Chương 10: Hang Động Người Xưa – Lobsang Rampa

Ông thầy không được vui; có lẽ do tách trà của ông đã quá nguội, hoặc món tsampa chưa được nướng hoặc trộn theo đúng ý. Ông có vẻ khó chịu; đám học trò chúng tôi ngồi trong lớp chỉ biết run lên vì sợ. Bất ngờ ông tóm lấy vài cậu học trò bên phải rồi bên trái tôi. Tôi có trí nhớ tốt, thuộc hết những Bài đã học– Tôi có thể đọc lại một chương hay một tiết của bất kỳ phần nào trong một trăm lẻ tám cuốn sách Kangyur (Đại Tạng Kinh Tây Tạng). “Bộp!Bộp!” Tôi nhảy dựng lên với vẻ ngạc nhiên, và khoảng ba cậu bạn bên trái và ba cậu bên phải cũng nhảy dựng lên đầy kinh ngạc. Trong khoảng khắc, chúng tôi không biết ai trong chúng tôi đang bị đánh, thế rồi vì thầy càng đánh mạnh hơn nên tôi biết tôi là kẻ không may! Ông vừa đánh vừa lẩm bẩm luôn mồm, “Trò cưng của Lạt ma này! Thằng ngốc được nuông chiều này! Ta sẽ dạy cho mày một bài học!” Bụi bay từ áo choàng của tôi như một đám mây dày đặc khiến tôi bắt đầu hắt hơi. Điều đó càng khiến thầy tức giận và ông thực sự đã đánh liên tục làm cho bụi bay ra nhiều hơn. Thật may là tôi đã biết trước được thái độ khó chịu của ông nên đã mặc nhiều đồ hơn mọi khi, và do đó – thầy chắc hẳn sẽ không vui vẻ gì nếu biết được – những cú đánh của ông ấy không hề khiến tôi lo sợ. Tôi luôn cứng cỏi trong mọi trường hợp.

The Teacher was in a bad mood; perhaps his tea had been too cold, perhaps his tsampa had not been roasted or mixed exactly to his liking. The Teacher was in a bad mood; we boys sat in the classroom just about shivering with fright. Already he had pounced unexpectedly upon boys to my right and boys to my left. My memory was good, I knew the Lessons perfectly—I could repeat chapter and verse from any part of the hundred and eight volumes of The Kan-gyur. “Thwack! Thwack!” I jumped about a foot in the air with surprise, and about three boys to the left and three boys to the right also jumped a foot in the air with surprise. For a moment we hardly knew which of us was getting the hiding, then, as the Teacher laid it on a bit harder I knew that I was the unlucky one! He continued his beating, muttering all the time, “Lama’s favourite! Pampered idiot! I’ll teach you to learn something!” The dust rose from my robe in a choking cloud and started me sneezing. For some reason that enraged the Teacher even more, and he really worked up into knocking more dust out of me. Fortunately—unknown to him—I had anticipated his bad mood and had put on more clothes than usual, so—although he would not have been pleased to know it—his blows did not disturb me unduly. In any case I was hardened.

Ông thầy là một người chuyên chế. Ông theo chủ nghĩa hoàn hảo nhưng bản thân lại không hề hoàn hảo. Chúng tôi không những phải chỉn chu về ngôn từ trong Khóa tu tập mà nếu phát âm, ngữ điệu không đúng theo thầy, ông ấy sẽ dùng roi vòng ra phía sau và vụt vào lưng chúng tôi. Giờ ông ấy vẫn đang tiếp tục đánh tôi, còn tôi gần như chết ngạt vì bụi. Bọn con trai ở Tây Tạng, cũng như mọi nơi, lăn lộn dưới đất khi vật nhau hay chơi đùa, và chúng hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của nữ giới, không cần phải quan tâm phủi hết bụi bẩn khỏi quần áo; thế nên quần áo của tôi cũng đầy cát bụi và điều đó thực sự tốt như sự sạch sẽ của mùa xuân vậy. Thầy tiếp tục đánh tôi, “Ta dạy mi phát âm sai à! Mi tỏ ra coi thường Trí Tuệ Thiên Liêng à! Kẻ ngu dốt được nuông chiều, mi luôn bỏ học rồi trở lại lớp thì biết nhiều hơn những trò mà ta đã dạy – đồ vô dụng – ta sẽ dạy cho mi một bài học, dù sao mi cũng phải học từ ta!”

This Teacher was tyrannical. He was a perfectionist without being perfect himself. Not only did we have to be word-perfect in our Lesson Work, but if the pronunciation, the inflection, was not exactly to his desire he would take out his cane, whip round to the back, and then whip us on our backs. Now he was getting some exercise, and I was nearly suffocating with the dust. Small boys in Tibet, like small boys everywhere, roll in the dust when they fight or when they play, and small boys completely cut off from all feminine influence do not always make sure that the dust is out of their clothing; mine was full of dust and this really was as good as a spring clean. The Teacher went on thwacking away, “I’ll teach you to mispronounce a word! Showing disrespect to the Sacred Knowledge! Pampered idiot, always missing classes and then coming back and knowing more than the ones that I’ve taught—useless brat—I’ll teach you, you’ll learn from me one way or another!”

Ở Tây Tạng, chúng tôi ngồi khoanh chân trên sàn, hầu hết thời gian chúng tôi ngồi trên thảm dày khoảng mười phân, và ngồi trước những chiếc bàn cao khoảng ba mươi đến bốn lăm phân tính từ mặt đất, phụ thuộc vào chiều cao của học trò. Ông thầy đột nhiên ấn đầu tôi xuống bàn, nơi đang đặt bảng đá đen và một vài cuốn sách. Giữ tôi ở vị trí này, ông hít một hơi thật sâu và thực sự phấn khích. Tôi vặn vẹo người theo thói quen, không phải bởi cảm thấy đau, mà bởi chúng tôi đã được tôi luyện nhiều năm dưới sự dạy dỗ của thầy, chúng tôi hầu như đúng nghĩa là “mình đồng da sắt”, và những chuyện như thế này xảy ra thường xuyên như cơm bữa. Có đứa nào cười khúc khích trong sáu hay bảy đứa ngồi bên phải, Sư phụ liền thả tôi ra như thể tôi đột nhiên biến thành cục than nóng đỏ và vồ như một con hổ vào các cậu học trò khác. Tôi đã cẩn thận không để lộ ra niềm vui khi nhìn thấy đám bụi bốc lên từ mấy cậu bạn! Rất nhiều tiếng khóc lóc đau đớn sợ hãi từ phía bên phải tôi, bởi thầy đã đánh túi bụi tụi học trò mà không nhằm cụ thể vào đứa nào. Cuối cùng, không thể thở nổi, và cảm thấy có vẻ ổn hơn, Sư phụ ngưng đánh. “À!” ông thở hổn hển, “trận đòn này sẽ dạy cho bọn mi một chút sợ hãi để chú ý đến những gì ta đang nói. Lobsang Rampa, giờ mi hãy đọc lại và mi phải đảm bảo phát âm một cách chính xác.” Tôi bắt đầu đọc lại từ đầu, và khi tôi tập trung làm một việc gì đó thì tôi thực sự có thể làm đủ tốt. Lần này tôi đã nghĩ kỹ, như vậy Sư phụ sẽ không có cảm giác khó chịu và tôi sẽ không bị ăn đòn nữa.

In Tibet we sit on the floor cross legged, most times we sit on cushions which are about four inches thick, and in front of us we have tables which may be from twelve to eighteen inches from the ground, depending on the size of the student. This Teacher suddenly put his hand forcibly on the back of my head and pushed my head down onto my table where I had a slate and a few books. Having me in a suitable position, he took a deep breath and really got busy. I wriggled just from habit, not because I was being hurt, because in spite of his most earnest endeavors we boys were toughened, we were almost literally “tanned into leather”, and things like this were just an everyday occurrence. Some boy made a soft chuckle six or seven boys away to the right, the Teacher dropped me as if I had suddenly glowed red hot and leapt like a tiger onto the other boy. I was careful to betray no indication of my own amusement when I saw a cloud of dust arising a few boys down the line! There were various exclamations of pain, fright, and horror from my right, because the Teacher was hitting out indiscriminately, not being at all sure which boy it was. At last, out of breath, and no doubt feeling a lot better, the Teacher stopped his exertions. “Ah!” he gasped, “that will teach you little horrors to pay attention to what I am saying. Now, Lobsang Rampa, start again and make sure that you get the pronunciation perfect.” I commenced all over again, and when I thought about a thing I really could do it well enough. This time I thought—and then I thought again—so there were no more hard feelings from the Teacher and harder thwacks on me.

Suốt buổi học kéo dài năm tiếng đồng hồ, thầy liên tục đi tới đi lui, chăm chú theo dõi chúng tôi, và không cần báo trước ông vụt roi lia lịa và tóm ngay một cậu học trò xui xẻo cứ nghĩ là ông không hề hay biết. Ở Tây Tạng, chúng tôi bắt đầu một ngày vào lúc nửa đêm bằng một buổi lễ, và tất nhiên là có thêm vài buổi lễ, thường là vào một số khung giờ nhất định. Sau đó chúng tôi phải làm vài công việc chân tay để giữ sự khiêm nhường và không được “coi thường” những người làm thấp kém. Chúng tôi cũng có một khoảng thời gian nghỉ ngơi và sau đó đến các lớp học. Những lớp học này kéo dài năm tiếng liên tục, và trong suốt khoảng thời gian ấy, các thầy thực sự khiến chúng tôi phải học hành nghiêm chỉnh. Tất nhiên, các lớp học của chúng tôi thường kéo dài hơn năm tiếng mỗi ngày, nhưng riêng khóa học đặc biệt này, khóa học buổi chiều thì kéo dài năm tiếng.

For the whole of that session, five hours in all, the Teacher paraded backwards and forwards keeping a very sharp eye indeed upon all of us, and no provocation at all was needed for him to lash out and catch some unlucky boy just when he thought he was unobserved. In Tibet we have our day starting at midnight, it starts then with a Service, and of course there are regular Services at regular intervals. Then we have to do menial work in order that we may be kept humble, in order that we shall not “look down” on the domestic staff. We also have a period of rest and after that we go to our classes. These classes last five hours non-stop, and during that whole time the teachers were indeed making us learn thoroughly. Our classes, of course, lasted more than five hours a day, but this particular session, the afternoon session, lasted five hours.

Thời gian trôi chậm chạp, cảm tưởng như chúng tôi đã ở trong lớp học đó nhiều ngày. Bóng nắng dường như đứng yên và mặt trời trên đầu như thể cắm rễ tại một điểm. Chúng tôi thở dài trong bực tức và chán nản, ước rằng có một vị Thần nên xuống đây và xách ông thầy đặc biệt này đi khỏi chúng tôi, vì ông ấy là ông thầy tệ nhất, ông ấy dường như quên mất rằng bản thân ông ấy, từ rất lâu rồi, đã từng là một đứa trẻ. Nhưng cuối cùng, tiếng cồng cũng đã vang lên, và từ mái nhà phía trên chúng tôi, tiếng kèn âm vang khắp Thung lũng, và vọng dội lại từ Potala. Ông thầy thở dài, nói, “Chà, ta e rằng ta phải để các trò đi bây giờ, nhưng hãy tin ta, khi gặp lại các con, ta đảm bảo rằng các con sẽ học được điều gì đó!” Ông ra hiệu và chỉ ra phía cửa. Các cậu học trò ở hàng gần nhất đã nhảy lên và thực sự lao ra. Tôi cũng định đi nhưng ông gọi tôi lại. “ Mi ấy, Tuesday Lobsang Rampa,” ông nói, “Mi bỏ đi đến chỗ Thầy của mi và học được nhiều thứ, nhưng đừng quay lại đây để thể hiện với đám học trò của ta, mi đã được dạy bằng thuật thôi miên và các phương pháp khác, ta sẽ xem liệu ta có đuổi được mi ra khỏi đây hay không.” Ông ấy bạt tai tôi và nói tiếp, “Bây giờ hãy biến đi cho khuất mắt, ta ghét nhìn thấy mi ở đây, người ta đang phàn nàn rằng mi đang học được nhiều hơn những đứa học trò của ta.” Ngay sau khi ông ấy buông cổ áo, tôi cũng lao ra và thậm chí không buồn đóng cửa sau lưng. Ông ấy la lớn gì đó nhưng tôi đã chạy quá nhanh để không phải quay lại.

The hours dragged by, it seemed that we had been in that classroom for days. The shadows seemed scarcely to move and the sun overhead seemed as if rooted to one spot. We sighed in exasperation and with boredom, we felt that one of the Gods should come down and remove this particular Teacher from our midst, for he was the worst of them all, apparently forgetting that once, oh, so long ago! he too had been young. But at last, the conches sounded, and high above us on the roof a trumpet blared forth echoing across the Valley, sending an echo back from the Potala. With a sigh the Teacher said, “Well, I am afraid that I have to let you boys go now, but believe me when I see you again I shall make sure that you have learned something!” He gave a sign and motioned toward the door. The boys in the row nearest jumped to their feet and really bolted for it. I was just going as well but he called me back. “You, Tuesday Lobsang Rampa,” he said, “you go away to your Guide and you learn things, but don’t come back here showing up the boys that I have taught, you are being taught by hypnotism and other methods, I am going to see if I cannot get you kicked out.” He gave me a cuff to the side of the head, and continued, “Now get out of my sight, I hate the sight of you here, other people are complaining that you are learning more than the boys whom I teach.” As soon as he let go of my collar I bolted too and did not even bother to shut the door behind me. He bawled out something but I was travelling too fast to go back.

Một số cậu học trò khác đang chờ bên ngoài, tất nhiên là ngoài tầm ngắm của thầy giáo. “Chúng ta cần phải làm một cái gì đó để giải quyết chuyện này,” một cậu nói. “Đúng đấy!” cậu khác nói, “sẽ còn có người thực sự bị tổn thương nếu ông ấy tiếp tục mất kiểm soát như vậy”. “Cậu, Lobsang,” người thứ ba nói, “cậu luôn khoe về Thầy và là Thầy hướng dẫn của cậu, sao không nói gì về việc chúng ta bị đối xử tồi tệ như thế nào?” Tôi nghĩ về điều này, và nó có vẻ là một ý tưởng hay, bởi chúng tôi phải học tập nhưng không có lí do gì chúng tôi phải chịu sự dạy dỗ thô bạo như vậy. Càng nghĩ đến chuyện này thì dường như tôi càng cảm thấy dễ chịu; tôi nên đến gặp Thầy và kể cho Ngài nghe chúng tôi đã bị đối xử như thế nào, sau đó, Ngài sẽ đi xuống đây, yểm bùa vào ông Thầy này và biến ông ấy thành một con cóc hay một thứ gì đó tương tự. “Được rồi!”, tôi kêu lên, “tớ sẽ đi bây giờ.” Nói vậy tôi quay người và chạy đi.

Outside some of the other boys were waiting, well out of earshot of the Teacher of course. “We ought to do something about that one,” said one boy. “Yes!” said another, “somebody is going to get really hurt if he goes on unchecked like that.” “You, Lobsang,” said a third boy, “you are always boasting about your Teacher and Guide, why don’t you say something about the way we are ill-treated?” I thought about it, and it seemed to me to be a good idea, for we had to learn but there was no reason why we should be taught with such brutality. The more I thought about it the more pleasant it seemed; I would go to my Guide and tell him how we were treated, and he would go down and put a spell on this Teacher and turn him into a toad or something like that. “Yes!” I exclaimed, “I will go now.” With that I turned and ran off.

Tôi chạy vội qua các hành lang quen thuộc, đi lên đến tầng gần áp mái. Cuối cùng, tôi rẽ vào Hành Lang khu Lạt ma và nhìn thấy Thầy mình đang ở trong một căn phòng mở cửa. Ngài bảo tôi vào và nói, “Sao vậy, Lobsang! Con trông rất phấn khích. Con mới trở thành Sư trưởng hay có điều gì vậy?” Tôi nhìn Ngài với bộ mặt khá rầu rĩ và nói, “ Thưa Lạt ma Tôn kính, tại sao những học trò chúng con lại bị đối xử tồi tệ ở trong lớp học?” Thầy nhìn tôi nghiêm nghị nói, “Nhưng các con bị đối xử tệ như thế nào hả Lobsang? Ngồi xuống đây và kể ta nghe điều gì khiến con lo lắng nhiều như vậy.”

I hastened along the familiar corridors, ascending up and so that I got nearer the roof. At last I turned into the Lamas’ Corridor and found that my Guide was already in is room with the door open. He bade me enter and said, “Why, Lobsang! You are in a state of excitement. Have you been made an abbot or something?” I looked at him rather ruefully, and said, “Honourable Lama, why are we boys so ill-treated in class?” My Guide looked at me quite seriously and said, “But how have you been treated badly, Lobsang? Sit down and tell me what it is that is worrying you so much.”

Tôi ngồi xuống và bắt đầu kể câu chuyện buồn của mình. Khi tôi đang kể, Thầy không hề đưa ra lời bình luận nào, cũng không ngắt lời. Ngài để tôi kể hết mọi chuyện và đến cuối câu chuyện tôi gần như không thở nổi. “Lobsang”, thầy nói, “con có thấy rằng bản thân cuộc sống cũng chỉ là một trường học?” “Một trường học?” Tôi nhìn Ngài như thể Ngài đột nhiên mất hết cảm giác. Tôi không thể ngạc nhiên hơn, như thể Ngài vừa nói với tôi rằng mặt trời đã tắt và mặt trăng sẽ thay thế! “Thưa Lạt ma Tôn kính,” tôi sửng sốt nói, “có phải Thầy nói cuộc sống là một trường học không?” “Đúng là ta đã nói như vậy, Lobsang à, nghỉ ngơi một chút đi, chúng ta hãy uống trà rồi sau đó sẽ nói chuyện.”

I sat down, and commenced my sad recital. During the time I was speaking my Guide made no comment, made no interruption whatever. He allowed me my say, and at last reached the end of my tale of woe and almost the end of my breath. “Lobsang,” said my Guide, “does it occur to you that life itself is just a school?” “A school?” I looked at him as if he had suddenly taken leave of his senses. I could not have been more surprised if he had told me that the sun had retired and the moon had taken over! “Honourable Lama,” I said in astonishment, “did you say that life was a school?” “Most certainly I did, Lobsang, rest awhile, let us have tea, and then we will talk.”

Người phục vụ vừa được gọi đã mang trà và những thứ khoái khẩu cho chúng tôi. Thầy thực sự ăn rất ít. Như Ngài đã từng nói, tôi ăn bằng khoảng bốn người như Ngài! Nhưng Ngài nói điều đó với một nụ cười và nháy mắt nên không có hàm ý xúc phạm hay quy chụp. Ngài hay trêu chọc tôi và tôi biết rằng Ngài không bao giờ nói điều gì làm tổn thương người khác. Tôi thực sự không bận tâm đến những gì Ngài nói với tôi, vì tôi biết Ngài có ý tốt như thế nào. Chúng tôi ngồi và uống trà, và sau đó Thầy viết mấy chữ và đưa cho người phục vụ để chuyển cho một Lạt ma khác. “Lobsang, ta đã nói rằng con và ta sẽ không dự buổi Lễ tối nay, vì chúng ta còn nhiều điều để thảo luận, và mặc dù tham gia các buổi Lễ là những việc rất cần thiết, nhưng xét hoàn cảnh đặc biệt của con – cần phải cung cấp thêm điều kiện học tập cho con hơn mức bình thường. ”

The attendant who was summoned soon brought us tea and enjoyable things to eat. My Guide partook of food very sparingly indeed. As he once said, I ate enough to keep about four of him! But he said it with such a twinkling smile that there was no offence implied or taken. He often teased me and I knew that he would never under any consideration say anything that would hurt another person. I really did not mind in the least what he said to me, knowing how well he meant it. We sat and had our tea, and then my Guide wrote a little note and gave it to the attendant to deliver to another Lama. “Lobsang, I have said that you and I will not be at Temple Service this evening, for we have much to discuss, and although Temple Services are very essential things so—in view of your special circumstances—is it necessary to give you more tuition than average.”

Ngài đứng dậy và đi ra phía cửa sổ. Tôi cũng bước theo và đứng cạnh thầy, bởi vì một trong những thú vui của tôi là nhìn ngắm bên ngoài xem mọi việc đang diễn ra, vì Thầy tôi có một trong những căn phòng trên cao ở Chakpori, căn phòng mà từ đó người ta có thể ngắm được không gian rộng lớn và quan sát được mọi thứ ở rất xa. Ngoài ra, Ngài còn có một thứ tuyệt vời hơn tất cả, đó là một chiếc ống nhòm. Tôi đã dành hàng giờ đồng hồ sử dụng món đồ này để quan sát cả Đồng bằng Lhasa, quan sát các lái buôn trong thành phố, và ngắm những người phụ nữ ở Lhasa đang buôn bán, mua sắm, thăm hỏi và đang lãng phí thời gian một cách vô nghĩa (tôi cho là thế). Chúng tôi đứng đó ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài khoảng mười đến mười lăm phút, rồi sau đó, thầy nói, “Lobsang, chúng ta hãy ngồi xuống, và bàn về chuyện trường học, được không?”

He rose to his feet and walked across to the window. I scrambled to my feet too and went across to join him, for it was one of my pleasures to look out and see all that was happening, for my Guide had one of the higher rooms at the Chakpori, a room from which one could look out over wide spaces and see for long distances. Besides, he had that most enjoyable of all things, a telescope. The hours I spent with that instrument! The hours I spent looking away across the Plain of Lhasa, looking at the traders in the City itself, and watching the ladies of Lhasa going about their business, shopping, visiting, and just (as I put it) plain wasting time. For ten or fifteen minutes we stood there looking out, then my Guide said, “Let us sit down again, Lobsang, and discuss this matter about a school, shall we?”

“Lobsang, ta muốn con lắng nghe ta, vì vấn đề này con nên hiểu rõ ngay từ đầu. Nếu con không hoàn toàn hiểu những gì ta nói thì hãy ngắt lời ta ngay, bởi điều quan trọng là con cần phải hiểu hết mọi thứ, nghe không?” Tôi gật đầu, và theo phép lịch sự, tôi nói, “Vâng, thưa Lạt ma Tôn kính, con hiểu ạ. Nếu con không hiểu điều gì, con sẽ hỏi lại thầy.” Ngài gật đầu và nói, “Cuộc sống giống như một trường học. Khi còn ở cõi trung giới và chưa đến với thế giới này, trước khi nhập vào cơ thể một người phụ nữ, chúng ta đã bàn bạc với những người khác xem sắp phải học cái gì. Trước đây có lần ta đã kể con nghe về ông già Seng, người Trung Quốc. Ta đã nói với con rằng chúng ta nên dùng một tên tiếng Trung bởi nếu không, con sẽ cố gắng liên tưởng đến tên của một người Tây Tạng mà con quen biết. Giả sử rằng ông già Seng, người đã chết và nhìn thấy toàn bộ quá khứ của mình, quyết định rằng cần học một số bài nhất định. Thế rồi, những người đang giúp đỡ ông ấy sẽ tìm bố mẹ, hay những ông bố bà mẹ tiềm năng đang sống trong một số điều kiện hoặc hoàn cảnh nhất định có thể giúp linh hồn của ông già Seng học được những bài như mong muốn.” Thầy nhìn tôi và nói, “Điều này hoàn toàn giống như trường hợp một cậu bé sắp trở thành sư, nếu muốn trở thành y sư, cậu ấy sẽ đến Chapori. Nếu muốn làm việc chân tay chẳng hạn, thì chắc chắn cậu ấy có thể được nhận vào Potala bởi họ có vẻ như luôn luôn thiếu sư làm công việc này ở đó! Chúng ta chọn trường dựa vào những thứ ta muốn học.” Tôi gật đầu, bởi điều này hoàn toàn rõ ràng với tôi. Chính cha mẹ tôi đã sắp đặt để tôi vào Chakpori miễn là tôi có sự bền bỉ cần thiết để vượt qua bài kiểm tra đầu tiên về khả năng chịu đựng.

“I want you to listen to me, Lobsang, for this is a matter which you should have clear from the start. If you do not fully understand what I say then stop me immediately, for it is essential that you understand all this, you hear?” I nodded to him, and then as a matter of politeness said, “Yes, Honourable Lama, I hear you and I understand. If I do not understand I will tell you.” He nodded and said, “Life is like a school. When we are beyond this life in the astral world, before we come down into a woman’s body, we discuss with others what we are going to learn. Sometime ago I told you a story about Old Seng, the Chinaman. I told you that we would use a Chinese name because you, being you, would try to associate any Tibetan name with a Tibetan of your acquaintance. Let us say that Old Seng who died and saw all his past decided that he had certain lessons to learn. Then, the people who were helping him would look about to find parents, or, rather, prospective parents, who were living in the circumstances and in the conditions which would enable the soul which had been Old Seng to learn the desired lessons.” My Guide looked at me and said, “It is much the same as a boy who is going to become a monk, if he wants to become a medical monk he comes to the Chakpori. If he wants to do perhaps domestic work, then no doubt he can get into the Potala for they always seem to have a shortage of domestic monks there! We choose our school according to what we want to learn.” I nodded, because that was quite clear to me. My own parents had made arrangements for me to get into the Chakpori provided I had the necessary staying power to pass the initial test of endurance.

Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức tiếp tục, “Một người chuẩn bị sinh ra đã được sắp đặt mọi thứ; người ấy sẽ xuống đây và được sinh ra bởi một người phụ nữ nhất định đang sống ở khu vực nhất định và lập gia đình với người ở tầng lớp đã được định sẵn. Có thể nói rằng, điều đó sẽ mang đến cho đứa trẻ mới sinh những cơ hội để nâng cao trải nghiệm và kiến thức đã được lên kế hoạch trước đó. Cuối cùng, đủ năm đủ tháng đứa trẻ sẽ được sinh ra. Đầu tiên đứa trẻ phải học ăn, học cách kiểm soát các bộ phận nhất định của cơ thể vật lý – nó cũng phải học nói và học nghe. Con biết đấy, mới đầu, một đứa trẻ không biết cách nhìn tập trung, nó cũng phải học cách nhìn như thế nào. Đó chính là trường học.” Ngài nhìn tôi, nở nụ cười và nói, “Không một ai trong chúng ta thích đến trường cả, nhưng một số trong chúng ta vẫn phải tái sinh, và những người khác thì không. Chúng ta lên kế hoạch để quay lại cuộc sống – không phải bởi định mệnh – mà là để học những bài học khác. Một đứa trẻ lớn lên và trở thành một cậu bé và khi đó nó sẽ phải đến lớp học nơi nó bị thầy giáo đối xử nghiêm khắc, nhưng điều đó không có gì sai cả, Lobsang ạ. Chưa từng có ai bị hại bởi sự kỷ luật. Kỷ luật là sự khác biệt giữa quân đội và đám đông ô hợp. Con không thể trở thành một người có văn hóa nếu không có kỷ luật. Giờ đây, con nhiều lần nghĩ rằng con đã bị đối xử tồi tệ, rằng sư phụ thô bạo và độc ác, nhưng – dù con có nghĩ như thế nào – thì thực tế con đã được thu xếp đặc biệt để đến sống trên trái đất này trong những điều kiện như vậy.” “ Vâng, Thưa Lạt ma Tôn kính,” tôi phấn khích la lên, “nếu con đã thu xếp xuống đây, vậy con nghĩ con nên kiểm tra trí não của mình. Và nếu con đã có kế hoạch xuống đây, tại sao con không hề biết gì về tất cả điều đó?”

My Guide, the Lama Mingyar Dondup continued, “A person who is going to be born already has everything arranged; the person is going to come down and be born of a certain woman who lives in a certain district and who is married to a certain class of man. It is thought that that will give the baby to be born the opportunities for gaining the experience and knowledge previously planned. Eventually, in the fullness of time, the baby is born. First the baby has to learn to feed, it has to learn how to control certain parts of its physical body—it has to learn how to speak and how to listen. At first, you know, a baby cannot focus its eyes, it has to learn how to see. It is at school.” He looked at me and there was a smile on his face as he said, “None of us like school, some of us have to come, but others of us do not have to come. We plan to come—not for kharma—but to learn other things. The baby grows up and becomes a boy and then goes to a classroom where often he gets treated rather roughly by his teacher, but there is nothing wrong in that, Lobsang. No one has ever been harmed by discipline. Discipline is the difference between an army and a rabble. You cannot have a cultured man unless that man has been disciplined. Many times now you will think that you are ill-treated, that the teacher is harsh, and cruel, but—whatever you think now—you particularly arranged to come to this earth in these conditions.” “Well Honourable Lama,” I exclaimed excitedly, “if I arranged to come down here, then I think that I should have my brains examined. And if I arranged to come down here, why do I know nothing at all about it?”

Thầy tôi nhìn tôi rồi cười lớn. “Ta biết cảm giác của con hôm nay, Lobsang à,” Ngài trả lời, “nhưng thực sự không có gì khiến con cần phải lo lắng đâu. Con đến hành tinh này trước tiên là để học một số bài nhất định. Sau khi đã học được những điều ấy, con sẽ bước sang một thế giới tuyệt vời hơn để học những điều khác nữa. Con đường sẽ không hề dễ dàng; nhưng cuối cùng con sẽ thành công, và ta không muốn con nản lòng. Mỗi người, bất kể đang ở đâu trong cuộc đời, đều đến trái đất từ cõi trung giới để học, học nữa và tiến triển. Lobsang, con sẽ đồng ý với ta rằng, nếu muốn tiến bộ ở Tu viện Lạt ma, thì con cần phải học và vượt qua các kỳ thi. Con không nên nghĩ nhiều về việc đột nhiên có một anh chàng được ưu ái đặc biệt và vượt qua con để trở thành một lạt ma hay trưởng tu viện. Chừng nào còn phải trải qua những bài kiểm tra nhất định, thì con sẽ biết rằng mình không bị ai vượt mặt bởi được bề trên ưu ái hay sở thích bất chợt hoặc nhất thời.” Tôi cũng có thể thấy điều đó, vâng, khi được giải thích thì vấn đề thật đơn giản.

My Guide looked at me and laughed—laughed outright. “I know just how you feel, Lobsang, today,” he replied, “but really there is nothing that you should worry about. You came to this earth first to learn certain things. Then, having learned those certain things, you are going out into the greater world beyond our borders to learn other things. The Way will not be easy; but you will succeed in the end, and I do not want you to be despondent. Every person, no matter his station in life, has come down to earth from the astral planes in order that he may learn and, in learning, progress. You will agree with me, Lobsang, that if you want to progress in the Lamasery you study and pass examinations. You would not think much of a boy who was suddenly placed over you and by favouritism alone became a lama or an abbot. So long as there are proper examinations then you know that you are not being passed over at some superior person’s whim or fancies or favouritisms.” I could see that too, yes, when it was explained, it was quite a simple matter.

“Chúng ta đến trái đất để học tập, và dù những bài học ấy có khó khăn hay khắc nghiệt như thế nào thì đó vẫn là những bài học ta đã đăng ký trước khi xuống đây. Khi rời khỏi hành tinh này, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi ở một thế giới khác, và nếu muốn tiến bộ thì buộc phải đi tiếp. Chúng ta có thể quay trở lại trái đất trong những điều kiện khác nhau, hoặc có thể chuyển sang một trạng thái tồn tại hoàn toàn khác. Thường khi ở trường học, chúng ta nghĩ mọi việc diễn ra không có hồi kết, nghĩ sự khắc nghiệt của người thầy sẽ không bao giờ chấm dứt. Cuộc sống trên trái đất là như vậy, nếu mọi thứ đều diễn ra một cách dễ dàng, nếu ta có được mọi thứ mình muốn, thì ta chẳng học được bài nào cả, ta chỉ lượn lờ suốt cuộc đời. Thực tế đáng buồn là chúng ta chỉ có thể học được trong đau đớn và khổ sở.”

“We come to earth to learn things, and no matter how hard nor how bitter the lessons which we learn on this earth, they are lessons for which we have enrolled before we came here. When we leave this earth we have our vacation for a time in the Other World, and then if we want to make progress we move on. We may return to this earth under different conditions, or we may move on to a completely different stage of existence. Often when we are in school we think that there is going to be no end to the day, we think that there is going to be no end to the harshness of the teacher. Life on earth is like that, if everything went smoothly for us, if we had everything that we wanted we should not be learning a lesson, we should just be drifting along on the stream of life. It is a sad fact that we only learn with pain and suffering.”

“Vậy thưa Lạt ma Tôn kính,” tôi nói, “tại sao một số học trò và một số lạt ma có cuộc sống dễ dàng vậy? Con luôn gặp phải những khó khăn, những lời tiên tri khủng khiếp và bị thầy giáo khó tính đánh đập dù con đã thực sự cố gắng hết sức.” “Nhưng, Lobsang à, mấy người này bề ngoài có vẻ như đang tự hài lòng với bản thân – con có chắc rằng họ thực sự hài lòng không? Con có chắc họ sống thực sự dễ chịu không? Chừng nào con chưa biết về kế hoạch đã định sẵn cho họ trước khi đến với cuộc sống này, thì con không được phán xét họ. Mỗi người khi đến trái đất đều có một kế hoạch đã được định sẵn, một bản kế hoạch đề ra những thứ mà họ muốn học, họ được đề nghị phải học, và những thứ họ mong muốn đạt được khi rời khỏi trái đất này, sau khi lưu trú ở ngôi trường này. Và con nói hôm nay con đã cố gắng hết sức ở lớp. Con có chắc không? Có phải con đã tự bằng lòng, nghĩ rằng con đã hiểu hết tất cả các bài học? Con có làm cho ông thầy cảm thấy rất khó chịu bởi thái độ kiêu căng của mình không?” Ngài nhìn tôi với chút phê phán, còn tôi cảm thấy hai má mình ửng đỏ. Đúng, Ngài thực sự đã biết điều gì đó! Thầy tôi có sở trường không hay nhất là biết chạm vào điểm yếu của người khác. Phải, tôi đã tự mãn, đã nghĩ rằng lần này Sư phụ sẽ không thể tìm ra được một lỗi nhỏ nhất của mình. Tất nhiên là thái độ kiêu ngạo của chính tôi đã góp phần không nhỏ vào thái độ bực tức của Sư phụ. Tôi gật đầu đồng ý, “Vâng thưa Lạt ma Tôn kính, con cũng đáng trách như bất cứ ai.” Thầy nhìn tôi, mỉm cười và gật đầu xác nhận.

“Well then, Honourable Lama,” I said, “why is it that some boys, and some lamas too, have such an easy time? It always appears to me that I get hardships, bad prophecies, and beatings-up by an irritable teacher when I really have done my best.” “But, Lobsang, some of these people who apparently are very self-satisfied—are you sure that they are so self-satisfied? Are you sure that conditions are so easy for them, after all? Until you know what they planned to do before they came to the earth you are not in a position to judge. Every person coming to this earth comes with a prepared plan, a plan of what they want to learn, what they propose to do, and what they aspire to be when they leave this earth after sojourning in its school. And you say that you tried really hard at class today. Are you sure? Were you not rather complacent, thinking that you knew all there was to know about the lesson? Did you not, by your rather superior attitude, make the Teacher feel rather bad?” He looked at me somewhat accusingly, and I felt my cheeks grow somewhat red. Yes, he really knew something! My Guide had the most unhappy knack of putting his hand on a spot which was tender. Yes, I had been complacent, I had thought that this time the Teacher would not be able to find the slightest fault with me. My own superior attitude had, of course, in no small measure contributed toward the exasperation of that Teacher. I nodded in agreement, “Yes Honourable Lama, I am as much to blame as anyone.” My Guide looked at me, smiled, and nodded in approval.

“Lobsang, như con đã biết, sau này con sẽ đến Trùng Khánh ở Trung Quốc,” Lạt ma Minh Gia Đại Đức nói. Tôi gật gù, không hẳn thích thú nghĩ đến thời điểm phải ra đi. Ngài tiếp tục, “Trước khi con rời Tây Tạng, chúng ta sẽ gửi cho con thông tin chi tiết về các chỉ dẫn của một số trường cao đẳng và đại học. Chúng ta sẽ tiếp nhận tất cả thông tin và sau đó sẽ quyết định trường nào có loại hình đào tạo phù hợp mà con sẽ cần trong cuộc sống này. Tương tự như vậy, trước khi một người trong cõi trung giới nghĩ về chuyện tái sinh xuống trái đất, người ấy sẽ xem xét cẩn thận những việc mà mình dự định sẽ làm, những thứ mà anh ấy muốn học, và những cái mà cuối cùng anh ấy muốn đạt được. Sau đó, như ta đã kể cho con, cặp cha mẹ phù hợp sẽ được tìm ra. Điều này tương tự như việc tìm kiếm một ngôi trường phù hợp.”

“Later, Lobsang, you will be going to Chungking in China, as you know,” said the Lama Mingyar Dondup. I nodded, dumbly, not liking even to think of the time when I should have to leave. He continued, “Before you leave Tibet we shall send to various colleges and universities for details about their instruction. We shall receive all particulars and we shall then decide which college or university will offer you exactly the type of training which you will need in this life. In a similar manner, before a person in the astral world even thinks of coming down to earth he weighs up what he proposes to do, what he wants to learn, and what he finally wants to achieve. Then, as I have already told you, suitable parents are discovered. That is the same as looking for a suitable school.”

Càng nghĩ về ý tưởng trường học này, tôi càng không thích nó. “Thưa Lạt ma Tôn kính!”, tôi nói, “tại sao một số người phải chịu đựng rất nhiều bệnh tật, rất nhiều sự không may, vậy họ học được gì từ điều đó?” Thầy tôi trả lời, “Nhưng con phải nhớ rằng một người khi đến với thế giới này có rất nhiều thứ phải học, không chỉ là học chạm khắc, không chỉ học một ngôn ngữ hay ghi chép lại Kinh Sách. Người ấy phải học những thứ mà sau này sẽ dùng được trong trung giới khi rời khỏi cuộc sống trên trái đất. Như ta đã nói với con, đây là Thế giới Ảo ảnh, và nó thực sự phù hợp để dạy chúng ta về sự khổ cực, và trong khi chịu đựng cực khổ, chúng ta sẽ học được cách hiểu những khó khăn và các vấn đề của người khác.” Tôi nghĩ về tất cả điều này, và dường như chúng tôi đang đề cập đến một đề tài rất rộng lớn. Thầy rõ ràng đã nắm bắt được suy nghĩ của tôi, vì Ngài đã nói, “Thôi, trời sắp tối rồi, đã đến lúc kết thúc buổi thảo luận của chúng ta tối nay, bởi vì chúng ta còn nhiều việc phải làm bây giờ. Ta phải đi đến The Peak (hay còn gọi là điện Potala) và ta muốn đưa con đi cùng. Con sẽ ở đó cả đêm và cả ngày mai. Ngày mai chúng ta có thể thảo luận lại vấn đề này, nhưng giờ thì đi thôi và hãy mặc bộ cà sa sạch và mang theo một bộ nữa để dự phòng.” Ngài đứng lên và rời khỏi phòng. Tôi chần chừ một chút bởi hơi bất ngờ! Và rồi tôi vội chạy đi mặc chiếc áo đẹp nhất và mang theo chiếc thứ nhì để dự phòng.

The more I thought about this school idea the more I disliked it. “Honourable Lama!” I said, “why do some people have so much illness so much misfortune, what does that teach them?” My Guide said, “But you must remember that a person who comes down to this world has much to learn, it is not just a matter of learning to carve, not just a matter of learning a language or reciting from Sacred Books. The person has to learn things which are going to be of use in the astral world after leaving the earth. As I have told you, this is The World of Illusion, and it is extremely well suited to teach us hardship and in suffering hardship, we should learn to understand the difficulties and the problems of others.” I thought about all this, and it seemed that we had got onto a very big subject. My Guide obviously got my thoughts, for he said, “Yes, the night is coming upon us, it is time to end our discussion for this night for we have much to do yet. I have to go across to The Peak (as we called the Potala) and I want to take you with me. You will be there all night and all tomorrow. Tomorrow we can discuss this matter again, but go now and put on a clean robe and bring a spare with you.” He rose to his feet and left the room. I hesitated but for a moment—and that because I was in a daze!—and then I hurried off to array myself in my best, and to get my second best as my spare.

Chúng tôi cùng nhau đi bộ xuống núi đến Mani Lhakhang, ngay khi đi qua Pargo Kaling hoặc Cổng Tây, một cơn gió bất ngờ xuất hiện phía sau khiến tôi lảo đảo suýt rơi khỏi yên ngựa. “Ôi! Kính lạy Lạt ma Danh Y!” Giọng người phụ nữ la lên phía bên đường. Thầy tôi nhìn quanh rồi xuống ngựa. Nhận thấy sự bồn chồn của tôi trên lưng ngựa, Ngài đã ra hiệu tôi cứ ngồi yên, một cử chỉ khiến tôi đầy biết ơn. “Vâng, thưa cô, có chuyện gì vậy?” Thầy tôi hỏi một cách lịch thiệp. Bất ngờ người phụ nữ quỳ sụp xuống chân Ngài, “Kính lạy Lạt ma Danh Y!” cô ta nói không kịp thở, “chồng của con không thể sinh được một đứa con trai bình thường, đồ con hoang của một con dê cái!” Ngượng ngùng vì sự táo tợn của mình, cô ta thút thít và lôi ra một cái bọc nhỏ. Thầy tôi cúi khom người xuống nhìn. “Nhưng thưa cô!”, Ngài nhận xét, “tại sao cô lại đổ lỗi cho chồng vì đứa trẻ ốm yếu của cô?” “Bởi người đàn ông tệ bạc này luôn theo đuổi lũ đàn bà hư hỏng, anh ta chỉ nghĩ đến làm tình với đàn bà, và khi chúng tôi kết hôn, anh ta còn không thể sinh ra được một đứa trẻ bình thường.” Tôi cảm thấy sợ hãi khi cô ta bắt đầu khóc và nước mắt của cô ấy rơi lã chã xuống đất, như những hạt mưa đá rơi từ trên núi xuống, tôi đã nghĩ vậy.

Together we jogged down the mountain road and into the Mani Lhakhang, just as we passed the Pargo Kaling, or Western Gate, there was a sudden loud squall behind me that almost lifted me from my saddle. “Ow! Holy Medical Lama!” yelled a feminine voice just to the side of the road. My Guide looked about him, and dismounted. Knowing my own uncertainties on a pony he motioned for me to remain seated, a concession which filled me with gratitude. “Yes, madam, what is it?” asked my Guide in kind tones. There was a sudden blur of movement, and a woman flung herself to the ground at his feet. “Oh! Holy Medical Lama!” she said breathlessly, “my husband could not beget a normal son, the misbegotten son of a she-goat!” Dumbly—stunned at her own audacity—she held out a small bundle. My Guide stooped down from his great height and looked. “But, madam!” he remarked, “why do you blame your husband for your ailing child?” “Because that ill-favoured man was always running around with loose women, all he thinks about is the opposite sex, and then when we get married he cannot even father a normal child.” To my dismay she started weeping and her tears ran down to hit the ground with little plops, just like hailstones, I thought, coming down from the mountains.

Thầy tôi nhìn xung quanh, chăm chú vào một cái gì đó trong màn đêm đang buông xuống. Một bóng người ở bên kia Pargo Kaling xuất hiện từ trong bóng tối và đang di chuyển về phía trước, một người đàn ông trong bộ đồ rách tả tơi với vẻ mặt xấu hổ. Thầy tôi vẫy tay ra hiệu và người đàn ông tiến đến, rồi quỳ dưới chân Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Ngài nhìn cả hai người bọn họ và nói, “Các người không có quyền đổ lỗi cho nhau vì sự bất hạnh của đứa trẻ đã sinh ra, bởi đó không phải là vấn đề của hai người mà là vấn đề của định mệnh.” Ngài nhìn lại đứa trẻ, vén mảnh vải đang bọc đứa bé. Ngài nhìn chăm chú và tôi biết Ngài đang quan sát hào quang của đứa trẻ. Sau đó, Ngài đứng dậy và nói, “Thưa cô! đứa trẻ này có thể được chữa khỏi, việc đó nằm trong khả năng của chúng tôi. Sao cô không mang đứa trẻ này đến sớm hơn?” Người đàn bà tội nghiệp lại quỳ sụp xuống, và hấp tấp chuyền đứa con cho ông chồng, ông ấy bồng đứa trẻ như thể nó có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Người đàn bà chắp hai tay, nhìn Thầy tôi và nói, “Thưa Đức Lạt ma Danh Y, người đã quan tâm đến chúng con, vì chúng con đến từ Ragyab và chúng con không có được thiện cảm từ một vị latma nào cả. Thế nên, chúng con không dám đến, thưa Đức Lạt ma, dù việc của chúng con là rất khẩn cấp.”

My Guide looked about him, peering somewhat in the increasing darkness. A figure by the side of the Pargo Kaling detached himself from the darker shadows and moved forward, a man in a ragged dress and wearing a definitely hang-dog expression. My Guide beckoned to him and he came forward, and knelt on the ground at the feet of the Lama Mingyar Dondup. My Guide looked at both of them and said, “You do not right to blame each other for a mishap of birth, for this is not a matter which occurred between you, but is a matter to do with kharma.” He looked at the child again, pulling aside the wrappings in which the baby was swaddled. He looked hard, and I knew that he was looking at the infant’s aura. Then he stood up saying, “Madam! Your child can be cured, his cure is well within our abilities. Why did you not bring him to us earlier?” The poor woman dropped to her knees again, and hastily passed the child to her husband, who took it as if it might explode at any moment. The woman clasped her hands, and looking at my Guide said, “Holy Medical Lama, who would pay attention to us, for we come from the Ragyab and we are not in favour with some of the other lamas. We could not come, Holy Lama, no matter how urgent our need.”

Tôi nghĩ tất cả điều này thật mắc cười, người Ragyab hay những người xử lý xác chết, sống ở góc Đông Nam của Lhasa, họ là cần thiết như ở bất kỳ cộng đồng nào của chúng ta. Tôi biết điều đó bởi Thầy của tôi thường nhấn mạnh rằng dù một người làm công việc gì thì người ấy vẫn là một thành viên có ích cho cộng đồng. Tôi còn nhớ đã cười khi nghe Ngài nói “Kể cả những tên trộm cũng là người có ích bởi nếu không có kẻ trộm thì không cần đến cảnh sát, như vậy trộm cắp giúp cảnh sát có việc làm!” Nhưng những người Ragyab này, nhiều người coi thường họ khi nghĩ rằng họ không sạch sẽ bởi họ tiếp xúc với người chết, cắt nhỏ xác chết và ném ra khắp nơi để cho chim kền kền ăn. Tôi biết – và cảm giác giống như Thầy mình – rằng họ đã làm một việc có ích, bởi vì Lhasa là vùng đất đầy sỏi đá, nên không thể đào được mộ, và kể cả có thể làm được thì Tây Tạng quá lạnh nên xác chết sẽ đông cứng lại, không thể bị phân hủy và tan vào trong đất được.

I thought all this was ridiculous, the Ragyab or Disposers of the Dead, who lived in the South-East corner of Lhasa were as essential as any in our community. I knew that because my Guide was always stressing that no matter what a person did that person was still a useful member of the community. I remember once laughing heartily when he said, “Even burglars, Lobsang, are useful people, for without burglars there would be no need of policeman, hence burglars provide policemen with employment!” But these Ragyab, many people looked down upon them thinking they were unclean because they dealt with the dead, cutting up dead bodies so that the vultures would eat the scattered pieces. I knew—and felt as my Guide—that they did good work, for much of Lhasa was so rocky, so stony, that graves could not be dug, and even if they could, normally Tibet was so cold that the bodies would just freeze and would not decay and be absorbed into the ground.

“Thưa cô!” Thầy tôi đề nghi, “ba ngày nữa tính từ bây giờ đích thân cô hãy mang đứa trẻ này đến chỗ tôi; và chúng tôi sẽ làm hết sức mình để cứu chữa cho cậu bé, vì từ việc thăm khám sơ qua thì cậu bé có thể được chữa khỏi.” Ngài lục túi đeo bên yên ngựa và lấy ra một mảnh giấy da. Ngài viết nhanh mấy chữ lên đó và đưa nó cho người phụ nữ. “Mang nó đến chỗ tôi ở Chakpori và lễ tân sẽ biết là cô đã được chấp nhận. Tôi sẽ thông báo cho người gác cổng rằng cô sẽ đến và cô sẽ không gặp bất cứ khó khăn nào. Yên tâm, tất cả chúng ta đều là Thượng đế trong hình hài con người, cô không có gì phải sợ chúng tôi cả.” Ngài quay sang nhìn người chồng, “Anh nên chung thủy với vợ của mình.” Ngài nhìn sang người vợ và nói thêm, “Cô không nên sỉ nhục chồng quá nhiều, có lẽ nếu cô đối xử tử tế hơn với chồng mình thì anh ấy sẽ không phải đi đến một nơi khác để tìm sự an ủi! Bây giờ hãy về nhà đi và ba ngày nữa kể từ hôm nay hãy quay lại đây, đến Chakpori, tôi sẽ gặp lại cô và sẽ giúp cô. Tôi hứa đấy.” Ngài leo lên ngựa và chúng tôi đi khỏi. Từ xa những tiếng cầu nguyện và cám ơn từ người đàn ông vùng Ragyab và vợ nhỏ dần. “Lobsang, ta nghĩ ít nhất tối nay, họ sẽ hòa hợp, sẽ cảm thấy yêu thương nhau!” Ngài bật cười và dẫn tôi rẽ trái trước khi chúng tôi đến Làng Shö.

“Madam!” commanded my Guide, “you shall bring this child to me in person three days from now; and we shall do our utmost to see that he is cured, for from this brief examination it appears that he can be cured.” He fumbled in his saddlebag and produced a piece of parchment. Quickly he wrote a message upon it, and handed it to the woman. “Bring that to me at the Chakpori and the attendant will see that you are admitted. I shall inform the gatekeeper that you are coming and you will have no difficulty whatever. Rest assured, we are all humans in the sight of our Gods, you have nothing to fear with us.” He turned and looked at the husband; “You should remain loyal to your wife.” He looked at the wife and added, “You should not abuse your husband so much, perhaps if you were kinder to him he would not go elsewhere for solace! Now, go to your home and in three days from now return here to the Chakpori and I will see you and assist you. That is my promise.” He mounted his pony again and we rode off. Diminishing in the distance were the sounds of praises and thanks from the man of the Ragyab and his wife. “I suppose for tonight at least, Lobsang, they will be in accord, they will be feeling kindly disposed to each other!” He gave a short laugh and led the way up to the road to the left just before we reached the Village of Shö.

Tôi thực sự ngạc nhiên khi chứng kiến một trong những cảnh đầu tiên của người chồng và người vợ. “Thưa Lạt ma Tôn kính,” tôi nói, “Con không hiểu tại sao những người này lại ở bên nhau nếu họ không thích nhau, tại sao lại thế?” Thầy tôi mỉm cười rồi trả lời, “Giờ con gọi ta là “Lạt ma Tôn kính” sao! Con nghĩ con là một anh nông dân à? Với câu hỏi của con, được rồi, chúng ta sẽ thảo luận tất cả điều đó vào ngày mai. Tối nay, chúng ta sẽ rất bận. Ngày mai chúng ta sẽ thảo luận về vấn đề này và ta sẽ để cho đầu óc con nghỉ ngơi một chút vì điều này rất phức tạp!” Chúng tôi cùng cưỡi ngựa lên đồi. Tôi thường thích nhìn xuống dưới Làng Sho, và tôi băn khoăn liệu điều gì sẽ xảy ra nếu ném một viên đá cuội lên một hoặc hai mái nhà; liệu nó có chui qua được không? Hoặc tiếng lạch cạch sẽ khiến ai đó đi ra và nghĩ rằng Quỷ sứ đã làm rơi thứ gì đó lên đầu họ? Tôi chưa bao giờ dám ném một hòn sỏi xuống bởi tôi không muốn nó xuyên qua mái nhà và rơi vào một ai đó ở bên trong. Nhưng tôi thường xuyên rất thèm làm điều đó.

I really was amazed at this which was one of my first sights of husband and wife. “Holy Lama,” I exclaimed, “I do not understand why these people came together if they do not like each other, why should that be?” My Guide smiled at me as he replied, “You are now calling me ‘Holy Lama’! Do you think you are a peasant? As for your question, well we are going to discuss all that on the morrow. Tonight we are too busy. Tomorrow we will discuss these things and I will try to set your mind at rest, for it is sorely confused!” Together we rode up the hill. I always liked to look back down on the Village of Shö, and I wondered what would happen if I tossed a good sized pebble onto a roof or two; would it go through? Or would the clatter bring someone out thinking that the Devils were dropping something on them? I had never actually dared drop a stone down because I did not want it to go through the roof and through someone inside. However, I was always sorely tempted.

Ở điện Potala, chúng tôi leo lên những chiếc thang dài vô tận – chứ không phải bậc cầu thang – những chiếc thang đã bị bào mòn và dốc đứng, và cuối cùng chúng tôi đến căn phòng của mình, bên trên các phòng dành cho sư thường, trên cả nhà kho. Lạt ma Minh Gia Đại Đức bước vào phòng riêng của Ngài còn tôi đi vào phòng của mình thông với phòng của Ngài, do địa vị của Thầy và tôi là đệ tử của Ngài nên tôi được phép sử dụng căn phòng này. Lúc này, tôi bước đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài theo thói quen. Bên dưới chúng tôi, có một con chim đêm nào đó đang gọi bạn tình trong lùm cây liễu. Hôm nay trăng sáng, và tôi có thể nhìn thấy một chú chim – thấy nước gợn sóng lăn tăn khi những chiếc chân dài của nó khua vào nước và bùn. Từ đâu đó rất gần có tiếng một con chim đáp lại. “Ít nhất thì đôi vợ chồng này có vẻ đang hòa hợp đây!” Tôi tự nghĩ. Sắp đến lúc đi ngủ vì tôi phải tham gia Buổi lễ lúc nửa đêm, và tôi đã khá mệt đến mức tôi sợ mình có thể ngủ quên đến sáng.

In the Potala we mounted the endless ladders—not stairways—ladders which were well-worn and steep, and at last we reached our apartments high up above the ordinary monk, above the storehouses. The Lama Mingyar Dondup went to his own room and I went to mine which was adjoining, by virtue of my Guide’s position and by being his chela I had been allowed this room. Now I went to the window and as was my wont I looked out. Below us there was some night bird calling to its mate in the Willow Grove. The moon was bright now, and I could see this bird—see the ripples of water as its long legs stirred up water and mud. From somewhere in the quite near distance there came the answering call of a bird. “At least that husband and wife seem to be in harmony!” I thought to myself. Soon it was time to go to sleep for I had to attend the midnight Service, and already I was so tired that I thought that possibly in the morning I could oversleep.

Vào buổi chiều ngày hôm sau, Lạt ma Minh Gia Đại Đức đã vào phòng tôi khi tôi đang đọc một cuốn sách cổ. “Vào đây với ta, Lobsang,” Ngài nói, “Ta vừa mới trở về từ cuộc nói chuyện với Đấng Thái Tuế và bây giờ chúng ta phải thảo luận những vấn đề khiến con đang thắc mắc.” Ngài quay người và dẫn tôi đi vào phòng riêng của mình. Ngồi trước mặt Ngài, tôi nghĩ về tất cả những điều đang nằm trong đầu.” “Thưa thầy,” tôi nói, “tại sao mọi người lấy nhau một cách không thân thiện như vậy? Con nhìn vào hào quang của hai người Ragyab tối qua và dường như con thấy rằng họ thực sự ghét nhau; nếu họ đã ghét nhau như vậy thì tại sao họ còn lấy nhau?” Lạt ma trông buồn bã trong chốc lát, rồi Ngài nói, “Lobsang à, con người quên mất rằng họ xuống Trái Đất này để học các bài học, Trước khi một người được sinh ra, trong khi người ấy vẫn đang ở thế giới bên kia, mọi thứ đã được sắp đặt trước, như tính cách, phẩm chất và đối tượng kết hôn. Con nên hiểu rằng nhiều người kết hôn trong cái mà người ta gọi là lửa đam mê. Khi hết đam mê thì cái mới, cái lạ cũng không còn và sự quen thuộc quá sẽ dẫn đến khinh miệt nhau!”

In the afternoon of the next day the Lama Mingyar Dondup came into my room while I was studying an old book. “Come in with me, Lobsang,” he said, “I have just returned from a talk with the Inmost One and now we have to discuss problems which are puzzling you.” He turned and led the way into his own room. Sitting in front of him I thought of all the things which were on my mind. “Sir!” I said, “why are people who marry so unfriendly to each Other? I looked at the aura of those two Ragyab last night, and it seemed to me that they really hated each other; if they hated each other why did they marry?” The Lama looked really sad for a few moments, and then he said, “People forget, Lobsang, that they come down to this earth in order to learn lessons. Before a person is born, while a person is still on the other side of life, arrangements are going ahead deciding what sort, what type, of marriage partner will be chosen. You should understand that a lot of people get married in what one might term the heat of passion. When passion spends itself, then the newness, the strangeness, wears off and familiarity breeds contempt!”

“Quen quá hóa nhàm”. Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại về điều này. Vậy tại sao người ta lại kết hôn? Rõ ràng là con người kết hôn để duy trì nòi giống. Nhưng tại sao con người lại không thể ở cùng nhau giống như những con vật? Tôi ngước mắt hỏi Thầy điều đó. Ngài nhìn tôi và nói, “Lobsang, tại sao à! Con làm ta ngạc nhiên, như mọi người con nên biết rằng giống như bất kỳ sinh vật nào thì các loài động vật thường giao phối vì sự sống. Nhiều loài thú giao phối vì sự sống của chúng, nhiều loài chim cũng vậy, chắc chắn những loài tiến hóa hơn cũng làm vậy. Nếu con người kết hợp với nhau, như con nói, chỉ vì mục đích gia tăng giống nòi, thì kết quả là sinh ra những đứa trẻ không có tâm hồn, cũng như trong thực tế có những sinh vật được sinh ra bằng phương pháp mà người ta gọi là thụ tinh nhân tạo. Phải có tình yêu khi giao phối, phải có tình yêu của đôi vợ chồng nếu muốn sinh ra những đứa trẻ tốt nhất, nếu không chúng sẽ giống như đồ vật được sản xuất hàng loạt trong nhà máy!”

“Familiarity breeds contempt.” I thought about it and thought about it. Why, then, did people get married? Obviously people got married in order that the race might continue. But why could not people get together the same as animals did? I raised my head and asked that question of my Guide. He looked at me and said, “Why, Lobsang! You surprise me, you should know as well as anyone that the so-called animals often mate for life. Many animals mate for life, many birds mate for life, certainly the more evolved ones do. If people got together, as you say, just for the purpose of increasing the race, then the resulting children would be almost soulless people, the same in fact as those creatures who are born by what is known as artificial insemination. There must be love in intercourse, there must be love between the parents if the best type of child is to be born, otherwise it is much the same as just a factory-made article!”

Câu chuyện của hai vợ chồng nhà kia thực sự khiến tôi bối rối. Tôi nghĩ về cha mẹ mình, mẹ tôi là một người phụ nữ độc đoán, còn cha tôi thực sự nghiêm khắc với chúng tôi, những đứa con của ông. Tôi không thể khơi gợi được tình cảm của người con khi nghĩ về Cha hay Mẹ mình. Tôi nói với Thầy, “Nhưng tại sao con người lại kết hôn bởi ngọn lửa đam mê? Tại sao họ không kết hôn như một nghĩa vụ?” “Lobsang!” Thầy nói, “đây là cách mà người Trung Quốc và người Nhật Bản thường hay làm. Hôn nhân của họ thường được sắp đặt, và ta phải thừa nhận rằng hôn nhân của người Trung Quốc và Nhật Bản thành công hơn rất nhiều so với ở phương Tây. Bản thân người Trung Quốc đã ví nó như một cái ấm đun nước. Họ không kết hôn vì đam mê bởi họ nói nó giống như ấm nước sôi lên rồi lại nguội lạnh. Họ kết hôn với nhau một cách nhạt nhẽo và để cho ấm nước tưởng tượng sôi lên, theo cách đó, nó sẽ nóng lâu hơn!” Ngài nhìn tôi để xem liệu tôi có đang chăm chú lắng nghe không – liệu rằng vấn đề này đã rõ ràng với tôi chưa. “Nhưng thưa Thầy, con không thể hiểu được tại sao họ lại không hạnh phúc bên nhau.” “Lobsang à, con người đến trái đất như là đến một lớp học, họ đến để học các bài học, và nếu một đôi vợ chồng bình thường cảm thấy hạnh phúc lý tưởng bên nhau thì họ sẽ không học nữa, bởi sẽ chẳng có cái gì để học cả. Họ đến trái đất này để ở bên nhau và sống cùng nhau – đó cũng là một phần của bài học – họ phải học cách cho đi và nhận lại. Con người có những góc cạnh gồ ghề,hoặc những tính cách gây khó chịu cho đối phương của họ. Người hay gây khó chịu phải học cách giảm bớt hoặc bỏ hẳn những hành vi gây khó chịu, trong khi người kia là người bị bực mình thì phải học cách bao dung và nhẫn nhịn. Hầu như cặp đôi nào cũng có thể sống được với nhau miễn là họ phải học được bài học về cho và nhận.”

This business of husband and wife really puzzled me. I thought of my own parents, myMother had been a domineering woman, and my Father had been really harsh to us, his children. I could not summon up much filial affection when I thought of either my Mother or my Father. I said to my Guide, “But why do people get married in the heat of passion? Why do they not get married as a business proposition?” “Lobsang!” said my Guide, “that is often the way of the Chinese and of the Japanese too. Their marriages are often arranged, and I must admit that Chinese and Japanese marriages are far far more successful than marriages in the Western world. The Chinese themselves liken it to a kettle. They do not marry in passion because they say it is like a kettle boiling and cooling off. They marry coolly and allow the mythical kettle to come up to the boil, and in that way it stays hot longer!” He looked at me to see if I was following—to see if the matter was clear to me. “But I cannot see, Sir, why people are so unhappy together.” “Lobsang, people come to earth as to a classroom, they come to learn things, and if the average husband and wife were ideally happy together then they would not learn, for there would be nothing to learn. They come to this earth to be together and to get on together—that is part of the lesson—they have to learn to give and to take. People have rough edges, edges or idiosyncrasies which jar and grate on the other partner. The grating partner must learn to subdue and perhaps end the annoying trait, while the partner who is annoyed must learn tolerance and forbearance. Almost any couple could live together successfully provided they learned this matter of give and take.”

“Thưa thầy!” tôi hỏi, “vậy nên khuyên vợ chồng sống cùng nhau thế nào?” “Lobsang, vợ chồng nên chờ đến lúc thích hợp rồi mới chia sẻ một cách tử tế, lịch sự và bình tĩnh về những điều khiến họ thấy khó chịu. Nếu cả hai vợ chồng cùng chia sẻ mọi thứ với nhau, họ sẽ hạnh phúc hơn trong cuộc hôn nhân của mình.” Tôi nghĩ về điều này và tự hỏi Cha Mẹ mình sẽ thế nào nếu họ cố gắng trao đổi mọi thứ với nhau! Đối với tôi, họ như nước với lửa, đều gây ác cảm cho nhau. Thầy biết rõ tôi đang nghĩ gì nên Ngài tiếp tục, “Phải có sự cho và nhận, bởi nếu ai đó không học được bất cứ điều gì, thì họ nên nhận thấy rằng mình đã làm điều gì đó không đúng.” “Nhưng sao lại thế được,” tôi hỏi, “khi một người yêu ai đó, hoặc có cảm giác bị hấp dẫn bởi ai đó? Nếu họ đã từng thích nhau một thời gian rồi thì tại sao lại chóng trở nên nguội lạnh?” “Lobsang, con sẽ biết rõ là nếu nhìn thấy được hào quang, người ta có thể biết rõ về người khác. Người bình thường không thấy được hào quang, nhưng thay vào đó họ cảm giác, họ có thể nói mình thích người này hay ghét người kia. Nhiều khi họ không thể trả lời được tại sao lại thích hay không thích, nhưng họ sẽ đồng ý rằng người này đã làm họ vui, và người kia khiến họ khó chịu.” “Vâng, Thưa thầy,” tôi hỏi, “làm sao họ bỗng nhiên có thể thích một ai đó rồi lại ghét ngay được?” “Con người ở một giai đoạn nhất định, khi đang yêu, sự rung động tăng lên, và điều ấy xảy ra khi hai người này, một cặp nam nữ nào đó, đã tăng rung động của mình và trở nên tương hợp với nhau. Thật không may, họ không thường xuyên duy trì được mức độ cao như vậy. Người vợ sẽ trở nên tuềnh toàng, có thể từ chối những quyền chính đáng của người chồng. Rồi người chồng khi đó sẽ ra ngoài theo đuổi những người phụ nữ khác, và họ trở nên xa cách. Dần dần những rung động của họ sẽ thay đổi đến mức họ không còn tương hợp với nhau nữa, do đó họ hoàn toàn trở nên ác cảm với nhau.” Vâng, tôi có thể thấy điều đó, và nó thực sự đã giải thích nhiều điều, nhưng giờ tôi lại băn khoăn với điều khác!

“Sir!” I said, “how would husband and wife be advised to live together?” “Husband and wife, Lobsang, should wait for a favourable moment, and should then kindly, courteously, and calmly say what is causing them distress. If a husband and a wife would discuss things together, then they would be more happy in their marriage.” I thought about this, and I wondered how my Father and my Mother would get on if they tried to discuss anything together! To me they seemed to be fire and water, with each one being as antipathetic to the other. My Guide obviously knew what I was thinking for he continued, “There must be some give and take, because if these people are going to learn anything at all, then they should be sufficiently aware to know that there is something wrong with them.” “But how is it,” I asked, “that one person falls in love with another, or feels attracted to another? If they are attracted to each other at one stage why do they so soon cool off?” “Lobsang, you will well know that if one sees the aura one can tell about another person. The average person does not see the aura, but instead many people have a feeling, they can say that they like this person, or that they dislike that person. Most times they cannot say why they like or dislike, but they will agree that one person pleases them and another person displeases them.” “Well, Sir,” I exclaimed, “how can they suddenly like a person and then suddenly dislike a person?” “When people are at a certain stage, when they feel that they are in love, their vibrations are increased, and it may well be that when these two people, some man and some woman, have heightened vibrations they would be compatible. Unfortunately they do not always let it remain heightened. The wife will become dowdy, perhaps she will refuse the husband what is undeniably his right. The husband will then go out after some other woman, and gradually they will drift apart. Gradually their etheric vibrations will alter so that they are no longer compatible, so that they are completely antipathetic.” Yes I could see that, and it really did explain much, but now I returned to the attack!

“Thưa thầy! Con cảm thấy bối rối nhất là tại sao một đứa trẻ chỉ sống có lẽ được một tháng và rồi chết đi, liệu đó là cơ hội của đứa trẻ để học được điều gì hay trả quả? Như con thấy thì điều đó có vẻ như sự lãng phí với tất cả!” Lạt ma Minh Gia Đại Đức cười dịu dàng trước sự nhiệt tình của tôi. “Không, Lobsang à, không có gì lãng phí cả! Con đang tự làm rối mình đấy. Con cho rằng mỗi người chỉ sống một cuộc đời duy nhất. Nào chúng ta cùng lấy ví dụ nhé.” Ngài nhìn tôi rồi nhìn ra ngoài cửa sổ một lát, tôi có thể thấy Ngài đang suy nghĩ về những người ở Ragyab-có lẽ nghĩ về đứa trẻ của họ.

“Sir! I am most puzzled to know why a baby should live for perhaps a month and then die, what chance does that baby have of learning or paying back kharma? It seems just a waste to everyone so far as I can see!” The Lama Mingyar Dondup smiled slightly at my vehemence. “No, Lobsang, nothing is wasted! You are being confused in your mind. You are assuming that a person lives for one life only. Let us take an example.” He looked at me and then looked out of the window for a moment, I could see that he was thinking of those people of the Ragyab—thinking perhaps of their baby.

“Ta muốn con tưởng tượng rằng con đang đồng hành với một người đang trải qua nhiều kiếp sống,” Thầy nói. “Người ấy đã sống khá tồi tệ trong một kiếp nào đó, và vài năm sau người ấy quyết định rằng mình không thể sống tiếp nữa, người ấy nhận định rằng điều kiện sống quá tệ đối với anh ta, vì vậy anh ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình; anh ta tự sát. Thế là người ấy đã chết trước khi cần phải chết. Mỗi người được số phận sắp đặt sống trong một số năm, ngày và giờ nhất định. Tất cả đã được sắp đặt trước khi họ xuống trái đất. Nếu một người kết thúc mạng sống của mình có thể 12 tháng trước thời điểm anh ta phải chết thì sẽ phải trở lại và sống thêm 12 tháng nữa.” Tôi nhìn Ngài và hình dung một số khả năng có thể xảy ra. Thầy tôi tiếp tục, “Khi một người kết thúc mạng sống của mình, anh ta sẽ phải ở lại cõi trung giới cho đến khi cơ hội xuất hiện để quay trở lại trái đất một lần nữa dưới những điều kiện phù hợp và sống nốt khoảng thời gian còn thiếu ở trái đất. Người này có 12 tháng, phải, anh ta có thể tái sinh và là một đứa bé ốm yếu, anh ta sẽ chết khi vẫn còn là một đứa trẻ. Khi mất đi đứa trẻ, cha mẹ chúng cũng sẽ học được một điều gì đó, họ mất đi đứa trẻ nhưng sẽ có được trải nghiệm, họ sẽ phải trả chút quả cho những gì cần trả. Chúng ta đồng ý rằng khi con người sống trên hành tinh này, hình dạng bề ngoài, quan điểm và những giá trị của họ, tất cả mọi thứ đều bị méo mó. Ta nhắc lại, đây là Thế giới Ảo ảnh, thế giới của những giá trị không thật, và khi con người trở về với Thế giới Vĩ đại của Chân Ngã thì họ có thể nhìn ra những bài học, những trải nghiệm khắc nghiệt và ngu dại đã trải qua trong thời gian sống trên trái đất đều không vô nghĩa tí nào cả.”

“I want you to imagine that you are accompanying a person who is getting through a series of lives,” said my Guide. “The person has done rather badly in one life, and in later years that person decides that he cannot go on any longer, he decides that conditions are just too bad for him, so he puts an end to his life; he commits suicide. The person therefore died before he should have died. Every person is destined to live for a certain number of years, days and hours. It is all arranged before they come down to this earth. If a person terminates his own life perhaps twelve months before he would normally have died, then he has to come back and serve the additional twelve months.” I looked at him and visualised some of the remarkable possibilities which could come from that. My Guide continued, “A person ends his life. He remains in the astral world until an opportunity occurs whereby he can come down to earth again under appropriate conditions and live out the time he has to serve on earth. This man with twelve months, well, he may come down and be a sickly baby, and he will die while he is still a baby. In losing that baby the parents also will have gained something; they will have lost a baby but they will have gained experience, they will have paid back a little of what they had to pay back. We will agree that while people are on earth their outlook, their perceptions, their values—everything—are distorted. This, I repeat, is the World of Illusion, the world of false values, and when people return to the Greater World of the Overself then they can see that the hard, senseless lessons and experiences undergone during this sojourn on earth were not so senseless after all.”

Tôi nhìn lại mình và nghĩ về tất cả những lời tiên tri về bản thân, những lời tiên đoán về sự gian khổ, khắc nghiệt, những lời tiên tri về cuộc sống ở những vùng đất xa lạ. Tôi nhận xét, “Vậy một nhà tiên tri đơn thuần chỉ là đã tiếp cận với nguồn thông tin; nếu tất cả mọi thứ được sắp đặt trước khi một ai đó xuống trái đất, thì có thể tiếp cận tri thức ấy dưới một số điều kiện nhất định không?” “Đúng, hoàn toàn đúng,” Thầy trả lời, “nhưng đừng nghĩ rằng tất cả mọi thứ đã được đưa ra là không thể tránh khỏi. Cơ bản là như thế này. Chúng ta sẽ phải gặp những vấn đề nhất định, những con đường nhất định phải theo, và sau đó bị để mặc phải cố gắng làm tốt nhất có thể. Người này có thể làm tốt và người khác có thể thất bại. Hãy nhìn câu chuyện theo cách này; giả sử có hai người được bảo rằng, họ phải đi từ đây đến Kalimpong ở Ấn Độ. Họ không phải đi cùng đường, nhưng họ phải đến cùng một đích nếu họ có thể. Mỗi người chọn một con đường khác nhau, tùy thuộc vào con đường họ chọn mà sẽ có những trải nghiệm và những cuộc phiêu lưu riêng ảnh hưởng đến từng người. Điều ấy giống như cuộc sống, đích đến của chúng ta đều được biết trước nhưng chúng ta đến được đó như thế nào thì còn nằm trong tay của chúng ta.”

I looked about me and thought of all the prophecies about me; prophecies of hardship, prophecies of torture, prophecies of sojourns in far and strange lands. I remarked, “Then a person who makes a prophecy is merely getting in touch with the source of information; if everything is arranged before one comes down to earth, then it is possible under certain conditions to tap that knowledge?” “Yes, that is perfectly correct,” said my Guide, “but do not think that everything is laid out as inevitable. The basic lines are there. We are given certain problems, certain lines to follow, and then we are left to do the best we can. One person can make good and another person can fail. Look at it in this way; supposing two men are told that they have to go from here to Kalimpong in India. They do not have to follow the same path, but they have to arrive at the same destination if they can. One man will take one route and another man will take another route, depending upon the route which they take so will their experiences and adventures be affected. That is like life, our destination is known but how we get to that destination remains within our own hands.”

Khi chúng tôi đang nói chuyện thì một người đưa tin xuất hiện, Thầy giải thích ngắn gọn với tôi rồi đi theo người đưa tin xuống hành lang. Tôi lại lang thang bên cửa sổ, và tựa khuỷu lên bậu cửa, chống tay lên cằm. Tôi nghĩ về tất cả những điều đã được nghe, những trải nghiệm mà tôi có, và toàn bộ những điều tuyệt vời với tình yêu thương dành cho con người vĩ đại này, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, Thầy của tôi, người đã thể hiện tình yêu thương với tôi còn nhiều hơn Cha Mẹ mình. Tôi quyết định dù tương lai có thế nào đi chăng nữa, thì tôi sẽ luôn luôn hành động và cư xử như thể Thầy vẫn đang ở bên cạnh và hướng dẫn cho mọi hành động của tôi. Phía dưới sân, những nhạc sư đang chơi đàn, có rất nhiều tiếng “brum brum brum”, những tiếng rít và rên rỉ từ những nhạc cụ của họ. Tôi hờ hững quan sát họ, âm nhạc thật vô nghĩa với tôi bởi tôi bị điếc về âm điệu, nhưng tôi thấy họ là những người rất nghiêm túc khi thực sự cố gắng sáng tác một bản nhạc hay. Tôi quay đi khi nghĩ rằng bản thân một lần nữa cần tập trung vào đọc một cuốn sách.

As we were talking a messenger appeared, and my Guide, with a short word of explanation to me, followed the messenger down the corridor. I wandered again to the window, and rested my elbows on the ledge, supporting my face in my hands. I thought of all that I had been told, thought of all the experiences that I had had, and my whole being welled with love for that great man, the Lama Mingyar Dondup, my Guide, who had shown me more love than my parents had ever shown me. I decided that no matter what the future would bring, I would always act and behave as if my Guide were by my side supervising my actions. Down in the fields below monk musicians were practicing their music; there were various “brumps-brumps-brumps” and squeaks and groans from their instruments. Idly I looked at them, music meant nothing to me for I was tone deaf, but I saw that they were very earnest men trying hard indeed to produce good music. I turned away thinking that I would occupy myself once again with a book.

Chả mấy chốc tôi đã thấy mệt vì đọc sách. Tôi vẫn thấy bất ổn. Những trải nghiệm cứ xáo trộn trong tôi. Càng lúc tôi càng đờ đẫn lật giở các trang sách, thế rồi đột nhiên tôi quyết định đặt tất cả những trang giấy in trở vào giữa các bìa gỗ được chạm khắc và buộc dây lại. Đây là cuốn sách được bọc bằng lụa. Với sự cẩn thận bẩm sinh, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và đặt cuốn sách sang một bên.

Đứng dậy tôi bước đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài. Màn đêm có vẻ ngột ngạt, tĩnh lặng, không chút gợn gió. Tôi quay gót rời khỏi phòng. Mọi thứ vẫn đứng yên, tĩnh mịch với sự trầm mặc của tòa nhà vĩ đại dường sống động. Ở đây trong Potala, những người đàn ông làm việc vì các nhiệm vụ linh thiêng cho nhiều thế kỷ và bản thân tòa cung điện ấy đã tạo ra sự sống cho chính nó. Tôi vội vã đi xuống phía cuối hành lang và leo lên một chiếc thang ở đây. Chẳng mấy chốc tôi đã ở trên mái nhà cao bên cạnh những Ngôi mộ Linh thiêng.

Soon I tired of reading; I was unsettled. Experiences were tumbling upon me faster and faster. More and more idly I turned the pages, then with sudden resolution I put all those printed sheets back between the carved wooden covers and tied the tapes. This was a book which had to be wrapped in silk. With inborn care I completed my task and set aside the book.

Rising to my feet I went to the window and looked out. The night was somewhat stuffy, still, with not a breath of wind. I turned, and left the room. All was still, still with the quietness of a great building which was almost alive. Here in the Potala men had worked at sacred tasks for some centuries and the building itself had developed life of its own. I hurried along to the end of the corridor and scaled a ladder there. Soon I emerged on to the high roof, by the side of the Sacred Tombs.

Tôi nhẹ bước lặng lẽ đến chỗ quen thuộc, nơi tránh được những cơn gió thổi ào ào từ trên núi xuống. Nằm tựa lưng vào Hình Thiêng, hai tay đan vào nhau để sau đầu, tôi nhìn chăm chú về phía Thung lũng. Ngắm một lúc thấy mệt, tôi nằm ngửa ra và ngắm sao trên trời. Khi ngắm nhìn, tôi có ấn tượng thật kỳ lạ như thể cả thế gian đang xoay quanh điện Potala. Nó khiến tôi cảm giác chóng mặt thực sự mất một lúc, như thể đang rơi. Đang quan sát, bỗng xuất hiện một tia sáng lóe lên. Nó trở nên rõ hơn, rồi bùng nổ thành một chùm sáng rực rỡ. “Lại một ngôi sao chổi nữa đã chết!” Tôi nghĩ, khi nó tự bùng cháy và kết thúc bằng một cơn mưa những tia lửa đỏ lờ mờ.

Silently I padded across to my accustomed spot, a spot which was well sheltered from the winds which normally raced down from the mountains. Lying back against a Sacred Image, with my hands clasped at the back of my head, I stared out across the Valley. Tiring of that after a time, I lay back and looked up at the stars. As I watched I had the strangest impression that all those worlds above were wheeling around the Potala. For a time it made me feel quite dizzy, as if I were falling. As I watched there was a thin tracery of light. Becoming brighter, it exploded into a sudden burst of brilliant light. “Another comet finished!” I thought, as it burned itself out and expired into a shower of dull red sparks.

Có tiếng « shush shush” gần như không nghe rõ đâu đó gần đây. Tôi thận trọng nghển đầu lên xem đó có thể là cái gì. Qua ánh sáng mờ nhạt từ những ngôi sao, tôi thấy một bóng người trùm mũ đi qua đi lại ở bên sườn đối diện các Lăng mộ Thiêng. Tôi chăm chú quan sát. Bóng người này di chuyển qua bức tường ốp dòng chữ “Thành phố Lhasa”. Tôi đã nhìn thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của ông ấy khi ông ta đang nhìn ra xa. Người đàn ông cô đơn nhất ở Tây Tạng, tôi nghĩ vậy. Một người đàn ông thận trọng và có trách nhiệm hơn bất kỳ ai trên đất nước này. Tôi nghe thấy một tiếng thở dài và tự hỏi phải chăng ông ấy cũng đã phải nhận được những lời tiên trí đầy gian khó giống như tôi. Tôi cẩn thận lăn mình và lặng lẽ bò đi; tôi không muốn xâm phạm – kể cả vô tình – vào dòng suy nghĩ riêng tư của người khác. Chẳng mấy chốc tôi ra đến lối lên và nhẹ nhàng trèo xuống chỗ phòng mình.

I became aware of an almost inaudible “shush-shush” somewhere close by. Cautiously I raised my head, wondering what it could be. By the faint starlight I saw a hooded figure pacing backwards and forwards at the opposite side of the Sacred Tombs. I watched. The figure moved across to the wall facing the City of Lhasa. I saw the profile as he looked into the distance. The loneliest Man in Tibet I thought. The Man with more cares and responsibilities than anyone else in the country. I heard a deep sigh and wondered if He too had had hard prophecies such as I. Carefully I rolled over and crawled silently away; I had no desire to intrude—even innocently—upon the private thoughts of another. Soon I regained the entrance, and made my quiet way down to the sanctuary of my own room.

Vài ba ngày sau, tôi lại có mặt khi Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức khám bệnh cho đứa con của đôi vợ chồng Ragyab. Ngài cởi đồ của đứa bé và cẩn thận quan sát hào quang. Trong một lúc, Ngài trầm tư một lúc về chỗ sau não. Đứa trẻ không khóc hay rên rỉ, dù Ngài có làm gì. Vì tôi biết, dù nó còn nhỏ, nhưng nó cũng hiểu rằng Latma Minh Gia Đại Đức đang cố gắng chữa bệnh cho nó. Cuối cùng Thầy đứng dậy và nói, “Nào, Lobsang, chúng ta sẽ chữa bệnh cho cậu bé nhé. Rõ ràng là cậu ấy đã bị đau đớn do đẻ khó.”

Bố mẹ đứa trẻ ngồi chờ trong căn phòng gần cổng ra vào. Tôi, bên cạnh Ngài như hình với bóng, đi cùng ra gặp họ. Khi chúng tôi bước vào, họ quỳ lạy dưới chân Đức Lạt ma. Ngài nhẹ nhàng nói với họ, “Con trai của anh chị có thể và sẽ được chữa khỏi. Theo chẩn đoán của chúng tôi, thì chắc chắn là vào thời điểm ra đời, cậu ấy đã bị đánh rơi hoặc bị đánh. Bệnh này có thể chữa được. Anh chị không cần phải lo.” Người mẹ run rẩy đáp lại, “Kính lạy Lạt ma Danh Y, đúng thật như Ngài nói. Đứa trẻ ra đời đột xuất, bất ngờ và nó rơi xuống đất. Tôi ở một mình vào lúc đó.” Ngài gật đầu tỏ ra hiểu và đồng cảm; “Hãy trở lại đây vào giờ này ngày mai và ta đảm bảo anh chị có thể mang đứa trẻ lành lặn về cùng.” Khi chúng tôi rời căn phòng họ vẫn còn quỳ lạy úp mặt xuống đất.

Some three days later I was present as my Guide, the Lama Mingyar Dondup examined the child of the Ragyab couple. He undressed it and carefully viewed the aura. For some time he pondered upon the base of the brain. This baby did not cry or whimper, no matter what my Guide did. As I knew, small as it was, it understood that the Lama Mingyar Dondup was trying to get it well. My Guide at last stood up, and said, “Well, Lobsang! we are going to get him cured. It is clear that he has an affliction caused by birth difficulties.”

The parents were waiting in a room near the entrance. I, as close to my Guide as his shadow, went with him to see those people. As we entered they prostrated themselves at the Lama’s feet. Gently he spoke to them; “Your son can and will be cured. From our examination it is clear that at the time of birth he was dropped or knocked. That can be remedied; you need have no fear.” The mother trembled as she replied, “Holy Medical Lama, it is as you say. He came unexpectedly, suddenly, and was tumbled upon the floor. I was alone at the time.” My Guide nodded in sympathy and understanding; “Return at this hour tomorrow and I am sure you will be able to take your child with you—cured.” They were still bowing and prostrating themselves as we left the room.

Thầy để tôi khám cho đứa trẻ một cách kỹ càng. “Nhìn này, Lobsang, có một áp lực ở đây,” Ngài chỉ dẫn. “Chiếc xương này đang chèn vào dây thần kinh – con thấy ánh sáng vàng trở thành hình quạt chứ không tròn như thế nào rồi đấy.” Ngài cầm tay tôi trong tay Ngài để tôi cảm nhận toàn bộ vùng bị ảnh hưởng. “Ta sẽ làm giảm bớt, đẩy chiếc xương đang cản trở ra ngoài. Hãy nhìn nhé!” Nhanh như chớp, Ngài ấn ngón tay cái vào rồi rút ra. Đứa trẻ không hề khóc một tiếng nào; có thể quá nhanh nên nó không cảm thấy đau đớn. Bây giờ cái đầu không còn bị quay nghiêng sang một bên như trước nữa mà nó đã thẳng như bình thường. Ngài cẩn thận xoa bóp một lúc cổ của đứa trẻ theo chiều từ đầu đến tim và không bao giờ theo chiều ngược lại.

My Guide made me examine the baby carefully. “Look, Lobsang, there is pressure here,” he instructed. “This bone is pressing upon the cord—you observe how the auric light becomes fan shaped instead of round.” He took my hands in his and made me feel round the affected area. “I am going to reduce, to press out, the obstructing bone. Watch!” Faster than I could see, he pressed his thumbs in—out. The baby made no outcry; it had been too fast for him to have felt pain. Now, though, the head was not lolling sideways as before, but was upright as a head should be. For some time my Guide massaged the child’s neck, carefully from the head down towards the heart, and never in the opposite direction.

Ngày hôm sau, đúng giờ hẹn, đôi vợ chồng trở lại và vô cùng vui sướng khi chứng kiến sự việc tưởng như phép màu. “Anh chị phải trả giá cho điều này,” Lạt ma Minh Gia Đại Đức mỉm cười, “anh chị đã nhận được điều tốt lành. Thế nên anh chị phải trả lại điều tốt lành cho nhau. Đừng cãi cọ mà cũng đừng xích mích với nhau, bởi vì đứa con sẽ nhiễm tính cách của bố mẹ. Đứa con sinh ra trong một gia đình không tử tế sẽ trở thành người không tử tế. Đứa con có cha mẹ không hạnh phúc, không yêu nhau thì đến lượt nó cũng bất hạnh và vô cảm. Hãy trả giá bằng việc đối xử tốt và yêu thương lẫn nhau. Một tuần nữa chúng tôi sẽ gọi đến anh chị để hỏi thăm về đứa trẻ.” Ngài mỉm cười và vỗ vào má đứa bé rồi quay đi với tôi bên cạnh.

On the following day, at the appointed hour, the parents returned and were almost delirious with joy at seeing the seeming-miracle. “You have to pay for this,” smiled the Lama Mingyar Dondup; “you have received good. Therefore you must pay good to each other. Do not quarrel nor be at variance with each other, for a child absorbs the attitudes of the parents. The child of unkind parents becomes unkind. The child of unhappy, loveless parents is unhappy and loveless in its turn. Pay—by kindness and love to each other. We will call upon you to see the child in a week’s time.” He smiled, and patted the baby’s cheek and then turned and went out, with me by his side.

“Một số người rất nghèo nhưng có lòng tự trọng, Lobsang à, họ cảm thấy khó chịu nếu không có tiền để trả. Họ luôn nghĩ rằng họ cần phải trả một cái gì đó.” Ngài cười khi bình luận, “Ta nói với họ là họ phải trả. Điều đó khiến họ cảm thấy nhẹ nhõm, bởi họ nghĩ rằng, khi mặc bộ quần áo đẹp nhất mình có, họ sẽ gây ấn tượng cho ta, rằng ta nghĩ họ là người có tiền. Cách duy nhất mà họ có thể trả là như ta đã nói, đó là trả bằng lòng tốt với nhau. Hãy để cho người đàn ông và đàn bà này giữ sự hãnh diện và tự trọng của họ, Lobsang à, rồi họ sẽ làm bất cứ điều gì mà con yêu cầu!”

Trở về phòng mình, tôi cầm lên chiếc ống nhòm vẫn thường chơi. Tôi kéo dài cái ống ngắm sáng bóng và nhìn chăm chú về phía Lhasa. Hai bóng người nhanh chóng lọt vào tầm ngắm, một người đang bế đứa bé. Tôi thấy người đàn ông choàng một cánh tay ôm lấy vai vợ và hôn cô ấy. Lặng lẽ tôi đặt ống nhòm sang một bên và bắt đầu công việc học hành của mình.

“Some of the very poor people are proud, Lobsang, they are upset if they have not money with which to pay. Always make it possible for them to think they are paying.” My Guide smiled as he remarked, “I told them they must pay. That pleased them, for they thought that, in their best dress, they had so impressed me that I thought they were people with money. The only way they can pay is as I said, by kindness to each other. Let a man and woman keep their pride, their self-respect, Lobsang, and they will do anything you ask!”
Back in my own room I picked up the telescope with which I had been playing. Extending the shining brass tubes I peered in the direction of Lhasa. Two figures came quickly into focus, one carrying a baby. As I watched, the man put an arm around his wife’s shoulder and kissed her. Silently I put away the telescope and got on with my studies.