Cuộc phẫu thuật đã ở đằng sau, việc của tôi bây giờ là phồi phục. Trước đó tôi đã quá bệnh để quan tâm xem ai đang sống trong ngôi nhà này và nó trông ra sao.
Ông bác sĩ thú y người Ai-len nói “Ông bà phải đưa nó về nhà và cho nó thật nhiều thương yêu, đó là điều nó khao khát, nó sẽ không sống nổi nếu chúng ta cứ giữ nó ở đây.”
Vậy là tôi được đưa về nhà. Tôi đã rất im lặng trong suốt hai ngày đêm đầu tiên, trong khi hai người chủ mới chăm sóc và cố dỗ tôi ăn những thức ăn đã được sàng lọc kỹ. Tôi không chịu ăn dễ dàng, chỉ bởi vì thích được dỗ dành, tôi muốn được biết rằng họ nghĩ đến tôi đủ nhiều để dành thời gian dỗ dành tôi.
My operation was behind me, all I had to do now was to recover. Previously I had been too ill to bother WHO lived in the house or what it was like. Mister the Irish Vet had said, “You must take her home and give her love, she is starved for it, and she will not live if we keep her here.” So—Home I was taken. For the first two days and nights I was kept very quiet indeed, with the Man and the Woman nursing me all the time and persuading me to taste the choicest food. I did not take it too easily, because I WANTED to be persuaded, I WANTED to know that they thought enough of me to take the time necessary to persuade me!
Sáng ngày thứ ba sau chuyến thăm khám của bác sĩ thú y, ông chủ nói, “Ta sẽ đưa Quý Cô Ku’ei đến nhé Feef”. Ông đi ra ngoài và sớm quay trở lại, thầm thì âu yếm với ai đó.
Khi họ đến gần, ông nói, “Feef, đây là Quý Cô Ku’ei, còn đây là Chị Fifi Greywhiskers”.
Ngay lập tức tôi nghe được giọng nói ngọt ngào của một cô mèo Xiêm trẻ, thật êm ái biết bao. Tông giọng thật hay! Rất có nội lực! Tôi say mê nghe và thầm ước gì người mẹ xấu số của mình cũng có thể nghe được giọng nói ngọt ngào như thế. Quý Cô Ku’ei ngồi trên giường, ông chủ ngồi giữa hai chúng tôi. “Tôi là Quý Cô Ku’ei”, cô bạn mèo nói, “chúng ta sẽ sống cùng nhau nên chị gọi tôi là Ku’ei được rồi. Chị đã mù, nên khi nào đi lại được, tôi sẽ đưa chị đi quanh và chỉ ra những chướng ngại vật cho chị, những chỗ có đồ đạc, chỗ có thức ăn vân vân. Và nhân tiện nói về điều đó,” cô nhấn mạnh thêm với giọng tự hào, “ở đây chúng ta không phải ăn đồ thừa, cũng không cần phải bới rác (khi có người nhìn thấy), thức ăn cho mèo được mua riêng và đều là những loại có chất lượng tốt nhất. Bây giờ chị chú ý nhé, tôi sẽ nói sơ qua về những đồ dùng trong nhà, và tôi sẽ không nói hai lần đâu.
“Vâng, cô Ku” tôi khiêm tốn trả lời “tôi sẽ hết sức lắng nghe” rồi tôi thả lỏng người một chút để giảm áp lực lên những vết khâu.
One morning of the third day after Mister the Irish Vet had been, the Man said, “I’m going to bring in the Lady Ku’ei, Feef.” He went out and soon returned, murmuring affectionately to someone. As they drew near he said, “Feef, this is the Lady Ku’ei. Ku, this is Mrs. Fifi Greywhiskers.” Immediately I heard the most beautiful Young Lady Siamese Cat voice it has been my pleasure to hear. The range! The power! I was enthralled and wished that my poor dear Mother could have heard such a voice. The Lady Ku’ei sat on the bed with the Man sitting between us. “I am the Lady Ku’ei,” she said, “But as we are going to live together you may call me MISS Ku’ei. You are blind, so when you are able to walk I will take you around and point out obstacles, ‘the facilities,’ where you eat, etcetera. And in connection with that,” she remarked in a self satisfied tone, “here we do NOT eat scraps, nor do we rake out the garbage (when anyone is looking), our food is purchased specially for us and is of the best quality. Now pay great attention, for I am going to brief you on the household, and I shall not say it twice.” “Yes, Miss Ku,” I replied humbly, “I give you my whole attention.” I eased myself slightly in order to release the pressure on my stitches.
“Đây là xứ Howth, thuộc Hạt Dublin,” Cô Ku bắt đầu, “Chúng ta sống ở một ngôi nhà trên vách núi. Biển ở ngay dưới chân, cách 120 feet, cho nên đừng có ngã, người ta sẽ không hài lòng nếu chị ngã trúng một con cá đâu. Chị phải giữ phẩm giá với khách đến thăm – nhớ rằng chị là một MXTC – nhưng Chị có thể đùa giỡn thoải mái với mọi người trong nhà.”
“This is Howth, County Dublin,” commenced Miss Ku, “We live in a house perched right on top of a cliff. The sea is a hundred and twenty feet below us—straight down, so don’t fall over or people will be annoyed if you should hit a fish. You must maintain your dignity with visitors—remember you are a P.S.C.—but you may romp freely with The Family.”
Tôi xen ngang “Nhưng Cô Ku, MXTC là gì?”
“Please Miss Ku,” I interjected, “What is a P.S.C.?”
“Chà chà, chị đúng là một con mèo già ngốc nghếch,” cô Ku trả lời, “ai cũng biết MXTC nghĩa là Mèo Xiêm Thuần Chủng – chị nên tỏ ra thông minh như một con mèo Xiêm đích thực. Mà đừng ngắt lời, tôi đang cho chị những thông tin cơ bản đây.” “Xin lỗi cô Ku, tôi sẽ không ngắt lời nữa.” tôi trả lời. Cô Ku đưa chân gãi tai thật kỹ rồi tiếp tục, “Người đàn ông mà chị biết chính là Lạt Ma T. Lobsang Rampa của Tây Tạng. Ông ấy hiểu tiếng mèo Xiêm như tôi và chị vậy, cho nên chị không thể giấu ý nghĩ của chị với ông ấy đâu. Ông ấy to cao, có râu và hói, ông ấy cũng suýt chết một hai lần vì bệnh tim mạch. Lúc ấy ông thực sự bệnh rất nặng đến nỗi chúng tôi đều tưởng rằng đã mất ông.” Tôi gật đầu lia lịa, vì tôi hiểu rõ ốm đau ra sao. Cô Ku tiếp tục, “Nếu có rắc rối, chị hãy nói ngay với ông ấy, ông ấy sẽ giúp chị giải quyết. Nếu chị muốn ăn gì đặc biệt cũng nói với ông ấy, ông ấy sẽ báo với Mẹ”. “Mẹ?” tôi hỏi “Mẹ cô cũng ở đây à?” “Đừng ngớ ngẩn thế” Cô Ku trả lời với giọng hơi cộc cằn, “Mẹ là Rab, người phụ nữ sẽ giúp chúng ta đi chợ, dọn bát, nấu ăn, dọn giường và cho bọn mình ngủ trên giường của bà. Tôi là mèo của Mẹ, còn chị là mèo của ngài Lạt Ma.” Cô Ku nói đầy tự hào. “Chị sẽ ngủ trong phòng này cạnh ngài Lạt Ma. À mà đúng rồi, chị không thể nhìn thấy Mẹ. Bà ấy lùn, mắt và cổ chân rất đẹp, khắp người đều có thịt mềm. Ngồi trong lòng Mẹ thì không bao giờ bị xương thọi vào người cả!”
“Well! Well! You ARE a stupid Old Woman Cat,” replied Miss Ku, “ANYONE would know that P.S.C. indicates that you are a Pedigree Siamese Cat—although you are not showing the intelligence expected of one. But don’t interrupt, I’m giving you the essential information.” “I’m sorry, Miss Ku, I won’t interrupt you again,” I answered. Miss Ku thoughtfully scratched her ear with her foot and continued, “The ‘Man’ as you call him is the Lama T. Lobsang Rampa of Tibet. He understands Siamese Cats as well as you and I do, so you cannot keep your thoughts from him. He is big, bearded and bald and he is nearly dead in his heart with a coronary or two. He has been very ill indeed and we all thought we would lose him.” I nodded gravely, knowing what it was like to be ill. Miss Ku continued, “If you have troubles, tell him and he will help you straighten out. If you want any particular food, tell him, he will pass on the news to Ma.” “Ma?” I queried, “Is your Mother with you?” “Don’t be so ridiculous!” replied Miss Ku with some asperity, “Ma is Rab, the Woman, you know, the one who does our shopping, cleans our tins, makes our beds, cooks for us, and lets us sleep on her bed. I’m her cat, you know, you are the Lama’s cat,” said Miss Ku smugly. “You will sleep in this room, beside him. Oh, of course, you cannot see Ma. She is a bit short, nice eyes and nice ankles and a comfortable plumpness everywhere else. No bones will stick into you when you sit on HER lap!”
Chúng tôi tạm ngừng một lúc để Cô Ku lấy hơi, và tôi thì cố thẩm thấu những thông tin dồn dập. Cô Ku nghịch cái đuôi của mình rồi tiếp tục, “Chúng ta có một cô người Anh trẻ sống cùng trong gia đình. Cô ấy rất cao và gầy, có mái tóc màu cam giống như một anh chàng mèo mà tôi từng gặp một lần. Khá tử tế, cô ấy hay thưởng cho chúng ta, mặc dù cô hay thích lũ chó to hôi hám và lũ trẻ con hay la hét.”
We paused for a moment, Miss Ku to recover her breath, and I to absorb the information passed to me so suddenly. Miss Ku idly played with the end of her tail and continued, “We have a Young English Lady living with us as one of the family. She is very tall, very thin, and has hair the colour of a marmalade Tom I once saw. Quite kind, though, and she will give you your dues although she DOES like big smelly dogs and screaming children.”
“Đủ rồi, Ku’ei”, ngài Lạt Ma nói, “Feef cần nghỉ ngơi, lúc khác lại nói tiếp nhé.” Ông bế Cô Ku lên và mang cô ấy ra khỏi phòng. Tôi nằm trên giường ông một lúc, gừ nhẹ đầy mãn nguyện. Không còn phải ăn thức ăn thừa nữa – tôi luôn ước mơ sẽ được ăn những món dành riêng cho mình. Và được yêu thương, đó là kỳ vọng của tôi suốt những năm dài chờ đợi. Giờ đây tôi đã được yêu thương rất nhiều. Tôi mỉm cười hài lòng và chìm vào giấc ngủ.
“Now, Ku’ei,” said the Lama, “Feef has to rest, you can tell her some more later.” He picked up Miss Ku and carried her out of the room. For a time I lay on his bed, purring with contentment. No more scraps—I’d always thought I would like to have something bought specially for me. To be wanted, that had been my ambition throughout the long lean years. Now I WAS wanted, very much so. I smiled contentedly and dropped off to sleep.
Vết mổ lành dần, khi chỉ khâu được cắt bỏ, tôi đã có thể đi lại. Những bước đầu rất cẩn trọng vì bị mù, nhưng rồi tôi tự tin hơn biết rằng đồ vật sẽ không bị dời đi trừ khi tôi đã được hướng dẫn về vị trí mới của chúng, cũng như những thứ xung quanh. Cô Ku’ei chỉ dẫn cho tôi, nói cho tôi biết cái gì ở đâu và khách đến đây cũng rất thận trọng vì biết tôi bị mù. “Thật đấy à!” họ thốt lên “Mù sao?” Nhưng nó có cặp mắt xanh tuyệt đẹp, sao nó lại có thể bị mù được chứ?”
As my operation wounds healed, and the stitches were removed, I was able to move about more and more. Very cautiously at first, because of my sightlessness, but with more assurance when I found that nothing was moved unless I was first taken to it and shown its position in relation to other things. Miss Ku’ei went about with me, telling me where everything was, and people who came were cautioned that I was blind. “What!” they would reply, “Blind? But she has such big beautiful blue eyes, how can she be blind?”
Cuối cùng tôi cũng được xem là đủ khoẻ để được thả ra vườn. Khí trời thật trong trẻo, cùng mùi của biển hòa lẫn với cây cỏ. Trong nhiều ngày tôi không để cho ai xen giữa mình và cánh cửa, tôi luôn sợ rằng mình sẽ bị nhốt ở ngoài. Khi ấy cô Ku thường chế giễu tôi, “Đừng ngốc thế Feef, ở đây chúng ta là con người, sẽ không ai nhốt chị ở ngoài đâu”. Chúng tôi nằm trên cỏ ấm và Cô Ku miêu tả quang cảnh xung quanh cho tôi. Phía dưới chúng tôi, những con sóng ầm ầm vỗ, tung lên những bọt nước trắng xoá. Nước trong hang động ngay dưới nhà gầm gừ, dường như rung lắc toàn bộ vách đá vào những ngày giông bão. Phía bên trái là tường biển, phía xa có ngọn hải đăng. Cách mặt biển của Mắt Ireland tầm hơn một dặm là một cảng nhỏ nằm ẩn mình để tránh những cơn thịnh nộ của biển cả xứ này. Phía bên phải, mũi đá Răng Quỷ nhô ra khỏi thềm đất vài yards, che chắn cho bãi tắm của con người khỏi những cơn sóng mạnh. Cô Ku thích ngắm nhìn người ta tắm biển, tôi cá là mình cũng sẽ thích điều đó nếu như còn nhìn được.
At last I was considered well enough to be taken into the garden. The air was beautiful, with the smell of the sea and the plants. For many days I would not let anyone get between me and the door, I was constantly afraid that I should be shut out. Miss Ku would chide me, “Don’t be such an old fool, Feef, we are PEOPLE here, no one will shut you out—ever.” We would lie in the warm grass and Miss Ku would describe the scene for me. Below us the tumbling waves, reaching up towards us with fingers of white spume. Water in the cave beneath the house grumbled and roared and, on stormy days, seemed to shake the whole cliff. To the left was the sea wall, with the lighthouse at the end. A mile or so across the water Ireland’s Eye stood sheltering the little harbour from the worst buffets of the turbulent Irish Sea. To the right the Devil’s Tooth projected a few yards from the main mass of land, protecting the Men’s Bathing Place from the heavier waves. Miss Ku loved to watch the men bathing, perhaps I should also if I had had my sight.
Phía sau nhà là lưng của đỉnh đồi Howth, đứng ở đó từ trên cao, vào ngày trời quang đãng, có thể thấy những ngọn núi của xứ Wales trên đất liền, và núi Mourne của Bắc Ireland. Đó là những ngày thật hạnh phúc, chúng tôi lười biếng nằm phơi nắng và Cô Ku kể với tôi về gia đình của chúng tôi. Dần dà tôi cũng xoá được nỗi sợ hãi bị nhốt ở ngoài. Tôi cũng không bị gửi đi lấy giống với những tên mèo đực thô thiển nữa. Bây giờ, tôi được yêu mến vì chính bản thân mình, và như Cô Ku nói, tôi là một đoá hoa nở rộ vừa được đem ra dưới ánh mặt trời sau một thời gian dài ở trong bóng tối của hầm rượu. Chúng tôi yêu những ngày này, khi ngài Lạt Ma đặt tôi lên cành cây thấp nhất, giữ cho tôi không rơi, cuối cùng thì tôi cũng đến được Thiên Đàng.
Behind the house reared the peak of the Hill of Howth, from the top of which, on a clear day, could often be seen the mountains of Wales, on the mainland, and the Mountains of Mourne in Northern Ireland. These were happy days, as we lazed in the sunlight and Miss Ku told me of Our Family. Gradually I lost my fears that I would be shut out. No longer did I have to be sent to a great rough Tom. Now I was wanted for myself alone, and—as Miss Ku herself said—I expanded under the influence like a flower taken into the sunlight after being in the darkness of a lonely cellar. We loved those days, the Lama would put me on the lowest branches of a small tree and hold me so that I could not fall, and I would dream that here at last I had entered Heaven.
Lúc đầu tôi không mấy ưa đám hải âu, chúng hay lượn lờ và bàn tán “Nhìn mấy con mèo dưới kia kìa, chúng mình cứ đâm vào nó, làm nó ngã xuống vách đá rồi chén thịt”. Cô Ku sẽ đáp trả bằng bài hát khiêu chiến của mèo Xiêm và chuẩn bị sẵn móng vuốt cho bất kỳ cuộc tấn công nào. Thỉnh thoảng trên không trung vang lên tiếng “thug-thug, thug-thug” yếu ớt và tất cả lũ chim sẽ nháo nhác bay mất. Tôi đã thắc mắc về điều này một thời gian dài, mà không phải lúc nào cũng đi hỏi, nên tôi đã tự tìm ra câu trả lời. Đó là tiếng thuyền cập bến và lũ chim bay đi để đánh chén những phần ruột cá mà người ta vứt đi ở trên khoang tàu.
The gulls bothered me at first, as they swooped over they would scream and say “Look at that cat down there, dive on her, drive her over the cliff and then we will eat her.” Miss Ku would growl our famous Siamese War Cry and would unsheath her claws ready for any attack. Faintly on the air would come a “thug-thug, thug-thug” and all the birds overhead would wheel madly and rush off. For long this puzzled me greatly, I could not always be asking questions, then I found the answer. The fishing boats were coming in and the birds were after the fish offal being washed from the decks.
Một trưa nắng ấm, tôi đang lười biếng nằm dưới bóng một bụi Veronica thì cô Ku gọi, “Chuẩn bị đi Feef, bọn mình sắp được đi chơi đó.” Đi chơi? Bằng ô tô? Tôi suýt ngất vì sợ và bất ngờ. Trong khi ấy, cô Ku thích thú với việc đi chơi bằng ô tô! “Nhưng..”, tôi ngần ngại, “Tôi không muốn lên ô tô đâu, nhỡ đâu họ bỏ quên tôi thì sao!” “FEEF!” ngài Lạt Ma gọi, đi nào, tất cả chúng ta đều đi cả.” Tôi sợ muốn ngất đến mức phải được bế lên và mang vào xe. Khác hẳn tôi, cô Ku hát líu lo vui sướng; lao vào trong xe và thét, “Tôi xí ghế phía trước nhé?” Tôi dè dặt hỏi “Ngài Lạt Ma sẽ lái xe chứ, cô Ku?” “Đương nhiên rồi, mà này, đừng có luôn miệng gọi ông ấy là ngài Lạt Ma, hãy gọi ông là “Thầy” như tôi gọi đấy.” Ngài Lạt Ma, à xin lỗi – Thầy, chui vào xe và ngồi vào ghế trước cạnh cô Ku. Mẹ cũng vào xe, ngồi ở ghế sau và đặt tôi lên đùi. Cô gái trẻ người Anh (mà tôi chưa biết tên) ngồi cạnh Mẹ. “Cửa khoá rồi chứ?” Thầy hỏi. “Đương nhiên, lúc nào cũng vậy mà?” Mẹ trả lời. “Đi thôi nào, chúng ta còn chờ đợi gì nữa?” Cô Ku nóng ruột. Thầy nổ máy rồi lái đi.
I was lazing in the warm shade of a Veronica bush one sunny afternoon when Miss Ku called, “Get yourself ready, Feef, we are going for a drive.” A DRIVE? In a CAR? I almost fainted with horror and astonishment. A CAR and Miss Ku’ei was PLEASED! “But Miss Ku,” I expostulated, “I simply COULDN’T go in a car. What if they left me somewhere!” “FEEF!” called the Lama, “Come on, we are all going for a ride.” I was so faint with fright that I had to be picked up and carried to the car. Not so Miss Ku, she sang with joy; rushed into the car and yelled, “I bag the front seat!” “Is the Lama going to drive, Miss Ku?” I asked timidly. “Of course he is, and don’t say ‘the Lama’ all the time, say ‘Guv’ the same as I do.” Sure enough the Lama, sorry—the Guv—got into the car and sat on a front seat beside Miss Ku. Ma got in the car and sat at the back, taking me on her lap. The Young English Lady (I could not say her name yet) sat beside Ma. “Sure you have locked the doors?” asked the Guv. “Of course, don’t we always?” replied Ma. “Come on, come on, what are we wasting time for?” shrieked Miss Ku. The Guv did whatever one has to do to make the car start and we moved off.
Tôi bị bất ngờ vì sự êm ái của hành trình này. Điều này khác xa với trải nghiệm của tôi khi bị ném thô bạo từ bên này sang bên kia như ngày ở Pháp và Mỹ. Chúng tôi di chuyển xuống một ngọn đồi dốc và quay ngắt ở một góc cua. Đi thêm một đoạn nữa – bao nhiêu nhỉ? Ở đây người ta dùng dặm hay cây số? – khoảng 3 hay 4 phút chúng tôi lại rẽ về bên phải, đi thêm khoảng một phút rồi ngừng lại. Động cơ tắt. Mùi biển thật nồng hậu. Những tia nước nhẹ bắn lên, thổi theo ngọn gió hiu hiu làm mũi tôi nhột nhột. Có tiếng ồn của rất nhiều người, tiếng động cơ thình thịch. Một mùi tanh nồng của cá tươi, cũng như cá khô đã phơi nắng. Mùi của khói và dây thừng tẩm nhựa. “A! Cá tươi quá!” cô người Anh thốt lên, “Tôi đi vào đó mua một ít nhé?” Rồi cô đi đến chỗ một người quen hay bán cá tươi cho chúng tôi từ biển. CLANG! Tiếng động ở khoang hành lý vang lên khi gói cá được bỏ vào. BANG! Cô người Anh chui vào xe và sập cửa. “Cô Ku!” Tôi thì thầm “Đây là đâu thế?” “Đây ư? Đây là hải cảng nơi các thuyền cá cập bờ và mang cho bọn mình bữa tối. Một bên là các nhà kho chứa, bên kia là nước. Thuyền được neo lại để không bị trôi cho đến khi mọi người đã sẵn sàng hết. Còn mùi khói kia à? Người ta hun cá trong khói để giữ chúng không bị hỏng – chúng ta không thể ngửi ra ngay vì mùi khói.” Cô Ku nhảy về ghế cạnh Thầy và mè nheo “Còn chờ gì nữa, chúng ta đi đến Partmarnock thôi!” “Ôi Ku, mày thật là thiếu kiên nhẫn!” Thầy nói, rồi khởi động xe và đi tiếp.
I was amazed at the smoothness of our progress. This was far different from being thrown violently from side to side as had been my experience in France and America. We moved down a steep hill and turned a very sharp corner. Rolling along for perhaps—what was it here? Miles? Kilometers?—three or four minutes we turned sharp right, went for another minute or so and stopped. The engine was turned off. The smell of the sea was strong. Light spray, blown on the breeze, tickled my nostrils. Sounds of many men, sounds of thug-thug engines. A strong smell of fish and of fish that had been too long in the sunlight. Smell of smoke and of tarred rope. “Ah! Lovely fish!” breathed the Young English Lady, “Shall I go in and get some?” So off she went to see an old friend who would sell us fish straight from the sea. CLANG! went the luggage-thing at the back as the wrapped fish were dropped in. BANG! went the door as the Young English Lady got in the car and slammed the door shut. “Miss Ku!” I whispered “What is this place?” “This? This is the harbour where all the fishing boats come to bring our supper. Big storage sheds by the side of us, water at the other side. Ships tied up with bits of rope so they can’t go off until everyone is ready. That smoke? Oh, they stick fish in some smoke, they don’t go bad so quickly that way—or you can’t smell it so quickly because of the smoke.” She jumped up on the back of the Guv’s seat and yelled, “WHAT ARE WE WAITING FOR? Let us go to Partmarnock.” “Oh Ku, you are an impatient wretch!” said the Guv, starting the car thing again and moving it off.
“Cô Ku!” Tôi nói, giọng rụt rè. “Cô người Anh này, tôi không đọc được tên cô ấy, và cách tôi phát âm nó nghe như thể đang chửi bới một con mèo đực quá hưng phấn vậy. Tôi phải làm sao giờ?” Cô Ku suy nghĩ một lúc rồi nói, “Tôi chắc là… tôi chẳng biết nữa.” Rồi đội nhiên cô cao giọng nói, “Á, biết rồi, cô ấy mặc váy màu xanh, cao gầy, tóc hơi vàng: Feef, chị hãy gọi cô ấy là Kẹo Bơ đi, cô ấy cũng chẳng biết đâu! “Cám ơn Cô Ku”, tôi trả lời, “Tôi sẽ gọi cô ấy là Cô Kẹo Bơ.” “Đừng có gọi tôi là cô này cô nọ”, Cô Ku vặn lại, “Chúng mình không nên gọi cô ấy là cô Kẹo Bơ, vì cô ấy cũng giống chị, cũng đã có mèo con rồi. Thôi nào Feef, chị không còn ở trong xã hội Pháp lịch thiệp nữa. Chị đang ở nhà rồi, nên cứ gọi là Thầy, Mẹ, và Kẹo Bơ. Nhưng tôi thì phải gọi là CÔ Ku.”
“Miss Ku!” I said in, I’m afraid, rather worried tones, “This Young English Lady, I cannot say her name, and the way I pronounce it it is a curse on a too-eager Tom. What shall I do?” Miss Ku sat and thought for a while and then said, “Well, I don’t know, I’m sure.” Suddenly she perked up and said, “Hey! I know! She has on a green frock, she is very tall and thin and the hair on top is sort of yellow: Hey, Feef, call her BUTTERCUP—she won’t know!” “Thank you, Miss Ku,” I replied, “I will refer to her as Miss Buttercup.” “Miss nothing,” retorted Miss Ku, “We should miss Buttercup, but she is Missus, like you, she has had kittens too. No, Feef, you are not in French polite society now. You are HOME, so say ‘Guv’, ‘Ma’, and ‘Buttercup.’ I am MISS Ku.”
Chiếc xe tiếp tục lăn bánh, thật nhẹ nhàng. Trước khi tôi kịp nhận ra, chúng tôi đã đến nơi và dừng lại. Cửa xe mở và tôi được nhấc ra. “Ah! Đây mới là cuộc sống chứ!” Cô Ku cảm thán. Một đôi tay nhẹ nhàng nắm lấy chân tôi và nhúng chúng vào cát. “Xem này Feef, cát đấy!” Thầy nói. Tiếng gầm gừ cuồn cuộn của sóng đánh vào bờ đá làm tôi thoải mái, trong khi mặt trời ấm áp chiếu xuống lưng. Cô Ku tung tăng chạy nhảy khắp bãi cát, ca hát sung sướng. Cả gia đình (gia đình của tôi) ngồi im lặng bên cạnh. Tôi ngồi dưới chân họ, nghịch ngợm một viên sỏi. Tôi đã quá già và chưa đủ hồi phục để có thể chạy nhảy điên cuồng như Cô Ku. Trong cái dễ chịu của nắng ấm, tôi ngủ thiếp đi…
The car rolled on, gently, smoothly. Almost before I knew what was happening we had reached ‘there’ and stopped. The doors of the car were opened and I was lifted out. “Ah! This is the LIFE!” yelled Miss Ku. Gentle hands took mine and shuffled them through the sand. “Look Feef, sand,” said the Guv. The roar and swish of the waves against the rocks soothed me, the sun was warm on my back. Miss Ku was scampering madly up and down the sand, yelling her joy. The Family (MY Family) sat quietly by. I sat at their feet and toyed with a pebble. I was too old and had not yet healed enough to run with wild whoops like Miss Ku. With the comfort and warm sunlight I fell asleep . . .
Mây kéo đến che khuất mặt trời, và mưa nhẹ. “Quái lạ!” tôi nghĩ, “Sao mình lại ở đây?” Rồi tôi nhận ra, tôi đang du hành trong thể vía. Tôi thấy mình nhẹ bỗng như mây và lướt bay trên những con đường dọc bờ biển, đi sâu dần vào đất liền. Tôi thấy sân bay Le Bourget, rồi càng lúc càng tiến vào sâu. Một hàng cây dương dài vẫn đứng như canh gác con đường thẳng màu trắng. Những chóp mái nhà thờ thấp thoáng trong màn hơi nước và rặng cây trong nghĩa trang dường như đang khóc thương những người nằm dưới đó. Tôi lại tiếp tục trôi dạt, như bóng ma, xuống thấp nữa. Và rồi tôi bất chợt nhìn thấy, bởi vì khi du hành thế vía thì người ta không còn mù, “Tưởng niệm …” Trong một lúc, tôi mất phương hướng, rồi đột nhiên sực nhận ra. “BÀ ALBERTINE!” tôi thốt lên, “được chôn ở đây!” Một cơn nghẹn ngào chiếm lấy tôi. Ngày ấy, bà là người duy nhất yêu thương tôi. Giờ đây bà đã đi rồi còn tôi đang được sống những ngày hạnh phúc và yêu thương. Nhưng rồi tôi nghĩ, bà hẳn đã được thoát khỏi thế giới xấu xa này và đi đến nơi tràn đầy hạnh phúc. Tôi thở phào nhìn lại lần cuối rồi lướt lên cao, tiếp tục trôi đi.
Clouds were over the sun, there was a faint drizzle of rain. “Strange!” I thought, “How can I be HERE?” Then it came to me, I was Astral Travelling. Light as a cloud I drifted along over coastal roads, moving inland. The great Airport at Le Bourget, inland, inland. A long row of poplar trees still standing sentinel along the straight white road. The spire of the church, half shrouded with mist and the trees in the graveyard weeping in the rain for those who lay beneath. I drifted, wraithlike myself, drifted and came lower. Suddenly I saw, for one is not blind in the Astral, “Sacred to the Memory of . . . ” For a moment I was at a loss, then comprehension hit me. “MADAME ALBERTINE!” I shouted “Buried here!” A sob escaped me. THEN she had been the only one to love me. Now she was gone and I had come into happiness and love. But then, I thought, she had gone from this wicked world and entered into love and happiness herself. With a sigh and a last look I again rose and drifted on.
Phía dưới tôi, người cảnh vệ đang quét dọn sân sau cái trạm của ông ta. Một con chó bị xích vào tường, đang gầm gừ rên rỉ khó chịu khi tôi bay ngang qua. Căn nhà hiện dần trước mắt tôi, lạnh lẽo, không chút thân thiện như thể nó cấm cửa tất cả mọi người. Bà Đại sứ bước ra sân. Theo bản năng, tôi tính quay đầu chạy, nhưng đương nhiên bà ta không thể nhìn thấy tôi đang lơ lửng trôi ngang tầm vai được. Trông bà gầy và tàn tạ. Những nếp nhăn của sự bất mãn làm hoen ố nhan sắc của bà. Khoé miệng bà xệ xuống, kèm với đôi môi mỏng và chiếc mũi hếch, trông bà thật sự cay độc.
Beneath me the Lodgekeeper was sweeping a courtyard at the back of his Lodge. A dog, chained to the wall, growled and whined uneasily at my passing. The House loomed before me, stately, cold, unfriendly, as if forbidding one to enter. Mme. Diplomat came out on to the terrace. Instinctively I turned to run, but of course she did not see me hovering at shoulder-height. She looked thin and haggard. Great lines of discontent marred her features. The ends of her mouth turned sharply down, and with thin lips and pinched nostrils she looked bitter indeed.
Tôi tiếp tục trôi, về phía cây Táo già, và ngừng lại vì kinh hãi. Cây táo đã biến mất, bị nhổ đến không còn cả gốc. Lặng lẽ đau xót, tôi lượn vòng xung quanh. Một thôi thúc không diễn tả khiến tôi trôi dạt về phía nhà ngoài năm xưa, nơi tôi đã ở. Tim tôi như ngừng đập. Phần còn lại của Cây Táo già bạn tôi đang được chất đống ở đấy để làm củi. Có chuyển động ở cửa, và Pierre đứng đó, chiếc rìu trên tay. Tôi thét lên và ký ức mờ đi từ điểm ấy…
I moved on, moved toward the Old Apple Tree, and halted in shocked horror. The Tree was gone, felled, and even the stump had been extracted: Silently, sorrowing, I hovered around. Moved by some inexplicable impulse I drifted towards the old outhouse which had been my only home. My heart almost stopped; the remains of my friend the Apple Tree were piled against one wall as firewood. A movement at the door, and there was Pierre, axe in hand upraised. I screamed and faded from that place . . .
“Feef!”, Thầy gọi, ẵm tôi trên vai và đi vòng quanh. “Con gặp ác mộng vào ban ngày à. Ta bất ngờ đấy Feef!” Tôi rụt người và đột nhiên cảm thấy thật sự biết ơn. Tôi quay đầu liếm tai Thầy. Ông mang tôi xuống sát mép nước, đứng đó với tôi trên vai. “Ta biết con cảm thấy thế nào Feef”, ông nói, “Ta cũng đã phải trải qua nhiều trắc trở trong cuộc đời.” Xoa lưng tôi, ông quay lại và đi về phía những người khác. “Chúng ta về chứ?” ông hỏi, “Bà cô già Greywhiskers mệt rồi”. Tôi rên gừ gừ. Thật tuyệt khi có ai đó nghĩ về mình và có thể trò chuyện cùng mình. Chúng tôi cùng vào xe và quay trở về nhà.
“There! There! Feef,” said the Guv as he lifted me to his shoulder and walked around with me. “You have had a nightmare—in the sunlight, too. I’m surprised at you, Feef!” I shuddered, and felt sudden gratitude. Turning my head I licked his ear. He carried me down to the waters edge and stood there, with me on his shoulder. “I know what you feel, Feef,” he said, “I’ve been through hardships as well, you know.” Stroking my back, he turned and walked over to the others. “Shall we get back?” he asked, “Old Granny Greywhiskers is getting tired.” I purred and purred and PURRED. It was just wonderful having someone who thought of me, who could TALK to me. We all got in the car and we started back on the journey home.
Tôi biết mình là một con mèo già khó tính và hay sợ sệt. Đến bây giờ tôi vẫn không thích ô tô. Việc bị mù cũng góp phần cho nỗi sợ ấy vì tôi vẫn lo nhỡ mình bị bỏ quên ở đâu đó. Cô Ku’ei thì rất đĩnh đạc, một quý cô từng trải trong xã hội, không nao núng trước bất kỳ điều gì. Lúc nào cô ấy cũng làm chủ mọi tình huống. Còn tôi, như đã nói, khá kỳ dị. Điều ấy khiến cho việc tôi được yêu thương càng trở nên tuyệt vời hơn bao giờ hết. Thật may mắn vì họ yêu thương tôi, bởi tôi không thể chịu đựng được sự cô độc nữa. Tôi đã thiếu thốn tình cảm trong rất lâu và giờ đây tôi muốn tất cả tình yêu mà họ có!
I suppose I am a cranky old woman cat, or something, but I have a few phobias. Even now I do not like motor cars. Being blind has something to do with it, but I still have a fear that I am going to be left somewhere. Miss Ku’ei is poised, an experienced society lady whom nothing ruffles. At all times she is completely master (or mistress?) of the situation. I—well, as I say, I am sometimes a little eccentric. That makes it all the more wonderful that they love me so. It is fortunate that they do, because now I cannot BEAR to be alone. For years I was starved of affection and now I want all there is to spare!
Chúng tôi lái xe lên đồi Howth, cạnh đường ray của xe điện. Đi quá đỉnh đồi để xuống làng, rẽ phải trước khi đến nhà thờ lớn, rồi đi ngang qua nhà ông bà O’Grady, rẽ trái lần nữa là về đến nhà. Ông Loftus già dễ thương, người cảnh sát “của chúng tôi” đang ngó qua tường. Chúng tôi không bao giờ đi ngang ông mà không chào hỏi, Thầy nói ông Loftus là một trong những người tốt bụng nhất ở Ai-len và trên cả thế giới này.
Over the Hill of Howth we drove, along where the tram tracks meandered by the side of the road. To the highest point and beyond. Down to the village, turn right before reaching the big Church, past Mr. and Mrs. O’Grady’s house, another left and we are home. Dear old Mr. Loftus, “our” policeman, was looking over the wall. Never did we pass him without speaking, for the Guv said Mr. Loftus was one of the best men in Ireland or anywhere else!
Tôi mệt rụng rời và thật mừng khi được về nhà. Tôi muốn được ăn và uống chút gì đó, rồi lăn ra ngủ trên giường của Thầy, với tiếng sóng biển vỗ về bên tai, gợi cho tôi nhớ về tiếng ru của mẹ ngày trước. Điều cuối cùng tôi nghe được trước khi thiếp đi là tiếng Cô Ku nói “Xin chào, con muốn đi xuống ga-ra với Thầy để cất xe.” Tiếng đóng cửa nhẹ, rồi mọi thứ thật yên ắng. Giấc ngủ thật tuyệt, khi biết rằng tôi sẽ không bị ai đuổi bắt hay đem vào trong nhà kho gỗ tối tăm nữa và biết rằng tôi được tôn trọng như một con người, có quyền như bất kỳ ai khác trong nhà. Thở một hơi mãn nguyện, tôi cuộn tròn và ngáy to.
I was tired, glad to get home. All I wanted was some food, something to drink, and then sleep on the Guv’s bed, with the sound of the waves lulling me, reminding me of the time my Mother sang me to sleep. The last I heard before dropping off was Miss Ku, “Hi! I want to go down to the garage with you and put away the car.” The soft shutting of a door, and all was quiet. It was wonderful sleeping, knowing that no one was coming to chase me or carry me off to a dark woodshed. Knowing that I was respected as if I were a human, had the same rights as everyone else in the house. With a sigh of contentment, I curled up and snored a little louder.
“Này FEEF! Bà cô già Greywhiskers! Xích ra cho Thầy ngồi lên giuờng.” “Ku’ei, đừng ngớ ngẩn thế, đương nhiên là Fifi được ngủ trên giường rồi, thôi nào.” Giọng thầy có vẻ mệt mỏi. Tôi ngẩng đầu lên để nghe kỹ hơn, rồi mò mẫm mặt đất và nhảy xuống. Một đôi tay nhẹ nhàng nhưng chắc chắn đón lấy tôi và nhấc tôi trở lại. “Feef! Mày cũng ngớ ngẩn như Ku’ei vậy. Cứ ở trên giường cùng ta.” Thế là tôi ở lại trên giường.
“FEEF! Granny Greywhiskers! Get off that bed, the Guv wants to get in.” “Ku’ei, don’t be such a bully, CERTAINLY Fifi can stay on the bed. Now STOP it!” The Guv sounded cross. I raised my head so that I could hear better, then guessed where the floor was and jumped off. Gentle but firm hands caught me and lifted me back. “Now Feef! You are as bad as Ku’ei. Stay on the bed and keep me company.” I stayed.
Ngài Lạt ma (à quên, Thầy!) cũng là một người khá ốm yếu. Trước đây ông ấy đã từng mắc bệnh lao (một trong số những con của tôi cũng đã từng chết vì bệnh này nhiều năm trước kia), và mặc dù ông đã được chữa khỏi nhưng phổi trái đã bị tổn thương vĩnh viễn. Ông cũng bị tắc mạch vành 3 lần và còn có nhiều vấn đề khác nữa. Ông cũng cần phải nghỉ ngơi nhiều giống tôi. Thỉnh thoảng vào ban đêm ông đi đi lại lại trong phòng rất nhiều vì cơn đau; và tôi cũng đi cùng để an ủi ông. Ban đêm là thời điểm tệ nhất, khi chúng tôi chỉ có nhau. Tôi ngủ nhiều hơn vào ban ngày để có thể thức đêm cùng ông. Mẹ ngủ trong một phòng khác phía bên kia ngôi nhà, và Cô Ku chăm sóc bà. Kẹo Bơ thì ngủ trong một gian phòng dưới lầu hướng mặt ra biển Ai-len, vào các buổi sáng có thể trông thấy hơi nước từ tàu Liverpool cập cảng Dun Laoghaire.
The Lama (sorry, Guv!) was a very sick man. Some time before he had had T.B. (Tuberculosis, short for tubercle bacillus) (one of my children had died from that, years ago), and although he had been cured it had left his lungs permanently impaired. He had had coronary thrombosis three times and he had other troubles as well. Like me, he had to rest a lot. Sometimes in the night he would walk up and down the room in pain; I would walk beside him, trying to console him. Those long hours of the night were the worst, when we were alone. I slept much through the daylight hours so that I could be with him in the nights. Ma slept in a room at the other end of the house, and Miss Ku looked after her. Buttercup slept in a room downstairs where she could look out far over the Irish Sea and, in the mornings, see the Liverpool Boat steam toward the Port of Dun Laoghaire.
Thầy và tôi ngủ trong gian phòng nhìn ra vịnh Balscadden, bến cảng và biển Ai-len. Ông có thể nằm trên giường hàng giờ để ngắm cảnh quan không thay đổi ấy với cặp ống nhòm lợi hại của Nhật. Người bạn tốt của chúng tôi, ông Brud Campbell, đã thay tấm kính cũ bằng một tấm kính trong nhất để cảnh quan không bị chút méo mó nào. Lúc ngồi cùng nhau, Thầy thường ngắm nhìn quang cảnh rồi kể lại cho tôi về những gì ông thấy bằng cách dùng thần giao cách cảm gửi những hình ảnh để tôi cũng có thể thấy rõ như ông vậy. Tại đảo Mắt Ai-len nhiều năm về trước, ông kể, đã có những thầy tu dũng cảm muốn xây dựng một nhà thờ trên đấy, nhưng cuối cùng cũng đành phải khuất phục trước những cơn bão dữ.
The Guv and I slept in a room overlooking Balscadden Bay, overlooking the Harbour and the Irish Sea. He would lie for hours on his bed watching the ever-changing scene with his powerful Japanese binoculars. Our very great friend Brud Campbell, had taken out the poor glass originally in place, and inserted instead the finest plate-glass so that there was no distortion of the view. As we sat together, him scanning the view, he would tell me all he saw, putting it into telepathic thought-pictures so that I could see as clearly as he. Ireland’s Eye, he would tell me of the brave monks who years ago had tried to make a little church there, but had at last been defeated by the storms.
Cô Ku cũng kể cho tôi nghe về đảo Mắt Ireland. Cô ấy đã đủ dũng cảm để đi cùng Thầy trên một chiếc thuyền nhỏ băng qua dòng nước và đến đó chơi đùa trên cát. Cô cũng kể về lũ mèo hải tặc ở trên đảo, thường xuyên hù doạ lũ chim và thỏ. Thầy không kể cho tôi về bọn mèo hải tặc đấy (có lẽ Thầy không nghĩ rằng loài mèo lại có thể đổ đốn đến thế), nhưng Thầy kể cho tôi về những tên buôn lậu, Thầy có thể chỉ điểm từng tên. Trong vùng có rất nhiều vụ buôn lậu, Thầy biết gần như hết thảy những ai kết nối với chúng, ông đã chụp được rất nhiều ảnh với một chiếc máy ảnh tầm xa.
Miss Ku told me of Ireland’s Eye as well. She had been brave enough to go with the Guv in a little boat all the way across the water and play in the sand on the Island. She told me of Pirate Cats who lived on the Island and frightened the birds and the rabbits. The Guv did not tell me of the Pirate Cats (perhaps he did not think cats would sink so low), but he did tell me of human smugglers, and he could even name them. Quite a lot of smuggling was done in the district, and the Guv knew almost everyone connected with it, he had taken many photographs with a telephoto camera.
Mẹ cũng chụp ảnh, cứ hễ đi đâu cũng mang theo một chiếc máy ảnh trong túi. Nhưng nỗi lo lắng lớn nhất của mẹ là chăm sóc chúng tôi và giúp Thầy duy trì sự sống thêm một vài năm nữa. Bà luôn luôn bận rộn. Cô Ku, hiển nhiên, là người quán xuyến mọi thứ để không ai xao nhãng và cô ấy luôn muốn được đi chơi.
Ma did photography, too, and wherever she went she carried a camera in her handbag. But Ma’s chief concern was to look after us all and try to keep the Guv going for a few more years. She was busy all the time. Miss Ku, of course, supervised everything and saw that no one slacked and that she got all the car rides that she wanted.
Kẹo Bơ cũng rất bận rộn. Cô giúp trông nom ngôi nhà và cả Thầy nữa, cô thường đi dạo rất lâu để tìm ý tưởng cho những bức vẽ của mình. Cô là một nghệ sĩ tài năng, cô Ku và Thầy đều công nhận như thế. Đó là lý do mà tôi nhờ cô vẽ minh hoạ cho quyển sách nhỏ của mình, cô Ku nói cô ấy đã hoàn thành xuất sắc hơn bất kỳ ai. Tôi ước mình có thể nhìn thấy những hình vẽ ấy, nhưng không ai có thể cho tôi lại thị giác được.
Buttercup was very busy as well. She helped look after the house and the Guv and she took long walks so that she could get ideas for drawing and painting. She is a very clever artist, Miss Ku and the Guv tell me. That is why I asked her to illustrate this little book of mine and Miss Ku says that she is doing it better than anyone else could. I wish I could see them, but no one can give me sight.
Chúng tôi muốn đưa Thầy lên giường trước khi ông ấy lên cơn đau tim, rồi mời ông Loftus đến nói chuyện cùng Thầy. Ông Loftus là một người to lớn, cao và mập, tất cả chúng tôi đều vô cùng ngưỡng mộ ông. Cô Ku, người đã cho phép tôi được nói rằng cô ấy khá đỏng đảnh, mê mệt ông ấy. Bà O’Grady là một vị khách được chào đón khác, một người có thể ghé thăm bất kỳ lúc nào. Một người đã được xem như “người trong gia đình”. Brud Campbell không thường xuyên đến thăm như bọn tôi mong đợi, ông ấy là người bận rộn – bận rộn vì là một người thợ giỏi – và số lần ông ấy ghé thăm đều khá ít.
We loved to get the Guv in bed before he had a heart attack, and then have Mr. Loftus come and talk to him. Mr. Loftus was a great big man, tall and broad, and ALL of us admired him immensely. Miss Ku, who has given me permission to say that she is a bit of a flirt, loved him. Mrs. O’Grady was another welcome visitor, one who would drop in at any time. One who was accepted as “one of the family.” Brud Campbell did not call nearly as often as we would have liked, he was a busy man—busy because he was such a good workman—and his visits were all too few.
Một ngày kia, khi chúng tôi đang thảo luận về việc du lịch, đặc biệt là du lịch bằng máy bay, cô Ku nói “Ồ, nhớ khi chúng tôi bay từ Anh (với sự hân hoan phát ra thành tiếng!), hãng hàng không nói họ sẽ không cho mèo ở cùng khoang với con người. Thầy đã trả lời: “Thôi được, nếu họ không muốn cho mèo của tôi đi cùng thì nghĩa là họ cũng không cần tôi, chúng ta sẽ thuê riêng một máy bay và mang tất cả đồ của chúng ta theo.” Cô Ku ngừng lại với biểu cảm đầy kịch tính rồi nói tiếp, “Vậy là chúng ta đi bằng máy bay riêng và họ có bình thở oxy cho Thầy, và khi ông ấy đến phi trường Dubllin thì họ muốn cho ông ngồi xe lăn như một người khuyết tật! Từ tận đáy lòng, tôi cảm thấy thật ấm áp vì biết rằng cả gia đình đều nghĩ đến Cô Ku và tôi như bất kỳ con người nào. Rồi chúng cùng khúc khích cười thì Thầy tủm tỉm bảo chúng tôi là một đôi mèo già ngồi lê đôi mách.
One day we were discussing travel, and air travel in particular. Miss Ku said, “Oh, but when we came from England (with cries of joy!) the airline would not have CATS in the same compartment as humans. The Guv said: ‘All right, then if they don’t want my cat they do not want me, we will charter a plane and take all our things as well.’ ” Miss Ku paused for dramatic effect, and continued, “So we came by chartered plane and they had a bottle of oxygen for the Guv and he got cross at Dublin Airport because they wanted to put him in a wheel-chair as an invalid!” It gave me a warm feeling inside to know that The Family thought as much of Miss Ku—and me!—as they did of any human. Then we smiled as the Guv chuckled at us and told us that we were a gossiping pair of old woman cats!
Một sáng nọ, tôi thắc mắc “bà O’Grady rất thường xuyên đến đây, nhưng sao ông O’Grady không hay ghé nhỉ?” Cô Ku trả lời “Ô chà chà, ông ấy phải làm việc, ông ấy phụ trách điện ở cả Ai-len này và nếu ông ấy không cho điện chạy vào dây thì chúng ta sẽ nấu ăn bằng cái gì?” “Nhưng cô Ku, chúng ta dùng gas trong cái đồ đựng kim loại và người ta mang thứ đó đến đây cứ ba tuần một lần mà.” Cô Ku thở dài ngao ngán; “Feef”, cô ấy nói sau khi đã hít thở thật sâu để giữ bình tĩnh như Thầy dạy chúng tôi. “Feef, con người cần nhìn, và nếu muốn nhìn thì họ phải dùng điện, đúng không? Chị không nhìn thấy được nên chị không biết đấy. Chúng ta có mấy chiếc chai thuỷ tinh treo vào các cột rồi gắn chúng lên trần nhà. Khi con người thả điện vào những chai đó bằng dây, chúng ta có ánh sáng. Chúng ta sử dụng điện đấy, Feef!” Cô quay đi, miệng lầm bầm “Bọn mèo làm mình phát ốm, lúc nào cũng hỏi những câu ngớ ngẩn.” Đúng là chúng tôi có sử dụng điện, Thầy và Mẹ chụp rất nhiều ảnh màu và xem chúng trên màn hình bằng một loại đèn đặc biệt. Tôi thích ngồi tựa lưng vào chiếc đèn ấy, đối mặt với màn hình vì những tia sáng từ đèn thật ấm áp dễ chịu làm sao.
“Miss Ku,” I said one morning, “Mrs. O’Grady comes here a lot, but why does not MR. come here?” “Oh dear dear!” replied Miss Ku, “He has to work, he looks after the electricity of Ireland and if he didn’t pour it in the wires how would we cook?” “But Miss Ku, we use gas in a metal thing and men bring the metal things here once every three weeks.” Miss Ku sighed in exasperation; “Feef,” she said, after taking a deep breath to calm herself like the Guv had shown us. “Feef, people SEE, and if they are to see they use electricity. Right? You don’t see, so you don’t know. We have glass bottles tied to poles and hanging from the ceilings. When people tip electricity into them from the wires we get a light. WE USE ELECTRIGITY, Feef!” She turned away with a muttered, “Cats make me sick, always asking fool questions.” We used electricity all right, the Guv and Ma took a lot of colour photographs and showed them on a screen with a special lamp. I loved to sit with my back to the lamp, facing the screen, because the rays from the lamp were beautifully warm.
Ở Howth chúng tôi không có điện thoại, ai đó đã nói với tôi rằng những nhà viễn thông ở Ai-len không có đủ đường dây. Tôi không thể hiểu được tại sao họ không làm thêm dây như những xứ sở khác, nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng. Chúng tôi dùng điện thoại của bà O’Grady, bà rất hào phóng với chúng tôi. Mẹ rất thích “Ve O’G” như chúng tôi gọi bà. Thầy cũng mến bà, nhưng thích gặp ông Loftus hơn. Từ cửa sổ phòng mở rộng nhìn ra vịnh, chúng tôi có thể nhìn thấy ông Loftus đang ở góc đường chân con dốc đứng, rồi leo lên đường Balscadden tới khu vực những người đi dã ngoại thường lui tới. Mỗi khi hết ca trực ông ấy thường đến thăm chúng tôi – và ông luôn là người khách được chào đón. Thầy sẽ nằm trên giường, và ông Loftus sẽ đến ngồi đối diện với Thầy và cửa sổ.
We did not have a telephone at Howth, someone told me that the Irish telephone people had no lines to spare. I could not understand why they did not put up more, like other countries did, but it did not matter to me. We used Mrs. O’Grady’s phone, which was offered so gladly. Ma was VERY fond of “Ve O’G” as we called her. The Guv liked her as well, but he saw more of Mr. Loftus. From the big picture window overlooking the bay Mr. Loftus could be seen coming round the corner at the bottom of the steep hill, then trudging up Balscadden Road and right away to the end where all the picnickers went. When he went off duty he would often call in to see us—and he was always a welcome visitor. The Guv would be in bed, and Mr. Loftus would sit facing him and the window.
Chúng tôi cũng theo dõi tình hình thế giới! Thầy có một chiếc radio sóng ngắn rất lợi hại, có thể nghe được các chương trình từ Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và cả từ Trạm Cảnh sát Ai-len và Trạm Cứu Hoả! Tôi thích nghe nhạc từ Xiêm, hay Thái Lan, hoặc bất kỳ tên gọi nào mà họ gọi đất nước của tổ tiên của tôi. Khi nghe nhạc Xiêm tôi ngồi đung đưa, nhẹ nhàng đếm nhịp thời gian trong đầu. Tôi có thể mường tượng trong tâm trí cảnh những đền chùa, đồng ruộng, cây cối và nhìn lại toàn bộ lịch sử của tổ tiên tôi. Một số trong chúng tôi đã đến Tây Tạng (quê hương của Thầy), ở đó chúng tôi canh giữ Đền chùa và các tu viện Lạt ma. Như những người canh gác của Tây Tạng, chúng tôi được huấn luyện để xua đuổi trộm, bảo vệ của cải và những vật thờ tâm linh. Ở Tây Tạng, chúng tôi hầu hết đều có lông đen vì cái lạnh cực độ. Có lẽ không nhiều người biết rằng giống của chúng tôi đổi màu lông theo nhiệt độ. Ở những xứ sở lạnh giá, chúng tôi sẽ có màu lông rất đậm. Còn ở xứ nhiệt đới, chúng tôi gần như màu trắng. Lũ mèo con của tôi gần như trắng tinh khi mới sinh ra, và ít lâu sau đó sẽ xuất hiện đặc điểm riêng. Nếu con người có da vàng, trắng, nâu, đen thì chúng tôi cũng thế. Tôi có mình trắng mặt nâu đậm, còn như cô Ku’ei lại có mình ngà mặt nâu sô cô la. Thực tế thì cha cô ấy là một nhà vô địch, Chiến binh Sô cô la. Cô Ku có phả hệ rất tuyệt vời. Còn giấy tờ của tôi đương nhiên đã mất. Một hôm khi đang trò chuyện cùng nhau, tôi nói “Ước gì tôi có thể cho cô xem giấy tờ của tôi, cô Ku ạ, tôi rất buồn khi nghĩ về việc chúng đã bị bỏ lại ở Pháp, và không có giấy tờ, tôi thấy mình như Trần truồng vậy”. Cô Ku an ủi “Ô kìa Feef, đừng nghĩ gì về chuyện đấy, tôi sẽ nói với Thầy để ngài ấy huỷ luôn giấy tờ của tôi, thế là cả hai chúng mình đều không rõ nguồn gốc”. Trước khi tôi kịp phản ứng thì cô ấy đã chạy đi và ra khỏi phòng. Tôi nghe tiếng cô đi đến chỗ Thầy, lúc ấy đang loay hoay với một thứ hình ống bằng đồng có kính ở hai đầu. Hình như Thầy đưa một đầu vào măt mình để nhìn được xa hơn. Một lúc sau, Thầy và cô Ku xuất hiện, vẫn còn đang tranh luận rồi ông nói “Thôi được, nếu con đã nói thế, lúc nào con cũng điên rồ như vậy.” Đoạn, tôi nghe tiếng Thầy bước đến một ngăn kéo, tiếng giấy xột xoạt và tiếng quẹt diêm. Tôi ngửi thấy mùi giấy cháy, tiếng lách tách của ngọn lửa và mọi thứ thành tro bụi. Cô Ku đến gần tôi hích nhẹ “Giờ thì không phải lo lắng gì nữa nhé, Thầy và Mẹ chẳng quan tâm tí nào đến phả hệ của chúng mình đâu, chúng ta cũng là con cái của họ.”
We listened to the world, too! The Guv had a very powerful short-wave radio set which would bring in programs from China, Japan, India—and the Irish Police and Fire Stations! I preferred music from Siam, or Thailand, or whatever they now call the country of my ancestors. To the music of Siam I would sit and sway and gently keep time with my head. I would see in my mind’s eye the temples, the fields and the trees. I would look back at the whole history of my ancestors. Some of us went to Tibet (where the Guv came from) and there we guarded the Temples and the lamaseries. Like the proctors of Tibet, we too were trained to discourage thieves, and safeguard the jewels and the religious objects. In Tibet we were almost black because of the intense cold. It is perhaps not generally known that my race alter in colour according to the temperature. In a cold, frozen country we grow very very dark. In the tropical countries we are almost white. Our kittens are born pure white, and soon after the characteristic ‘markings’ appear. Just as humans have different colours, such as white, yellow, brown and black, so have we. I am a seal-pointed cat, while Miss Ku’ei is a chocolate-pointed cat. Her Father was, indeed, the Champion, Chocolate Soldier. Miss Ku had a very wonderful pedigree. My papers, of course, had been lost. Miss Ku and I were discussing it one day. “I wish I could show you my papers, Miss Ku,” I said, “It grieves me to think they have been left in France. I feel, well, kind of NAKED without them.” “There! There! Feef,” soothed Miss Ku, “Think nothing of it. I will have a word with the Guv and ask him to destroy mine, then BOTH of us will be paperless.” Before I could expostulate she had wheeled round and stalked out of the room. I heard her going down the stairs to where the Guv was doing something with a long brass tube which had glass at both ends. It seemed that he put the thing to one eye so that he could see better farther. Shortly after, the Guv and Miss Ku came up, still arguing. “Oh well,” he said, “If that is the way you want it—you always were a crazy cat!” He went to a drawer and I heard the rustling of papers and then the rasping of a match being struck. The smell of burning paper reached me and then the clatter of fire irons as the ashes were stirred into nothingness. Miss Ku came over and gave me a push. “Okay,” she said with a smile, “Now stop your stupid worry. The Guv and Ma do not care a hang for these papers, or pedigrees, WE are THEIR children.”
Tôi kịt mũi rồi hắt hơi. Trong không khí có mùi gì thật tuyệt, một thứ mà tôi chưa từng biết tới trước đây. “Feef, con đâu rồi Feef?”, tiếng Mẹ gọi tôi. Tôi lanh lẹ trả lời rồi nhảy ra khỏi giường. Lần theo hương thơm tuyệt vời mà mũi đánh hơi được và leo xuống cầu thang, “Tôm hùm này Feef, thử đi” Mẹ nói.
My nose wrinkled, and I sneezed. There was a beautiful smell in the air, something I had never smelled before. “Feef! Where are you, Feef?” Ma was calling me. I told her that I was coming as I jumped off the bed. Following my nose—being led by that wonderful smell—I went down the stairs, “Lobster, Feef,” said Ma. “Try it!”
Nhà bếp của chúng tôi có sàn bằng đá và Thầy từng một lần nói với cô Ku và tôi rằng có lời đồn về một lối đi dưới thềm đá nối nhà bếp với hang động bên dưới. Điều đó làm tôi lo sợ nhỡ đâu có cướp biển hay kẻ buôn lậu nào đẩy một viên đá phía dưới lên và tôi có thể rơi xuống đó. Nhưng Mẹ đang gọi tôi đến thử một loại thức ăn mới. Là một cô mèo Xiêm Pháp, tôi có một sự yêu thích tự nhiên với thức ăn. Mẹ véo yêu tôi và dắt tôi đến một đĩa tôm hùm. Cô Ku đã ăn phần của mình. “Ăn mạnh lên Feef”, cô ấy nói, “Chị rỉa như một bà cô già đỏng đảnh vậy!” Đương nhiên tôi không bao giờ để bụng những lời của cô Ku, cô ấy có trái tim đẹp như miếng thịt tôm tươi ngon nhất, và cô ấy đã đón nhận tôi, một kẻ sắp chết túng quẫn vào gia đình với niềm hân hoan. Bất chấp sự chuyên quyền hay thái độ chảnh chọe, cô ấy vẫn là một cô mèo mà ai gặp cũng yêu.
Our kitchen had a stone floor and the Guv once told Miss Ku and me that there was a story to the effect that a passage under the flagstones connected the kitchen with the cave below. It made me nervous in case some pirate or smuggler should push up the stone from beneath and I should fall through. But Ma had called, and called for a new sort of food. Being a French Siamese Cat I had a natural interest in food. Ma tweaked my ears with affection and led me to the dish of lobster. Miss Ku was already at hers. “Get crackin’ Feef,” she said, “You are poking around like a real old Irish Biddy!” Of course I was never upset by what Miss Ku said, she had a heart as good as the purest shrimp meat, and she had taken me, a dying, destitute stranger, into her home with gladness. For all her sternness, for all her autocratic manner, she was a person whom to know was to love.
Tôm hùm ngon tuyệt! “Từ đảo Mắt Ai-len đấy Feef,” cô Ku nói. “Thầy nghĩ rằng bọn mình sẽ thích một phần thưởng.” “Ôi!” tôi trả lời “Ngài ấy không ăn à?” “Không bao giờ! Thầy nghĩ nó thật kinh khủng. Nhưng nếu bọn mình thích thì ông ấy vẫn mua cho bọn mình. Nhớ mấy con tôm đó không Feef?” Tất nhiên là tôi nhớ! Khi Thầy và Mẹ đưa tôi về nhà lần đầu tôi đã đói lả nhưng không thể ăn được vì quá ốm yếu. “Cho nó một hộp tôm đi,” Thầy nói, “Nó kiệt sức vì đói đấy.” Hộp được mở ra, nhưng tôi thật sự chẳng thèm để tâm. Thầy lấy một miếng rồi quệt qua môi tôi. Tôi chưa từng được ăn món gì ngon đến thế. Ngay trước khi tôi kịp nhận ra, tôi đã chén sạch cả hộp. Việc đó làm tôi rất xấu hổ, thậm chí đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại tôi càng ngượng. Nên mỗi khi cô Ku muốn làm tôi đỏ mặt, cô ấy sẽ nói “Nhớ mấy con tôm đó không Feef?”
The lobster was delicious! “From Ireland’s Eye, Feef,” said Miss Ku, “The Guv thought we would like it for a treat.” “Oh!” I replied, “Doesn’t he eat it?” “Never! Thinks it is horrible muck. Still, if you and I like it he will buy it for us. Remember those shrimps, Feef?” I did indeed! When the Guv and Ma first brought me to the house I was hungry, but almost too ill to eat. “Give her a tin of shrimps,” said the Guv, “She is weak with hunger.” The tin was opened, but I really could not be bothered. The Guv took a shrimp and wiped it across my lips. I thought I had never tasted anything more heavenly. Almost before I knew it, I had cleared the whole tin. It made me really ashamed of myself and I grow hot even now whenever I think of it. If Miss Ku wants to make me blush she says, “Remember those shrimps, Feef?”
Cô Ku nói “Feef! Thầy sắp chở bọn mình đi chơi đó. Chúng ta sẽ đi qua căn nhà gạch mà chị từng ở. Nhưng đừng bận tâm, chúng ta sẽ chỉ đi qua thôi.” Cô Ku đi xuống về phía ga-ra cùng Thầy để lấy xe, một chiếc Humber Hawk khá tốt. Tôi ở cùng với Mẹ, giúp bà chuẩn bị rồi đi xuống lối cầu thang để kiểm tra xem Kẹo Bơ đã khoá cửa hậu bên vườn chưa. Chúng tôi vào xe và lái xuống đồi, luồn bên dưới cầu xe điện và hướng về Sutton (nơi một người bạn cũ khác, Bác sĩ Chapman, sinh sống”. Chúng tôi đi qua nhiều dặm và đến gần tới Dublin. Cô Ku giúp Thầy lái xe, bảo ông khi nào đi nhanh, xe nào đang ở xung quanh, khi nào phải rẽ. Tôi học được rất nhiều thứ từ cô ấy, như là về Dublin. Giữa lúc đang chỉ đường cho Thầy – “Ngừng lại! Cẩn thận góc này, nhanh lên, đừng để chiếc xe đó vượt qua!” cô miêu tả cảnh vật cho tôi. “Ở đây là trạm Westland Row, Feef, nơi xe lửa sẽ khởi hành. Chúng ta phải rẽ phải ở đây nhé Thầy. Đúng rồi Feef, chúng ta đang ở đường Nassau. Chậm thôi Thầy, con đang kể cho Feef nghe về chỗ này. Chúng ta từng sống ở đây đấy Feef, ngay đối diện sân chơi của trường Trung học Trinity. Thầy đi nhanh quá con không kể cho Feef được. Đây là Vườn St. Stephen’s, tôi đã từng ở đây rồi, trong đấy vịt kêu quang quác. Để ý kìa Thầy, có một tiệm Garda ở đằng góc kia. Chúng ta đã mua radio ở con phố dưới kia đấy Feef”. Chúng tôi tiếp tục rong ruổi trên những con phố ở Dublin, cô Ku tiếp tục bình luận. Khi những dãy nhà và con phố đã ở phía sau, Thầy nhấn chân đạp lên cái gì đó và chiếc xe vọt đi nhanh hơn, như thể có nhiều thức ăn được bơm vào nó vậy.
“Feef!” said Miss Ku, “The Guv is going to take us for a ride. We are going past the cottage where you lived. Now don’t throw a fit; we are going PAST.” Miss Ku went out to walk down to the garage with the Guv to get the car, a good Humber Hawk. I stayed with Ma, helping her get ready, then went downstairs to make sure that Buttercup had locked the garden gate at the side. We got in the car and drove down the hill, under the tram bridge and on to Sutton (where another old friend, Dr. Chapman, lived). On we went, covering many miles and eventually reaching Dublin. Miss Ku helped the Guv drive, telling him when to go fast, what cars were about, and which turnings to take. I learned a lot from her. I learned about Dublin. In between directing the Guv—“Stop! Stop! Mind this corner, quick! Don’t let that car pass” she described the sights for me. “Now here is Westland Row Station, Feef, where the trains go from. We turn right here, Guv. Yes Feef, we are now in Nassau Street. Slow up, Guv, I’m telling Feef about this. We used to live here, Feef, opposite Trinity College grounds. Guv you are going so fast I can’t tell Feef. This is St. Stephen’s Green, I’ve been in there. Ducks quack in that place. Mind, Guv, there is a Garda on the corner. We get our radios down that street, Feef.” On we went through the streets of Dublin, Miss Ku giving a running commentary. Then, with streets and houses behind us, the Guv pressed down something with a foot and the car ran faster as more food went into it.
Chúng tôi đi dọc theo đường núi, men theo bờ của thứ mà cô Ku gọi là “hồ trữ nước”, nó có vẻ như là tô uống nước của cả Dublin. Chúng tôi đến ngôi nhà gỗ. Xe ngừng lại. Thầy liếc mắt nhìn về phía tôi để xem tôi phản ứng ra sao, rồi tăng tốc. Tôi thở phào nhẹ nhõm, nửa lo sợ rằng bất chấp tất cả tôi sẽ bị trả lại như một con mèo mù vô dụng. Tôi thể hiện sự vui mừng của mình bằng cách gừ nhẹ và liếm tay Mẹ. “Tuyệt cú mèo” cô Ku nói, “Bọn tôi tưởng Chị sẽ gào thét lên rồi mất hết tôn nghiêm chứ! Dũng cảm lên, CHỊ LÀ MỘT THÀNH VIÊN CỦA GIA ĐÌNH RỒI!”
Along the mountain roads we went, along by the side of what Miss Ku called “a reservoir” which seemed to be a drinking bowl for Dublin. We came to the cottage. The car stopped. The Guv glanced in my direction and seeing how I was affected, speeded up. I breathed with relief, half fearing, in spite of all, that I was going to be returned as a useless old blind cat. To show my happiness I purred and licked Ma’s hand. “Great Tomcats! Feef,” said Miss Ku, “We thought you were going to throw a fit and pass away in the odor of sanctity! Brace up, Old Girl, YOU ARE A MEMBER OF THE FAMILY!”
Chúng tôi chơi giữa đám cây thạch nam một lúc. Cô Ku khoác lác về số thỏ mà cô ấy định bắt. Rồi cô ấy thấy thứ mà Thầy nói là một con cừu và thế là im bặt. Tôi không thể nhìn thấy con vật này, nhưng tôi ngửi được mùi hoi hoi của dê cừu và mùi len cũ. Sau đó chúng tôi vào xe rồi lại tăng tốc trở về nhà. Lúc đi ngang ngọn hải đăng Bailey trên Mũi Howth, tiếng còi báo sương mù rền vang như tiếng một con bò mẹ đang chuyển dạ. Một chiếc tàu điện chạy qua, bánh xe kêu lạch cạch trên đường ray sắt. “Dừng ở Bưu điện nhé”, Mẹ nói, “Chắc là mình có vài kiện hàng ở đó.”
We played among the heather for a time. Miss Ku shouting about how many rabbits she was going to catch. Then she saw what the Guv said was a sheep, and fell abruptly silent. I could not see the creature, but I did detect a strange muttony smell and the odor of old wool. Soon we got in the car and went speeding off again on the way home. As we passed the Bailey Lighthouse, on Howth Head, the fog horn was bellowing like a cow about to give birth. A tram rumbled by, its wheels going ‘clankety-clank, clankety-clank’ on the iron rails. “Stop at the Post Office,” said Ma “There should be some parcels there.”
“Feef,” cô Ku nói khi chúng tôi đang ngồi chờ Mẹ, “Feef, một người đàn ông đã kể cho Thầy rằng hai con của Chị đang rất ổn. Chúng lớn nhanh và có mặt với đuôi đen.” Tôi thở phảo lòng mãn nguyện. Đời đã đối xử tốt với tôi: con của tôi được hạnh phúc và ở cùng nhau. Chúng là lứa mèo con cuối cùng mà tôi sinh ra, và tôi tự hào về chúng, tự hào vì chúng được đón nhận và được hạnh phúc.
“Feef,” said Miss Ku as we waited for Ma, “Feef, a man told the Guv your two kittens are doing fine. They are growing well and have black faces and tails now.” I sighed with content. Life was good to me: My children were happy, and together. They were the last kittens I would ever have, and I was proud of them, proud that they had been accepted, and that they were happy.
Người dịch: Phí Bích Thuận
Biên tập: Tô Phương Trang
Tổng biên tập: Trung tâm VMC