Xe buýt lăn bánh dọc con đường trên bến cảng, ngang qua cây cầu xe điện cũ, tăng tốc và nhanh chóng bỏ lại Lâu đài Howth sau lưng. Tất cả chúng tôi đều im lặng, Thầy đã mệt mỏi rã rời, ngắm nhìn vùng đất yêu dấu mà lưu luyến chẳng muốn rời. “Giá như mấy tay ở Sở thuế không tàn nhẫn như vậy!” tôi thầm nghĩ. Chúng tôi ngồi bên cạnh Thầy, im lặng cảm thông. Tại Sutton, cả nhà đều quay sang nhìn bên trái để âm thầm từ biệt một người bạn cũ khác, Bác sĩ Chapman. Tiếp tục, tiến về phía Dublin, mùi rong biển thổi vào từ cửa sông Liffey trong khi đám mòng biển kêu những câu từ biệt buồn bã trên đầu.
The bus rolled along the harbour road, passed under the old tram bridge, speeded up and soon left Howth Castle behind us. We were all silent, the Guv already worn and weary, looking out at the land he loved and was so reluctant to leave. “If only those Tax People were not so rapacious!” I thought. We sat by him, silent in sympathy. At Sutton we all looked to the left to give a silent farewell to another old friend, Dr. Chapman. On, on towards Dublin, with the smell of the seaweed blowing in from the mouth of the River Liffey and the seagulls calling a sad farewell overhead.
Cô Ku ngồi đằng sau trên kệ hành lý, từ đó có thể nhìn ra ngoài.
“Nghe cho kỹ này, Feef” cô gọi tôi – đang ngồi kế bên Thầy.
“Tôi sẽ kể cho nghe những thứ cậu chưa từng được thấy. Đây là Clontarf, và chúng ta vừa đi ngang qua các khu vườn”.
Chẳng ai trò chuyện trên xe buýt, không ai ngoại trừ cô Ku. Tôi đã có sáu tháng Thiên đường ở Ireland, sáu tháng để nhận ra tôi được yêu thương, và tôi cũng có nơi “thuộc về”. Bây giờ chúng tôi đang rời đi, liệu điều gì đang chờ trước mắt? Xe buýt lăn bánh đều đều mà không bị giật hay dừng gấp, vì người Ireland rất lịch sự và luôn coi trọng hành khách trên xe.
Miss Ku sat in the back on a luggage rack where she could see out, “Get a good listen at this, Feef,” she called to me, sitting by the Guv. “I will give you a running commentary on the things you have never seen. This is Clontarf, we are just passing the Gardens.” There was little talk in the bus, no one spoke except Miss Ku. I had had six months of Heaven in Ireland, six months in which to realize that I was wanted, that I “belonged.” Now we were leaving, leaving for WHAT? The bus rolled on without jerks or starts, for the people of Ireland are very courteous and always consider the rights of the other driver.
Bây giờ giao thông trở nên đông đúc hơn. Có vài lúc chúng tôi dừng lại, khi đèn tín hiệu chuyển màu đỏ.
Đột nhiên cô Ku nói: “Chúng ta đang ngang qua Đại học Trinity, Feef, hãy tạm biệt nó đi”. Đại học Trinity! Ngay đối diện là Công ty Lữ hành đã sắp xếp mọi thủ tục. Tôi thầm ước mình có thể bước vào đó và hủy bỏ cả chuyến đi này. Thầy đưa tay xuống xoa cằm tôi và kéo tôi lại gần. Dòng xe cộ thưa dần khi chúng tôi đến ngoại ô. Người lái xe tăng tốc.
Traffic was becoming thicker now. At times we stopped, when the lights were against us. Suddenly Miss Ku said, “We are passing Trinity College, Feef, say goodbye to it.” Trinity College! Just opposite was the Travel Agency which had made all the arrangements. I wished that I could stop in and have them all cancelled. The Guv reached down and rubbed me under my chin and pulled me closer. Traffic was thinning out as we reached the outskirts of the city. The driver speeded up.
“Chúng ta đang đến Limerick, Feef”, Cô Ku nói,“Để tôi kể cho cậu điều này: Có một con mèo ở vùng Kildare cài hoa catnip trên đầu…”.
“Trật tự nào, Ku!”, Thầy bảo, “ai có thể nghĩ ngợi được khi con cứ ngồi đó ba hoa chứ”.
Trong một chốc tất cả đều im lặng, nhưng Cô Ku không bao giờ giữ im lặng được quá lâu. Ngồi dậy, cô lại xả một tràng liên tục về tất cả những gì đáng quan tâm và nghĩ rằng tôi nên biết. Tôi đã già và đã từng có một cuộc sống khó khăn. Bị mù khiến mọi việc cũng chẳng dễ dàng. Cuộc hành trình làm tôi mệt, thế nên tôi đã đánh một giấc.
“We are going to Limerick, Feef,” said Miss Ku, “I could tell you one: There was a young cat of Kildare who had catnip flowers in her hair . . .” “Shut up, Ku!” said the Guv, “How can anyone think while you are there groaning away.” For a time all was quiet, but Miss Ku was never silent for very long. Sitting up she gave a running report of all things of interest which she thought I should know about. I am old, and have had a hard life. Trying to manage without sight is difficult. The journey tired me so I slept awhile.
Đột nhiên, tôi cảm nhận được một chuyển động khác lạ và nhanh chóng ngồi bật dậy. Chúng ta đã đến rồi sao? Tôi đã ngủ bao lâu? Chuyện gì đang xảy ra? Chiếc xe buýt đã dừng hẳn rồi.
“Không sao đâu, Feef,” Thầy nói, “Chúng ta vừa dừng lại để uống trà”.
“Được nửa đường đến Shannon rồi”, Người tài xế nói, “tôi luôn dừng lại ở đây vì họ có trà ngon lắm”.
“Hai người vào đi”, Thầy bảo, “tôi và mấy con mèo sẽ ở lại”.
“Được thôi”, Mẹ trả lời, “tôi sẽ mang trà của ông ra. Ku’ei và Fifi có thể uống trà của chúng cùng lúc”.
Mẹ và Kẹo Bơ rời xe buýt, tôi có thể nghe tiếng họ bước đi. Một tiếng “cạch” mở cửa, và họ đang ở trong một cửa hàng. “tên là Chợ Phố”, Cô Ku nói, “Có rất nhiều ô tô đậu. Một nơi nhỏ xinh. Mọi người đều trông thân thiện. Có một bà lão đang cười với cậu kìa, Feef, hãy cười đáp lại bà ấy đi.”
“Cậu ấy bị mù”, cô Ku hét lớn với bà lão, “cậu ấy không thể nhìn thấy bà, hãy nói chuyện với cháu này!”.
“À, chắc chắn rồi” bà lão nói, áp sát mặt vào cửa sổ, “mấy con vật này dễ thương quá. Đứa nhỏ này đang nói chuyện với ta kìa. Thời buổi này có những thứ thật tuyệt vời”.
“Thôi nào, Mẹ! Mẹ phải đi lấy trà cho Bố kẻo ông ấy đi biến đến O’Shaughnesseys bây giờ”.
“À, con nói đúng, ta phải đi đây”, bà lão nói rồi bước đi.
“Tôi thích chiếc khăn choàng của bà ấy”, Cô Ku bảo, “Tôi có thể dùng nó làm khăn trải giường”.
Suddenly I sensed a different motion and quickly sat up. Were we there? How long had I slept? What was happening? The bus slid to a halt. “It is all right, Feef,” said the Guv, “We have just stopped for tea.” “Halfway to Shannon,” said the Driver, “I always stop here, they serve very good teas.” “You two go in,” said the Guv, “the cats and I will stay here.” “All right,” said Ma, “I will bring your tea out. Ku’ei and Fifi can have theirs at the same time.” Ma and Buttercup left the bus and I could hear them walking. The ‘click’ of a door, and they were in a shop. “Market town” said Miss Ku, “Lots of cars parked. Nice little place. People look friendly. There is an old woman smiling at you, Feef, smile back. She’s blind,” yelled Miss Ku to the old woman, “she can’t see you, talk to me instead!” “Ah! shure,” said the old woman, pressing her face close to the window, “ ‘tis wonnerful crayturs they are an’ all. ‘Tis meself the little one was talkin’ to. Wonnerful what they have nowadays!” “Aw, come on, Maw! Yer’ve got to get Paw’s tea or he’ll be off to O’Shaughnesseys.” “Ah! Ah! ‘Tis right you are, I must be goin’ ” said the old woman as she shuffled off. “I liked her shawl,” said Miss Ku, “I would like to have it as a bedcover.”
Mẹ trở lại mang theo thức ăn và đồ uống cho Thầy. Bà ấy cũng mang trà cho chúng tôi, nhưng chúng tôi còn quá hào hứng để ăn uống.
“Thầy ăn gì thế, thưa thầy?” tôi hỏi.
“Bánh mì, bơ và một chén trà”, ông trả lời.
Tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi biết rằng ông đang ăn dù chỉ một chút, vì vậy tôi yên tâm nhấm nháp tách trà của mình, nhưng làm sao một con mèo có thể ăn khi nó còn đang quá phấn khích kia chứ?
Tôi nghĩ về những chuyến đi mà mình đã từng trải qua trước đây, xóc nảy trong một chiếc ô tô chạy nhanh, bị đánh thuốc mê và suýt chết ngạt trong một chiếc hộp gỗ gần như không có không khí. GIỜ ĐÂY tôi sẽ đi trên khoang hạng nhất và không bị tách khỏi Gia đình mình. Tôi ngồi xuống bên cạnh Thầy, gừ gừ một chút.
“Feef già đang tận hưởng đây”,Thầy nói với Mẹ, “Tôi nghĩ nó rất thích mặc dù không chịu thừa nhận!”.
“Khen con nữa đi!” Cô Ku hét lên từ phía sau xe, nơi cô ấy đang giữ hành lý và chỉ đạo Tài xế.
“Tôi không biết chúng ta sẽ xoay sở thế nào nếu không có Ku’ei chăm sóc và điều hành mọi thứ”, Thầy vừa nói vừa véo tai tôi.
“Cô Ku gây náo động hơn hết thảy những con Mèo của vùng Kilkenny”, ông nói thêm.
Ma came out bringing food and drink for the Guv. She gave us our tea, too, but we were too excited to eat much. “What have you got, Guv?” I asked. “Bread and butter and a cup of tea,” he replied. It made me feel better to know that he was eating even a little, so I went and had a few desultory pecks at my own tea, but how CAN a cat eat when she is so excited? I thought of the travels I had had before, buffeted about in a speeding car, or drugged and half suffocated in an almost airless wooden box. NOW I was going to travel first class and not be parted from my Family. I settled down beside the Guv and purred a little. “Old Feef is bearing up well,” he said to Ma, “I think she is enjoying it even though she would not admit it!” “Say something about me!” yelled Miss Ku from the back of the bus where she was guarding the luggage and directing the Driver. “I don’t know how we would manage without Ku’ei to look after us and keep us in order,” the Guv said as he tweaked my ear. “Miss Ku makes more commotion than all the Cats of Kilkenny,” he added.
Chiếc xe buýt tiếp tục vi vu, bỏ lại sau lưng nhiều dặm đường, đưa chúng tôi xa khỏi tất cả những gì mình yêu thương và thân thuộc, để đến một nơi không hay biết? Chúng tôi rời Hạt Tipperay, tiến vào Hạt Limerick. Bóng tối đã bao trùm, nên chúng tôi phải đi chậm hơn. Cuộc hành trình thật dài quá dài, tôi tự hỏi làm sao Thầy chịu được. Cô Ku bảo ông ấy trông mỗi lúc một xanh xao khi đi qua quá nhiều dặm đường như vậy. Thời gian chẳng còn ý nghĩa gì nữa, giờ và phút trôi qua như thể chúng tôi đang sống trong chốn vô cùng vậy. Tiếng vi vu của xe buýt, tiếng lốp quay vòng, những dặm đường tiếp nối chạy qua bên dưới chúng tôi rồi trôi dạt vào chốn hư không đằng sau. Thậm chí Cô Ku cũng đã rơi vào im lặng. Giờ đây không ai trò chuyện cả, chỉ có tiếng xe lăn bánh và các tiếng động của màn đêm. Thời gian như ngừng chảy khi những dặm đường tiếp nối trôi vào đêm đen bí ẩn.
The bus droned on, eating up the miles, taking us from all we loved and knew, to—what? We left County Tipperary and entered County Limerick. Darkness was upon us now, and we had to go more slowly. The journey was long, long, and I wondered how the Guv would ever last. Miss Ku said he was becoming paler and paler as the miles went by. Time meant nothing any more, hours and minutes just ran together as if we were living through eternity. The droning of the bus, the swish of the tires, the miles racing up to us, going beneath us and falling away into nothingness behind. Even Miss Ku had lapsed into silence. There was no talk now, only the sounds of the bus and the sounds of the night. Time stood still as the miles fled into the anonymity of the darkness.
Cô Ku bật dậy, chuyển từ trạng thái mơ ngủ sang cực kỳ tỉnh táo chỉ trong tích tắc.
“Feef!” cô gọi, “cậu đã dậy chưa?”.
“Vâng, Cô Ku,” tôi trả lời. “Những vệt sáng đang quét qua bầu trời, phủi sạch những đám mây để dọn đường cho máy bay” cô thốt lên. “Chúng ta chắc hẳn đang ở gần Shannon, gần đến rồi”.
Xe buýt tiếp tục lao đi, nhưng lúc này bầu không khí tràn ngập sự ngóng chờ, cả nhà cùng ngồi dậy để xem.
Người lái xe nói: “Năm phút nữa thôi. Ông bà có muốn vào lối cổng chính không? Chuyến bay của ông bà là tối nay phải không?”.
“Thưa không”, Mẹ nói, “Chúng tôi sẽ nghỉ ở đây tối nay và cả ngày mai, sẽ đi New York vào tối mai”.
“Vậy thì ông bà sẽ cần chỗ ở”, Người lái xe nói, “khách sạn này ổn lắm đấy”. Anh ta lái xe thêm một quãng nữa, rồi rẽ và đi khoảng nửa dặm trên đường Sân bay trước khi dừng lại ở một tòa nhà bên tay phải. Anh bước ra ngoài rồi đi vào Văn phòng.
“Không phải rồi!” Anh nói khi quay trở ra xe buýt, “chỗ này không đúng rồi, chúng ta phải đến một chỗ gần cổng vào, tôi biết nơi đó”.
Có lẽ đi một phần tư dặm nữa, rồi chúng tôi đến được một tòa nhà khác. Người lái xe kiểm tra và thấy rằng cuối cùng chúng tôi đã đến được đúng nơi. Hành lý được mang vào là những thứ gia đình cần dùng qua đêm, còn những thứ nặng hơn được đưa thẳng đến Sân bay.
Miss Ku sprang to her feet, from sound sleep to wide awareness on the instant. “Feef!” she called, “are you awake?” “Yes, Miss Ku,” I replied. “Fingers of light are sweeping the sky, dusting off the clouds for the airplanes,” she exclaimed. “We must be near Shannon, we must be almost there.” The bus droned on, but now there was an air of expectancy, The Family sat up and took notice. The Driver said “Five minutes more. Do you want the main entrance? Are you flying tonight?” “No,” said Ma, “We are resting here tonight, all tomorrow, and leaving for New York tomorrow night.” “Then you will want the Motel,” said the Driver, “they have a real smart place.” He drove on a little further, made a sharp turn, and went for perhaps half a mile on an Airport road before stopping at a building on the right. Getting out, he went into the Office. “No!” he said, when he returned to the bus, “you are not booked in there, we have to go to the one near the Entrance Hall, I know where it is.” Perhaps another quarter of a mile, and we drew up at yet another building. The Driver checked, and found that at last we had reached the correct building. Our luggage was carried in, or the things we would want overnight were, and the heavier things were taken straight to the Airport.
“Tôi cần dùng Phòng vệ sinh Nữ!”, Cô Ku la lớn.
“Vậy thì đây”, Mẹ nói, chỉ cái HỘP THIẾC đã đặt sẵn trong phòng tắm.
Bà nhẹ nhàng nâng tôi lên, mang vào phòng tắm rồi để tôi cảm nhận chiếc hộp thiếc của mình. Nhưng thường lệ, Gia đình mỗi người một phòng. Tôi ngủ với Thầy, Cô Ku ngủ với Mẹ, còn Kẹo Bơ tội nghiệp phải ngủ một mình. Cô Ku và tôi chăm chỉ nghiên cứu nơi này để đảm bảo rằng chúng tôi đã thông suốt mọi lối thoát, cũng như vị trí chính xác của mọi vật dụng cần thiết. Xong xuôi chúng tôi ăn tối.
“I want the Ladies’ Room!” yelled Miss Ku. “Here you are, then,” said Ma, showing her the special tin which she had placed in the bathroom. Gently lifting me, she carried me into the bathroom and let me feel which was my tin. Afterwards, when we sauntered out into the bedroom we felt much better. As usual, The Family had a room each. I slept with the Guv, Miss Ku slept with Ma, and poor Buttercup had to sleep alone. Miss Ku and I worked hard investigating everything and making sure that we knew all the escape routes and the exact location of all necessary facilities. Then we turned to our supper.
Chẳng con mèo nào có thể nghỉ ngơi cho tới khi nó đã có cơ hội khám phá toàn bộ căn phòng. Loài mèo LUÔN phải biết được vị trí chính xác của mọi thứ. Thị lực của chúng tôi cũng rất khác so với con người và phần lớn thời gian chúng tôi nhìn sự vật ở không gian hai chiều thay vì ba chiều. Chúng tôi có thể đứng bất động đến mức khiến con người hoang mang; cũng có thể điều chỉnh mắt để phóng đại một vật như cách người ta dùng ống nhòm để làm. Ngoài ra còn có thể thay đổi thị lực để có thể nhìn rõ từ khoảng cách xa, cũng như những thứ ở ngay trước mũi. Màu đỏ nằm ngoài khoảng nhìn được của mèo, đúng ra nó trông như màu bạc. Ánh sáng xanh đối với mèo cũng chỉ giống như nắng mặt trời. Dấu tích dù mờ nhất, côn trùng dù nhỏ nhất, cũng hiển hiện với loài mèo. Con người không hiểu được cặp mắt của mèo, chúng là công cụ tuyệt vời cho phép mèo thấy được cả tia hồng ngoại. Ngoại trừ mắt của tôi, tất nhiên, vì tôi bị mù. Cặp mắt của tôi, theo như người ta nói, trông hoàn toàn bình thường, chúng mang một màu xanh cuốn hút và to sáng, mỗi tội chúng chẳng nhìn thấy gì cả.
No cat should EVER be fussed until it has had full opportunity of investigating the room. Cats must ALWAYS know exactly where everything is. Our sight is very different from that of humans and most times we see in two dimensions instead of three. We can “stop” motion that would bewilder a human; we can alter our eyes so that we can magnify an object in much the same way as a human does when he uses a glass for that purpose. We can alter our sight so that we see clearly at a great distance, or we can see things an inch from our nose. Red is beyond us, it appears silver. Blue light to us is as bright as sunlight. The finest print is clear to us, the smallest insect. Our eyes are not understood by humans, they are wonderful instruments and enable us to see even by infra-red light. Not my eyes, though, for I am blind. My eyes, I am told, appear to be perfect, they are of a forget-me-not blue, and they are wide open, yet they see not at all.
Cả nhà đều ngủ ngon đêm đó, chẳng bị làm phiền bởi tiếng máy bay đáp rồi lại cất cánh tới bờ biển bên kia. Sáng hôm sau Mẹ và Kẹo Bơ ra ngoài mang đồ ăn sáng về. Chúng tôi lười biếng nằm ườn, Cô Ku ngồi bên cửa sổ chiêm ngưỡng váy áo của những người phụ nữ ra vào Sân bay. Thầy thì mặc quần áo chỉnh tề, dẫn chúng tôi ra chơi ở bãi cỏ bên ngoài tòa nhà. Tôi luôn phải đảm bảo rằng mình ở trong tầm với của ông. Tôi sẽ không liều mình đi lạc vào lúc này đâu.
We all slept that night, untroubled by the drone of aircraft landing, taking off again and going far over the ocean. The next morning Ma and Buttercup went out and brought back breakfast for all of us. We lazed about, Miss Ku sat at a window and admired the dresses of women passing to and from the Airport. The Guv dressed and took us to play on the grass outside the building. I was very sure that I stayed well within reach of his hands; I was not taking any risks of getting lost now!
“Feef”, Cô Ku nói, “đây là sân bay mà cậu bay đến từ Pháp phải không?”
“Vâng, Cô Ku”, tôi trả lời, “nhưng tôi vào bằng cổng hành lý và chưa bao giờ có trải nghiệm vui vẻ như bây giờ. Từ chỗ này chúng tôi đã bay đi Dublin, nhưng dĩ nhiên là lúc đó tôi bất tỉnh”.
“Được rồi, Bà Cô Già”, Cô Ku nói, “Tôi sẽ để mắt để đảm bảo cậu ỔN cả. Tôi rất lão luyện trong việc đó”.
“Cảm ơn nhé, Cô Ku”, tôi trả lời, “tôi rất biết ơn sự hướng dẫn của cô”.
“Feef!” said Miss Ku, “This the Airport where you came from France?” “Yes, Miss Ku,” I replied, “but I came in by the baggage entrance, I have had no experience as happy as this before. From here we flew to Dublin Airport, but of course I was unconscious.” “All right, Old Woman Cat,” said Miss Ku, “I will keep my eye on you and see you do the Right Thing. I’m an old hand at this sort of thing.” “Thank you, Miss Ku,” I replied, “I shall be MOST grateful for your guidance.”
Giờ ăn trưa đến, Mẹ gọi chúng tôi vào vì tất cả phải ăn để còn lấy sức. Ăn xong, cả nhà đi nghỉ, cô Ku với Mẹ, Kẹo Bơ một mình, Thầy với tôi. Chúng tôi nghỉ ngơi thật nhiều vì chưa chắc đã ngủ được trên máy bay.
Tôi bị đánh thức khi Thầy vuốt ve và nói: “Feef, thứ mèo già ngái ngủ, con và Ku’ei chạy vòng quanh để lát nữa ăn uống cho ngon nhé”.
“Đi nào, Feef!” Cô Ku gọi, “Chúng ta chưa khám phá hành lang, đang không có ai ngoài đó cả, ĐI THÔI!”
Tôi nhảy khỏi giường, gãi tai một lúc nghĩ xem nên đi đường nào, thì thấy bàn tay của Thầy dẫn đến cánh cửa đang mở. Cô Ku dẫn đường, và chúng tôi thực hiện cuộc khám phá khoa học về hành lang, đồng thời phân tích những người đã đi qua đó.
Cô Ku nói: “Hãy đi ra chỗ Lễ tân, chúng ta có thể khoe khoang ở đó”.
Nhiều người chưa nhìn thấy Mèo Xiêm bao giờ, và tôi phải thừa nhận một cách thiếu khiêm tốn rằng chúng tôi khiến người ta trầm trồ. Tôi cảm thấy được tâng bốc khi mọi người nghĩ rằng tôi là mẹ Cô Ku! Thế là chúng tôi lượn lờ ở Lễ tân mấy vòng rồi trở về phòng ngủ tiếp.
Lunch time came and Ma called us in because we had to have our food and then take a rest. With the meal over, we all lay down, Miss Ku and Ma, Buttercup alone, and the Guv and me. We rested well because we did not know how well we would sleep on the airplane. I was awakened by the Guv stroking me and saying, “Feef, you are a sleepy old thing, you and Ku’ei run round and make an appetite for tea.” “Come on, Feef!” called Miss Ku, “We haven’t explored the corridor, there is no one out there now, COME ON!” I jumped off the bed, scratched my ear for a moment while I thought which way to go, then found the Guv’s hands guiding me to the open door. Miss Ku led the way, and we carried out our scientific investigation of the corridor and analysed the people who had passed that way. “Let’s go into the Reception Clerk,” said Miss Ku, “we can show off.” Many people have not seen Siamese Cats, and I must admit at the risk of appearing immodest that we were a sensation. I was flattered beyond measure when people thought that I was Miss Ku’s mother! We made our rounds of the Reception Office and then returned to our rooms for another sleep.
Đèn khắp Sân bay sáng nhấp nháy khi chúng tôi dậy ăn tối. Bóng tối chập choạng giờ đã đặc quánh lại và chuyển thành đêm. Cả nhà chầm chậm thu dọn đồ, rồi bước ra ngoài màn đêm Ai-len ấm áp, tiến về Sân bay bên kia đường. Vài người đàn ông lấy hành lý của chúng tôi để sẵn cho Hải quan kiểm tra. Thầy luôn dành những lời lẽ tốt đẹp nhất cho Hải quan Ai-len, chưa bao giờ có rắc rối gì với họ. Vấn đề duy nhất mà chúng tôi có với quan chức Ai-len là với mấy tay ở Sở Thuế, sự tham lam của họ đã khiến chúng tôi phải rời đi.
Lights all over the Airport were a twinkle when we rose again and had our supper. The gathering darkness deepened and changed to night. Slowly we gathered up our belongings, went out into the warm Irish night, and made our way across the road to the Airport. Men took our luggage and put them ready for Customs inspection. The Guv always had the kindest words for the Irish Customs men, there was NEVER any trouble with them. Our only trouble with Irish officials was with the Tax men and their greed was driving us from Ireland.
Một nhân viên hãng hàng không Thụy Sĩ lịch thiệp đến chào gia đình và có vài lời với Cô Ku và tôi.
“Công ty chúng tôi muốn mời ông bà ăn tối như khách của chúng tôi”, ông ta nói rất lịch sự.
“Không, cảm ơn”, Thầy trả lời, “chúng tôi đã ăn tối rồi, và chúng tôi sẽ không rời mấy con mèo dù chỉ là một khoảnh khắc”.
Người đàn ông hỏi có thể hỗ trợ gì không, rồi đi, để lại chúng tôi một mình.
Mẹ nói: “Chúng ta có nên cho mèo uống thuốc an thần bây giờ không?”.
“Chưa đâu”, Thầy bảo, “ tôi sẽ không cho Feef uống đâu, nó luôn yên lặng mà. Chúng ta sẽ xem Ku như thế nào khi lên máy bay”.
A very courteous Swissair man came and greeted us and spoke a word to Miss Ku and me. “The Company would like you to have dinner as their guests,” he said politely to The Family. “No, thank you,” replied the Guv, “We have had our dinner, and we would not leave our cats even that long.” The man told us to say if there was anything he could do for us, and then he went away, leaving us alone. Ma said, “Shall we give the cats the tranquilizers?” “Not yet,” said the Guv, “and I am not giving Feef any, she is always quiet. We will see how Ku is when we get aboard.”
Bởi bị mù, tôi cảm thấy khá bất lực khi cố diễn tả những sự việc xảy ra tiếp theo. Sau khi năn nỉ rất nhiều thì Cô Ku, bất chấp vô vàn khó khăn về phía mình, đã đồng ý viết tiếp những trang sau đây….
Being blind, I find that I am under a great handicap when I try to describe the next sequence of events. Miss Ku, after much persuasion and at much inconvenience to herself, has agreed to write the next few pages . . .
Chà, giờ chúng tôi đã ở đó, ngồi như mọi người trong Sảnh chính ở Sân bay Shannon. Đám đông ở đó mất trật tự như một lũ gà mái tơ. Trẻ con la hét tức tối, khiến tôi muốn đinh tai nhức óc vì tiếng ồn. Một vài anh chàng Yankee đang ngồi trong một góc trông như một đống vịt nhồi bông. Họ nghĩ họ là cái gì GHÊ GỚM lắm vì họ có những chiếc túi được dán nhãn đi Paris – quê của Bà cô Mèo. Đồng hồ sân bay có vẻ đã bị gỉ, vì thời gian trôi rất chậm. Cuối cùng, vài anh chàng mặc đồng phục màu xanh lam và màu đồng tiếp cận chúng tôi, nói rằng Chuyến bay của hãng hàng không Thụy Sĩ từ Shannon đến Sân bay Quốc tế New York đã sẵn sàng. Tôi nghĩ điều này thật ngớ ngẩn, bởi vì làm sao chuyến bay đã sẵn sàng khi mà máy bay vẫn còn ở trên mặt đất được chứ. Anh ta toan xách giỏ của tôi, nhưng Thầy và Mẹ từ chối. Thầy xách giỏ của Bà cô Mèo và Mẹ xách cái của tôi. Còn Kẹo Bơ thì- chỉ có Chúa mới biết cô ấy cầm thứ gì, lúc ấy tôi quá bận đến mức không kịp nhìn. Chúng tôi lên đường, giống như một đoàn học sinh đến Nhà thờ vào ngày Chủ nhật, đi ngang hết Sảnh Chính vào bóng tối mà chẳng tối. Lẽ ra là thế, nhưng mọi ánh đèn ở Shannon dường như đều được bật sáng. Trên đường băng có đủ loại đèn màu. Những ngọn đèn khác chiếu như những ngón tay trên bầu trời. Sau đó tôi nhìn về phía trước và thấy chiếc máy bay. Trời ơi! Nó mới to làm sao, to hơn bất cứ thứ gì chúng tôi đã thấy ở sân bay Dublin. Đối với tôi, nó to gần bằng cả làng Howth được kéo trên bánh xe. Chúng tôi đi tới, càng lúc càng gần chiếc máy bay, và dường như nó lại càng lớn hơn. Ở đầu phía trước có một cái thang với hai bên thành để đàn ông trên mặt đất không thể nhìn thấy những gì loài mèo chúng tôi luôn có thể thấy. Ý tôi là phụ nữ ấy.
Well, there we were, sitting like a lot of creeps in the Main Hall at Shannon Airport. Crowds of people were sitting there like broody hens. Children were yelling their bad-tempered heads off and making mine ache with the clamour. Some Yank guys were sitting in a corner looking like a lot of stuffed ducks. They thought they were Big Wheels because they had CD bags labeled for Paris—where the Old Woman Cat came from. The Airport clock was rusty or something, because time went slowly. At last some guy all dressed up in blue and brass came over to us and almost kissed the dust on the ground as he told us that the Swissair Flight from Shannon to New York International Airport was ready. I thought how silly, because how was it a flight when it was still on the ground. He tried to grab my basket, but the Guv and Ma weren’t having any. The Guv hoisted the Old Woman Cat’s basket and Ma grabbed the one I had. Buttercup—goodness only knows what she grabbed, I was too busy to look. Off we went, like a Sunday School party, across the floor of the Main Hall and out into the darkness that wasn’t. It would have been, but every light in Shannon seemed to be shining. Out on the runway there were all kinds of coloured lights. Other lights waved like fingers in the sky. Then I looked forward and saw the plane. My! It was big, bigger than anything we had seen at Dublin Airport. It looked to me almost as big as Howth on wheels. We trailed along, getting closer and closer to that airplane, and it seemed to get bigger and bigger. At the front end there was a ladder thing with sides to it so that men on the ground could not see what we cats can always see. Women, I mean.
Ông Già bế Bà Mèo leo từ từ lên cái thang hay cầu hay bất cứ cái gì người ta gọi nó. Một Người Quản Lý to béo (trời, tôi cá rằng ông ấy ăn rất nhiều!) cúi người thấp đến nỗi ông gần như cắm mặt xuống đất. Một Cô Tiếp viên thậm chí còn to béo hơn, mặc bộ quần áo màu xanh dương cổ trắng cũng chào chúng tôi. Cô ấy không cúi người, vì áo nịt khiến cô không thể làm vậy. Tất cả các nữ Tiếp viên đều mặc áo nịt, tôi biết điều này từ một cuốn sách Thầy viết cách đây ít lâu. Dù sao, họ cũng để chúng tôi yên vị trong khoang Hạng Nhất, rồi mới đón các hành khách phổ thông lên máy bay. Họ gây ồn ào kinh khủng.
The Old Man carrying the Old Woman Cat climbed slowly up that ladder or stairway or whatever they call it. A well fed Purser (my! I bet he ate well!) bowed so low he almost creaked. An even better fed Stewardess dressed in navy blue and with a white collar greeted us. She did not bow, her girdle prevented her. All Stewardesses and Hostesses wear girdles, I know that from a book the Guv wrote some time ago. Anyhow they got us all in the First Class compartment, and then went to get the bread-and-butter passengers aboard. They were quartered where the noise came from.
Một cái đèn bật sáng, bảo rằng chúng tôi không được hút thuốc (đã ai từng nghe nói đến việc mèo hút thuốc bao giờ chưa?) và phải thắt dây an toàn. Chúng tôi làm theo. Thầy giữ chặt chiếc giỏ của ông như thể nó là thứ gì quý giá lắm. Mẹ cũng ôm lấy cái giỏ của tôi, bởi vì tôi chắc chắn là quý giá rồi. Một cánh cửa lớn bằng kim loại đóng sầm lại và cả máy bay rung chuyển như thể nó sắp rơi ra thành từng mảnh. Tuy nhiên, nó đã không vỡ mà từ từ di chuyển qua rất nhiều đèn chiếu. Đám người phía bên ngoài vẫy tay chào. Chúng tôi thấy miệng họ mở ra khi họ kêu lớn. Họ trông giống như những con cá mà chúng tôi đã nuôi trong bể ngày trước. Máy bay tiếp tục tiến lên thì có một tiếng động kinh khủng, làm tôi tưởng nó đã lái gần đến Mỹ, toàn bộ mọi thứ quay ngoắt, gần như đè nặng lên tai, và tiếng ồn tăng lên. Tôi hét lớn yêu cầu Phi công dừng nó lại, nhưng anh ta không thể nghe thấy gì vì tiếng ồn mà chính anh ta đang tạo ra. Có một cảm giác đột ngột tăng tốc dữ dội, đột ngột đến mức nó gần như trộn bữa trưa với bữa tối của tôi lại với nhau, và sau đó thì chúng tôi ở trên không. Viên Phi công chắc hẳn còn thiếu kinh nghiệm, vì anh ta phải quay đầu máy bay rồi lượn một vòng quanh Sân bay để biết chắc chắn rằng đã cất cánh. Tôi nhìn thấy nhiều ánh sáng bên dưới, hàng trăm ngọn, rồi thấy rất nhiều nước lấp lánh dưới ánh trăng.
“Ê!” Tôi hét lên với anh ta, “Dưới đó là nước đấy, chúng ta sẽ chết đuối nếu rơi xuống!”.
Anh ta chắc đã nghe thấy tôi vì rồi anh ta quay máy bay lại và hướng về nước Mỹ.
A light thing came on to say we must not smoke (who ever heard of a cat smoking, anyhow?) and must fasten our safety belts. We did. The Guv held on to his basket as if it were precious. Ma held on to mine knowing that I was. A whacking great metal door slammed and the whole plane shook as if it would fall to pieces. However it did not, but slowly moved along past a lot of lights. Crowds of people outside waved. We saw their mouths open as they yelled. They looked just like fish we had had in a tank some time before. We rumbled on, making a horrid noise, then when I thought we had driven nearly to America the whole thing swiveled around, almost pitching me on my ear, and the noise increased. I yelled for the Pilot to stop it, but he could not hear me for all the noise he was making. There was a sudden sensation of violent speed, so suddenly that it almost mixed my lunch with my dinner, and then we were in the air. The Pilot must have been inexperienced, because he turned the plane on its side and circled the Airport to make sure that he really had left. I saw lights below me, hundreds of the things, then I saw a lot of water glinting in the moonlight. “Hey!” I shouted to him, “that’s water down there, we shall drown if we fall in!” He must have heard me because he put the plane the right way up and pointed the thing at America.
Chúng tôi bay mỗi lúc một cao, xuyên qua những tầng mây rải rác nhuốm màu bạc của ánh trăng, và cao nữa cao nữa. Chúng tôi tăng tốc trên không, tôi bất giác nhìn ra cửa sổ và thấy tia lửa bắn ra từ bên dưới cánh máy bay.
“Trời đất!”, tôi tự nhủ, “không chết chìm thì sẽ chết cháy mất thôi!”.
Tôi bèn cuống quít gọi Thầy và Thầy bảo rằng mọi thứ đều ô kê (tức là “ổn cả” trong tiếng Mỹ) vậy nên đừng lo lắng. Nhìn quanh thêm một lúc, tôi tự cảm thấy các ống trong động cơ đều nóng. Người Phi Công hẳn đã đọc được ý nghĩ ấy của tôi, bởi ông ấy nói xuống từ trên trần, bảo rằng hành khách chớ lo lắng, khi máy bay tăng độ cao thường có tia lửa như vậy.
We climbed higher and higher, up through scattered clouds which were painted silver by the moonlight, up and higher yet. We went faster and faster and higher and higher and I looked out of the window and saw flames shooting behind the wings. “Golly!” I said to myself, “now they have failed to drown us they are going to fry us!” I called to the Guv and he told me it was okay (that’s American for all right) and I should not worry. I looked some more and saw some pipes in the engine were white hot. I felt that way myself. The Pilot must have got my thoughts because he spoke from the ceiling and in his spiel said not to worry any, we always went up in flames while gaining height.
Cô tiếp viên to béo đến chỗ chúng tôi, tôi không nghe được cô ấy nói gì vì mất tập trung bởi tiếng răng rắc mỗi khi cô cúi xuống.
“Quần áo của cô ta sẽ bung ra mất thôi”, tôi nghĩ.
Vài gã yankee ngớ ngẩn cũng đang ngồi ở khoang Hạng Nhất. Ngoài mấy gã mập này ra, thì không còn ai khác. Chúng tôi bay lên cao khoảng ba mươi nghìn feet, tôi đoán là gần đến Thiên Đường rồi, thì máy bay ổn định độ cao và lướt dọc theo các vì sao.
The fat Stewardess came over, I missed what she said because I was so alarmed at the creaks when she bent. “Her clothes will never stand it,” I thought. Couple of silly Yanks lounged about in the First. Apart from them, what fat hunks they were, we were on our own. We got up to about thirty thousand feet or so, near Heaven I guess, and then the plane leveled out and we went sailing along by the stars.
“Tôi sẽ cho Ku một viên thuốc”, Mẹ nói, vừa nhét một thứ chất kỳ lạ vào miệng tôi trước khi tôi hay Ông Già kịp phản đối. Tôi chớp mắt và nuốt. Trong thoáng chốc không có gì xảy ra, một cách từ từ tôi cảm thấy có một cơn mê nhẹ chiếm lấy cơ thể. Tự dưng lại muốn hát mà không thể cưỡng lại được. Trời ơi! Tôi cảm thấy thật thăng hoa! Mấy Người Già càng lúc càng nổi điên trong khi tôi càng lúc càng thấy vui hơn.
“I’m going to give Ku a tablet,” said Ma, slipping a noxious substance between my lips before I or the Old Man could object. I blinked and swallowed. For moments nothing happened, then I felt a delicious light-headedness stealing over me. The urge to sing was irresistible. Man! I sure was high! The Old Folks got madder and madder as I got happier and happier.
Lưu ý đặc biệt cho các fan hâm mộ mèo; sau này Ông Già được cho biết từ Sở thú Detroit rằng mèo không trở nên bình tĩnh hơn nhờ thuốc an thần. Mà trở nên SAY XỈN! Nhân viên Sở thú Detroit chia sẻ rằng ông đã từng có cùng trải nghiệm như Thầy khi một con mèo trở nên say xỉn. Chà, dù sao thì cũng thật vui. Giờ thì tôi đã hoàn thành phần của mình và sẽ nhường lại câu chuyện cho Bà Cô Già, suy cho cùng thì cậu ấy đã khởi đầu nó và nó là đứa con tinh thần của cậu ấy.
Special note for cat fans; the Old Man made enquiries at Detroit Zoo later and found that cats are not tranquilised by tranquilizers. IT JUST MAKES US DRUNK! Fellow at the Detroit Zoo said he had had the same experience as the Guv with a drunken cat. Well, it was fun while it lasted. Now I guess I have done my share and will pass the task back to the Old Woman Cat, after all she started it and it is her pigeon.
Chiếc máy bay vẫn vi vu hàng trăm dặm mỗi giờ. Đèn mờ đi, và cuối cùng được thay thế bằng ánh sáng xanh nhạt. Cô Ku nằm trong giỏ, cười một mình. Cô ấy cười khúc khích từng chặp một. Cuối cùng không thể chịu được nữa, sự tò mò của tôi đã lấn át mọi phép tắc.
“Cô Ku”, tôi nói nhẹ nhàng để không làm phiền ai, “Cô Ku, cô đang cười gì vậy?”.
“Hở? Tôi đang cười á? À đúng rồi, HA! HA! HA!”.
Tôi tủm tỉm với chính mình, Cô Ku thực sự đang “bay” như người ta nói. Trước đây tôi đã có lần chứng kiến một con mèo trong trạng thái đó, một anh mèo đực hay mon men vào hầm rượu để liếm láp những giọt rượu rỉ ra. Bây giờ cô Ku cũng giống vậy.
“Feef!”, cô ấy cười khúc khích, “chuyện này thật quá vui để giữ cho riêng mình, Feef, cậu có đang nghe không đấy? Feef!”.
“Vâng, cô Ku”, tôi trả lời, “tôi đang nghe mà, tôi sẽ rất vui được nghe câu chuyện của cô”.
“Chà”, cô ấy bắt đầu, “chuyện xảy ra ngay trước khi cậu đến Howth. Cậu biết đấy, Thầy là một nhà sư Phật giáo, một vị Lạt ma. Một ngày nọ, ông ấy đang ngồi trên tảng đá bên cạnh mép nước, thì một Cha xứ trẻ đang đi dạo cùng với cả hội của họ, đến ngồi xuống bên cạnh Thầy.
“Con trai ta”, người tu sĩ nói (trong khi Thầy đáng tuổi ông nội anh ta!).
“Con trai ta, con đã không đi lễ hôm nay”.
“Không, thưa Cha”, Thầy lịch sự trả lời, “tôi đã không đi”.
“Hãy đi dự Lễ, con trai”, cha xứ trẻ nói” hứa với ta rằng con sẽ đi hôm nay!”. “Không, thưa Cha”, Thầy trả lời, “tôi không thể hứa điều ấy”.
“Vậy con không phải là một giáo dân tốt”, ông cha xứ trẻ giận dữ vặn lại. “Không, thưa Cha”, Thầy ôn tồn đáp, “Tôi là một nhà sư Phật giáo, đúng hơn là một Hòa thượng”.
Cô Ku ngừng lại một lúc rồi phá lên cười.
“Feef!”, cuối cùng cô nói, “Feef, cậu nên nhìn mặt tên cha xứ trẻ đó, anh ta thất thần như thể bị quỷ rượt vậy!”.
Mãi rồi cô Ku cũng cảm thấy mệt vì nói và cười quá nhiều nên thiếp đi. Tôi quay vào giỏ của mình, Thầy đưa tay xoa cằm tôi. Với một tiếng gừ gừ, tôi chìm vào giấc ngủ.
The plane droned on covering hundreds of miles each hour. The lights had been dimmed, and then finally replaced by a faint blue light. Miss Ku lay in her basket, laughing softly to herself. Chuckle after chuckle escaped her. At last I could bear it no longer, curiosity overcame manners. “Miss Ku,” I said softly, so as not to disturb anyone, “Miss Ku, what are you laughing about?” “Eh? Me laughin’? Oh yeah, HA! HA! HA!” I smiled to myself, Miss Ku really was “lit up” as the humans say. I had only once before seen a cat in that state, and that had been a Tom who made a practice of going into a wine cellar and drinking up the wine droppings. Now Miss Ku was like it. “Feef!” she giggled, “It’s too good to keep to myself, Feef, are you listening? FEEF!” “Yes, Miss Ku,” I responded, “certainly I am listening, I shall be delighted to hear your tale.” “Well,” she started, “it happened just before you came to Howth. The Guv is a Buddhist Priest, or Lama, you know. He was sitting on a rock by the side of the water one day, and a young Catholic monk who was on holiday with a whole party of them sat down by the Guv. ‘My son’ said the monk (the Guv was old enough to be his grandfather!) ‘My son, you have not been to Mass today.’ ‘No Father’ said the Guv politely, ‘I have not.’ ‘You must go to Mass, my son,’ said the young monk, ‘promise me that you will go today!’ ‘No, Father,’ replied the Guv, ‘I cannot promise you that.’ ‘Then you are not a good Christian, my son,’ angrily retorted the young monk. ‘No, Father,’ answered the Guv mildly, ‘I am a Buddhist Priest, an Abbot actually!’ ” Miss Ku stopped for a moment and then broke into peals of laughter. “Feef!” she said at last, “Feef, you should have seen that young monk, he ran off as if the devil was after him!” At last even Miss Ku became tired of talking and laughing and fell asleep. I turned in my basket, and the Guv put his hand in and rubbed my chin. With a purr I dropped off to sleep.
Thầy bị ốm khi tôi tỉnh giấc, người Quản lý đang cúi xuống cho ông uống thuốc. Thầy đã già và đã trải qua nhiều khó khăn cũng như bệnh tật, trên máy bay ông bị đau tim, và tôi thực sự không nghĩ ông có thể sống sót qua cuộc hành trình này.
Tuy nhiên, trước khi đi ông đã với tôi rằng: “Nếu con có thể chịu được, Feef, thì ta cũng có thể! Đây là một thách thức cho con đấy!”.
Tôi có một tình cảm đặc biệt với Thầy, rất đặc biệt, bởi vì ông ấy và tôi có thể trò chuyện dễ dàng như tôi và Cô Ku vậy.
The Guv was ill when I awoke, the Purser was bending over him giving him some drug. The Guv is old and has had many trials and ills, on the plane he had a heart attack and I did not really expect him to survive the journey. However he said to me before we started out, “If you can stand it, Feef, I can! That is a challenge to you!” I had a special feeling for the Guv, a very special feeling, because he and I can talk together as easily as Miss Ku and I can.
“Quỷ thần ơi!”, Cô Ku nói với giọng ảm đạm, “Tôi chắc chắn đã say mèm! Giá mà Tôi có thể cho ông Bác sĩ thú y già uống thuốc an thần để ông ta tự nếm mùi nhỉ. Mấy người Bác sĩ thú y thì biết gì về loài mèo chứ?”.
“Bây giờ là mấy giờ rồi Cô Ku?”, tôi hỏi. “Giờ à? Tôi chẳng biết nữa, Tôi mất hết khái niệm về thời gian rồi. Dù sao thì, đèn xanh đã tắt và người ta đã bật hết đèn sáng lên. Chắc gần đến giờ ăn của họ rồi”.
Tôi bắt đầu nghe tiếng chén đĩa loảng xoảng, và những âm thanh nhỏ mà con người thường làm khi họ thức dậy. Tôi đã quen với việc bị mù, nhưng vẫn thấy THẬT bực bội khi không biết chuyện gì đang xảy ra. Bàn tay của Thầy vuốt ve tôi.
“Mèo Già Ngốc Nghếch”, ông bảo, “còn lo lắng điều gì nữa? Dậy đi, tới giờ ăn sáng rồi, chúng ta sẽ hạ cánh sớm thôi”.
“HO-LY!” said Miss Ku in gloomy tones, “I sure have got a hangover! I’d like to give Old Vet-Face some of his tranquilizers so that he could know what they are like. What do human vets know about cats, anyhow?” “What time is it please, Miss Ku?” I asked. “Time? Eh? Oh! I don’t know, I’m all mixed up with the time. Anyhow, the blue light is off and the full lights are on. Soon be chow time for Them.” I became aware of the clattering of dishes, and the small sounds that people make when they are waking up. I had become almost used to blindness, but it WAS frustrating not to know what was going on, not to be able to see what was happening. The Guv’s hand came down to caress me. “Silly Old Woman Cat,” he said, “What are you worrying about now? Wake up, it is breakfast time, and we shall very soon be landing.”
Một giọng nói từ trên trần vang lên chói tai. “Xin quý khách vui lòng thắt dây an toàn, máy bay đang hạ cánh xuống Sân bay Quốc tế New York”.
Tôi nghe tiếng kim loại lạch cạch, rồi Thầy ôm chặt giỏ của tôi. Mũi máy bay chúc xuống và tiếng động cơ thay đổi. Có cảm giác trôi lơ lửng, sau đó động cơ hoạt động hết công suất. Một cú chạm đất và một tiếng rít của lốp xe. Một cú sóc nhỏ khác, và máy bay chậm chạp đi dọc theo đường băng.
Tiếp viên nói: “Xin quý khách vui lòng ngồi yên tại chỗ. Hãy đợi cho đến khi máy bay dừng hẳn”.
Máy bay từ từ di chuyển, thỉnh thoảng có tiếng phanh khi Phi công rẽ và kiểm tra tốc độ. Một cú lê cuối cùng và chúng tôi dừng hẳn. Động cơ chậm lại rồi tắt.
Trong giây lát chỉ có tiếng thở, bỗng bên ngoài vang lên một tiếng CẠCH lớn, tiếp theo là tiếng kim loại va vào nhau. Một cánh cửa mở ra và luồng không khí lạnh tràn vào.
“Tạm biệt”, Người quản lý và cô tiếp viên nói, “Chúng tôi hy vọng được gặp lại quý khách trong những chuyến bay tới!”.
A voice in the ceiling burst into crackling life. “Fasten your seat belts, please, we are landing at New York International Airport.” I heard the clink of metal, then the Guv took firm hold of my basket. The nose of the plane dropped and the engine note changed. There was a sensation of drifting, floating, then the engines came on at full power. A bump and a screech of tires. Another small bump, and the plane rumbled along the runway. “Keep your seats, please,” said the Stewardess, “Wait until the aircraft comes to a standstill.” We rumbled along, with the occasional squeal of brakes as the Pilot steered and checked our speed. A final drag and we slid to a standstill. The engines slowed and stopped. For a moment there was only the sound of people breathing, then a loud BUMP came from outside, followed by the scraping of metal upon metal. A door clanged open and a rush of freezing air came in. “Goodbye,” said the Purser, “fly with us again!” “Goodbye,” said the Stewardess, “we hope to have you with us again!”
Chúng tôi đi bộ xuống thang, Thầy xách tôi, Mẹ xách Cô Ku còn Kẹo Bơ thì đi đằng sau. Trời lạnh căm căm khiến tôi không thể hiểu được.
“Brrr!” Cô Ku bực bội nói, “Hết trận say, giờ lại là trận tuyết này!”.
Gia đình vội vã đi nhanh để không phải ở ngoài trời lạnh lâu hơn cần thiết. Ngay sau đó chúng tôi bước vào một hội trường lớn. Cô Ku, người am hiểu mọi thứ, nói rằng đây là Sảnh Nhập cảnh và Hải quan, cũng là tòa nhà lớn nhất trên thế giới dành cho việc này. Thầy xuất trình tất cả các giấy tờ và chúng tôi được Nhập cảnh, đến Hải quan.
“Ông bà có gì phải khai báo không?” một giọng đàn ông hỏi.
“Thưa, không có gì để khai báo”, Thầy trả lời, “chúng tôi đang quá cảnh đến Canada”.
“Chúng là gì vậy, mèo à?”. Ông cán bộ Hải quan hỏi.
“À!” Một nữ cán bộ trả lời với một tiếng trầm trồ, “Tôi đã từng nhìn thấy giống mèo này trước đây. ĐẸP QUÁ !!”.
Chúng tôi được thông qua, dựa vào mùi, tôi biết một người đàn ông da màu đang mang các va-li của cả nhà, nhưng Thầy và Mẹ vẫn tự xách tôi và cô Ku. Ở sảnh chính, Thầy phải ngồi nghỉ vì đuối sức, còn Mẹ đi gặp những người của hãng hàng không Mỹ, những người sẽ đưa chúng tôi bay đến Detroit. Bà đã đi rất lâu. Khi quay lại, bà sôi sục bực tức.
“Họ phá vỡ hợp đồng!” bà nói, “Họ sẽ không cho tụi mèo ở trong khoang hành khách, nói rằng chúng phải được để trong khoang hành lý, đó là quy tắc và quy định. Họ nói rằng lỗi là do mấy người ở Shannon”.
Tôi chợt cảm nhận rõ tuổi tác của mình, cảm thấy mình già nua. Tôi không nghĩ mình có thể sống sót trong khoang hành lý được nữa, khi đã có quá đủ trải nghiệm ở đó rồi,và ai có thể tưởng tượng được cô Ku sẽ chịu đựng điều đó chứ.
Thầy nói: “Nếu mấy con mèo không thể đi – chúng ta cũng sẽ không đi! Hãy quay lại và nói với bọn họ rằng chúng ta sẽ làm lớn chuyện, sẽ đòi lại tiền vì họ đã đồng ý cho lũ mèo đi cùng nếu chúng ta trả tiền trước ”.
Mẹ lại đi, và một lần nữa tất cả chúng tôi ngồi đợi. Cuối cùng, bà quay lại và nói:
“Tôi đã nói với họ rằng ông bị ốm, họ đang đưa chúng ta đến La Guardia bằng xe đặc biệt. Họ đề nghị chúng ta ở lại Nhà nghỉ lớn ở đó và chờ xem liệu Hãng hàng không có đổi ý”.
We went down the landing ramp with the Guv carrying me, Ma carrying Miss Ku and Buttercup bringing up the rear. It was bitterly cold and I could not understand it. “Brrr!” said Miss Ku disgustedly, “A ***** hangover and now ***** snow!” The Family hurried along so that we should not be out in the cold a moment longer than necessary. Soon we entered a huge hall. Miss Ku, who knew everything, said that it was the Immigration and Customs Hall and was the largest building of its type in the world. The Guv produced all our papers and we all passed through Immigration and went on to Customs. “Wafyergot?” asked a man’s voice. “Nothing to declare,” said the Guv, “we are in transit to Canada.” “What’s them, cats?” asked the Customs man. “Ahhh!” said a Customs woman, with a drooly sigh, “I’ve seen ’em before. BE-U-TIFUL!!” We passed on, by the difference in smell I knew that a coloured man was carrying our cases, but the Guv and Ma still held on to me and Miss Ku. In the Main Entrance Hall the Guv sat down, because he was so ill, and Ma went off to see the American airline people who were going to fly us to Detroit. She was gone a very long time. When she came back she was seething with annoyance. “They have broken their contract!” she said, “They won’t have the cats in the passenger compartment, they say they must be put in the luggage hold, it is something to do with their rules and regulations. They said that a mistake was made by the Shannon people.” I suddenly felt my age, felt very old. I did not feel ABLE to survive in the luggage compartment; I had had too much of that, and I was shocked that ANYONE would expect Miss Ku to endure it. The Guv said, “If the cats can’t go—we won’t either! Go back and tell them we will make the biggest fuss ever, and shall claim our money back as they agreed to take the cats with us if we paid in advance.” Ma went off again, and again we all settled down to wait. Eventually Ma returned and said, “I have told them you are ill, they are having us sent to La Guardia by special car. They suggest we stay at the big Motel there and then see if the Airline will change their mind.”
Chẳng bao lâu chúng tôi đã ở trong một chiếc xe hơi to, một chiếc Cadillac hoành tráng có cả máy lạnh.
“Trời!”, Kẹo bơ thốt lên khi chúng tôi nhập vào dòng giao thông đông đúc trên xa lộ New York, “tôi sẽ chẳng thích lái xe ở đây!”.
“Sẽ không sao nếu cô đi đúng làn đường của mình”, người Lái xe bảo.
Hai mươi phút sau chúng tôi đến một Nhà nghỉ mà Cô Ku bảo tôi là Nhà nghỉ lớn nhất cô từng thấy. Chúng tôi đi vào cả.
“Ở đây có cho mèo Xiêm vào không?”, Thầy hỏi.
“Ồ, chúng dĩ nhiên là được chào đón ở đây!”, người đàn ông đứng sau quầy Lễ tân trả lời trong khi quan sát chúng tôi thật kỹ.
“Chúng RẤT được chào đón”, ông nhắc lại, vừa sắp xếp phòng cho chúng tôi.
Quãng đường từ hành lang đến phòng dường như dài cả dặm.
“Nhà vệ sinh nữ, nhanh lên!”, cô Ku cuống quít. Tôi thấy biết ơn vì sự lên tiếng của cô. Những cái hộp cần thiết được bày ra nhanh chóng, kịp thời đóng góp vào sự dễ chịu và bình yên cho chúng tôi.
Soon we were in a huge car, an immense Cadillac which even had air conditioning. “My!” said Buttercup, as we threaded our way through the intense New York Freeway traffic, “I should not like to drive here!” “Its all right if you keep in your own lane, Ma’am,” said the Driver. Twenty minutes later we drew up at what Miss Ku told me was the biggest Motel she had ever seen. We all went in. “Do you object to having Siamese Cats here?” asked the Guv. “Sure they are welcome!” said the man at the Reception Desk taking a good look at us. “Sure they are VERY welcome,” he repeated, allotting us rooms. We seemed to be carried MILES along corridors before we reached our rooms. “Ladies Room QUICK!” yelled Miss Ku. I was grateful for her remark! The necessary facilities were speedily produced, and did much to contribute to our comfort and peace of mind.
“Đồ ăn đây”, Mẹ nói.
“Cho lũ mèo trước đi”, Thầy đáp.
Thời khóa hằng ngày của chúng tôi đã bị ảnh hưởng rất nhiều, nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Chúng tôi lang thang xem hết cả ba căn phòng mà gia đình đã nhận, cũng như khám phá khu hành lang một cách rất cẩn trọng.
“Tôi nhìn thấy Sân bay”, Cô Ku nói, “kia hẳn là La Guardia”.
Mẹ đứng dậy, “Thôi!”, bà nói, “tôi sẽ đi gặp Hãng hàng không xem có thể làm gì”.
Cánh cửa đóng lại sau lưng bà, còn tôi và Cô Ku ngồi yên để trông nom Thầy. Chuyến hành trình này thật quá sức với ông, nó khiến ông phải nằm bẹp trên giường.
Kẹo Bơ bước vào phòng, “Làm sao chúng ta đến được Windsor nếu Hãng hàng không không chịu chở?”, cô hỏi.
“Tôi không biết nữa, có thể đi tàu chăng”, Thầy đáp.
“Chúng ta có thể thuê nguyên một khoang để lũ mèo được ngồi cùng”, ông nói thêm.
Tôi đang ngủ chập chờn thì đúng lúc Mẹ quay lại.
“Họ sẽ không chở chúng ta trừ khi lũ mèo ở trong khoang hành lý”, bà nói.
“Không được!”, Thầy dứt khoát “chúng ta sẽ tìm cách khác”.
Một khoảng im lặng dài. Cô Ku và tôi ngồi cạnh nhau, cả hai đều chết khiếp khi nghĩ đến việc phải ở trong khoang hành lý; nhưng suy cho cùng, chúng tôi cũng không thể ở lại Nhà nghỉ này lâu được vì giá cả đắt đỏ.
“Chúng ta chỉ có thể thuê máy bay taxi thôi”, Mẹ nói.
“À”, thầy trả lời, “chúng ta sẽ lấy lại tiền cho vé từ La Guardia đến Detroit vì Hãng hàng không phá hợp đồng. Việc này sẽ giúp giảm chi phí. Họ có nói nếu bay từ đây đi Canada thì sẽ tốn bao nhiêu không?”.
Mẹ nói ra số tiền họ ước tính và Thầy suýt nữa ngã ngửa vì sốc. Cô Ku và tôi cũng vậy.
Cuối cùng ông nói: “Hãy đặt máy bay cho sáng mai đi, nhưng nó phải đủ rộng để chở lũ mèo cùng với chúng ta đấy”.
Mẹ gật đầu đồng ý rồi trở ra.
“Food,” said Ma. “See to the cats first,” replied the Guv. Our routine had been very upset, but we felt that we could take it. We wandered around, looking in the three rooms we had taken, and very cautiously investigating the corridor. “I can see the Airport,” said Miss Ku, “that must be La Guardia.” Ma stood up, “Well!” she said, “I will go across to the Airline and see what can be done.” The door closed behind her and Miss Ku and I settled down to keep watch on the Guv. The journey had proved too much for his heart and he was flat upon a bed. Buttercup came in, “How will we get to Windsor if the Airline will not take us?” she asked. “Don’t know, maybe by train,” said the Guv, “we could have a Sitting Room on a train and the cats would be with us,” he added. I was dozing when Ma came back. “They won’t take us unless the cats go in the luggage hold,” she said. “NO!” replied the Guv, “we will find some other way.” For a long time there was silence. Miss Ku and I sitting together, both dreading that we should have to go in the luggage compartment; after all, we could not stay at the Motel long, the prices were fantastic. “They could only suggest an air taxi,” said Ma. “Well,” replied the Guv, “we shall get our fares refunded from La Guardia to Detroit as the Airline broke its contract. That will reduce the cost. Did they say what it would cost to fly all of us from here to Canada?” Ma told him what they estimated it would cost and he almost collapsed with the shock. So did Miss Ku and I. Then he said, “Book the plane for tomorrow morning, but it must be big enough to have the cats in with us.” Ma nodded her agreement and went out once more.
Cô Ku và tôi tập thể dục bằng cách rượt đuổi quanh các phòng. Bởi đây là những căn phòng lạ nên Cô Ku phải nói cho tôi biết vị trí của các món đồ, trong khi chạy đằng trước. Tôi bám sát, chơi đùa và đồng thời cũng giải khuây cho Thầy, ông ấy thích được xem chúng tôi đuổi bắt và nhảy nhót. Khi đã thấm mệt, Cô Ku dẫn tôi đến bên cửa sổ và kể về những tòa tháp của Manhattan nơi mà Thầy đã từng sống và làm việc cách đây vài năm.
Miss Ku and I exercised by racing round the rooms. As they were strange rooms Miss Ku told me where everything was and ran ahead of me, I followed her closely and we managed to have real fun and entertain the Guv at the same time, he loved to see us play and leap into the air. When we were tired Miss Ku led me to a window and told me about the tall towers of Manhattan among which the Guv had lived and worked some years before.
Mẹ quay lại, nói rằng mọi thứ đã ổn thỏa, giờ này ngày mai chúng tôi sẽ có mặt ở Windsor Canada. Thế là chúng tôi ngồi uống trà, nghĩ ngợi về vùng đất mới mà mình sắp sửa đến. Màn đêm buông sớm. Cả nhà đi ngủ để nghỉ ngơi được nhiều nhất có thể; chuyến đi từ Howth thậm chí còn mệt mỏi hơn dự tính. Chỗ này là một Nhà nghỉ khá thoải mái, nhưng đắt đỏ vì nó ở gần Sân bay và New York, tuy nhiên Thầy sẽ không thể chịu đựng được cuộc hành trình mà không được nghỉ ngơi. Vào buổi sáng, chúng tôi ăn sáng và chào tạm biệt người đàn ông ở Quầy lễ tân, anh ấy rất thích cô Ku và tôi, điều này khiến cô Ku có cảm tình với anh ta. Vì Thầy bị ốm, và hành lý của chúng tôi khá nhiều, Nhà nghỉ cho một cái xe đưa chúng tôi qua đường, đến văn phòng của công ty Taxi hàng không. Một người đàn ông da màu rất dễ thương đã chở chúng tôi, anh ấy đảm bảo chúng tôi đến đúng văn phòng và đến gần nhất có thể.
“Tôi sẽ đợi ở đây, thưa Ngài”, anh nói với Thầy, “cho đến khi tôi thấy tất cả các vị đều đã ổn định”.
Ma came back and told us that everything was fixed, and that we should be in Windsor, Canada, tomorrow at this time. Then we settled down to our tea, after which we sat and thought about the new land to which we were going. Darkness came early and we all went to our beds to get as much rest as possible; the trip from Howth had been even more tiring than we had anticipated. It was quite a pleasant Motel, but very expensive, being so close to the Airport and New York, but the Guv would never have been able to stand the journey without a rest. In the morning we had our breakfast and said goodbye to the man at the Reception Desk, he quite liked Miss Ku and me which Miss Ku said showed good sense on his part. Because the Guv was ill, and because of our luggage, we had a car provided by the Motel take us across the road and along to the office of the Air Taxi company. A very pleasant coloured man drove us and went to considerable trouble making sure we reached the right office and got as close to it as we possibly could. “Ah’ll wait heah, Suh,” he said to the Guv, “until Ah sees you all is fixed up.”
Cả nhà đi vào Văn phòng. Thoạt tiên chẳng ai ở đây biết về chúng tôi cả. Mãi sau, như thể có một bóng đèn lóe sáng trên đầu, một người đàn ông nhấc điện thoại.
“Chắc chắn! chắc chắn rồi!”, ông ta nói, “Phi công đang đến ngay bây giờ. Xin vui lòng đợi ở đây”.
Chúng tôi đợi một lúc, rồi thêm một lúc nữa. Cuối cùng, một người đàn ông chạy vội vào Văn phòng và nói: “Ông bà đi Canada đúng không?”
Chúng tôi trả lời đúng, Cô Ku và tôi cao giọng để nhấn mạnh.
“Ô kê”, người Phi công bảo, “chúng tôi sẽ xếp hành lý của các vị lên máy bay, còn lũ mèo thì sao?”
“CHÚNG SẼ NGỒI TRONG MÁY BAY CÙNG CHÚNG TÔI!” Thầy quả quyết đáp.
”Được thôi, hai quý bà phải ngồi hàng ghế sau và giữ mỗi giỏ trên đùi nhé”. Nói rồi ông ta dẫn đường đến máy bay.
“Trời đất!”, Cô Ku kêu lên với giọng kinh ngạc, “thứ này chẳng khác gì một món đồ chơi cả! Hai động cơ, ba chỗ ngồi cộng ghế Phi công, bốn chỗ tất cả. Ba bánh xe dưới gầm. Quỷ thần ơi!” cô kêu lên với giọng hoảng hốt.
“Tôi không hiểu làm sao Thầy có thể đặt vừa mông vào cái ghế nhỏ như vậy được. Làm sao chứ”, cô la lên hốt hoảng, “viên Phi công thậm chí còn phải cạo đầu để tiết kiệm diện tích nữa đấy”.
We went into the Office and at first no one seemed to know anything about us. Then a dim light appeared to glow in one man’s mind and he reached for a telephone. “Sure! Sure!” he said, “the Pilot is coming over here now. Just wait there.” We waited and then waited some more. Eventually a man swung impatiently into the Office and said, “You the folks going to Canada?” We said we were, Miss Ku and I adding our voices to give emphasis. “O-kay!” he said, “we will get your luggage aboard, what about them cats?” “THEY GO IN THE PLANE WITH US!” said the Guv very firmly. “O-kay,” said the Pilot, “the two dames must sit in back with a basket on their knees.” He led the way to the plane. “Ho-ly!!” exclaimed Miss Ku in an awed voice, “It is nothing but a ***** toy! Two engines, three seater plus pilot, four in all. Three wheel undercarriage. HO-LY!” she exclaimed with even more fervour. “I don’t know how we are going to get the Guv’s behind in that small front seat. Why,” she roared, “even the pilot has had his head shaved in order to make more room!”
Mẹ và Kẹo Bơ đi lên chiếc máy bay mà theo như cô Ku nói thì chỗ ngồi bên trong chỉ như một chiếc ô tô nhỏ, chỗ ngồi ở hàng ghế sau vừa vặn hai người cỡ trung bình. Mẹ thì khá tròn trịa, còn Kẹo Bơ thì mảnh mai, bởi vậy hai người họ gộp lại cũng thành hai người trung bình. Tôi cảm nhận toàn bộ máy bay lắc lư khi Thầy bước lên. Ông ấy nặng khoảng một trăm linh hai cân (có thể đã giảm mất gần một cân trong chuyến đi) và thế là máy bay hơi nghiêng một chút. Phi công chắc hẳn là người nhỏ con nhất trong đội, bởi vì trọng lượng của anh ta dường như không ảnh hưởng gì. Anh ta khởi động lần lượt các động cơ, để chúng nóng lên, sau đó thả phanh, và di chuyển từ từ. Chúng tôi di chuyển vài dặm trên mặt đất, đến đầu kia của sân bay. Cô Ku đã bình luận cho tôi suốt quãng đường.
“Ôi chao!” cô ấy kêu lên, “có vẻ như tất cả các máy bay ở Mỹ đều cất cánh từ đây; phải ít nhất mỗi phút một chiếc”.
Đột nhiên viên Phi công thốt ra một từ RẤT bậy, rồi đột ngột xoay máy bay sang ngang, ra khỏi đường băng chính.
“Chúng ta bị xịt lốp”, anh ta gầm gừ, “Phi công của chiếc máy bay kia vừa điện đàm cho tôi”.
Sau lưng chúng tôi là tiếng còi đinh tai nhức óc và tiếng gầm rú của động cơ. Cả một đoàn xe ô tô lao khỏi đường băng và bao vây chúng tôi.
“Ôi chao!” Cô Ku hét lên trên tiếng ồn, “họ gọi cả Lính Quốc Phòng!”.
Cô thận trọng nhìn qua phía dưới cửa sổ, cụp tai để không bị phát hiện. “Cảnh sát, rất nhiều cảnh sát, có cả đội cứu hỏa, và một đoàn xe chở bảo vệ sân bay, họ cũng có một chiếc xe tải. Quỷ thần ơi! ”.
“Trời ạ!” Thầy thốt lên, “có mỗi một chiếc lốp xẹp mà náo động ghê gớm”.
Người tản ra xung quanh, tiếng còi báo động phát ra những tiếng inh ỏi cuối cùng, tiếng động cơ ô tô hòa với tiếng máy bay đang tăng tốc trước khi cất cánh. Rồi có tiếng động mạnh đột ngột và phập phồng bên dưới chúng tôi, máy bay được nâng lên khỏi mặt đất vài inch để có thể tháo lốp xe bị xịt. Vài chiếc xe lao đi, sau đó chiếc xe tải cũng chạy đi cùng với chiếc lốp cũ. Chúng tôi ngồi lại để chờ đợi. Đợi một giờ, rồi hai giờ.
“Lúc nãy mà ĐI BỘ có khi cũng đến Canada rồi!”, Thầy nói lộ rõ vẻ phiền toái.
Chiếc xe tải thong thả quay trở lại đường công vụ bên cạnh đường băng. Một cách nhàn nhã, đúng hơn là uể oải, mấy gã này thả mình ra khỏi xe và đi tới máy bay của chúng tôi. Cuối cùng thì lốp xe đã được cố định lại và chiếc xe tải phóng đi. Phi công khởi động lại động cơ để làm ấm chúng. Nói vào micrô với Đài kiểm soát không lưu, phi công thông báo đã sẵn sàng cất cánh. Cuối cùng cũng được phê duyệt, anh ta mở hai cần gạt, lao máy bay xuống đường băng và nâng nó từ từ lên không trung. Bay lên một cách từ từ, giữ ở vị trí thấp hơn các chuyến bay thương mại, viên Phi công ổn định hướng và bay là là.
Ma and Buttercup climbed in the plane which, according to Miss Ku, had almost as much room inside as a small car, with room on the back seats for two average people. Ma is comfortably padded, Buttercup is slender, so they made two, average people. I felt the whole plane sway when the Guv got aboard. He weighed about two hundred and twenty five or two hundred and thirty pounds (he may have lost a pound or two on the trip) and the plane tipped a bit. The pilot must have been the smallest pilot of the litter, because his weight apparently had no effect. He started up the engines one after the other, and let them warm up, then letting off his brakes he taxied slowly along. We covered miles on the ground, going to the far end of the Airport. Miss Ku gave me a running commentary. “Jeepers!” she cried, “all the aeroplanes in America are taking off from here; one a minute at least.” Suddenly the Pilot uttered a VERY naughty word and violently swung the plane sideways and off the main runway. “We gotta flat,” he growled, “Pilot of that liner just radioed me.” Behind us came the ear-splitting shriek of sirens and the roar of racing engines. A whole cavalcade of cars swung off the runway and surrounded us. “My oh my!” yelled Miss Ku above the noise, “they have called out the National Guard!” She peered cautiously over the bottom of the window, ears flat so that she would not be seen. “Cops, a lot of cops out there, the fire brigade, and a carload of airport officials, and they have a breakdown truck as well. HO-LY!” “Good Grief!” exclaimed the Guv, “What a shocking commotion for one poor little flat tire.” Men were running everywhere, sirens were emitting their last dying wails, and the sound of car engines mingled with that of airliners racing up before take-off. Sudden heavy thuds and heaves beneath us, and the plane was lifted inches off the ground so that the faulty wheel could be removed. The cars raced away, then the breakdown truck dashed off with our offending wheel. We sat back to wait. We waited an hour, two hours. “We could have WALKED to Canada in the time!” said the Guv in utter disgust. Leisurely the truck came ambling back along the service road flanking the runway. Leisurely, no, LANGUIDLY, men eased themselves out of the truck and strolled across to our plane. Eventually the wheel was fixed on again and the truck trickled off. The Pilot restarted his engines and let them warm. Talking into his microphone to the Control Tower he said that he was ready to take off. At last permission was given, and he opened the two throttles, raced the plane down the runway, and eased it slowly into the air. Climbing slowly, keeping well below the airline routes, the Pilot settled the plane on the correct bearing and put the throttles on cruising speed.
Chúng tôi bay, bay và bay, nhưng dường như chẳng đến được đâu cả.
“Chúng ta đang bang ở tốc độ nào vậy Cô Ku?”, tôi hỏi.
Cô rướn cổ, nhìn qua vai viên Phi công.
“Một trăm hai mươi lăm, độ cao sáu ngàn feet, la bàn chỉ hướng Tây Bắc”, Cô Ku trả lời.
Tôi cảm thấy thật ghanh tỵ với kiến thức, cũng như thị giác của cô. Tôi thì chỉ có thể ngồi yên một chỗ, phụ thuộc vào người khác nói cho mình nghe mọi thứ. Dù vậy, tôi cũng nghĩ, so với tất cả những chuyến bay mà mình đã nằm bất tỉnh trong hộp, chuyến này thật tốt hơn RẤT nhiều, giờ đây tôi đang được đối xử còn TỐT HƠN cả con người nữa, vì tôi đang ngồi trong lòng Mẹ.
We flew and we flew and we flew, but we did not seem to be getting anywhere. “What speed are we doing, Miss Ku?” I asked. She craned her neck, looking over the Pilot’s shoulder. “A hundred and twenty five, altitude six thousand feet, compass bearing North-West,” replied Miss Ku. I envied her her knowledge, her ability to see. I could only sit, depending upon others to tell me things. I thought, though, of all the flights I had made shut in a box, unconscious. This was FAR better, now I was being treated BETTER than humans for I was sitting on Ma’s lap.
Người dịch: Trần Thị Phận
Biên tập: Tô Phương Trang
Tổng biên tập: Trung tâm VMC