Câu chuyện của Rampa – chương I

Câu chuyện của Rampa
Nguyên tác: The Rampa Story
Tác giả: Tuesday Lobsang Rampa
Dịch giả: VMC
Xuất bản lần đầu năm 1960

SỰ THẬT LẠ THƯỜNG

Trong những năm gần đây, một vài cuốn sách đã làm dấy lên nhiều tranh cãi hơn cả là cuốn sách CON MẮT THỨ BA của Lobsang Rampa, và những cuốn sách khác được viết dưới ngòi bút của ông.
Lý do thật đơn giản. Khi một người Anh tuyên bố rằng cơ thể của ông đã được chuyển giao cho linh hồn của một vị Lạt Ma Tây Tạng, ông hiểu rằng sẽ có nhiều chỉ trích. Thêm vào đó, ông kể nhiều trải nghiệm đặc biệt, rất chi tiết về cuộc sống của ông trước đây, hoàn toàn nằm ngoài những quy luật tự nhiên theo cách ta hiểu nên không có gì phải ngạc nhiên khi có những phản ứng sôi nổi.

Few books have aroused more controversy in recent years than Lobsang Rampa’s THE THIRD EYE, and the other works which have come from his pen.
The reason is simple enough. When an Englishman claims that his body has been taken over by the spirit of a Tibetan Lama, he can reasonably expect mockery. When, in addition, he recounts extraordinary, highly detailed experiences which pre-suppose the possession of personal powers quite outside the laws of nature as we understand them, the reaction not surprisingly becomes an uproar.

Mà những phản ứng loại này thường nảy sinh từ sự thiếu hiểu biết. Những điều chưa từng được biết trước đây khi thoạt nhìn luôn gây tâm trạng lo ngại. Thực tế là Bác sĩ Rampa giờ đây có hàng nghìn độc giả trên khắp thế giới, điều đó chính là bằng chứng cho thấy không phải tất cả mọi người đều có tâm trí đóng kín trước những điều mới lạ.
Chính vì lực lượng độc giả hùng hậu này – và cả những độc giả còn hoài nghi cũng đông không kém, hay những độc giả không thể phản bác nhưng cũng chẳng thể giải thích được làm thế nào ông lại có những trí tuệ đó nếu câu chuyện của ông không thật – mà Bác sĩ Rampa đã viết cuốn sách này, cuốn sách thứ ba của ông.
CÂU CHUYỆN CỦA RAMPA là câu trả lời của Lobsang Rampa dành cho tất cả các nhà phê bình của mình, và từng trang sách đều được ông cam kết một cách kiên định về tính chân thực.

But uproars of this kind do sometimes spring from ignorance. To glimpse what was previously unknown is always disturbing. The fact that Dr. Rampa now has many thousands of readers throughout the world is evidence that not all minds are closed against the unfamiliar.
It is for this great body of readers—and, no less, for the skeptics who have been able neither to disprove his story nor to explain how he came by his knowledge if his story is untrue—that Dr. Rampa wrote this, his third book.
THE RAMPA STORY is Lobsang Rampa’s reply to all his critics, and every page carries his own unswerving guarantee of the truth.

KÍNH TẶNG
Những người bạn của tôi ở Howth, Ireland
Họ là những người bạn của tôi ngay cả trong những lúc “Gió thổi bay sự công bằng”. Họ là những người bạn trung thành, hiểu biết, và tuyệt vời hơn cả khi làn gió bất công thổi ngược chiều, để người Ireland biết về sự bài bác; và họ biết làm thế nào để đánh giá Sự thật.
Ông và Bà O’Grady
Gia đình Loftus
Bác sĩ W. I. Chapman và Brud Campbell
(chỉ có thể nhắc đến một vài người)
CÁM ƠN!
(Xuất bản năm 1960)

DEDICATED

To my friends in Howth, Ireland
They were my friends when the “winds blew fair.” They were loyal, understanding, and greater friends when the unfair winds blew foul, for the people of Ireland know persecution; and they know how to judge Truth. So-
Mr. and Mrs. O’Grady
The Loftus Family
Dr. W. I. Chapman and Brud Campbell
(to mention just a few)
THANK YOU!
(Published in 1960)

LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ

“Đừng khổ sở như thế,” Ông chủ báo nói.
“Được thôi,” Tôi tự nhủ thầm, “hà cớ gì tôi phải chịu bất kỳ sự khổ sở nào chứ? Tôi chỉ đơn thuần đang cố gắng làm việc của mình – viết một quyển sách theo chỉ dẫn.”
“Không gì chống lại được Báo chí cả!” Ông chủ báo nói tiếp:
“Không thể!!”
“Cưng ơi, cưng ơi,” Tôi tự nhủ thầm, “Ông ta bêu tôi ra làm gì chứ?” Có vẻ mọi thứ là thế. Chẳng gì chống lại Báo chí được. Rốt cuộc, họ nghĩ họ đang làm công việc của mình, và nếu họ bị đưa tin không chính xác, thì tôi đồ rằng họ cũng chẳng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Quan điểm của tôi về Báo chí ư? Chậc, chậc. Không. Chả ý kiến gì thêm hết.

“No bitterness,” said Mr. Publisher.
“All right,” I thought to myself, “but why should I have any bitterness? I am merely trying to do my job—writing a book as directed.”
“Nothing against the Press!” said Mr. Publisher.
“Nothing!!”
“Dear, dear,” I said to myself “What does he take me for?” So it shall be. Nothing against the Press. After all, they think they are doing their job, and if they are fed incorrect information, then I suppose they cannot be held wholly responsible. But my idea about the Press? Tut, tut, No. Nothing more about the subject.

Cuốn sách này tiếp nối các cuốn Con mắt Thứ Ba, và Bác sĩ đến từ Lhasa. Ngay từ khi chưa bắt đầu tôi muốn nói với bạn rằng đây là SỰ THẬT, không phải hư cấu. Tất cả mọi điều mà tôi đã viết trong hai cuốn kia đều là sự thật, và là trải nghiệm của chính mình. Cái tôi chuẩn bị viết về những băn khoăn trước sự phân chia tính cách của con người và bản ngã, một vấn đề mà những người Phương Đông chúng tôi hiểu rõ.
Dù sao thì cũng không cần thêm lời tựa nữa. Tự bản thân quyển sách sẽ nói lên điều đó!

This book follows on from The Third Eye, and from Doctor from Lhasa. At the very outset I am going to tell you that this is Truth, not fiction. Everything that I have written in the other two books is true, and is my own personal experience. What I am going to write about concerns the ramifications of the human personality and ego, a matter at which we of the Far East excel.
However, no more Foreword. The book itself is the thing!

CHƯƠNG I – NHẬN THÔNG ĐIỆP

Những đỉnh núi lởm chởm của dãy Himalaya cắt sâu vào sắc tím lung linh của trời đêm Tây Tạng. Mặt trời đang lặn, ẩn đằng sau rặng núi hùng vĩ, phản chiếu những tia sáng màu lấp lánh trên lớp tuyết trải dài từ những đỉnh núi cao chót vót. Không khí trong lành, đầy sức sống với tầm nhìn tưởng như vô tận.

The jagged peaks of the hard Himalayas cut deeply into the vivid purple of the Tibetan evening skies. The setting sun, hidden behind that mighty range, threw scintillating, iridescent colors on the long spume of snow perpetually blowing from the highest pinnacles. The air was crystal clear, invigorating, and giving almost limitless visibility.

Thoạt nhìn, miền quê hoang vắng, lạnh lẽo hoàn toàn không có sự sống. Mọi vật im phăng phắc, không có gì lay động trừ dãy cờ phướn đang phấp phới bay trên cao trong gió tuyết. Dường như không gì có thể sống trong vùng núi hoang vu lạnh lẽo này. Có vẻ là không sự sống nào tồn tại được nơi đây từ những buổi ban sơ.

At first glance, the desolate, frozen countryside was utterly devoid of life. Nothing moved, nothing stirred except the long pennant of snow blowing high above. Seemingly nothing could live in these bleak mountainous wastes. Apparently no life had been here since the beginning of time itself.

Chỉ khi ai đó biết, được thấy hết lần này đến lần khác, mới có thể phát hiện ra – một cách khó – những vết tích mờ nhạt, rằng con người từng sống nơi đây. Sự quen thuộc mới có thể dẫn lối anh ta đến cái nơi khắc nghiệt, heo hút này. Chỉ có một lối vào hang động sâu và âm u tăm tối, một cái hang có tiền sảnh dẫn đến vô số các đường hầm và những căn mật thất như hình tổ ong trong dãy núi khắc nghiệt này.

Only when one knew, when one had been shown time after time, could one detect—with difficulty the faint trace that humans lived here. Familiarity alone would guide one’s footsteps in this harsh, forbidding place. Then only would one see the shadow-enshrouded entrance to a deep and gloomy cave, a cave which was but the vestibule to a myriad of tunnels and chambers honeycombing this austere mountain range.

Trong hàng tháng ròng ngày xưa, những vị Lạt ma trung thành làm nhiệm vụ thồ hàng, lê bước trong đau đớn qua hàng trăm dặm đường từ Lhasa, mang theo những bí mật cổ đại đến nơi chúng sẽ được an toàn mãi mãi, thoát khỏi những kẻ phá hoại. Ở đây cũng vậy, với công việc vất vả cực nhọc và khổ đau vô hạn, nhục thân mạ vàng của các vị Hóa thân được mang đến và tôn kính đặt vào giữa lòng ngọn núi. Những đồ vật linh thiêng, những cổ thư và những nhà sư uyên thâm, đáng kính đều được an toàn ở đây. Từ hàng năm trước, các vị Trụ Trì trung kiên đã biết trước về cuộc xâm lược của Trung Quốc sắp xảy ra, họ gặp nhau trong những buổi họp kín trang nghiêm để thử thách và chọn lựa ra những người sẽ đến Ngôi Nhà Mới xa xôi. Hết tu sĩ này đến tu sĩ khác bị kiểm tra mà không hay biết, và hồ sơ của anh ta cũng được nghiên cứu, và chỉ những người tinh nhuệ nhất, linh hồn tiến bộ nhất mới được chọn. Những người được rèn luyện và có đức tin như vậy mới có thể, khi cần thiết, chịu được những đòn tra tấn tồi tệ nhất của quân Trung Quốc, mà không tiết lộ bí mật.

For long months past, the most trusted of lamas, acting as menial carriers, had painfully trudged the hundreds of miles from Lhasa carrying the ancient Secrets to where they would be forever safe. Here too, with infinite toil and suffering, had been brought the Golden Figures of past Incarnations to be set up and venerated in the heart of a mountain. Sacred Objects, age-old writings, and the most venerable and learned of priests were here in safety. For years past, with a full knowledge of the coming Chinese invasion, loyal Abbots had periodically met in solemn conclave to test and pick those who should go to the New Home in the far distance. Priest after priest was tested, without his knowledge, and his record examined, so that only the finest and most spiritually advanced should be chosen. Men whose training and faith was such that they could, if need be, withstand the worst tortures that the Chinese could give, without betraying vital information.

Cuối cùng, rời Lhasa bị Trung Quốc chiếm giữ, họ đã đến ngôi nhà mới của mình. Không có chiếc phi cơ vận tải thời chiến nào bay được ở độ cao này. Không quân xâm lược nào có thể sống sót được ở vùng đất khô cằn, toàn sỏi đá, đầy nguy hiểm với núi lở và vực sâu thăm thẳm. Vùng đất quá cao, không khí quá loãng vì thiếu ô xy mà chỉ những người dân miền núi khỏe mạnh mới có thể hít thở được. Cuối cùng, giữa những ngọn núi linh thiêng nơi đây là sự Bình An. Bình An để làm việc bảo vệ tương lai, bảo tồn Trí Tuệ Cổ Xưa, và để chuẩn bị cho thời gian mà Tây Tạng sẽ lại đứng lên và giải phóng khỏi ách xâm lược.

So, eventually, from a Communist over-run Lhasa, they had come to their new home. No aircraft carrying war loads would fly this high. No enemy troops could live off this arid land, land devoid of soil, rocky and treacherous with shifting boulders and yawning chasms. Land so high, so poor in oxygen, that only a hardy mountain people could breathe. Here, at last, in the sanctuary of the mountains, was Peace. Peace in which to work to safeguard the future, to preserve the Ancient Knowledge, and to prepare for the time when Tibet should rise again and be free of the aggressor.

Hàng triệu năm về trước, nơi đây từng là vùng núi lửa phun trào đá và dung nham lên bề mặt Trái đất còn non trẻ. Thế giới khi đó bán phần dẻo và trải qua những cơn đau sinh tử cho ra đời một thời đại mới. Trải qua vô số năm, những ngọn núi lửa lụi tàn và phân nửa đá đang nóng chảy nguội dần. Dung nham chỉ còn chảy trong quá khứ, và khí ga từ sâu trong lòng Trái Đất bị phun tống ra ngoài bầu không khí, để lại những kênh và những đường hầm trống rỗng dài vô tận. Một số rất ít bị tắc nghẽn vì đá lở bịt kín, nhưng các đường hầm khác vẫn còn nguyên vẹn với thủy tinh đông cứng và hình thành vỉa với những vệt kim loại đã từng bị nóng chảy. Nước từ vách đá nhỏ giọt thành suối, tinh khiết và lấp lánh dưới ánh sáng.

Millions of years ago this had been a flame-spewing range of volcanoes erupting rocks and lava over the changing face of the young Earth. The world then was semi plastic and undergoing the birth-pangs of a new age. Over countless years the flames died down and the half molten rocks had cooled. Lava had flowed for the last time, and gaseous jets from the deep interior of the Earth had expelled the remnants into the open air, leaving the endless channels and tunnels bare and empty. A very few had been choked by rock falls, but others had remained intact, glass hard and streaked with traces of once-molten metals. From some walls trickled mountain springs, pure and sparkling in any shaft of light.

Thế kỷ nối tiếp thế kỷ, các đường hầm và hang động vẫn vắng bóng sự sống, hoang vu và đơn độc, chỉ được biết tới trong các chuyến viếng thăm bằng thể vía của các vị Lạt Ma, những người có thể đi bất cứ nơi đâu và thấy mọi thứ. Các nhà sư du hành thể vía đã lùng sục khắp vùng quê để tìm nơi ẩn náu như vậy. Giờ đây, khi sự khủng bố rình rập trên mảnh đất Tây Tạng, trên hành lang cổ xưa ấy đã xuất hiện những tinh hoa của một dân tộc thần thánh, dân tộc có sứ mệnh đứng dậy vào thời điểm viên mãn.

For century after century the tunnels and caves had remained bare of life, desolate and lonely, known only to astral-traveling lamas who could visit anywhere and see all. Astral travelers had scoured the country looking for such a refuge. Now, with Terror stalking the land of Tibet, the corridors of old were peopled by the elite of a spiritual people, a people destined to rise again in the fullness of time.

Khi những vị tu sĩ được tuyển chọn đầu tiên thận trọng đi về phía bắc để chuẩn bị nơi ở trong núi đá, thì những người khác ở Lhasa đang đóng gói các tàng thư quí giá nhất, và chuẩn bị rời đi một cách kín đáo. Một nhóm rất ít những người được tuyển chọn từ các Lạt ma viện và các ni tự tới. Họ đi theo những nhóm nhỏ dưới sự che chở của bóng tối, hành trình của họ là đến một hồ nước xa xôi, rồi dựng trại bên bờ và chờ đợi những nhà sư khác.

As the first carefully chosen monks wended their way northwards, to prepare a home within the living rock, others at Lhasa were packing the most precious articles, and preparing to leave unobtrusively. From the lamaseries and nunneries came a small trickle of those chosen. In small groups, under cover of darkness, they journeyed to a distant lake, and encamped by its bank to await others.

Trong “ngôi nhà mới”, một Tổ Chức Mới được thành lập, Trường Bảo tồn Tri thức, vị Trụ Trì thọ nhận là một cao tăng thông thái đã hơn một trăm tuổi, trải qua nhiều gian nan khôn tả, đã tới hang động trong lòng núi. Đồng hành cùng với Ngài là những vị Lạt ma thông thái nhất mảnh đất này, đó là những Lạt ma có khả năng Thần giao cách cảm, Thấu thị, và những hành giả truy cập được vào Tàng Kinh Các. Nhiều tháng dần qua, họ cứ thế trèo lên những rặng núi càng lúc càng cao, không khí càng ngày càng loãng hơn. Đôi khi một dặm mỗi ngày là quá sức với cơ thể già nua, đó là một dặm giằng xé với những phiến đá đồ sộ, gồ ghề, những cơn gió vĩnh cửu rít xuyên qua những ngọn đèo chơi vơi, xé toạc những chiếc áo choàng của họ, rồi hăm he hất tung họ. Đôi khi những vách nứt sâu buộc họ phải đi đường vòng xa và gian khổ hơn. Có lúc trong gần tuần lễ, vị Trụ Trì cao niên buộc phải ở lại trong túp lều chật chội dành cho bò yak để dùng các loại thảo dược đặc biệt tạo ra ô xy làm dịu hai lá phổi cùng trái tim đau đớn. Rồi sau đó, với nghị lực phi thường, Ngài lại tiếp tục cuộc hành trình khủng khiếp.

In the “new home” a New Order had been founded, the School of the Preservation of Knowledge, and the Abbot in charge, a wise old monk of more than a hundred years, had, with ineffable suffering, journeyed to the caves within the mountains. With him had traveled the wisest in the land, the Telepathic Lamas, the Clairvoyants, and the Sages of Great Memory. Slowly, over many months, they had wended their way higher and higher up the mountain ranges, with the air becoming thinner and thinner with the increasing altitude. Sometimes a mile a day was the most their aged bodies could travel, a mile of scrambling over mighty rocks with the eternal wind of the high passes tearing at their robes, threatening to blow them away. Sometimes deep crevices forced a long and arduous detour. For almost a week the ancient Abbot was forced to remain in a tightly closed yak-hide tent while strange herbs and potions poured out life-saving oxygen to ease his tortured lungs and heart. Then, with superhuman fortitude he continued the appalling journey.

Cuối cùng, họ đã đến đích, số người giảm đáng kể, nhiều người đã gục ngã bên đường. Họ đã dần thích nghi với sự thay đổi. Các kinh sư chép lại cẩn thận hành trình của họ, và các tu sĩ điêu khắc chạm những bản in tay cho các cuốn sách. Những nhà Thấu thị nhìn vào tương lai, tiên đoán rồi lại tiên đoán về tương lai của Tây Tạng và những quốc gia khác. Những vị này vô cùng thuần khiết, có thể tiếp xúc với Thư viện Vũ Trụ và Bản ghi Akashic, Bản ghi này cho ta biết tất cả về quá khứ và hiện tại tức thì ở khắp mọi nơi cũng như mọi khả năng có có thể xảy ra trong tương lai. Những vị có khả năng Thần giao cách cảm cũng bận rộn không kém, họ gửi thông điệp đến các vị còn ở Tây Tạng, giữ liên lạc bằng thần giao cách cảm với những người thuộc Tổ chức ở khắp mọi nơi – trong đó có tôi!

At last they reached their destination, a much reduced band, for many had fallen by the wayside. Gradually they became accustomed to their changed life. The Scribes carefully penned the account of their journey, and the Carvers slowly made the blocks for the hand printing of the books. The Clairvoyants looked into the future, predicting, predicting the future of Tibet and of other countries. These men, of the utmost purity, were in touch with the Cosmos, and the Akashic Record, that Record which tells all of the past and of the immediate present everywhere and all the probabilities for the future. The Telepaths too were busy, sending messages to others in Tibet, keeping in touch tele-pathically with those of their Order everywhere—keeping in touch with Me!

“Lobsang, Lobsang!” Luồng tư tưởng dội vào đầu tôi, đưa tôi về với thực tại. Thông điệp thần giao cách cảm không lạ gì với tôi, chúng còn thông dụng hơn cả điện thoại, nhưng đây là một tiếng gọi khẩn thiết. Lần này theo cách nào đó rất khác. Tôi nhanh chóng thả lỏng, ngồi theo thế hoa sen, để tâm trí rộng mở và cơ thể thoải mái. Sau đó, tiếp nhận thông điệp thần giao cách cảm mà tôi đã chờ đợi. Trong một lát không có gì cả, chỉ có sự thăm dò nhẹ nhàng, như thể “ai đó” đang nhìn qua mắt tôi và quan sát. Thấy gì? Dòng sông Detroit lầy lội, các tòa nhà cao vút chọc trời của thành phố Detroit. Ngày tháng trên lịch đập vào mắt tôi, ngày 9 tháng 4 năm 1960. Một lần nữa – không gì cả. Đột nhiên, như thể “ai đó” đã quyết định, Tiếng Nói lại vang lên.

“Lobsang. Lobsang!” The thought dinned into my head, bringing me back from my reverie. Telepathic messages were nothing to me, they were more common to me than telephone calls, but this was insistent. This was in some way different. Quickly I relaxed, sitting in the Lotus position, making my mind open and my body at ease. Then, receptive to telepathic messages, I waited. For a time there was nothing, just a gentle probing, as if “Someone” were looking through my eyes and seeing. Seeing what? The muddy Detroit River, the tall skyscrapers of Detroit city. The date on the calendar facing me, April 9th, 1960. Again—nothing. Suddenly, as if “Someone” had reached a decision, the Voice came again.

“Lobsang. Thầy đã vất vả nhiều rồi. Thầy đã làm rất tốt, nhưng không có thời gian để nghỉ ngơi. Có một nhiệm vụ giao cho cậu.” Ngừng lại một lát như thể Người Nói bị ngắt đột ngột, tôi vẫn đợi, trái tim đau khổ và vô cùng sợ hãi. Tôi đã có quá nhiều khổ sở và đau đớn trong suốt những năm qua. Quá nhiều thay đổi, bị săn đuổi, hành hạ. Trong khi chờ đợi, tôi bắt được vài dòng của mấy người gần đó. Một cô gái đang sốt ruột giậm chân ở trạm xe buýt dưới cửa sổ phòng tôi, “Ồ, dịch vụ xe buýt này, nó thật tồi tệ nhất thế giới. Chắc nó không bao giờ đến mất?” Hay một người phu khuân vác cho nhà kế bên: “Nếu mình liều yêu cầu ông chủ tăng lương thì sao nhỉ? Millie sẽ nổi điên nếu mình không có ngay tiền cho cô ấy mất!” Đúng lúc tôi đang tự hỏi “Millie” là ai, giống như một người nghĩ vẩn vơ khi đang chờ điện thoại, giọng nói bên trong lại nhất quyết đưa tôi trở về.

“Lobsang. You have suffered much. You have done well, but there is no time for complacency. There is a task for you yet to do.” There was a pause as if the Speaker had been unexpectedly interrupted, and I waited, sick at heart and wholly apprehensive. I had more than enough of misery and suffering during the past years. More than enough of change, of being hunted, persecuted. As I waited I caught fleeting telepathic thoughts from others nearby. The girl tapping her foot impatiently at the bus stop below my window, “Oh, this bus service, it’s the worst in the world. Will it never come?” Or the man delivering a parcel at the house next door: “Wonder if I dare ask the Boss for a rise? Millie will sure be mad if I don’t get some money for her soon!” Just as I was idly wondering who “Millie” was, much as a person waiting at a telephone thinks idly, the insistent Inner voice came to me again.

“Lobsang! Chúng tôi đã quyết định. Đã đến lúc thầy cần viết một cuốn sách nữa. Cuốn sách tiếp theo này sẽ là một nhiệm vụ sống còn. Thầy phải viết nhấn mạnh một chủ đề, rằng một người có thể tiếp tục sống trong thể xác của một người khác, với sự cho phép hoàn toàn của người đó.”

“Lobsang! Our decision is made. The hour has come for you to write again. This next book will be a vital task. You must write stressing one theme, that one person can take over the body of another, with the latter person’s full consent.”

Tôi bắt đầu hoang mang và gần như mất kết nối thần giao cách cảm. Tôi lại viết nữa ư? Về điều đó. Tôi vốn đã là “đối tượng gây tranh cãi” và tôi ghét những lúc như vậy. Tôi biết rằng tất cả những gì tôi tuyên bố, rằng tất cả những gì tôi đã viết trước đây hoàn toàn là sự thật, nhưng có ích gì khi khơi lại câu chuyện bàn tán vớ vẩn của đám Báo chí? Nó quá sức tôi. Nó làm cho tôi bối rối, choáng váng và rất đau lòng, như thể một người đang chờ án tử hình.

I started in dismay, and almost broke the telepathic contact. Me write again? About that. I was a “controversial figure” and hated every moment as such. I knew that I was all that I claimed to be, that all I had written before was the absolute truth, but how would it help to rake up a story from the lurid Press’s silly season? That was beyond me. It left me confused, dazed, and very sick at heart, like a man awaiting execution.

“Lobsang!” giọng nói qua thần giao cách cảm lúc này vang lên rất nghiêm khắc; gay gắt giống như một cú sốc điện vào bộ não đang hoang mang của tôi. “Lobsang! Góc nhìn của chúng tôi có thể đánh giá tình hình tốt hơn của thầy đấy; thầy đang bị mắc bẫy trong vòng xoáy của xã hội phương Tây. Chúng tôi có thể đứng ngoài cuộc và đánh giá. Cái thầy có chỉ là tin tức cục bộ, còn chúng tôi có cả thế giới.”

“Lobsang!” The telepathic voice was charged with considerable acerbity now; the rasping asperity was like an electric shock to my bemused brain. “Lobsang! We are in a better position to judge than you; you are enmeshed in the toils of the West. We can stand aside and evaluate. You have but the local news, we have the world.”

Tôi khiêm nhường giữ im lặng, tiếp tục chở thông điệp, trong thâm tâm tự đồng ý rằng “Họ” chắc chắn biết điều gì là đúng. Dừng một chút, Tiếng Nói lại vang lên lần nữa. “Thầy đã phải chịu đựng nhiều đau khổ bất công, nhưng là vì sự nghiệp chính nghĩa. Việc thầy đã làm trước đây mang lại điều tốt đẹp cho nhiều người, nhưng vì đau yếu nên sự đánh giá của thầy về cuốn sách tiếp theo còn thiếu sót và sai lệch.”

Humbly I remained silent, awaiting a continuation of the message, agreeing within myself that “They” obviously knew what was right. After some interval, the Voice came again. “You have suffered much unjustly, but it has been in a good cause. Your previous work has brought much good to many, but you are ill and your judgment is at fault and warped on the subject of the next book.”

Vừa lắng nghe, tôi vừa lấy quả cầu tinh thể cổ xưa của mình ra, đặt trên tấm vải đen xỉn trước mặt. Đám mây trong đó nhanh chóng chuyển màu trắng sữa. Một vết nứt xuất hiện, và những đám mây trắng bị rẽ ra như vén tấm màn đón ánh bình minh. Tôi ngắm nhìn trong khi lắng nghe. Quang cảnh xa xăm của dãy Himalaya cao ngút ngàn, với những đỉnh núi đầy tuyết phủ. Một cảm giác mạnh mẽ, rõ ràng thật đến nỗi tôi cảm thấy dạ dày đang cuộn cồn cào. Khung cảnh ngày càng trở nên rộng lớn hơn, và rồi hiện lên một Hang động, Ngôi Nhà Trí Tuệ Mới. Tôi nhìn thấy vị Trưởng Thượng trong hình dáng già nua đang ngồi trên một tấm thảm bằng lông bò yak.

As I listened I reached out for my age-old crystal and held it before me on its dull black cloth. Quickly the glass clouded and became as white as milk. A rift appeared, and the white clouds were parted like the drawing aside of curtains to let in the light of the dawn. I saw as I heard. A distant view of the towering Himalayas, their tops mantled in snow. A sharp sensation of falling so real that I felt my stomach rising within me. The landscape becoming larger, and then, the Cave, the New Home of Knowledge. I saw an Aged Patriarch, a very ancient figure indeed, sitting on a folded rug of yak wool.

Mặc dù là một vị Trụ Trì cao cấp, Ngài chỉ khoác một tấm áo choàng giản dị đã bạc màu, sờn rách, dường như nó cũng cũ kỹ như Ngài vậy. Ngài có vòm trán cao rộng ánh lên màu như tấm da cũ, và da bàn tay già nua của Ngài nhăn nheo che phủ bộ xương gầy gò. Ngài là đại đức tôn kính, với hào quang tỏa ra tràn đầy sức mạnh và sự thanh tịnh thông tuê khôn tả. Xung quanh Ngài, ngồi thành một vòng tròn mà Ngài là tâm điểm, có bảy vị Lạt ma cao cấp khác. Họ đang ngồi trong cơn thiền định, với lòng bàn tay để ngửa và những ngón tay đan vào nhau theo biểu tượng cổ xưa. Đầu họ, hơi cúi, đều đang hướng về phía tôi. Bên trong tinh thể của mình, dường như tôi cũng đang ngồi trong hang động được hình thành từ núi lửa cùng với các Ngài, như thể tôi đang đứng trước các Ngài. Chúng tôi đã trò chuyện như trong giao tiếp vật lý vậy.

Although a High Abbot, he was clad simply in a faded, tattered robe, which seemed almost as ancient as he. His high, domed head glistened like old parchment, and the skin of his wrinkled old hands scarce covered the bones which supported it. He was a venerable figure, with a strong aura of power, and with the ineffable serenity which true knowledge gives. Around him, in a circle of which he was the center, sat seven lamas of high degree. They sat in the attitude of meditation, with their palms face-up and their fingers entwined in the immemorial symbolic clasp. Their heads, slightly bowed, all pointed towards me. In my crystal it was as if I were in the same volcanic chamber with them, as if I stood before them. We conversed as though almost in physical contact.

“Thầy đã già đi nhiều rồi” một vị nói.
“Những cuốn sách của thầy đã mang lại niềm vui và ánh sáng cho nhiều người, đừng nản lòng chỉ vì một số ít người có tính ghen tị và ác ý” một vị khác nói.
“Quặng sắt cứ nghĩ rằng nó bị tra tấn một cách vô lý trong lò nung, nhưng khi lưỡi kiếm đã tôi từ thép quí nhìn lại, nó mới biết mình đã tốt hơn” vị thứ ba nói.
“Chúng ta đang lãng phí thời gian và năng lượng” vị Trưởng Thượng nói. “Trái tim thầy ấy đang mệt mỏi và thầy ấy đang đứng trong bóng tối của Thế Giới Khác, chúng ta không thể đòi hỏi quá sức của thầy ấy, vì thầy ấy còn nhiệm vụ rõ ràng phía trước”

“You have aged greatly” said one.
“Your books have brought joy and light to many, do not be discouraged at the few who are jealous and evilly disposed” said another.
“Iron ore may think itself senselessly tortured in the furnace, but when the tempered blade of finest steel looks back it knows better” said a third.
“We are wasting time and energy” said the Aged Patriarch. “His heart is ill within him and he stands in the shadow of the Other World, we must not overtax his strength nor his health for he has his task clear before him.”

Lại một thoáng im lặng. Lần này là khoảng lặng chữa lành, trong khi các vị Lạt ma dùng thần giao cách cảm truyền năng lượng chữa lành cho tôi, năng lượng mà tôi thường xuyên bị thiếu từ lần tấn công thứ hai của căn bệnh huyết khối mạch vành. Trong bức tranh trước mặt, dường như tôi là một phần trong đó, thậm chí sáng hơn lên, rực rỡ hơn ngoài đời thực. Sau đó, vị Lạt ma cao niên nhìn lên và nói. “Người Anh em của tôi” Ngài nói, thực sự điều đó là rất vinh dự dù tôi cũng ở cấp Trụ Trì. “Người Anh em của tôi, chúng ta cần phải mang đến cho nhiều khối óc sự thật rằng bản ngã này có thể tự nguyện rời khỏi thể xác của mình và cho phép một bản ngã khác tiếp nhận, hồi phục lại cơ thể bị bỏ trống đó. Đây là nhiệm vụ của thầy, hãy phổ biến kiến thức này.”

Again there was a silence. This time it was a healing silence, while the Telepathic Lamas poured life-giving energy into me, energy which I so often lacked since my second attack of coronary thrombosis. The picture before me, a picture of which I seemed to be a part, grew even brighter, almost brighter than reality. Then the Aged Man looked up and spoke. “My Brother,” he said, which was an honor indeed, although I too was an Abbot in my own right. “My Brother, we must bring to the knowledge of many the truth that one ego can depart his body voluntarily and permit another ego to take over and reanimate the vacated body. This is your task, to impart this knowledge.”

Đây thực sự là một cú sốc. Nhiệm vụ của tôi ư? Tôi chưa bao giờ muốn đưa ra công khai bất kỳ vấn đề nào như vậy, tôi thích giữ im lặng ngay cả khi nó là lợi thế quan trọng để đưa ra thông tin. Tôi tin rằng, trong thế giới đui mù về bí truyền ở phương Tây này, đa số người ta tốt hơn là không nên biết về thế giới huyền bí. Hầu hết những kẻ “huyền bí” tôi đã gặp chỉ có tí xíu kiến thức thực sự, và đó là một điều nguy hiểm. Sự suy tư của tôi bị vị Trụ Trì làm gián đoạn. “Như thầy đã biết, chúng ta đang ở ngưỡng cửa của một Kỷ Nguyên Mới, một Kỷ nguyên mà trong đó đã an bài rằng Con Người sẽ được gột rửa khỏi nhơ bẩn và sẽ sống hòa thuận với những người khác cũng như với chính mình. Dân số sẽ ổn định, không tăng lên mà cũng không giảm đi, và điều này có nghĩa là không có khuynh hướng hiếu chiến, vì một đất nước tăng dân số sẽ phải dùng đến chiến tranh để có thêm đất đai sinh sống. Chúng ta sẽ cho mọi người biết làm thế nào một thân xác có thể bị bỏ đi giống như một cái áo choàng cũ mà chủ nhân không dùng nữa, và trao cho người khác đang cần một cơ thể như vậy vì vài mục đích đặc biệt.”
Tôi vô tình giật nảy mình. Vâng, tôi biết tất cả về điều này, nhưng tôi không có ý định viết về nó. Toàn bộ ý tưởng này khiến tôi sợ hãi.

This was a jolt indeed. My task? I had never wanted to give any publicity about such matters, preferring to remain silent even when it would have been to my material advantage to give information. I believed that in the eso-terically blind West most people would be better for not knowing of the occult worlds. So many “occult” people that I had met had very little knowledge indeed, and a little knowledge is a dangerous thing. My introspection was interrupted by the Abbot. “As you well know, we are upon the threshold of a New Age, an Age wherein it is intended that Man shall be purified of his dross and shall live at peace with others and with himself. The populations shall be stable, neither rising nor falling and this without warlike intent, for a country with a rising popula11tion must resort to warfare in order to obtain more living space. We would have people know how a body may be discarded like an old robe for which the wearer has no further use, and passed on to another who needs such a body for some special purpose.”
I started involuntarily. Yes, I knew all about this, but I had not expected to have to write about it. The whole idea frightened me.

Vị Trụ Trì già mỉm cười nói: “Người anh em của ta, ta thấy rằng ý tưởng này, nhiệm vụ này thầy chẳng thích chút nào. Tất nhiên là đã có nhiều ghi chép, rất nhiều, về trường hợp “đoạt xác”. Hầu hết những trường hợp đó liên quan tội ác, hoặc ma thuật hắc ám, và đơn thuần là thể hiện thái độ của những kẻ ít hiểu biết về chủ đề này. Nhiệm vụ của thầy là sẽ viết cho những ai có mắt để đọc, những người sẵn sàng để biết.”
“Tự tử,” tôi nghĩ. “Người ta sẽ đổ xô đi tự tử, không những để thoát khỏi nợ nần và khó khăn, mà còn để ban ơn cho người khác khi cho đi thân xác.”

The old Abbot smiled briefly as he said: “I see that this idea, this task, finds no favor with you, my Brother. Yet there are recorded many, many instances of “possession”. That so many such cases are regarded as evil, or black magic is unfortunate and merely reflects the attitude of those who know little about the subject. Your task will be to write so that those who have eyes may read, and those who are ready may know.”
“Suicides” I thought. “People will be rushing to commit suicide, either to escape from debt and troubles or to do a favor to others in providing a body.”

“Không, không phải, Người anh em của tôi” Vị Trụ Trì cao niên nói, “Thầy nhầm rồi. Không ai có thể thoát khỏi nợ nần bằng cách tự tử cả, và cũng không ai có thể rời bỏ thân xác để cho người khác đâu, trừ khi có được những điều kiện rất đặc biệt đảm bảo điều đó. Chúng ta phải chờ đợi sự ra đời hoàn toàn của Kỷ Nguyên Mới, và không ai có thể từ bỏ cơ thể của mình một cách chính đáng cho đến khi hết thời gian qui định. Còn nữa, chỉ khi Các Đấng Cao Cả cho phép, việc đó mới có thể thực hiện được.”

“No, no, my Brother,” said the old Abbot “You are in error. No one can escape his debt through suicide, and no one can leave his body for another yet, unless there be very special circumstances which warrant it. We must await the full advent of the New Age, and none may rightfully abandon his body until his allotted span has elapsed. As yet, only when Higher Forces permit, may it be done.”

Tôi ngắm nhìn những người trước mặt, ngắm vẻ lung linh của ánh sáng vàng kim xung quanh đầu của các Ngài, ánh xanh điện của trí tuệ trong hào quang của các Ngài, và sự giao thoa ánh sáng từ Sợi chỉ Bạc của các Ngài. Một bức tranh, đầy màu sắc sống động, về những con người trí tuệ và thanh khiết. Những con người khắc khổ, những thầy tu khổ hạnh, thoát tục. Điềm tĩnh và tự tin. “Tất cả đều đúng đối với họ” tôi lẩm bẩm một mình. “Họ đâu có phải sống trong hỗn độn và khắc nghiệt của xã hội phương Tây.” Tiếng gầm rú của xe cộ vang đến ngang qua sóng nước con sông Detroit đầy bùn. Một con tàu chạy bằng hơi nước trên Hồ Lớn trong sớm ban mai vọng đến qua ô cửa sổ phòng tôi, dòng sông băng kêu lạo xạo, răng rắc trước mũi tàu. Cuộc sống phương Tây ư? Ồn ào, huyên náo, cùng những tiếng đài rú ầm ĩ, tiếng la hét inh tai của những lời quảng cáo hết đại lý bán xe hơi này đến đại lý khác. Trong Ngôi Nhà Mới thật bình yên làm sao, bình yên làm việc, bình yên suy ngẫm mà không cần phải tự hỏi liệu có ai đó, giống như ở đây, sẽ là người tiếp theo bị đâm sau lưng chỉ vì vài đồng đô la.

I looked at the men before me, watching the play of golden light around their heads, the electric blue of wisdom in their auras, and the interplay of light from their Silver Cords. A picture, in living color, of men of wisdom and of purity. Austere men, ascetic, shut away from the world. Self possessed and self reliant. “All right for them” I mumbled to myself. “They don’t have to live through the rough-and-tumble of Western life.” Across the muddy Detroit River the roar of traffic came in waves. An early Great Lakes steamer came past my window, the river ice crunching and crackling ahead of it. Western Life? Noise. Clatter. Blaring radios shrieking the alleged merits of one car dealer after another. In the New Home there was peace, peace in which to work, peace in which to think without one having to wonder who—as here—was going to be the next to stab one in the back for a few dollars.

“Người anh em của tôi” vị Sư cao niên nói “Chúng tôi đang sống trong sự hỗn độn của mảnh đất bị xâm chiếm, ở đó những người chống lại kẻ áp bức sẽ bị chết vì những đòn tra tấn. Thực phẩm của chúng tôi phải vận chuyển trên những đôi chân qua hàng trăm dặm đường núi cao hiểm trở, nơi mà mỗi bước chân đặt sai chỗ hay một hòn đá cập kênh là có thể ngã lộn nhào hàng trăm mét trước khi chết. Chúng tôi sống nhờ vào ăn một bát tsampa mỗi ngày. Nước uống của chúng tôi lấy từ suối trên núi. Trà là thứ xa xỉ không cần thiết và chúng tôi phải học sống không có nó, để thỏa mãn mình mà đòi hỏi rủi ro với người khác thì quả là tệ. Hãy nhìn chăm chú hơn nữa vào tinh cầu của thầy, Người anh em của tôi, chúng tôi sẽ cố gắng cho thầy thấy Lhasa của ngày hôm nay.”

“My Brother” said the Old Man “We live through the ”rough-and-tumble” of an invaded land wherein to oppose the oppressor is death after slow torture. Our food has to be carried on foot through more than a hundred miles of treacherous mountain paths where a false step or a loose stone could send one tumbling thousands of feet to death. We live on a bowl of tsampa which suffices us for a day. For drink we have the waters of the mountain stream. Tea is a needless luxury which we have learned to do without, for to have pleasures which necessitate risks for others is evil indeed. Look more intently into your crystal, my Brother, and we will endeavor to show you the Lhasa of today.”

Tôi nhỏm dậy khỏi chỗ ngồi cạnh cửa sổ và kiểm tra chắc chắn cả ba cánh cửa phòng mình đã đóng chặt an toàn. Chẳng có cách nào ngăn được tiếng ồn không ngớt của phương tiện giao thông, xe cộ ở đây, cả bên bờ sông phía Canada, và càng không thể tắt được tiếng ồn ào, náo nhiệt của Detroit. Giữa tôi và dòng sông là con đường chính, nó gần với tôi nhất, rồi tới sáu tuyến đường ray tàu hỏa. Tiếng ồn ư? Không bao giờ ngừng cả! Nhìn lướt qua lần cuối khung cảnh tất bật của cuộc sống hiện đại trước mặt, tôi kéo tấm mành che rồi trở về chỗ ngồi quay lưng ra cửa sổ. Tinh thể trước mặt tôi rung động ánh sáng màu xanh, ánh sáng thay đổi và xoáy cuộn khi tôi quay lại phía nó. Tôi nâng nó lên và chạm nhẹ nó vào đầu để thiết lập “mối giao tiếp” cảm giác ấm áp đầu nơi đầu ngón tay, một dấu hiệu chắc chắn rằng rất nhiều năng lượng đã được truyển đến nó từ một nguồn bên ngoài.

I arose from my seat by the window, and made sure that the three doors to my room were safely shut. There was no way of silencing the incessant roar of traffic, traffic on this, the riverside of Canada, and the more muted hum of pulsing, bustling Detroit. Between me and the river was the main road, closest to me, and the six tracks of the railroad. Noise? There was no end to it! With one last glance at the scurrying modern scene before me, I closed the Venetian blinds and resumed my seat with my back to the window. The crystal before me was pulsating with blue light, light that changed and swirled as I turned towards it. As I picked it up and touched it briefly to my head to again establish “rapport” it felt warm to my fingers, a sure sign that much energy was being directed to it from an external source.

Vị Trụ Trì cao niên nhân từ nhìn tôi với một nụ cười thoáng qua khuôn mặt Ngài, rồi dường như có một vụ nổ xảy ra. Hình ảnh bị chao đảo tạo ra sự pha trộn của vô số sắc màu không liên quan và những dải màu xoáy. Đột nhiên như thể ai đó đã mở toang cánh cửa giữa bầu trời, và tôi đang đứng bên cánh cửa đó. Toàn bộ cảm giác “nhìn vào trong tinh thể” biến mất. Tôi đã ở trong đó!

The face of the Aged Abbot looked benignly upon me and a fleeting smile crossed his face, then, it were as if an explosion occurred. The picture became disoriented, a patchwork of a myriad non-related colors and swirling banners. Suddenly it was as if someone had thrown open a door, a door in the sky, and as if I were standing at that open door. All sensation of “looking in a crystal” vanished. I was there!

Phía dưới tôi, trong ánh tà dương chiếu sáng nhẹ nhàng, là quê hương Lhasa. Nép mình dưới sự bảo vệ của những dãy núi hùng vĩ, với dòng sông Hạnh phúc chảy qua Thung lũng xanh. Một lần nữa nỗi nhớ nhà da diết lại trỗi dậy. Tất cả sự hận thù đố kị và khó khăn của cuộc sống Phương Tây dâng trào trong tôi, và trái tim tôi như tan nát. Niềm vui và nỗi buồn, cùng sự rèn luyện nghiêm ngặt mà tôi đã trải qua ở đó, hình ảnh quê hương làm trào dâng trong tôi cảm giác phát điên với sự thiếu hiểu biết đến mức tàn nhẫn của người phương Tây.

Beneath me, glowing softly in the evening sunlight, was my home, my Lhasa. Nestling under the protection of the mighty mountain ranges, with the Happy River running swiftly through the green Valley. I felt again the bitter pangs of homesickness. All the hatreds and hardships of Western Life welled up within me and it seemed that my heart would break. The joys and sorrows and the rigorous training that I had undergone there, the sight of my native land made all my feelings revolt at the cruel lack of understanding of the Westerners.

Nhưng không phải tôi đến đó để tận hưởng vui sướng! Từ từ, tôi dường như được hạ xuống xuyên qua bầu trời, thấp dần như thể đang ở trong một quả bóng bay đáp nhẹ nhàng. Cách mặt đất vài trăm mét, tôi kêu lên kinh ngạc. Sân bay ư? Có nhiều sân bay ở xung quanh thành phố Lhasa! Có vẻ không quen thuộc lắm, và khi nhìn quanh tôi thấy rằng có hai con đường mới vượt qua những dãy núi, và đi dần xuống theo hướng đi Ấn Độ. Giao thông với những xe cộ có bánh xe, di chuyển rất nhanh trên những con đường này. Tôi bay xuống thấp hơn, dưới sự kiểm soát của những người đã đưa tôi đến đây, thấp hơn nữa, và rồi thấy những công trường đào bới với những người nô lệ đào móng dưới sự kiểm soát của quân đội Trung Quốc. Thật kinh hoàng! Dưới chân cung điện Potala vinh quang ngổn ngang những túp lều bẩn thỉu bên lề mạng lưới đường đất. Những sợi dây nhếch nhác nối giữa các khu trại, tạo ra không gian nhếch nhác, cẩu thả ở nơi này. Tôi nhìn chăm chú nhìn cung điện Potala và chiếc răng linh thiêng của Đức Phật! – Cung điện bị xúc phạm bởi những khẩu hiệu của Trung Quốc! Nấc lên vì đau đơn tôi quay đi nhìn nơi khác.

But I was not there for my own pleasure! Slowly I seemed to be lowered through the sky, lowering as though I were in a gently descending balloon. A few thousand feet above the surface and I exclaimed in horrified amazement. Airfield? There were airfields around the City of Lhasa! Much appeared unfamiliar, and as I looked about me I saw that there were two new roads coming over the mountain ranges, and diminishing in the direction of India. Traffic, wheeled traffic, moved swiftly along. I dropped lower, under the control of those who had brought me here. Lower, and I saw excavations where slaves were digging foundations under the control of armed Chinese. Horror of Horrors! At the very foot of the glorious Potala sprawled an ugly hut-city served by a network of dirt roads. Straggling wires linked the buildings and gave a slovenly, unkempt air to the place. I gazed up at the Potala, and by the Sacred Tooth of Buddha!—the Palace was desecrated by Chinese slogans! With a sob of sick dismay I turned to look elsewhere.

Khi quay đi trong đau đớn, tôi nghe một tiếng thét của một người phụ nữ từ phía sau tòa nhà, theo sau là tràng tiếng cười thô bạo. Có tiếng chửi thề bằng tiếng Trung Quốc, khi người phụ nữ chắc hẳn đã cắn kẻ tấn công cô, và tiếng bọt sủi rít lên trong họng khi cô bị đâm.

As I turned away, sickened, I heard a feminine scream from behind a building, followed by a coarse laugh. A Chinese oath as the woman evidently bit her attacker, and a bubbling shriek as she was stabbed in return.

Bầu trời đêm xanh thẫm trên cao, những đốm sáng sắc màu lấp lánh từ các vì tinh tú. Nhiều nơi trong đó tôi biết có cư dân đang sinh sống, và tôi tự hỏi, liệu có bao nhiêu thế giới man rợ như Trái đất này? Xung quanh tôi là những xác chết. Những thi thể không được chôn cất, sẽ không phân hủy được trong khí hậu lạnh giá của Tây Tạng cho đến khi những con kền kền và động vật hoang dã tới ăn. Không một con chó nào ở đây lúc này để làm công việc đó, vì người Trung Quốc đã giết chúng để làm thức ăn. Giờ đây không còn một con mèo nào canh gác các ngôi đền ở Lhasa nữa, vì chúng cũng đã bị giết thịt. Cái chết ư? Mạng sống của người Tây Tạng đối với quân Trung Quốc không có giá trị hơn việc vặt một ngọn cỏ.

Above me, the dark blue of the night sky, liberally be-sprinkled with the pin-points of colored lights which were other worlds. Many of them, as I knew, were inhabited. How many I wondered, were as savage as this Earth? Around me were bodies. Unburied bodies. Bodies pre-served in the frigid air of Tibet until the vultures and any wild animals ate them up. No dogs here now to help in that task, for the Chinese had killed them off for food. No cats now guarded the temples of Lhasa, for they too had been killed. Death? Tibetan life was of no more value to the invading Communists than plucking a blade of grass.

Cung điện Potala hiện ra trước mắt tôi. Lúc này đây, trong ánh sao sáng mờ, những khẩu hiệu thô bạo của Trung Quốc hòa quyện với bóng tối và không thấy được. Ánh đèn pha được gắn bên trên Ngôi mộ Linh thiêng, chiếu sáng Thung lũng của Lhasa như một ánh nhìn hiểm ác. Y viện Chakpori của tôi, nhìn thê thảm và tuyệt vọng làm sao. Từ trên đỉnh của nó vọng đến bài hát Trung Quốc tục tĩu. Trong một lúc, tôi đắm mình trong suy tư sâu lắng. Bất ngờ, một Tiếng Nói vang lên: “Người anh em của ta, cậu cần phải đi thôi, cậu đã vắng mặt lâu quá rồi. Khi lên cao, cậu sẽ thấy rõ.”

The Potala loomed before me. Now, in the faint star-light, the crude slogans of the Chinese blended with the shadows and were not seen. A searchlight, mounted above the Sacred Tombs, glared across the Valley of Lhasa like a malignant eye. The Chakpori, my Medical School, looked gaunt and forlorn. From its summit came snatches of an obscene Chinese song. For some time I remained in deep contemplation. Unexpectedly, a Voice said: “My Brother, you must come away now, for you have been absent long. As you rise, look about you well.”

Tôi chầm chậm bay lên không trung, giống như nùi bông bồng bềnh phiêu bạt trong làn gió. Lúc này mặt trăng đã lên cao, chiếu rọi Thung lũng và các đỉnh núi với ánh sáng bạc tinh khiết. Tôi kinh hoàng nhìn vào các lạt ma viện cổ xưa đã bị ném bom, những tài sản của Nhân loại đã vỡ vụn nằm rải rác, bị bỏ hoang không người chăm sóc. Những thi thể không được chôn cất chất thành đống, được bảo quản trong cái lạnh vĩnh cửu. Một vài xác người vẫn còn ôm chặt bánh xe cầu nguyện, một số khác bị lột sách quần áo và bị xé rách thành từng mảng thịt đẫm máu vì bom nổ và mảnh vụn kim loại. Tôi thấy một Bức Tượng Thiêng còn nguyên vẹn, đang nhìn xuống như thể xót thương hành động sát nhân điên rồ của loài người.

Slowly I rose into the air, like thistledown bobbing in a vagrant breeze. The moon had risen now, flooding the Valley and mountain peaks with pure and silvery light. I looked in horror at ancient lamaseries, bombed and untenanted, with all the debris of Man’s earthly possessions strewn about uncared for. The unburied dead lay in grotesque heaps, preserved by the eternal cold. Some clutched prayer wheels, some were stripped of clothing and ripped into tattered shreds of bloody flesh by bomb blast and metal splinters. I saw a Sacred Figure, intact, gazing down as if in compassion at the murderous folly of mankind.

Trên những con dốc hiểm trở, nơi các am thất bám cheo leo trong vòng tay yêu thương của sườn núi, tôi thấy từng cái từng cái đã bị những tên xâm lược cướp bóc. Các ẩn sĩ, sống đơn độc nhiều năm trong bóng tối để tìm kiếm sự phát triển tâm linh, đã bị mù ngay khi ánh mặt trời chiếu vào am thất của họ. Hầu như không có ngoại lệ, vị ẩn sĩ nằm chết sõng soài bên cạnh ngôi miếu đổ nát, cùng với người bạn cũng là người hầu cận trọn đời của ông nằm chết bên cạnh.
Tôi không thể nhìn lâu hơn được nữa. Tàn sát ư? Giết một cách vô cảm những nhà sư thuần khiết, không tự vệ? Để làm gì chứ? Tôi quay đi và thỉnh cầu những người hướng dẫn đưa mình ra khỏi nghĩa địa này.

Upon the craggy slopes, where the hermitages clung to the sides of the mountains in loving embrace, I saw hermitage after hermitage which had been despoiled by the invaders. The hermits, immured for years in solitary darkness in search of spiritual advancement, had been blinded on the instant when sunlight had entered their cells. Almost without exception, the hermit was stretched dead beside his ruined home, with his life-long friend and servant stretched dead beside him.
I could look no more. Carnage? Senseless murder of the innocent, defenseless monks? What was the use? I turned away and called upon those who guided me to remove me from this graveyard.

Nhiệm vụ của tôi trong cuộc đời này, tôi đã được biết ngay từ những ngày đầu, liên quan đến hào quang của con người, mà bức xạ của nó bao quanh toàn bộ cơ thể, và màu sắc linh động của nó thể hiện cho các Đạo Sư biết một người là bậc thông tuệ đáng kính hay không. Một người đau ốm có thể phát hiện được bệnh qua màu sắc hào quang. Mọi người hẳn đã nhận thấy ánh sáng mờ ảo xung quanh đèn đường vào đêm sương mù. Thậm chí một số người còn có thể nhìn thấy rất rõ hiện tượng “tán xạ” của cáp điện cao thế vào những thời điểm nhất định. Hào quang của con người có phần giống như vậy. Nó thể hiện năng lượng sống bên trong. Các họa sĩ ngày xưa đã vẽ hào quang, hay quầng sáng quanh đầu của các vị thánh. Tại sao vậy? Bởi vì họ có thể nhìn thấy hào quang của những người đó. Kể từ khi xuất bản hai cuốn sách đầu tiên của mình, rất nhiều người từ khắp nơi trên thế giới gửi thư cho tôi, và một số người trong đó cũng có thể nhìn thấy hào quang.

My task in life, I had known from the start, was in connection with the human aura, that radiation which entirely surrounds the human body, and by its fluctuating color shows the Adept if a person is honorable or otherwise. The sick person could have his or her illness seen by the colors of the aura. Everyone must have noticed the haze around a street light on a misty night. Some may even have noticed the well-known “corona discharge” from high tension cables at certain times. The human aura is somewhat similar. It shows the life force within. Artists of old painted a halo, or nimbus round the head of saints. Why? Because they could see the aura of those people. Since the publication of my first two books people have written to me from all over the world, and some of those people can also see the aura.

Nhiều năm trước, bác sĩ Kilner, khi nghiên cứu tại bệnh viện London, phát hiện ra rằng ông có thể nhìn được hào quang, trong một vài tình huống nhất định. Ông đã viết một cuốn sách về điều đó. Y học chưa sẵn sàng cho một khám phá như vậy, và tất cả những gì ông đã phát hiện ra đều bị giấu kín. Tôi cũng vậy, tôi cũng đang nghiên cứu, và hình dung về một thiết bị giúp cho các nhà khoa học ngành y hoặc các nhà khoa học nói chung có thể nhìn thấy hào quang của người khác và chữa những căn bệnh “nan y” bằng những rung động sóng siêu âm. Tiền, tiền, đó là vấn đề. Nghiên cứu luôn tốn kém!
Và bây giờ, tôi trầm ngâm, họ muốn tôi đảm nhận một công việc khác! Về sự đổi xác!

Years ago a Dr. Kilner, researching at a London Hospital, found that he could, under certain circumstances, see the aura. He wrote a book about it. Medical science was not ready for such a discovery, and all that he had discovered was hushed up. I too, in my way, am doing research, and I visualize an instrument which will enable any medical man or scientist to see the aura of another and cure “incurable” illnesses by ultra-sonic vibrations. Money, money, that is the problem. Research always was expensive!
And now, I mused, they want me to take on another task! About a change of bodies!

Ngoài cửa sổ, một tiếng động kinh hồn khiến căn nhà rung chuyển. “À,” tôi nghĩ, “Các công nhân đường sắt lại đang bẻ ghi. Sẽ ồn ào thêm một lúc nữa.” Trên sông, con tàu hơi nước Hồ Lớn chuyên chở hàng hóa rúc còi buồn bã giống như bò mẹ rống lên gọi bê con và từ đằng xa vọng lại tiếng vang đáp lời của con tàu khác.

Outside my window there was a shuddering crash which literally shook the house. “Oh,” I thought, ‘The railroad men are shunting again. There will be no more quiet for a long time.” On the river a Great Lakes freight steamer hooted mournfully-like a cow mooing for her calf and from the distance came the echoing response of ano ther ship.

“Người anh em của tôi!” Tiếng Nói lại vọng đến, và tôi vội vàng tập trung vào tinh cầu. Các tu sĩ cao niên vẫn đang ngồi quanh vị Trưởng Thượng ở giữa. Bây giờ trông họ có vẻ mệt mỏi, kiệt sức có lẽ là mô tả chính xác hơn về tình trạng của họ vì đã truyền nhiều năng lượng cho chuyến đi không định trước của tôi.
“Người anh em của tôi, cậu đã thấy rất rõ tình trạng của đất nước chúng ta. Cậu cũng nhìn thấy sự hà khắc của kẻ áp bức. Nhiệm vụ của cậu, hai nhiệm vụ rất rõ ràng trước mắt và cậu có thể thành công cả hai, vì vinh quang của Sứ Mệnh chúng ta.”

“My Brother!” The Voice came to me again, and hastily I gave my attention to the crystal. The old men were still sitting in a circle with the Aged Patriarch in the center. Now they were looking tired, exhausted would perhaps describe their condition more accurately, for they had transmitted much power in order to make this impromptu, unprepared trip possible.
“My Brother, you have seen clearly the condition of our country. You have seen the hard hand of the oppressor. Your task, your two tasks are clear before you and you can succeed at both, to the glory of our Order.”

Vị cao niên mệt mỏi có vẻ đang lo lắng. Ông biết, cũng như tôi biết, là tôi có thể từ chối nhiệm vụ này với sự tôn kính. Tôi đã bị hiểu lầm nặng nề qua những câu chuyện dối trá được lan truyền bởi một nhóm người định kiến ác ý. Tuy nhiên, tôi có khả năng thấu thị và thần giao cách cảm mạnh mẽ. Du hành bằng thể vía đối với tôi còn dễ hơn cả đi bộ. Viết lách thì sao? Ồ, được thôi, người ta có thể đọc những điều tôi đã viết và nếu không phải tất cả họ đều tin thì chí ít những người đã phát triển đầy đủ sẽ tin và biết sự thật.

The tired old man was looking anxious. He knew—as I knew—that I could with honor refuse this task. I had been greatly misunderstood through the lying tales spread by an ill-disposed group. Yet I was very highly clairvoyant, very highly telepathic. Astral traveling to me was easier than walking. Write? Well, yes, people could read what I wrote and if they could not all believe, then those who were sufficiently evolved would believe and know the truth.

“Người anh em của tôi” Vị Cao Niên nhẹ nhàng nói, “Thậm chí ngay cả những người chưa giác ngộ, chưa khai sáng, cho rằng cậu viết chuyện hư cấu, thì điều đó cũng đủ để Chân lý đi vào tiềm thức của họ, và ai mà biết được? Hạt giống nhỏ về chân lý có thể đơm hoa trong kiếp sống nay hay kiếp sau của họ. Như chính Đức Phật đã nói trong Dụ ngôn về Ba cỗ xe ngựa, rằng mục đích biện minh cho phương tiện.”
Dụ ngôn về Ba chiếc xe ngựa kéo! Điều này đã khơi dậy trong tôi những ký ức sống động. Tôi nhớ biết bao người Thầy và cũng là người Bạn thân yêu của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức đã dạy dỗ tôi tại tu viện Chakpori.

“My Brother” said the Old Man, softly, “Even though the unevolved, the unenlightened, pretend to believe that you write fiction, enough of the Truth will get to their sub-conscious and—who knows?—the small seed of truth may blossom in this or in their next life. As the Lord Buddha Himself has said in the Parable of the Three Chariots, the end justifies the means.”
The Parable of the Three Chariots! What vivid memories that brought back to me. How clearly I remember my beloved guide and friend, the Lama Mingyar Dondup instructing me at the Chapkori.

Khi ấy một vị tăng y già đang xoa dịu nỗi sợ hãi của một người phụ nữ rất ốm yếu bằng “lời nói dối vô hại”. Và tôi, còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, đầy tự mãn, đã bày tỏ sự ngạc nhiên sửng sốt rằng một tăng y lại nói dối, thậm chí trong trường hợp khẩn cấp như vậy. Thầy đi về phía tôi, và nói: “Chúng ta hãy đến phòng của Thầy, Lobsang. Chúng ta có thể vận dụng Kinh Phật theo chiều hướng có lợi.” Thầy nhìn tôi mỉm cười, trong vòng hào quang nhân từ, ấm áp khi quay lại và bước đi bên cạnh tôi đến căn phòng của thầy, nhìn ra phía cung điện Potala.

An old medical monk had been easing the fears of a very sick woman with some harmless “white lie”. I, young and inexperienced, had, with smug complacency, been expressing shocked surprise that a monk should tell an untruth even in such an emergency. My Guide had come along to me, saying, “Let us go to my room, Lobsang. We can with profit turn to the Scriptures.” He smiled at me with his warm, benevolent aura of contentment as he turned and walked beside me to his room far up, overlooking the Potala.

“Trà và bánh Ấn Độ, phải, chúng ta cần phải ăn nhẹ, Lobsang, vì nó có thể làm con tiếp thu tốt hơn.” Vị sư cần vụ thấy chúng tôi vào phòng, đã tự động mang vào những món ngon mà tôi ưa thích và tôi chỉ được thưởng thức khi đến phòng của Thầy.
Trong một lát, chúng tôi ngồi nói chuyện vu vơ, hay đúng hơn là tôi nói chuyện trong khi ăn. Rồi khi tôi đã ăn xong, vị Lạt ma danh tiếng nói: “Có những trường hợp ngoại lệ đối với mọi quy tắc, Lobsang ạ, và mỗi đồng xu đều có hai mặt. Đức Phật đã giảng dạy rất nhiều cho bạn bè và môn đệ của Ngài, nhiều điều Ngài nói được viết lại và bảo tồn. Có một câu chuyện rất thích hợp cho lúc này. Thầy sẽ kể con nghe.” Người ngồi lại ngay ngắn, hắng giọng rồi tiếp:

“Tea and Indian cakes, yes, we must have refreshment, Lobsang, for with refreshment you can also digest information.” The monk-servant, who had seen us enter, appeared unbidden with the delicacies which I liked and which I could only obtain through the good offices of my Guide.
For a time we sat and talked idly, or rather I talked as I ate. Then, as I finished, the illustrious Lama said: “There are exceptions to every rule, Lobsang, and every coin or token has two sides. The Buddha talked at length to His friends and disciples, and much that He said was written down and preserved. There is a tale very applicable to the present. I will tell it to you.” He resettled himself, cleared his throat, and continued:

“Đó là câu chuyện về Ba chiếc Xe ngựa. Gọi như vậy là bởi vì xe ngựa kéo rất cần đối với các chàng trai thời đó, cũng như cà kheo và bánh ngọt Ấn Độ bây giờ ấy. Đức Phật đang nói chuyện với một trong những môn đệ của Ngài là Xá Lợi Phất. Họ đang ngồi dưới bóng mát của một trong những cây cổ thụ ở Ấn Độ, thảo luận về sự thật và dối trá, và về cách mà giá trị của sự thật đôi khi còn không bằng lời nói dối vì lòng tốt.”

“This is the tale of the Three Chariots. Called so because chariots were greatly in demand among the boys of those days, just as stilts and Indian sweet cakes are now. The Buddha was talking to one of His followers named Sariputra. They were sitting in the shade of one of the large Indian trees discussing truth and untruth, and how the merits of the former are sometimes outweighed by the kindness of the latter.”

Đức Phật nói: “Bây giờ, Xá Lợi Phất, chúng ta hãy lấy trường hợp của một người đàn ông rất giàu có, giàu đến nỗi có khả năng thỏa mãn mọi ý thích của gia đình mình. Ông có một ngôi nhà lớn và nhiều con trai. Kể từ ngày có con, ông đã làm tất cả mọi thứ để bảo vệ chúng khỏi nguy hiểm. Những đứa trẻ không biết đến nguy hiểm và không có một chút kinh nghiệm nào về sự đau đớn. Một hôm, ông rời điền trang và đi đến ngôi làng lân cận vì công việc kinh doanh. Khi trở về ông nhìn thấy khói đang cuồn cuộn bốc lên bầu trời. Ông vội vàng đi nhanh hơn và khi về tới nhà thì ông thấy nó đang bốc cháy. Bốn bức tường và mái nhà đang cháy rực lửa. Bên trong ngôi nhà, những đứa con của ông vẫn đang chơi đùa, vì chúng không biết thế là nguy hiểm. Chúng có thể thoát ra ngoài nhưng chúng không biết được ý nghĩa của sự đau đớn vì chúng đã được che chở quá nhiều; chúng không hiểu được sự nguy hiểm của hỏa hoạn vì ngọn lửa duy nhất mà chúng đã nhìn thấy là ở trong bếp.”

The Buddha said:”Now, Sariputra, let us take the case of a very rich man, a man so rich that he could afford to gratify every whim of his family. He is an old man with a large house and with many sons. Since the birth of those sons he has done everything to protect them from danger. They know not danger and they have not experienced pain. The man left his estate and his house and went to a neighboring village on a matter of business. As he returned he saw smoke rolling up into the sky. He hurried faster and as he approached his home he found that it was on fire. All the four walls were on fire, and the roof was burning. Inside the house his sons were still playing, for they did not understand the danger. They could have got out but they did not know the meaning of pain because they had been so shielded; they did not understand the danger of fire because the only fire they had seen had been in the kitchens.”

Người đàn ông lo lắng vô cùng, làm thế nào có thể vào nhà và cứu các con mình đây? Rồi ông cũng vào được trong và thấy rằng chỉ có thể bế được một đứa ra, còn những đứa khác sẽ vẫn chơi và nghĩ đây chỉ là một trò đùa. Trong số chúng có đứa còn rất nhỏ, chúng có thể chập chững bước vào lửa vì chưa được học là nó đáng sợ. Người cha đến bên cửa và gọi chúng: “Các con, các con của cha, hãy đi ra nào. Đến đây ngay lập tức.”

The man was greatly worried for how could he alone get into the house and save his sons? Had he entered, he could perhaps have carried out one only, the others would have played and thought it all a game. Some of them were very young, they might have rambled and walked into the flames they had not learned to fear. The father went to the door and called to them, saying:”Boys, boys, come out. Come here immediately.”

Nhưng bọn trẻ không muốn vâng lời cha, chúng muốn chơi, chúng muốn chui vào giữa nhà để tránh cái nóng ngày càng tăng. Người cha nghĩ bụng: “Mình biết rõ về các con mình, mình biết chính xác về chúng, sự khác biệt trong tính cách của chúng, tính tình từng đứa một; mình biết chúng sẽ chỉ đi ra ngoài nếu chúng nghĩ ở đó có lợi gì đó, có đồ chơi mới ở đây.” Và vì thế ông quay trở lại cửa và gọi to: “Các con ơi, hãy ra đây, hãy ra đây ngay nào. Cha có đồ chơi cho các con để cạnh cửa đây. Xe bò kéo, xe dê kéo, và có cả một chiếc xe lướt nhanh như gió vì được con hươu kéo. Hãy đến nhanh nếu không sẽ hết phần.”

But the boys did not want to obey their father, they wanted to play, they wanted to huddle in the center of the house away from the increasing heat which they did not understand. The father thought: “I know my sons well, I know them exactly, the differences in their characters, their every shade of temperament; I know they will only come out if they think there is some gain, some new toy here.” And so he went back to the door and called loudly: “Boys, boys, come out, come out immediately. I have toys for you here beside the door. Bullock chariots, goat chariots, and a chariot as fleet as the wind because it is drawn by a deer. Come quickly or you shall not have them.”

Các cậu bé, không sợ lửa, cũng không sợ cả nguy hiểm từ ngọn lửa trên mái nhà và các bức tường đang cháy, mà chỉ sợ không nhận được đồ chơi, liền đổ xô ra cửa. Chúng vội vã, chen chúc, xô đẩy nhau trong sự háo hức, mong muốn là người đầu tiên nhận được món đồ chơi và được chọn trước. Và khi đứa nhỏ cuối cùng rời khỏi ngôi nhà, mái nhà đang cháy đổ sụp xuống, văng tung tóe những tia lửa và các mảnh vỡ. Các cậu bé không chú ý gì đến những nguy hiểm vừa qua, mà chỉ kêu ầm lên. “Cha ơi, cha, đồ chơi mà cha hứa cho chúng con đâu? Ba cỗ xe ngựa kéo đâu rồi? Chúng con đã chạy ra nhanh thế mà không thấy đồ chơi. Cha đã hứa mà, cha ơi.”

The boys, not fearing the fire, not fearing the dangers of the flaming roof and walls, but fearing only to lose the toys, came rushing out. They came rushing, scrambling, pushing each other in their eagerness to be first to reach the toys and have first choice. And as the last one left the building, the flaming roof fell in amid a shower of sparks and debris.
The boys heeded not the dangers just surmounted, but set up a great clamor. “Father, father, where are the toys which you promised us? Where are the three chariots! We hurried and they are not here. You promised, father.”

Người cha, một người giàu có, mà đối với ông mất đi một ngôi nhà cũng không phải điều gì quá ghê ghớm, lúc này bọn trẻ đã an toàn, ông vội đưa chúng đi và mua cho chúng đồ chơi, những chiếc xe ngựa kéo. Ông đã biết dùng tài khéo léo của mình để cứu mạng các con.
Đức Phật quay sang Xá Lợi Phất và nói:” Nào, Xá Lợi Phất, không phải là sự giả dối đó sao? Không phải là người đàn ông đó đã sử dụng giải pháp vô hại để đạt được mục đích đó sao? Nếu Không có sự hiểu biết của ông ấy thì những đứa con đã bị lửa thiêu cả rồi sao.”
Xá Lợi Phất quay sang Đức Phật và nói: “Ồ, vâng, thưa Thầy, mục đích đúng là biện minh cho phương tiện và đem lại nhiều điều tốt.”

The father, a rich man to whom the loss of his house was no great blow, now that his sons were safe, hurried them off and bought them their toys, the chariots, knowing that his artifice had saved the lives of his sons.
The Buddha turned to Sariputra and said:”Now Sariputra, was not that artifice justified? Did not that man by using innocent means, justify the end? Without his knowledge his sons would have been consumed in the flames. Sariputra turned to the Buddha and said:” Yes, Oh Master, the end well justified the means and brought much good.”

Lạt ma Minh Gia Đại Đức mỉm cười với tôi khi nói:”Con đã bị bỏ ở bên ngoài Chakpori ba ngày, con đã nghĩ rằng mình bị cản không được vào tu viện, nhưng đó là chúng ta đang kiểm tra con, ý nghĩa của nó là phương tiện được biện minh bởi mục đích, để cho con tiến bộ thật tốt.”

The Lama Mingyar Dondup smiled at me as he said, “You were left for three days outside the Chakpori, you thought you were barred from entry, yet we were using a test on you, a means which was justified in the end, for you progress well.”

Tôi cũng đang theo phương châm “Phương tiện sẽ được biện minh bởi mục đích”. Tôi đang viết cuốn sách này, câu chuyện có thật của tôi – Con mắt Thứ ba và Bác sĩ từ Lhasa cũng hoàn toàn là sự thật –rồi sau này tôi có thể tiếp tục công việc viết về hào quang của mình. Nhiều người viết thư hỏi lý do tôi viết sách đến mức tôi phải giải thích cho họ; tôi viết về sự thật để người phương Tây có thể biết rằng Linh hồn của con người cao quý hơn những con tàu vũ trụ, hay tên lửa. Rốt cục rồi Con Người cũng sẽ có thể du hành tới những hành tinh khác bằng thể vía như tôi đã làm! Nhưng Người Phương Tây sẽ chưa du hành được chừng nào họ còn chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình, sự tiến bộ của bản thân mình và chẳng quan tâm đến quyền lợi của kẻ khác.

I too am using “a means which will be justified in the end”. I am writing this, my true story—The Third Eye and Doctor from Lhasa are absolutely true also—in order that I may later continue with my aura work. So many people have written to ask why I write that I give them the explanation; I write the truth in order that Western people may know that the Soul of man is greater than these sputniks, or fizzling rockets. Eventually Man will go to other planets by astral travel as I have done! But Western Man will not so go while all he thinks of is self gain, self advancement and never mind the rights of the other fellow.

Tôi viết ra sự thật này để tương lai nó có thể thúc đẩy sự tiến bộ về hào quang của con người. Hãy nghĩ về điều này (nó sẽ xảy ra), một bệnh nhân bước vào phòng khám. Bác sĩ không cần phải đặt các câu hỏi, ông ta chỉ cần lấy một cái máy ảnh đặc biệt và chụp ảnh hào quang của người bệnh. Trong vòng một phút hoặc hơn thế, người bác sĩ không có khả năng thấu thị này đã có trong tay một bức ảnh về hào quang của bệnh nhân. Ông ta nghiên cứu nó, những đường vân và sắc thái của màu sắc hào quang, cũng giống như một bác sĩ tâm thần học nghiên cứu bản ghi sóng não của người bị bệnh tâm thần vậy.

I write the truth in order that I may later advance the cause of the human aura. Think of this (it will come), a patient walks into a doctor’s consulting room. The doctor does not bother to make any enquiries, he just takes out a special camera and photographs the aura of the patient. Within a minute or so, this non-clairvoyant medical practitioner has in his hand a color-photograph of his patient’s aura. He studies it, its striations and shades of color, just as a psychiatrist studies the recorded brain waves of a mentally sick person.

Vị bác sĩ đa khoa, sau khi so sánh bức ảnh hào quang với biểu đồ chuẩn, sẽ viết ra lộ trình điều trị với tần số siêu âm và quang phổ màu sắc để chữa những khiếm khuyết trong hào quang của người bệnh. Bệnh ung thư sao? Nó sẽ được chữa lành thôi. Bệnh lao ư? Bệnh này cũng chữa được. Vô lý ư? Vâng, chỉ một thời gian ngắn trước đây, sẽ là “vô lý” khi nghĩ sóng vô tuyến sẽ được phát ngang qua Đại Tây Dương. “Vô lý” khi nghĩ bay hàng ngàn cây số trong một giờ. Người ta nói rằng cơ thể con người sẽ không chịu được. “Vô lý” khi nghĩ đến bay vào không gian. Những chú khỉ đã bay rồi đấy thôi. Ý tưởng “vô lý” này của tôi. Tôi đã từng nhìn thấy nó hoạt động!

The general practitioner, having compared the color-photograph with standard charts, writes down a course of ultra-sonic and color spectrum treatments which will repair the deficiencies of the patient’s aura. Cancer? It will be cured. T.B.? That too will be cured. Ridiculous? Well, just a short time ago it was “ridiculous” to think of sending radio waves across the Atlantic. “Ridiculous” to think of flying at more than a hundred miles an hour. The human body would not stand the strain, they said. “Ridiculous” to think of going into space. Monkeys have already. This “ridiculous” idea of mine. I have seen it working!

Những tiếng ồn từ bên ngoài ập vào phòng đưa tôi trở về thực tại. Những tiếng ồn ư? Khi chuyển ghi những con tàu, tiếng còi hụ của xe cứu hỏa đang lao nhanh, và những tiếng nói chuyện ồn ào của những người đang dồn đến khu giải trí sáng rực ánh đèn. “Lát nữa”, tôi tự nhủ, “khi những tiếng ồn ào khủng khiếp này ngừng lại, tôi sẽ sử dụng tinh cầu để nói với Họ rằng tôi sẽ viết như được yêu cầu.”
“Cảm giác ấm áp” đang trào dâng lên trong tôi cho biết rằng “Họ” đã biết, và rất vui mừng.
Vì vậy, như được hướng dẫn, đây là sự thật, Câu chuyện của Rampa.

The noises from without penetrated my room, bringing me back to the present. Noises? Shunting trains, a screaming fire engine whizzed by, and loud-talking people hasten in to the bright lights of a local place of entertainment. “Later,” I tell myself, “when this terrible clamor stops, I will use the crystal and will tell Them that I will do as they ask.”
A growing “warm-feeling” inside tells me that “They” already know, and are glad.
So, here as it is directed, the truth, The Rampa Story.

Người dịch: Nguyễn Thị Nguyệt Khánh

Biên tập: VMC