của gã, tiếng hét của gã xoáy vào tai tôi. Nhanh như chớp nắp hộp được mở và những đôi mắt tò mò ngó vào. Tôi nhanh chân nhảy ra ngoài, khi đã trốn thoát, tôi thấy gã mèo già gầm gừ nhảy bổ vào Pierre khiến ông ta té ngửa vào chân Bà Đại Sứ.

One morning I awakened with strange, ill-defined longings. I uttered a yelp of interrogation which, unfortunately, Mme. Diplomat heard. “Pierre!” she called, “Fetch a tomcat, any tomcat will do to break her in.” Later in the day I was seized and thrown roughly into a wooden box. Almost before I was aware of anyone being present, a disreputable old tomcat leaped upon my back. Mother had had no opportunity to tell me much about the ‘facts of life’, so I was not prepared for what followed. The battered old tomcat leaped upon me, and I felt a shocking blow. For a moment I thought that one of the People had kicked me. There was a blinding flash of pain, and I felt something tear. I shrieked in agony and terror and raked fiercely at the old tom; blood spattered from one of his ears and his yelling voice added to mine. Like a flash of lightning the box top was ripped off and startled eyes peered in. I leaped out; as I escaped I saw the old tom, spitting and snarling, jump straight at Pierre who tumbled over backwards at the feet of Mme. Diplomat.

Ngang qua bãi cỏ, tôi tìm chỗ trú trên một cây táo thân thiện. Trèo lên những cành cây, tôi tìm đến một nhánh thân thuộc, nằm dài và thở hổn hển. Những chiếc lá xào xạc trong gió nhẹ nhàng vỗ về. Các nhành cây đung đưa chầm chậm ru tôi vào giấc ngủ mệt nhoài.

Streaking across a lawn I made for the shelter of a friendly apple tree. Scrambling up the welcoming trunk, I reached a well-loved limb and lay at full length, panting. The leaves rustled in the breeze and gently caressed me. Branches swayed and creaked and slowly lulled me into the sleep of exhaustion.

Nguyên thời gian còn lại ngày hôm đó và cả đêm, tôi nằm trên nhánh cây, đói, sợ và phát ốm, tự hỏi tại sao con người lại tàn nhẫn và vô tâm với cảm xúc của các loài vật nhỏ bé, những sinh vật hoàn toàn phụ thuộc vào họ. Đêm lạnh, một cơn mưa phùn thổi từ thành phố Paris. Tôi ướt nhẹp và lạnh cóng nhưng quá sợ để leo xuống và tìm chỗ trú.

For the rest of the day and the whole of the night I lay upon the branch; hungry, afraid and sick, wondering why humans were so savage, so uncaring of the feelings of little animals who were utterly dependent upon them. The night was cold, and a light drizzle blew over from the City of Paris. I was soaked, and shivering, yet was terrified to descend and seek shelter.

Ánh sáng lành lạnh của buổi sớm mai từ từ nhường chỗ cho ngày u ám đã qua. Những đám mây đen bao phủ bầu trời. Thỉnh thoảng có một vệt mưa thoáng qua. Vào khoảng giữa buổi sáng, một bóng dáng thân thuộc tiến lại từ hướng ngôi nhà. Bà Albertine nặng nề đi tới gần cái cây và nhìn lên. Tôi yếu ớt gọi, bà đưa tay ra đón tôi. “Ah! Fifi bé nhỏ tội nghiệp, nhanh nhanh lại đây. Ta có đồ ăn cho con đây.” Tôi trượt về phía sau, dọc theo các nhánh cây và từ từ xuống thân cây. Bà quỳ xuống thảm cỏ bên cạnh, vuốt ve khi tôi uống sữa và ăn mẩu thịt bà mang đến. Khi đã ăn xong, tôi rúc đầu vào người bà để tỏ lòng biết ơn, tôi biết rằng bà không nói ngôn ngữ của mèo và tôi thì không nói tiếng Pháp (mặc dù tôi hoàn toàn hiểu nó). Bà bế tôi lên, đặt trên đôi vai rộng của mình, đưa tôi vào nhà và mang tôi đến phòng của bà.

The cold light of early morning slowly gave way to the dull grayness of an overcast day. Leaden clouds scudded across the lowering sky. Occasionally there was a spatter of rain. About mid-morning a familiar figure hove in sight from the direction of the House. Madame Albertine, waddling heavily, and clucking sympathetically, approached the tree, peering short-sightedly. I called weakly to her and she reached her hand towards me. “Ah! My poor little Fifi, come to me quickly for I have your food.” I slid backwards along the branch and climbed slowly down the trunk. She knelt in the grass beside me, stroking me as I drank the milk and ate the meat which she had brought. With my meal finished, I rubbed gratefully against her knowing that she did not speak my language, and I did not speak French (although I fully understood it). Lifting me to her broad shoulder, she carried me to the House and took me to her room.

Tôi tròn mắt nhìn quay đầy ngạc nhiên và thích thú. Đây là một căn phòng hoàn toàn mới với tôi và những đồ nội thất này thật phù hợp cho việc mài giũa móng vuốt biết bao. Tôi vẫn còn nằm trên vai bà Albertine, bà di chuyển một cách nặng nề về phía chỗ ngồi rộng cạnh cửa sổ và nhìn ra ngoài. “Ah!” bà thốt lên, thở ra một cách nặng nhọc, “Thật đáng tiếc, một nơi đẹp thế này lại chứa đựng quá nhiều sự tàn nhẫn.” Bà đặt tôi vào lòng, nhìn tôi và nói, “Fifi nhỏ xinh tội nghiệp của ta, Bà Đại Sứ là một người đàn bà khó tính và tàn nhẫn, một kẻ trèo cao trên nấc thang danh vọng. Với bà ta, con chỉ là món đồ chơi để khoe mẽ. Nhưng với ta, con là tạo vật tuyệt vời của Thượng Đế. Nhưng con chẳng thể hiểu được điều ta nói đâu chú mèo nhỏ ạ!” Tôi kêu lên để cho thấy mình hiểu và liếm tay bà. Bà vỗ về tôi và nói, “Ôi! Những tình cảm này mà bỏ đi thật là uổng phí. Con sẽ là một bà mẹ tốt, Fifi bé nhỏ.”

I looked about me in wide-eyed amazement and interest. This was a new room to me and I thought how very suitable the furnishings would be for stretching one’s claws. With me still upon her shoulder, Madame Albertine moved heavily to a wide window seat, and looked out. “Ah!” she exclaimed, exhaling gustily, “The pity of it, amid all this beauty there is so much cruelty.” She lifted me to her very ample lap and gazed into my face as she said, “My poor, beautiful little Fifi, Mme. Diplomat is a hard and cruel woman. A social climber if ever there was one. To her you are just a toy to be shown off. To me you are one of the Good God’s own creatures. But you will not understand what I am saying, little cat!” I purred to show that I did, and licked her hands. She patted me and said, “Oh! Such love and affection going to waste. You will make a good mother, little Fifi.”

Tôi cuộn người thoải mái trong lòng bà trong khi nhìn qua cửa sổ. Khung cảnh thật  thú vị đến nỗi tôi nhỏm dậy và áp mũi vào cửa kính để có tầm nhìn tốt hơn. Bà Albertine mỉm cười trìu mến, tinh nghịch vuốt đuôi tôi, nhưng khung cảnh kia đã chiếm trọn sự chú ý của tôi. Bà quay người và xoay gối với một tiếng răng rắc. Chúng tôi cùng nhau nhìn ra ngoài cửa sổ, má kề má.

As I curled more comfortably on her lap I glanced out of the window. The view was so interesting that I had to get up and press my nose to the glass in order to obtain a better view. Madame Albertine smiled fondly at me as she playfully pulled my tail, but the view engaged my whole attention. She turned and rolled to her knees with a thud. Together we looked out of the window, cheek to cheek.

Bên dưới chúng tôi, bãi cỏ được chăm sóc kỹ lưỡng trông như một tấm thảm xanh mướt trải dưới chân một đại lộ những cây cổ thụ sừng sững. Uốn cong nhẹ nhàng về bên trái là con đường màu xám mượt mà kéo dài đến tận phía xa nơi văng vẳng tiếng inh ỏi ồn ào của xe cộ đến và đi từ Đại đô thị. Người bạn già của tôi, cây táo, đứng trơ trọi, thẳng tắp bên bờ của một hồ nước nhân tạo, bề mặt của nó phản chiếu bầu trời xám xịt trông như một lớp chì cũ óng ả. Quanh mép nước mọc lên một vạt sậy lưa thưa, hệt như mái tóc lớt thớt của ông Curé, người hay đến gặp ông “Le Duc” – chồng của Bà Đại Sứ.

Below us the well-kept lawns looked like a smooth green carpet fringed by an avenue of stately poplar trees. Curving gently towards the left the smooth grayness of the Drive stretched away to the distant road from whence came the muted roar of traffic surging to and from the great Metropolis. My old friend the Apple Tree stood lonely and erect by the side of a small artificial lake, the surface of which, reflecting the dull grayness of the sky, took upon itself the sheen of old lead. Around the water’s edge a sparse fringe of reeds grew, reminding me of the fringe of hair on the head of the old Curé who came to see “le Duc”—Mme. Diplomat’s husband.

Tôi lại nhìn vào hồ nước và nghĩ về bà mẹ tội nghiệp của mình, người đã kết thúc cuộc đời ở đó. “Và còn bao nhiêu chú mèo khác nữa?” Tôi tự hỏi. Bà Albertine bất chợt nhìn tôi và nói, “Sao vậy Fifi bé nhỏ, ta nghĩ con đang khóc, đúng rồi con đã ứa một giọt lệ. Đây là một thế giới tàn nhẫn, Fifi bé nhỏ, tàn nhẫn với tất cả chúng ta.” Đột nhiên, phía xa xa, những đốm đen nhỏ mà theo hiểu biết của tôi là xe hơi, rẽ vào lối đi, phóng nhanh đến ngôi nhà, dừng lại với tiếng rít của bánh xe và một làn bụi đằng sau. Một tiếng chuông vang lên nóng vội khiến lông tôi dựng ngược, đuôi xù hết lên. Bà già nhấc lên một thứ gì màu đen, mà tôi được biết là điện thoại, tiếng nói lanh lảnh của Bà Đại Sứ vang lên một cách đầy tức tối: “Albertine, Albertine, tại sao bà không chú ý đến phận sự của mình? Tôi trả lương cho bà làm gì? Tôi đã quá nhân từ khi giữ bà ở đây. Đến đây ngay lập tức, chúng ta có khách. Đừng có lười biếng, Albertine!” Giọng nói im bặt và bà Albertine thở dài ngao ngán. “Ah! Cuộc chiến này khiến ta khổ thế đấy. Giờ ta phải làm việc mười sáu giờ mỗi ngày với đồng lương rẻ mạt. Con nằm nghỉ ở đây nhé Fifi bé nhỏ, đây là một hộp đất.” Bà lại thở dài, rồi vỗ về tôi lần nữa và đi ra khỏi phòng. Tôi nghe thấy tiếng cầu thang kẽo kẹt dưới sức nặng của bà và sau đó – là im lặng.

I gazed again at the Pond; and thought of my poor Mother who had been done to death there. “And how many others?” I wondered. Madame Albertine looked suddenly at me and said, “Why, my little Fifi, you are crying I think—yes, you have shed a tear. It is a cruel, cruel world, little Fifi, cruel for all of us.” Suddenly, in the distance, little black specks which I knew to be cars turned into the Drive and came speeding up to the house to halt in a flurry of dust and a squeal of tyres. A bell jangled furiously, causing my fur to stand up and my tail to fluff. Madame picked up a black thing which I knew was called a telephone, and I heard Mme. Diplomat’s shrill voice pouring agitatedly from it: “Albertine, Albertine, why do you not attend to your duties? Why do I pay you? I am so charitable that I keep you. Come instantly, for we have visitors. You must not laze so Albertine!” The Voice clicked off, and Madame Albertine sighed with Frustration. “Ah! That the war has brought me to this. Now I work for sixteen hours a day for a mere pittance. You rest, little Fifi, and here is a box of earth.” Sighing again, she patted me once more and walked out of the room. I heard the stairs creaking beneath her weight, then—silence.

Thềm đá bên dưới cửa sổ chật ních người. Bà Đại Sứ đang cúi chào cung kính đến mức tôi biết đó là những vị khách quan trọng. Những chiếc bàn con xuất hiện nhanh chóng như có phép màu, chúng được bao phủ bởi các tấm trải trắng (Tôi dùng báo – tờ Le Paris Soir – như khăn trải bàn của mình) và người hầu mang ra rất nhiều đồ ăn thức uống. Tôi vừa xoay người định cuộn tròn thì một suy nghĩ bất chợt khiến đuôi tôi dựng lên cảnh giác. Tôi đã xem nhẹ những cảnh báo căn bản, Tôi đã suýt quên mất điều đầu tiên mà Mẹ dạy “Con luôn luôn phải tìm hiểu một căn phòng mới, Fifi”, bà đã nói như thế. “Hãy kiểm tra từng ngóc ngách. Kiểm tra tất cả các lối thoát. Đề phòng những điều bất thường, ngoài dự tính. Không bao giờ, không bao giờ nghỉ ngơi cho đến khi con biết rõ căn phòng.”

The stone terrace beneath my window was swarming with people. Mme. Diplomat was bowing and being so subservient that I knew there were important persons. Little tables appeared as if by magic, were covered with fine white cloths (I used newspapers—Le Paris Soir—as MY tablecloth) and servants carried out food and drink in ample profusion. I turned away to curl up when a sudden thought made my tail fluff in alarm. I had overlooked the most elementary precaution; I had forgotten the first thing my Mother taught me. “ALWAYS investigate a strange room, Fifi,” she had said. “Go over everything thoroughly. Check all escape routes. Be wary of the unusual, the unexpected. Never NEVER rest until you know the room!”

Đầy hối lỗi, tôi đứng dậy, đánh hơi trong không khí và suy nghĩ cách tiến hành. Tôi sẽ kiểm tra bức tường bên trái trước rồi đi vòng quanh. Thả người xuống sàn, tôi quan sát bên dưới ghế ngồi cạnh cửa sổ, đánh hơi bất kỳ điều gì bất thường. Xem xét cách bài trí, những bất lợi và thuận lợi. Giấy dán tường hình hoa lá đã phai màu. Những bông hoa vàng trên nền tím. Ghế cao, sạch không tì vết nhưng đệm ngồi nhung đỏ đã bạc. Dưới ghế và bàn đều sạch sẽ không có mạng nhện. Loài mèo, bạn biết đấy nhìn mọi vật từ phía dưới, không phải từ bên trên, nên con người sẽ bỏ qua những thứ từ điểm nhìn của chúng tôi.

Guiltily I rose to my feet, sniffed the air, and decided how to proceed. I would take the left wall first and work my way round. Dropping to the floor I peered beneath the window seat, sniffing for anything unusual. Getting to know the layout, the dangers and the advantages. The wall-paper was flowery and faded. Big yellow flowers on a purple background. Tall chairs, spotlessly clean but with the red velvet seating faded. The undersides of the chairs and tables were clean and free from cobwebs. Cats, you know, see the UNDERSIDE of things, not the top, and humans would not recognize things from our view-point.

Một cái tủ kéo cao đứng dựa vào tường và tôi tiến vào giữa căn phòng để suy tính cách leo lên đến nóc. Một tính toán nhanh đã cho tôi thấy rằng mình có thể nhảy từ một chiếc ghế lên đến chiếc bàn – Ôi! Nó thật trơn làm sao – và từ bàn nhảy lên nóc tủ. Tôi ngồi đó một lúc, liếm mặt, liếm tai trong khi quan sát mọi thứ. Tình cờ tôi liếc nhìn phía sau và suýt nữa té ngửa vì giật mình: một chú mèo Xiêm đang nhìn tôi – rõ ràng là tôi đã quấy rầy khi cô ấy đang chải chuốt. “Thật kỳ lạ” tôi nghĩ, “không ngờ lại thấy một chú mèo nữa ở đây.” Bà Albertine chắc hẳn đã giấu chuyện này. Tôi định đến chào hỏi nên tiến về phía cô ấy và hình như cô ấy cũng có cùng ý nghĩ khi tiến về phía tôi. Chúng tôi dừng lại ngay trước một cái giống cửa sổ ở giữa. “Thật đáng ngạc nhiên!” Tôi trầm ngâm, “Chuyện này là sao nhỉ?”. Đoán rằng đây chỉ là một trò đùa, tôi thận trọng đi vòng qua bên kia cửa sổ. Không có ai ở đó cả. Thật kinh ngạc cô ta sao chép mọi cử động của tôi. Cuối cùng thì tôi cũng nhận ra. Đây là một chiếc gương, một vật dụng lạ lùng mà Mẹ đã kể cho tôi. Tất nhiên đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nó vì đây là lần đầu tiên tôi được vào trong nhà. Bà Đại Sứ rất khắt khe và mèo không được phép vào nhà trừ những khi bà ta muốn khoe chúng tôi – và tôi cho đến nay vẫn may mắn chưa bị làm xấu mặt theo kiểu đó.

A tallboy stood against one wall and I edged into the centre of the room so as to decide how to get to the top. A quick calculation showed me that I could leap from a chair to the table—Oh! How slippery it was!—and reach the top of the tallboy. For a time I sat there, washing my face and ears as I thought things over. Casually I glanced behind me and almost fell over in startled alarm; a Siamese cat was looking at me—evidently I had disturbed her while she was washing. “Strange,” I thought, “I did not expect to find a cat here. Madame Albertine must be keeping it secret. I will just say ‘hello’ ” I moved towards her, and she, seemingly having the same idea, moved to me. We stopped with some sort of a window between us. “Remarkable!” I mused, “How can this be?” Cautiously, anticipating a trick, I peered around the back of the window. There was no one there. Amazingly, every move I made she copied. At last it dawned upon me. This was a Mirror, a strange device Mother had told me about. Certainly it was the first I had seen because this was my first visit inside the House. Mme. Diplomat was VERY particular, and cats were not permitted inside the house unless she wanted to show us off—I so far had been spared that indignity.

“Dù sao thì” tôi lẩm bẩn, “mình phải tiếp tục cuộc điều tra. Cái gương có thể đợi.” Ngang qua căn phòng tôi nhìn thấy một cái khung kim loại lớn với các núm bằng đồng ở mỗi góc, và toàn bộ không gian ở giữa các núm đồng được trải bằng vải. Tôi vội vàng nhảy xuống bàn – trượt một chút trên lớp sơn bóng – và nhảy thẳng vào cái khung kim loại bọc vải kia. Tôi đáp lên ngay giữa và thật kinh khủng, nó ném tôi lên không trung! Khi đáp xuống lần nữa, tôi bắt đầu chạy trong khi quyết định điều phải làm tiếp theo.

“Still,” I muttered to myself, “I must get on with my investigation. The Mirror can wait.” Across the room I saw a large metal structure with brass knobs at each corner, and the whole space between the knobs covered in cloth. Hastily I leaped from the tallboy to the table—skidding a little on the high polish—and jumped straight on to the cloth covered metal structure. I landed in the middle and to my horror the thing threw me up into the air! As I landed again I started to run while I decided what to do next.

Tôi ngồi một lúc vào giữa tấm thảm màu đỏ và xanh với thiết kế “xoắn ốc”, dù sạch không tì vết, chiếc thảm này chắc chắn đã có một quá khứ tốt hơn ở một nơi khác. Nó có vẻ thích hợp cho việc mài vuốt, vì thế tôi cào nhẹ vài cái, việc này dường như giúp tôi suy nghĩ rõ ràng hơn. Tất nhiên rồi! Cái khung khổng lồ kia là một chiếc giường. Giường của tôi là những mẫu báo cũ trên nền bê tông của một nhà kho; còn Bà Albertine có một vài tấm vải cũ trải lên một khung sắt. Reo lên hài lòng vì đã giải mã được bí ẩn, tôi tiến về phía nó và xem xét bên dưới với vô vàn thích thú. Những chiếc lò xo lớn được bao phủ bởi cái rõ ràng là một cái bao tải khổng lồ gánh trọng lượng của hàng đống vải chất chồng lên nó. Tôi có thể phân biệt rõ ràng nơi cơ thể nặng nề của bà Albertine làm biến dạng một vài cái lò xo và khiến chúng bị chùng xuống.

For a few moments I sat in the centre of the carpet, a red and blue “swirly” design which, although spotlessly clean, had seen much better days elsewhere. It appeared to be just right for stretching claws, so I gave a few tentative tugs at it and it seemed to help me to think more clearly. OF COURSE! That huge structure was a bed. My bed was of old newspapers thrown on the concrete floor of an outhouse; Madame Albertine had some old cloth thrown over a sort of iron frame. Purring with pleasure that I had solved the mysterious matter, I walked toward it and examined the underside with vast interest. Immense springs, covered by what was obviously a tremendous sack, or split sack, bore the weight of the clothes piled upon it. I could clearly discern where Madame Albertine’s heavy body had distorted some of the springs and caused them to sag.

Với tinh thần nghiên cứu khoa học, tôi chọc vào góc treo vật liệu hoa văn sọc phía xa gần bức tường. Trước sự kinh hoàng tột độ của tôi, lông vũ bay ra tung tóe. “Tuyệt cú mèo!” Tôi kêu lên, “Bà ấy giữ những chú chim đã chết ở đây. Bảo sao bà ấy mập như vậy – bà ấy chắc hẳn đã ăn chúng vào ban đêm.” Tôi đánh hơi thêm một vài lần xung quanh, và thế là tôi đã tìm hiểu tất cả mọi thứ về chiếc giường.

In a spirit of scientific investigation I poked at a hanging corner of striped material at the far side near the wall. To my incredulous horror, FEATHERS fluttered out. “Great Tomcats!” I exclaimed, “She keeps DEAD BIRDS here. No wonder she is so big—she must eat them in the night.” A few more cursory sniffs around, and I had exhausted all the possibilities of the bed.

Nhìn quanh và tự hỏi nơi mình sẽ khám phá tiếp theo, tôi thấy một cái cửa đang để hé. Sau vài bước nhảy, tôi thận trọng cúi người bên một cột cửa và rướn người về phía trước để ghé một con mắt ra quan sát. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, quang cảnh thật kỳ lạ đến mức tôi không thể hiểu được những gì mình đang thấy. Những thứ sáng bóng trên sàn với hoa văn đen trắng. Tựa vào một bức tường là một cái máng ngựa khổng lồ (tôi biết chúng vì người ta đặt chúng ở gần chuồng ngựa!), trong khi tại một bức tường khác, trên một bệ gỗ, là chiếc cốc sứ lớn nhất mà tôi có thể tưởng tượng. Nó nằm trên bệ gỗ, có một cái nắp bằng gỗ màu trắng. Mắt tôi càng lúc càng mở to đến nỗi tôi phải ngồi lại gãi tai và suy xét kỹ lưỡng, tự hỏi ai sẽ uống nước trong một thứ như thế.

Peering around, wondering where to look next, I saw an open door. Half a dozen leaps, and I cautiously crouched by a door post and edged forward so that one eye could get a first glimpse. At first sight the picture was so strange that I could not comprehend what I was seeing. Shiny stuff on the floor in a black and white pattern. Against one wall an immense horse trough (I knew about them, we had them near the stables!), while against another wall, on a wooden platform, was the largest porcelain cup that I had ever imagined. It rested on the wooden platform and had a white wooden lid. My eyes grew rounder and rounder and I had to sit and scratch my right ear while I thought it over. WHO would drink out of a thing this size, I wondered.

Vừa hay nghe thấy tiếng bà Albertine leo lên cầu thang kẽo kẹt, tôi chẳng kịp dừng lại để kiểm tra xem bộ lông có được chải chuốt gọn gàng, mà lao nhanh ra cửa để chào bà. Trước những tiếng kêu hạnh phúc của tôi, bà cười rạng rỡ nói, “Ah! Fifi bé bỏng của ta, ta đã lấy được những món ngon nhất trên bàn cho con đây. Kem và phần chân ếch ngon nhất, chúng là của con. Mấy con heo đó còn đang nhồi nhét, khiếp thật! Chúng làm ta phát ốm!” Bà khom người và đặt đồ ăn xuống – trên những cái đĩa thật! – ngay trước mặt tôi. Nhưng tôi chưa muốn ăn, tôi phải nói với bà rằng tôi yêu bà đến nhường nào. Tôi kêu meo meo khi bà ôm tôi vào thân hình đồ sộ của bà.

Just then I heard the sound of Madame Albertine climbing the creaking stairs. Barely stopping to see that my vibrissae was brushed back tidily, I rushed to the door to greet her. At my shouts of joy she beamed and said, “Ah! Little Fifi, I have robbed the best from the table for you. The cream, and the best of the frog legs, they are for you. Those pigs are stuffing away, FAUGH! They make me sick!” Stooping, she placed the dishes—REAL dishes!—right in front of me. But I had no time for food yet, I had to tell her how much I loved her. I roared with purrs as she swept me up to her ample bosom.

Đêm đó, tôi ngủ dưới chân giường của bà Albertine. Rúc người vào chiếc mền lớn, tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái đến thế kể từ khi tôi bị tách khỏi mẹ. Việc học hỏi của tôi lại tiếp tục; tôi đã khám phá ra mục đích của cái “máng ngựa”, cái mà với sự thiếu hiểu biết của mình, tôi đã nghĩ là một chiếc cốc sứ khổng lồ. Nó khiến tôi đỏ bừng mặt khi nghĩ về việc mình đã ngốc thế nào.

That night I slept at the foot of Madame Albertine’s bed. Snuggled up on the immense coverlet I was more comfortable than at any time since my Mother was taken from me. My education raced ahead; I discovered the purpose of the “horse trough” and that which in my ignorance I had thought to be a giant porcelain cup. It made me blush all over my face and neck to think how ignorant I had been.

Sáng hôm sau, bà Albertine thay quần áo và xuống lầu. Có nhiều âm thanh náo động và nhiều giọng nói lớn. Từ cửa sổ, tôi nhìn thấy Gaston, người tài xế, đang đánh bóng chiếc xe hơi lớn hiệu Renault. Sau đó ông ta biến mất và quay trở lại trong bộ đồng phục đẹp nhất của mình. Ông ta lái xe đến trước cửa rồi người hầu chất đầy khoang hành lý với rất nhiều thùng và túi đồ. Tôi cúi xuống thấp hơn, “Quý ông le Duc” và Bà Đại Sứ bước lên xe, và Gaston lái xe đưa họ xuống đại lộ.

In the morning Madame Albertine dressed and went down the stairs. There came the sounds of much commotion, many loud voices. From the window I saw Gaston the chauffeur putting a high polish on the big Renault car. Then he disappeared, to return shortly dressed in his best uniform. He drove up to the front entrance and servants loaded the luggage space with many cases and bundles. I crouched lower; “Monsieur le Duc” and Mme. Diplomat went to the car, entered, and were driven down the Drive by Gaston.

Những âm thanh bên dưới càng lúc càng lớn, nhưng lần này là những âm thanh vui mừng. Bà Albertine thở hổn hển bước lên những bậc thang cọt kẹt, gương mặt bà ửng hồng vì rượu và mừng rỡ. “Họ đi rồi, Fifi bé bỏng.”, bà reo lên cứ như thể nghĩ rằng tôi bị điếc, “Họ đã đi rồi – trong cả một tuần chúng ta sẽ thoát khỏi sự đầy đọa của họ. Giờ ta có thể vui vẻ rồi! Bà bế tôi và mang tôi xuống lầu nơi một bữa tiệc đang diễn ra. Đám người hầu bây giờ đều đang rất vui vẻ, và tôi cũng cảm thấy vô cùng tự hào về việc bà Albertine đang bế mình mặc dù e ngại rằng cân nặng gần 2 ký của tôi sẽ làm bà mỏi.

The noise below me increased, but this time the sound was as of people celebrating. Madame Albertine came creaking and wheezing up the stairs, her face flushed with happiness and wine. “They have gone, Little Fifi,” she yelled, apparently thinking that I was deaf; “They have GONE—for a whole week we are free from their tyranny. Now we have fun!” Grasping me to her, she carried me down the stairs where a party was in progress. The servants all looked happier now, and I felt very proud that Madame Albertine was carrying me, although I feared that my weight of four pounds might tire her.

Suốt một tuần chúng tôi hỉ hả cùng nhau và vào cuối tuần thì dọn dẹp lại nhà cửa và khoác lên mình biểu cảm đau khổ nhất trong khi chuẩn bị cho sự trở về của Bà Đại Sứ và chồng bà ta. Chúng tôi không bận tâm về ông chủ chút nào, ông thường đi đi lại lại và mân mê Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh trên ve áo của mình. Dù gì thì ông ấy chỉ luôn nghĩ về việc “Phụng sự” Quốc Gia, không phải về những người hầu và những con mèo. Bà Đại Sứ mới là rắc rối, bà ta thật sự là một người đàn bà chua ngoa, và chúng tôi cảm thấy như vừa được khoan hồng thoát khỏi án tử khi nghe tin vào hôm thứ bảy, rằng họ sẽ đi xa thêm một hoặc hai tuần nữa vì họ đang gặp gỡ “Những người quan trọng”.

For a week we all purred together. At the end of that week we straightened the place and put on our most miserable expression in preparation for the return of Mme. Diplomat and her husband. We did not bother at all about him, he usually walked around fingering the Legion of Honour button in his coat lapel. Anyway, he was always thinking of the “Service” and Countries, not of servants and cats. Mme. Diplomat was the trouble, she was a virago indeed, and it was like a reprieve from the guillotine when we heard, on the Saturday, that they would be away for another week or two as they were meeting “The Best People.”

Thời gian trôi nhanh. Vào các buổi sáng tôi sẽ phụ giúp những người làm vườn bằng cách đào xới một hai cái cây để kiểm tra xem rễ của chúng có phát triển tốt hay không. Vào buổi chiều tôi sẽ nghỉ ngơi trên một nhánh táo dễ chịu, mơ mộng về một khí hậu ấm áp hơn, về những ngôi đền cổ kính nơi các thầy tu mặc áo cà sa di chuyển lặng lẽ xung quanh, thực hiện các lễ nghi tôn giáo của họ. Và rồi tôi sẽ chợt tỉnh giấc vì âm thanh của những chiếc máy bay Không quân Pháp đang gầm rú điên cuồng trên bầu trời.

Time sped on. In the mornings I would help the gardeners by turning up a plant or two so that I might see if the roots were growing satisfactorily. In the afternoons I would retire to a comfortable branch on the old Apple Tree and dream of warmer climates and age-old temples where the yellow-robed priests moved silently around in pursuit of their religious offices. Then I would awaken suddenly to the sound of airplanes of the French Air Force roaring insanely across the sky.

Tôi đang dần trở nên nặng nề hơn và mèo con đã bắt đầu động đậy trong bụng. Di chuyển không hề dễ dàng nên tôi phải nhấc từng bước. Trong vài ngày trước, tôi đã có thói quen đi đến kho sữa để xem sữa bò được cho vào một cái gì đó xoay tròn và chảy ra hai dòng, một là sữa và một là kem. Tôi ngồi trên kệ thấp tránh lối đi của mọi người. Cô hầu gái sẽ nói chuyện với tôi và tôi sẽ đáp lời.

I was becoming heavy, now, and my kittens were beginning to stir within me. Movement was not so easy, I had to pick my steps. For some days past I had been in the habit of going to the Dairy and watching the milk from the cows being put into a thing which whirred and produced two streams, one of milk and one of cream. I sat upon a low shelf, out of everyone’s way. The dairy maid would talk to me and I would answer her.

Một buổi tối nọ tôi đang ngồi trên kệ, cách một thùng sữa đầy ắp khoảng hai mét. Cô hầu gái đang kể cho tôi nghe về bạn trai gần nhất của cô và tôi đang trả lời cô, trấn an cô rằng mối quan hệ của họ sẽ tốt đẹp. Thình lình có một tiếng rít đinh tai nhức óc, giống như tiếng của một con mèo bị giẫm vào đuôi. Bà Đại Sứ xông vào kho sữa và thét, “Tao đã bảo là không được cho mèo vào đây, mày định đầu độc chúng tao đấy à!” Bà ta chộp lấy thứ đầu tiên trong tầm tay, một cái cân đồng và ném hết sức bình sinh vào tôi. Nó đập trúng sườn của tôi một cách dữ dội, làm tôi ngã văng vào thùng sữa. Cơn đau thật khủng khiếp. Tôi khó có thể bơi để giữ cho mình không chìm. Tôi cảm thấy bên trong tôi đang ứa ra. Sàn nhà rung chuyển dưới những bước chân nặng nề, bà Albertine xuất hiện. Nhanh chóng lật thùng sữa, bà đổ chỗ sữa lẫn máu ra ngoài. Bà nhẹ nhàng đặt tay lên tôi, “Gọi bác sĩ thú y ngay,” bà ra lệnh. Tôi ngất lịm.

One evening I was sitting on the shelf, about six feet from a half full churn of milk. The dairymaid was talking to me about her latest boy friend and I was purring to her, assuring her that everything would be all right between them. Suddenly there was an ear-splitting shriek, like a Tom with his tail stepped on. Mme. Diplomat rushed into the Dairy shouting, “I told you not to have cats in here, you will POISON us!” She picked up the first thing to hand, a copper measure, and flung it with all her strength at me. It caught me in the side most violently and knocked me of into the milk churn. The pain was terrible. I could hardly paddle to keep afloat. I felt my insides oozing out. The floor shook under heavy footsteps, and Madame Albertine appeared. Quickly she tipped the churn and poured out the bloodstained milk. Gently she placed her hands upon me. “Call Mister the Veterinarian,” she commanded. I swooned off.

Tôi thức dậy thì thấy mình đang ở trong phòng ngủ của bà Albertine, trong chiếc hộp lót ấm áp. Ba chiếc xương sườn bị gãy và tôi đã mất đám mèo con của mình. Lúc đó, tôi  thực sự ốm yếu. Bác sĩ thú y đến thăm khám thường xuyên và ông ấy đã nói với Bà Đại Sứ những lời răn đe nghiêm khắc. “Quá tàn nhẫn. tàn nhẫn không cần thiết” “Những người xung quanh sẽ không thích điều này. Thiên hạ sẽ nói rằng bà là một người độc ác. Những người hầu đã kể cho tôi. Cô mèo mẹ bé nhỏ này rất sạch sẽ và RẤT đáng yêu. Không, Bà Đại Sứ, bà thật sự không nên làm như thế.”

When I awakened I was in Madame Albertine’s bedroom, in a warmly-lined box. Three ribs were broken, and I had lost my kittens. For a time I was very ill indeed. Mister the Veterinarian came to see me often and I was told that he had said stern words to Mme. Diplomat. “Cruelty. Needless cruelty,” he had said. “People will not like it. People will say that you are a bad woman. The servants told me,” he said, “That the little mother cat was very clean and VERY honest. No, Mme. Diplomat, it was very bad of you.”

Bà Albertine làm ướt môi tôi bằng nước, vì tôi sẽ tái nhợt khi nghĩ đến sữa. Ngày qua ngày bà cố dỗ tôi ăn. Bác sĩ thú y nói, “Thật là vô vọng, nó sẽ chết, nó sẽ không thể sống thêm ngày nào nếu không có thức ăn.” Tôi rơi vào hôn mê. Ở đâu đó tôi nghe thấy tiếng thì thầm và xào xạc của những tán cây, “Mèo con bé bóng”, cây táo gọi, “Mèo con bé bỏng, đây chưa phải là kết thúc. Cô có nhớ điều tôi đã nói với cô không, mèo con bé nhỏ.” Những âm thanh xa lạ ù ù trong đầu. Tôi thấy một tia sáng màu vàng rực rỡ, thấy những khung cảnh kỳ diệu và ngửi thấy niềm vui của Thiên đàng. “Mèo con bé nhỏ”, những cái cây thầm thì, “Đây chưa phải là kết thúc. Hãy ăn và sống. Ăn và sống. Đây chưa phải là kết thúc. Cô có mục tiêu trong đời, cô mèo bé bỏng. Cô sẽ kết thúc cuộc đời trong niềm vui, khi đã già cả. Không phải bây giờ. Đây không phải là kết thúc.”

Madame Albertine wet my lips with water, for I would turn pale at the thought of milk. Day after day she tried to persuade me to eat. Mister the Veterinarian said, “There is no hope now, she will die, she cannot live another day without food.” I lapsed into a coma. From somewhere I seemed to hear the rustling of the trees, the creaking of branches. “Little Cat,” said the Apple Tree, “Little Cat, this is not the end. Do you remember what I told you, Little Cat.” Strange noises buzzed in my head. I saw a bright yellow light, saw wondrous pictures and smelled the pleasures of Heaven. “Little Cat,” whispered the trees, “This is not the end. Eat, and Live. Eat and Live. This is not the end. You have a purpose in life, Little Cat. You shall end your days in joy, in the fullness of years. Not now. This is not the end.”

Tôi mệt mỏi mở mắt và ngẩng đầu lên nhẹ nhàng, Bà Albertine nước mắt đầm đìa quỳ bên cạnh, tay cầm vài miếng thịt gà thái mỏng. Bác sỹ thú y đứng cạnh chiếc bàn cầm ống tiêm đang lấy thuốc từ một cái chai. Mệt mỏi tôi cố đớp một miếng thịt gà, ngậm trong miệng một lúc rồi mới nuốt “Một phép màu! Ôi, một phép màu!”. Bà Albertine thốt lên.

Wearily I opened my eyes and raised my head a trifle. Madame Albertine, with great tears streaming down her cheeks, knelt beside me, holding some finely sliced pieces of chicken. Mister the Veterinarian stood at a table filling a syringe from a bottle. Weakly I took a piece of chicken, held it in my mouth a moment, and swallowed it. “A Miracle! A Miracle!” said Madame Albertine.

Bác sĩ thú y quay lại, há miệng ngạc nhiên, đặt ống tiêm xuống và đi lại phía tôi “Đúng như bà nói, quả là một phép màu!” ông ta nhấn mạnh. “tôi đang định lấy thuốc để thực hiện ân huệ cuối cùng giúp nó không chịu đựng them đau đớn nào nữa”. Tôi mỉm cười nhìn họ,  cố gắng gừ lên ba tiếng- đó là tất cả những gì tôi có thể làm. Rồi tôi lại chìm vào giấc ngủ, trong lúc nghe tiếng bác sĩ thú y nói “Nó sẽ hồi phục”.

Mister the Veterinarian turned, mouth agape, slowly put down the syringe and walked across to me. “It is, as you say, a miracle,” he remarked. “I was filling the syringe in order to administer the coup de grâce and thus save her any further suffering.” I smiled up at them and gave three beats of purr—all that I could manage. As I slipped again into sleep I heard him say “She will recover.”

Suốt một tuần tôi ở trong tình trạng thật tệ, tôi không thể thở mạnh và chỉ có thể đi lại vài bước. Bà Albertine đã đặt hộp cát của tôi ở rất gần, vì Mẹ đã dạy tôi phải hết sức gọn gàng trong sinh hoạt của mình. Khoảng một tuần sau, Bà Albertine mang tôi xuống lầu. Bà Đại Sứ đứng trực trước cửa phòng nhìn chằm chằm vào tôi, tỏ vẻ không đồng ý. “Nó phải được đưa đến nhà kho, Albertine”, Bà Albertine nói “Xin Bà đó, thưa Bà!”, “ Nó chưa khỏe hẳn và nếu nó bị đối xử không tốt, tôi và các người hầu khác sẽ bỏ việc”. Với một cái khịt mũi và một cái nhìn bất mãn, Bà Đại Sứ quay lưng bước trở vào phòng. Trong bếp, bên dưới cầu thang, vài người phụ nữ lớn tuổi đến nói chuyện với tôi và bảo rằng họ rất vui mừng khi thấy tôi khá hơn. Bà Albertine đặt tôi nhẹ nhàng xuống sàn nhà để tôi có thể đi lại và đọc tất cả các tin tức về mọi việc và mọi người. Tôi sớm cảm thấy mệt vì vẫn còn chưa khỏe hẳn, tôi đi đến chỗ Bà Albertine, nhìn Bà và nói tôi muốn đi ngủ. Bà bế tôi, mang tôi trở lại lên tầng. Tôi đã quá mệt đến nỗi chìm vào giấc ngủ trước cả khi Bà đặt tôi vào giường.

For a week I was in a sorry state; I could not take a deep breath, nor could I manage more than a few steps. Madame Albertine had brought my earth box very close, for Mother had taught me to be scrupulously careful in my habits. About a week later, Madame Albertine carried me downstairs. Mme. Diplomat was standing at the entrance to a room looking stern and disapproving. “She must be taken to an outhouse, Albertine,” said Mme. Diplomat. “Begging your pardon, Ma’am,” said Madame Albertine, “She is not yet well enough, and if she is badly treated I and other servants will leave.” With a haughty sniff and stare, Mme. Diplomat turned on her heel and re-entered the room. In the kitchens, ‘below stairs,’ some of the older women came to speak to me and told me they were glad I looked better. Madame Albertine gently put me on the floor so that I could move around and read all the news of things and people. I soon tired, for I was as yet far from well, and I went to Madame Albertine, looked up at her face, and told her I wanted to go to bed. She picked me up and carried me to the top of the house again. I was so tired that I was sound asleep before she laid me in my bed.

Người dịch: Phan Thị Khoa

Biên tập: Tô Phương Trang

Tổng biên tập: VMC