Dục là một chủ đề khá nhạy cảm trong xã hội Việt Nam, dù rằng đến nay, vấn đề này đã được đề cập đến một cách cởi mở hơn trước. Tuy nhiên, nhiều tranh luận vẫn khá gay gắt và thậm chí lên án trước những hành vi tự do của giới trẻ, hay những biểu hiện giới tính sai lệch như đồng tính luyến ái. Vậy đâu mới là thái độ đúng đắn với vấn đề này và làm thế nào để giúp những người đang có vấn đề? Để tìm hiều thêm về chủ đề này từ góc độ tâm linh, mời các bạn tham khảo tổng hợp của VMC trong bài dưới đây từ cuốn The Initiate của Cyril Meir Scott.
Phân tâm học là một lĩnh vực nghiên cứu được Sigmund Freud (tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud; 6 tháng 5 năm 1856 – 23 tháng 9 năm 1939) nguyên là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo đặt nền móng và phát triển. Cho đến ngày nay mặc dù lý thuyết về phân tâm học của ông còn gây nhiều tranh cãi và người ta còn đang so sánh hiệu quả của các phương pháp phân tâm học của ông với các phương pháp điều trị khác, nhưng cũng phải thừa nhận rằng ông là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 20.
Tuy nhiên, các nhà phân tâm học hiện đại khi quan sát những trường hợp có bệnh về dục liên quan đến thần kinh như sợ quan hệ, thích quan hệ, hay đồng tính,.. thường mới dừng lại ở việc nghiên cứu những ấn tượng khi còn nhỏ, hay các sự kiện trong kiếp sống hiện tại của bệnh nhân. Đa số các nhà phân tâm học chưa nhìn nhận có sự hiện hữu của bất cứ chuyện gì bên ngoài cõi vật chất, do đó họ không làm việc với những thể thanh bai của con người (như thể dĩ thái, thể hào quang, …), luật nhân quả, luật tái sinh. Như vậy phần lớn công việc của họ là mò mẫm trong bóng tối, làm việc với những lực mà họ không thực sự thấu hiểu do đó khá nguy hiểm.
Cũng có một số nhà phân tâm học vô tình đi quá sâu vào tiềm thức của bệnh nhân, khám phá ra ký ức về những kiếp đã qua, những điều mà lẽ ra đừng bao giờ nên đụng tới trong kiếp này. Bởi phần lớn các hồi ức này có bản chất sơ khai, nhiều đau khổ, gây chấn động cho cái tôi, nên bệnh nhân bị chìm đắm trong cảm giác có lỗi, hối hận, thấy mình thấp hèn. Vậy nên thay vì đạt được mục đích chân chính của nhà phân tâm học là giúp bệnh nhân hòa hợp với trọn bản thể của mình, họ lại gặp chuyện ngược lại. Tuy nhiên, điểm đáng ghi nhận của Phân tâm học đến nay là cách mà họ từ từ hướng dẫn mọi người có thái độ hợp lý hơn về mọi chuyện liên quan đến tính dục. Họ giúp làm tan biến cái cảm giác ghê tởm được truyền lại từ thời nữ hoàng Victoria. Vì từ thời đó, người ta đã bóp méo khái niệm trinh bạch bởi những biểu hiện bề mặt hời hợt của nó mà không phải là tự trong lòng có sự trinh tiết.
Người 80 tuổi có thể hãnh diện và hài lòng hồi nhớ lại sự ngây thơ và trong trắng đáng yêu trong thời niên thiếu của mình, lúc thiếu nữ con nhà nề nếp sẽ đỏ mặt lên khi có ai nhìn tới các cô, và khi được ngỏ lời cầu hôn thì ngã ra bất tỉnh. Nhưng hãy thử xem tình trạng khác biệt của thời đại đó. Lúc ấy chưa có xe đạp cho phái nữ, không có trò chơi mạnh bạo, không có tập dượt về sức khỏe và làm nẩy nở bắp thịt mà chỉ có những môn giải trí nhẹ nhàng như croquet, thêu thùa, tán chuyện gẫu, dạo đàn và những việc tương tự. Vậy chẳng lạ gì khi thiếu nữ có sự trinh trắng, chẳng lạ gì các cô bất tỉnh và khóc oà dù chỉ mới bị động lòng chút ít, khi cơ thể các cô chứa đầy độc tố vì thiếu vận động.
Có lòng trinh bạch trong hoàn cảnh như vậy thật dễ biết bao, và do đó không đáng khen cho lắm, nhất là khi thêm vào đó việc luôn luôn có cô gia sư, bà vú, cô hầu gái bên cạnh, hoặc bất cứ tai mắt, ai dòm ngó trong xã hội mà ta có thể nghĩ ra. Nó chẳng khác nào bị giam mình trong nhà dòng hoặc bị khóa chặt trong cũi! Nhưng thử để các nữ tu bung ra thế giới bên ngoài, và để vài chàng thanh niên hào hoa phong nhã bắt đầu làm tình với cô, và ta sẽ thấy các cô thật sự có trinh khiết hay chăng?! Bằng chứng của đức hạnh không phải là cách con người xử sự khi họ bị trói buộc, như trong bốn bức tường của nhà dòng hoặc bức tường tế nhị hơn của dư luận hoặc thói đời, mà là cách họ cư xử khi được tự do.
Mà giới trẻ ngày nay được tự do; một phần là kết quả gián tiếp của thế chiến I và phần khác là do, như ta có nói, khoa phân tâm học vạch ra những tệ hại của việc áp chế tính dục, hệ quả là khá đông cha mẹ và người bảo hộ đã nới lỏng, tỏ ra dễ dãi hơn. Ngược lại, có người lại cảm thấy vô cùng kinh ngạc, đau lòng và tự hỏi giới trẻ đã hư hỏng tới đâu, và chừng nào thì sự việc mới chấm dứt… Tự nhiên đó là câu hỏi của người chỉ có thể nhìn xa một quãng vài năm, và chỉ thấy bề mặt sự việc mà không biết được nguyên do ẩn bên dưới. Nếu so sánh với cái nhìn của các Chân sư, là theo quan điểm nhiều thế kỷ, thì tình trạng tính dục hiện giờ chỉ là giai đoạn cần thiết trong cuộc tiến hóa.
Trở lại thí dụ của về cô nữ tu và nhà dòng. Cô nữ tu dễ dàng có sự trinh khiết vì không gặp cám dỗ lẫn không có cơ hội để tự buông thả, nhưng giả dụ cô được cho phép bước ra thế giới và được có liên hệ thân mật theo ý mình, không sợ có Mẹ Bề Trên hay ai khác phản đối, thì sao? Chỉ khi nào dù có tự do mà cô vẫn giữ lòng trinh khiết, thì khi ấy cô mới thật sự sống theo lý tưởng của sự trinh bạch. Động cơ làm cho con người xứng đáng hay không. Cái động cơ thúc đẩy cá nhân học giữ lòng trong trắng, là ước nguyện thanh khiết muốn có sự tự chủ, và chỉ muốn có vậy mà thôi.
Nói theo một cách thì những bức tường trong xã hội bao lâu nay giam giữ phái nữ, giờ phần lớn đã bị phá sập, người ta bớt sợ hậu quả và vì vậy lý do thuần vật chất của hành vi trinh khiết trên thực tế đã biến mất. Ngay cả ý niệm bị bẻ cong nói rằng lòng si mê tình dục tự nó là điều xấu, hoặc thấp hèn, hoặc ngược với tiến bộ tinh thần, đang giảm bớt ảnh hưởng trong dư luận. Vậy còn lý do nào, hay nói đúng hơn sẽ còn lý do nào khi các bức tường hoàn toàn sụp đổ? Không còn lý do nào – ngoại trừ lý do trong nội tâm: cái ước muốn nắm quyền kiểm soát, cái lý do duy nhất muốn làm chủ mọi mặt của thiên nhiên thay vì làm tôi tớ cho nó.
Về những loại tính dục bất thường, khoa phân tâm có chú ý đến điều này nhưng chỉ có nhà huyền bí học mới đi đến tận gốc rễ của vấn đề, và khi làm vậy, giúp xóa bỏ lòng thiếu khoan dung sâu đậm đối với những người ấy. Nghe thì có vẻ lạ nhưng sự bất thường về tính dục không nhất thiết là dấu hiệu của đồi bại ghê gớm; thường khi nó là dấu hiệu của Chân Nhân cố gắng khắc phục hoàn toàn lòng ham muốn tình dục.
Đôi khi đó là trường hợp một ai phát triển thể trí trước khi phát triển thể tình cảm, hoặc linh hồn tìm cách tiến bước quá mau so với thân xác nó đang cư ngụ mà không đủ sức quản trị. Bạn có thể nghĩ là phương pháp ấy quả lạ lùng, nhưng cách biểu lộ nơi cõi trần mới là chuyện lạ mà không phải là phương pháp. Ta hãy lấy một thí dụ ngoài thiên nhiên. Giả thử ta dựng tấm ván chặn ngang dòng suối thì chuyện gì xẩy ra? Khi nước bị ngăn không cho chẩy theo cách bình thường, nó sẽ túa làm nhiều rãnh nhỏ, chẩy một quãng xa theo đủ mọi hướng. Lực tình dục cũng giống y vậy. Khi tìm cách chặn nó thì kết quả là nó sẽ bung thành nhiều đường phụ có vẻ khác xa tính dục bình thường, tựa như nhiều khe nước nhỏ tuôn ra từ dòng tự nhiên của con suối.
Và như thế nếu có thể ý thức điều này khi gặp ai có tính dục bất thường, ta hãy chỉ dạy họ cũng ý thức giống vậy. Đó là cách ta giúp nhân loại tiến đến việc có từ tâm hơn thay vì sinh cảm giác ghê tởm, khinh bỉ và xua đuổi, là phản ứng mà mọi người thường có đối với những chuyện bất thường, vì họ không hiểu. Hiển nhiên điều thường thấy, là ai bất bình thường về mặt này hầu như họ không ý thức được chân nhân của mình đang muốn thực hiện điều gì, nhưng chuyện ấy không làm thay đổi sự kiện.
Ở đây, sự hiểu biết của chúng ta về huyền bí học có thể giúp được nhiều. Có trường hợp người ta tự tử vì cảm thấy sự bất thường này. Họ có thể là người sống theo lý tưởng có khuynh hướng tinh thần, và trong một kiếp trước từng là tu sĩ. Nếu có ai đó hiểu biết về huyền bí học để thể giải thích cho anh ta rõ lý do ẩn sau tính dục bất thường của anh ta, thì hẳn anh ta đã được cứu thoát; nhưng bởi chỉ vì lòng xấu hổ quá mạnh sinh ra do sự dằng co giữa những lý tưởng của anh và lòng ham muốn đã khiến anh bỏ xác.
Lại nữa, những bất thường này đôi lúc còn là do việc linh hồn, tự nó không có phái tính, cư ngụ trong thân xác phái nam hay phái nữ ở cõi trần; nếu người nam kiếp này có kiếp ngay trước đây là người nữ hoặc ngược lại, khuynh hướng có khi được duy trì dẫn đến việc lập lại thói quen tình dục của kiếp đã qua ấy, bất kể sự khác biệt về thân xác hiện giờ. Người như vậy không thể được chữa hết bằng sự trừng phạt, mà chỉ do trị liệu bằng phân tâm học theo một phương pháp rất chuyện môn.
Với vấn đề như vậy, ta thấy ngay vấn đề là cần nhìn cho đủ sâu, và nếu bạn là người có khả năng đó, bạn nên giúp những người có vấn đề tính dục bất thường mà tự họ không nhìn ra được. Hiểu biết là quyền lực, nhưng chớ quên rằng quyền lực ấy phải được dùng cho người khác mà không phải cho chính mình. Càng tiến hóa nhiều ta càng có thể cảm nhận được những khó khăn, tội lỗi và ham muốn của đồng loại. Có nhiều người học hỏi huyền bí học và những người khác hoàn toàn không nhận ra điều này, họ còn kinh ngạc thấy rằng các Chân sư lại có thể bàn luận về sự bất thường trong tính dục.
Họ tưởng tượng chân sư phải không nên hé môi nói tới những chuyện như vậy, nhưng tiếc là họ sai lầm. Liệu các Ngài có bị dơ miệng vì tâm thương yêu ‘nhân loại là trẻ mồ côi lớn lao’ như một trong các Chân sư đã nói chăng? Hãy nhớ rằng tình thương mà không đi kèm với lòng cảm thông, thì không phải là tình thương như các Ngài hiểu theo nghĩa trọn vẹn hơn hết của chữ ấy. Và chắc chắn phận sự của tình thương chân thật là cảm thông và có lòng thiện cảm với mọi giai đoạn của sự sống, dù đó là bất cứ giai đoạn gì; nhất là những giai đoạn mang lại sự khổ tâm, đau lòng cho người mà ta thương mến.