Tĩnh lặng, một sự thinh lặng đến hoàn hảo, không một tiếng thì thầm, không tiếng sột soạt, không có gì cả. Sự tĩnh lặng lớn đến choáng ngợp, đến nỗi tuyệt đối không có cái gì hiện diện ngoài sự tĩnh lặng.
Bóng tối, tối đến độ đôi mắt Arnold hầu như có thể nhìn thấy mọi thứ như trong ánh sáng. Nhãn cầu vốn đã quen với ánh sáng, và đã lưu dấu những định dạng ánh sáng quen thuộc, nên bây giờ, dù là trong bóng tối sâu thẳm, ông vẫn cảm nhận được những vệt sáng từ đáy mắt mình.
Silence, perfect silence, not a whisper of sound, not a rustle, nothing. Silence so great that there was an absolute absence of anything except silence.
Darkness, so dark that Arnold could almost see things in the light. His eyes had been used to light, they must have stored up light patterns because now in the darkness so profound he was getting optic nerve flashes.
Một sự trống vắng tuyệt đối. Arnold cử động và không thể nói rằng ông đang cử động, tất cả chỉ là một sự trống rỗng, và còn trống rỗng hơn cả không gian ngoài vũ trụ kia, ông chợt nghĩ. Rồi đột nhiên, một điểm sáng le lói xuất hiện “ở đâu đó”, và từ đó những tia sáng xanh lóe ra giống như những đốm sáng từ chiếc móng ngựa nung đỏ đang tóe lửa dưới nhát búa của người thợ rèn. Ánh sáng màu xanh, xanh nhạt ở trung tâm rồi đậm dần thành màu lam tím khi lan ra ngoài. Ánh sáng lan rộng, vẫn là sắc xanh ấy, rồi Arnold nhìn thấy thế giới, là Trái Đất mà ông vừa rời khỏi. Có vẻ như ông đang trôi trong không gian. Chẳng có gì ngoài một đám mây rất lớn, trông như một quả bóng bằng bông nhiều sắc màu khác nhau, mây đen và mây trắng, thoáng lên trong ông ý nghĩ đây chắc hẳn là Sa Mạc Sahara, chẳng có cái gì ngoài cát và sự hoang vu. Rồi xuyên qua khỏi Trái Đất, ông nhìn thấy những tinh cầu khác, tất cả chúng hòa trộn với nhau nhưng không hề chạm vào nhau. ‘Tôi sắp điên lên mất,’, Arnold nghĩ, ‘Phải ra khỏi đây thôi!’.Ông quay đầu định tìm lối thoát. Đằng sau ông nhìn thấy hai tinh cầu rực sáng. Ông nhìn chằm chằm vào chúng và khi đó trong ông có ý nghĩ: ‘Không sao đâu, Arnold, chúng tôi biết tất cả về ông, chúng tôi đang xem lại quá khứ của ông. Kiếp vừa qua ông đã làm rất tốt, trừ việc ông đã quá lười và chẳng quan tâm đến việc được tước phong. Arnold, đó là sự lười biếng của ông!’
An absolute absence of everything. Arnold moved and could not tell that he had moved, everything was emptiness, emptier, he thought, than space itself. But then suddenly a faint point of light appeared ‘somewhere’, and from it blue rays were flung out like sparks on a red hot horse shoe being beaten by a blacksmith. The light was blue, pale blue in the centre deepening to a purple blue further out. The light expanded, it was still blue, and then Arnold saw the world, the Earth which he had so recently left. It seemed to be floating in space. There was nothing but a mass of clouds, it seemed almost like a ball of cotton wool of different colours, black clouds and white clouds, and he had a momentary glimpse of what he thought must be the Sahara Desert, nothing but sand and desolation. Then through the Earth he saw other globes, all inter-mingling and yet not one of them touching. ‘I’m going mad,’ thought Arnold, ‘let’s get out of here!’ And he turned to make his escape. Behind him he saw two glowing orbs. He stared back at them and then had an impression: ‘It is all right, Arnold, we know all about you, we have been examining your past. You have done very well in this last life other than that you have been so lazy that you did not rise above the deacon stage, you did not bother to get ordained. That was lazy of you, Arnold.’
Arnold nhìn chăm chú và như có tiếng nói xuất hiện trong đầu: ‘Không, ông không thể nhìn thấy chúng tôi đâu, chúng ta ở các cấp độ rung động khác nhau. Tất cả những gì ông có thể thấy chỉ là một quả cầu ánh sáng, và đó không phải là hình hài của chúng tôi đâu. Ông sẽ sớm trở thành một người trong chúng tôi nếu ông muốn và nếu ông không muốn thì ông có thể quay trở lại Trái đất để giải quyết những việc còn dang dở như việc trở lại làm một người trợ tế trong khi ông đã có thể tiến xa hơn rất nhiều.’
Arnold stared, and the impression came to him: ‘No, you cannot see us, we are of a different vibration. All you can see is a globe of light and that is not at all what we look like. Soon you will be one of us if you wish and if you do not so desire then you will have to go back to Earth and clear up a few ends that you left untied such as the business of staying as a deacon when you could have risen so much higher.’
‘Nhưng các anh trông như thế nào?’ Arnold hỏi.
‘Không ai biết được một ông vua sống như thế nào,’ luồng tư tưởng đến từ một trong những quả tinh cầu. ‘Con người có những ý nghĩ kỳ quặc về các vị vua và hoàng hậu, một số nghĩ rằng họ cả ngày ngồi trên ngai vàng với chiếc vương miện trên đầu, cầm vương trượng và tinh cầu trên tay. Vua và hoàng hậu không sống như thế đâu. Tương tự như vậy, trên Trái Đất, con người có nhiều ý nghĩ lạ kỳ về cuộc sống ngay sau cái chết, nếu họ nghĩ có Thiên Đàng với Ngọc Môn lộng lẫy, thì sẽ có Thiên Đàng với Ngọc Môn lộng lẫy, bởi đây là vùng đất được điều khiển bằng tư tưởng nên con người nghĩ như thế nào thì nó sẽ ra thế ấy, và nếu ai đó nghĩ có thiên thần đang bay thì họ sẽ thấy thiên thần đang bay. Nhưng việc đó chỉ phí công thôi, một cuộc sống như thế chẳng có ích lợi gì cả, và đây là giai đoạn chuyển giao để con người có thể chiêm nghiệm và nhận ra nhiều điều.’
‘But what are you like?’ asked Arnold.
‘Not everyone knows how a king lives,’ thought one of the spheres. ‘People have the most weird ideas about kings and queens, some thinking that they live all day sitting on a golden throne with a crown on their head and holding the Orb and the Sceptre. Kings and queens do not live that way at all. Similarly on Earth people have many weird ideas about the immediate life after death, they think there is Heaven with Pearly Gates well, there is Heaven with Pearly Gates for those who think there is, because here in a land which is controlled by thought people are what they think they are, and if a person thinks there are angels flying about then they will see angels flying about. But it’s all a waste, there is no use at all in such a life, and these intermediate stages are so that people can rationalize things and become straightened out.’
Dường như một cuộc trò chuyện nào đó đang diễn ra giữa hai tinh cầu, vì giữa họ có rất nhiều rung động dập dềnh. Rồi luồng tư tưởng lại dội đến từ một tinh cầu; ‘Chúng tôi thấy rất thú vị khi con người trên cõi giới này đã bị ràng buộc quá nhiều với những tập tính, thói quen đến độ họ phải tưởng tượng ra thức ăn để rồi họ tưởng tượng rằng họ đang ăn. Chúng tôi đã thấy những người sùng đạo ở đây thậm chí còn tưởng tượng phải ăn cá vào những ngày thứ Sáu!’, giọng nói thần giao cách cảm lại tiếp tục.
There seemed to be some conversation going on between the two globes because there was much bobbing and vibrating between the two. Then from one of the globes there came this thought; ‘We are much amused that people on this plane of existence are so tied up with their habits and customs that they even have to imagine food which they then imagine that they eat. We have seen,’ the telepathic voice continued, ‘some very religious people here who even have to eat fish on Fridays!’
‘Chúa ơi!’, Arnold nói, ‘như vậy có vẻ hơi lố, nhỉ?’
‘Nhưng sao con người lại sợ cái chết đến thế?’ Arnold tiếp tục hỏi.
‘Dù tôi là người sùng đạo và luôn làm theo những điều răn dạy, tôi vẫn phải thú nhận rằng tôi sợ chết kinh khủng. Tôi nghĩ Chúa trời sẽ ở đó sẵn sàng trừng phạt tôi vì những điều sai trái tôi đã làm, và tôi luôn tự hỏi tại sao người ta sợ chết đến thế.’
‘Holy mackerel!’ said Arnold, ‘that does seem a bit farfetched, doesn’t it?’
‘But why do people fear death so much ?’ asked Arnold.
‘Although I was a religious and obeyed all the rules of the Order I confess that I was terrified of dying. I thought God would be there ready to smite me down for all the wrongs I had done, and I have always wondered why people feared death so much.’
Giọng nói qua thần giao cách cảm lại cất lên: ‘Con người lo sợ cái chết vì chúng tôi không muốn họ biết sự thật. Chết là một sự giải tỏa, khi người ta đi đến giai đoạn cuối cùng của cái chết thì tất cả những nỗi sợ hãi đều được xóa bỏ, tất cả những nỗi đau khổ đều tan biến. Nhưng con người cần phải sợ chết, nếu không họ sẽ dễ dàng tự tử và sẽ có những vụ tự tử tập thể; nếu con người biết được chết thoải mái như thế nào, cuộc sống sau cái chết dễ chịu ra sao thì họ sẽ tự tử, và điều đó thật sự rất tồi tệ. Con người đến Trái Đất cũng giống như trẻ con đến trường để học, và trẻ con cần phải được giữ ở trong trường để không trốn học đến những chỗ vui chơi ở bên ngoài. Do đó, con người cần phải sợ chết đến phút cuối cùng của cuộc đời, đến lúc rõ ràng họ không còn có thể tiếp tục sống được nữa. Khi đó, họ sẽ trân trọng hơi ấm của cái chết, sự hạnh phúc của cái chết.’
The telepathic voice came again: ‘People fear death because we do not want them to know the truth. Death is pleasant, when one comes to the last stages of dying all fear is removed, all pain, all suffering is removed. But people have to fear death otherwise they would commit suicide and there would be mass suicides; if people knew how pleasant death is and how much better the life here is then they would commit suicide and that would be a very bad thing indeed. They go to Earth as children go to school to learn, and children must be kept in school and not allowed to escape into the joys of the countryside. So it is that people fear death until the last moment, until it is clear that they cannot possibly live longer. Then they embrace the warmth of death, the happiness of death.’
‘Nhưng chúng tôi muốn ông từ bỏ thế giới vật chất và bước đến thế giới của linh hồn,’ tư tưởng từ một tinh cầu cất lên.
‘Nhưng tại sao lại có một thiên đàng vật chất thậm chí là phỏng nhái khi con người thực sự không cần những thứ vật chất ấy?’ Arnold hỏi.
‘Bởi vì Bản ngã hay Linh hồn, ông muốn gọi nó thế nào cũng được, cần thiết phải có trải nghiệm vật chất, và với cuộc sống khó khăn trên Trái Đất, người ta có thể tiếp thu nhanh những bài học chỉ trong một vài năm, trong khi nếu chừng đó bài học phải trải qua trong thế giới của linh hồn thì nó sẽ cần đến nhiều niên đại. Nhưng giờ chúng tôi phải cho ông xem lại tiền kiếp của mình đã. Hãy xem nhé!’
‘But we want you to leave the material worlds and come to the worlds of the spirit,’ thought one of the globes.
‘But why is there a material heaven even though an imitation one if people do not need material things?’ asked Arnold.
‘Because for an Overself or Soul or whatever you like to call it, it is necessary to get material experience, and in the hardships of the Earth one can learn hard lessons in just a few years whereas if the lessons had to be absorbed by a spirit living in a spirit world then it would take eons of time. But now we have to show you your past life. Watch!’
Thế giới trước mắt Arnold dường như được mở rộng, nó mở rộng nhanh đến độ ông tưởng mình đang ngã xuống từ một vách dựng đứng trong không gian? chuyển hướng sang một thế giới khác. Ông đang rơi xuống, hay ông cảm thấy thế, được cả hàng ngàn dặm thì thấy mình đang ở bên trên Trái đất chỉ vài feet. Trước mắt ông là những người đàn ông xa lạ đang hỗn chiến sinh tử, lăm lăm trong tay nào giáo, rìu, và cả gậy buộc đá nặng. Arnold nhìn họ, và một dáng hình đặc biệt thu hút sự chú ý của ông. Dáng hình ấy, đang nằm trên mặt đất, bỗng bật dậy, xiên mũi giáo xuyên qua ngực một kẻ thù đang tiến lại gần. Kẻ kia ngã vật ra trên mặt đất, trong một vũng máu. ‘Arnold, đó là một hành động rất xấu mà ông đã làm,’ giọng nói vang lên trong đầu ông,‘ ông sẽ phải sống nhiều kiếp để đền lại cho tội ác này’.
The world in front of Arnold seemed to expand, it expanded so rapidly that he thought he was falling over the edge of a precipice a precipice in space? on to the turning world. He fell, or thought that he fell, for thousands of miles and then he found himself living just a few feet above the Earth. In front of him there were strange looking men engaged in mortal combat, wielding spears, axes, and even sticks with heavy stones at the end. Arnold looked at them, and one figure in particular attracted him. The figure suddenly rose up from lying on the ground and put his spear right through the chest of an approaching enemy. The enemy toppled to the ground in a welter of blood. ‘That was a bad deed you did, Arnold,’ said a voice in his head, ‘you had to live many lives to atone for that.’
Hình ảnh lại chuyển động từ thời của những người Assyrian qua những giai đoạn lịch sử khác nhau của Trái Đất, và rồi cuối cùng thấy cuộc đời mà ông vừa rời khỏi, ông nhìn thấy thời trẻ của mình, những lỗi lầm nhỏ mà ông đã từng phạm phải, như trộm táo trong vườn cây trái nhà hàng xóm, hay lấy tiền từ chỗ để chai sữa vốn để cho người giao sữa đến thu. Ông thấy mình đã từng lẻn đến chợ vài lần và ăn cắp vài quả táo, lê, hay chuối như thế nào.
Sau đó, ông lại thấy mình là một thầy tu, đang vượt qua nỗi lo lắng sợ không thể thi đậu cuộc sát hạch tôn phong và rồi tìm cách che dấu sự kém cỏi của mình bằng thái độ khinh người.
Ông lại thấy mình ở giây phút hấp hối, và khi cái chết đến, ông như bị bắn ra khỏi Trái Đất, bay lên cao mãi và đáp đến một cõi giới khác.
The pictures went on from the times of the Assyrians on through different periods of Earth history, and then at last he saw the life he had just left, he saw his early days and the little offences he had committed such as robbing an old neighbour’s orchard or taking some coins out of a milk bottle which had been left for collection by the milkman. He saw how he had gone to the market a few times and swiped fruit, apples, pears and bananas.
Later he saw himself as a monk overcome with the fear that he would not be able to pass the examinations for Ordination and so adopting a supercilious attitude to cover up the fear of his own incompetency.
He saw again his dying and his death, and then he seemed to be rocketing out of the Earth, going up and up and up, and then landing upon another plane of existence.
‘Ông đã sống rất tốt trong kiếp vừa rồi,’ giọng nói vang lên trong đầu ông, ‘và sẽ chỉ lãng phí thời gian nếu ông lại phải quay trở lại sống trên Trái Đất. Chúng tôi nghĩ thay vào đó chắc chắn ông có thể học được rất nhiều.’
‘Thế còn bạn bè của tôi ở đây thì sao?’ Arnold hỏi, ‘Còn cha mẹ tôi và những người mà tôi đã quen biết trước đây, liệu có tệ không khi tôi đến đây và nhận được bao nhiêu yêu thương từ họ rồi bỗng nhiên bỏ đi đến một cõi giới khác cao hơn? Họ sẽ nghĩ thế nào về tôi?’
‘You performed very well in that life,’ said the voice in his head, ‘and it would be a mere waste of time for you to go back to the Earth phase again. We think instead you can undoubtedly learn much.’
‘But what about my friends here?’ asked Arnold, ‘My father and my mother and the many people I knew before, isn’t it rather bad to come and take their hospitality and then suddenly go off to a higher plane? Whatever will they think of me?’
Giọng nói trong đầu ông hẳn đã bật cười khi trả lời, ‘Arnold ơi, nếu họ xứng đáng để đi lên cõi giới cao hơn, họ hẳn đã đi rồi, và nếu ông không thoát ra khỏi Đại sảnh này trong một hình hài mà họ có thể nhận ra, thì hẳn họ sẽ trân trọng việc ông được đi đến một cõi giới cao hơn. Khi chúng ta ra đi ra khỏi đây, cả ba chúng ta sẽ xuất hiện như những quả tinh cầu trong mắt họ, và khi họ trông thấy hai tinh cầu đi vào, nhưng có đến ba tinh cầu đi ra, họ sẽ hiểu rằng tinh cầu thứ ba đấy chính là ông, và họ sẽ hân hoan trước sự tiến bộ và thăng tiến của ông. Điều đó cũng sẽ cho họ nhiều hy vọng rằng cuối cùng rồi họ cũng sẽ đạt được điều tương tự.’
The voice in his head had a definite laugh as it replied, ‘If they were worthy of going higher, Arnold, they would have gone higher, and if you do not come out of this building in a form which they can recognize then they will appreciate that you have gone higher, to a higher plane of existence. When we come out of here the three of us will appear as globes of light to them, and having seen two enter and three come out they will know that the third was you and they will rejoice accordingly at your advancement and your elevation. It will also give them much hope that eventually they may do the same.’
‘Đồng ý’, ý niệm vụt qua trong tâm trí Arnold, và rồi trong sự ngạc nhiên vô cùng, ông thấy mình tràn trề sinh lực, cảm thấy sức sống tràn trề hơn bất cứ giây phút nào đã sống trước đây, ông thấy tràn đầy năng lượng, và khi nhìn xuống, ông chẳng thể nhìn thấy chân mình nữa, chẳng thấy tay mình nữa. Trong khi ông còn đang ngơ ngác nhìn thì giọng nói lại cất lên: ‘Arnold, Arnold, bây giờ ông đã giống chúng tôi rồi, nếu ông nhìn chúng tôi, ông sẽ thấy ông như thế nào, chúng ta chỉ là những khối năng lượng thuần khiết đang thu nạp năng lượng từ môi trường xung quanh. Chúng ta có thể đi bất cứ nơi nào, làm bất kỳ điều gì chỉ bằng ý nghĩ, và Arnold à, chúng ta không ăn thức ăn theo cách như ông đã biết nữa đâu!
And so it came about that in his mind Arnold thought, ‘Yes,’ and then to his profound astonishment he found that he felt absolutely vital, more full of life than he had ever felt before, he felt full of energy and looking down he could not see his feet any more, he could not see his hands. While he stared in a somewhat bemused manner the voice came to him again: ‘Arnold, Arnold, you are as us now, if you look at us you will see how you are, we are just masses of pure energy taking in extra energy from our surroundings. We can go anywhere and we can do anything entirely by thought, and Arnold, we do not eat food as you know it anymore!’
Một cảm giác hân hoan kỳ lạ dâng lên, và Arnold thấy mình đang nhập hội cùng hai người bạn mới băng qua bức tường của Sảnh ký ức. Ông nhẹ nhàng mỉm cười khi nhìn thấy vài người bạn phía ngoài, ông nhìn thấy biểu cảm trên gương mặt họ khi họ đã hiểu rằng có đến 3 tinh cầu đi ra trong khi chỉ có 2 tinh cầu đi vào.
There was a peculiar singing sensation and Arnold found that he was following his two new friends through the wall of the Hall of Memories. He smiled slightly as he saw some of his friends outside, he saw the expression on their faces as they noted that three globes went off but only two had entered.
Và âm thanh như một bài hát tăng dần lên, và có một cảm giác của vội vã, của tốc độ, Arnold nghĩ, ‘Tôi tự hỏi tại sao chúng ta dường như lúc nào cũng đi lên chứ không bao giờ đi xuống?’ Khi vừa nghĩ đến điều đó, ông liền nhận được câu trả lời: ‘Ừ đúng rồi, tất nhiên chúng ta đi lên đến nơi có rung động ở tần số cao hơn. Ông chưa từng nghe thấy việc đi xuống đến tầng rung động cao hơn đúng không? Chúng ta đi lên theo đúng như cái cách mà ông đã làm ở Trái Đất khi ông muốn thoát khỏi Trái đất, chỉ có một hướng là đi lên, nếu ông đi xuống, ông sẽ tiếp cận tâm Trái Đất, đó là chỗ ông cần phải tránh, nhưng hãy chú ý đến việc ông đang đi đâu.’
And the singing noise increased, and there was a sensation of rushing, of speed, and Arnold thought, ‘I wonder why we always seem to go upwards and never down?’ As he thought that he got the answer: ‘Well, of course we go upwards, we go up to a higher vibration. You’ve never heard of going down to a higher vibration, have you? We go up in the same way on Earth when you want to change your state you get away from the Earth, you go up which is the way; if you went down you would get closer to the centre of the Earth, the thing you were trying to avoid, but pay attention where we are going.’
Ngay lúc đó Arnold cảm thấy một cú sốc hay một cú giật nẩy người. Ông không thể giải thích chính xác loại cảm giác đó, nhưng nếu ông suy nghĩ về việc đó thì ông thấy nó giống như một chiếc máy bay phản lực đang phá vỡ sức cản của âm thanh. Đó rõ ràng là một cảm giác vô cùng khác biệt, như thể ông đang bước vào một chiều không gian khác, và đó chính xác là điều mà ông đang làm. Thêm một cú giật nẩy, và mọi thứ dường như bừng sáng xung quanh ông, ông nhìn thấy những luồng ánh sáng chói lòa, những dải màu lấp lánh chưa từng được thấy trước đây, rồi ông nhìn vào hai thực thể đang đi cùng và thốt lên, ‘Ồ, các anh cũng là con người giống tôi!’
Just at that moment Arnold experienced a shock or a jolt. He could not explain exactly the type of sensation but probably if he had thought about it he would have likened it unto a jet plane breaking through the sound barrier. It was definitely a ‘peculiar’ sensation as if he was entering another dimension, and that is precisely what he was doing. There was this sudden jolt and everything seemed to flare around him, he saw coruscating, scintillating colours of hues which he had never before experienced, and then he looked at the two entities with him and exclaimed, ‘Oh! You are humans just like me!’
Một người cười nói, ‘Đương nhiên chúng tôi cũng là con người có hình hài giống như ông, thế ông nghĩ chúng tôi phải như thế nào? Trong bản Kế hoạch Vũ Trụ vĩ đại, chúng ta cần phải có những hình hài nhất định, ví dụ chúng ta là con người thì bất kể là người tiền sử, người bình thường hay siêu nhân thì tất cả chúng ta đều có cùng số đầu, tay, chân và cùng cách phát âm cơ bản, v.v… Ông sẽ nhận ra rằng trong Vũ Trụ này, mọi thứ đều được xây dựng từ công thức của phân tử carbon, do đó, bất kể ai ở nơi nào trong Vũ Trụ này, dù là ở dưới hình dạng con người hay giống con người thì tất cả đều cơ bản giống ông hoặc chúng tôi. Tương tự, thế giới động vật về cơ bản cũng thế, con ngựa có một đầu và tứ chi giống như chúng ta và nếu ông nhìn vào một con mèo thì cũng lại giống như vậy, có một đầu và tứ chi và một cái đuôi. Rất lâu trước đây, loài người đã có đuôi, nhưng may mắn thay họ đã không cần đến nó nữa. Nên hãy nhớ rằng bất kể ông đi đâu trong Vũ Trụ này, bất kể ở cõi giới nào, mọi người luôn có cùng một một dạng hình thể cơ bản, thứ mà chúng ta gọi là hình thể con người.’
The other laughed and said, ‘But of course we are humans the same shape as you, what should we be? The great Plan of the Universe makes it necessary that people shall adopt a certain shape, for example we are humans no matter if it is sub-human, ordinary human or super-human, we all have the same number of heads, arms, and legs, and the same basic method of speech, etc. You will find that in this particular Universe everything is built on the carbon molecule form so no matter where you go in this Universe humans or humanoids are basically the same as you or us. In the same way, the animal world is basically the same, a horse has a head and four limbs just as we have and if you look at a cat well, there is the same again, a head, four limbs and a tail. Years ago humans had tails, fortunately they have done without them. So remember wherever you go in this Universe, no matter in what plane of existence, everyone is of basically the same form, what we call the human form.’
‘Nhưng, trời ơi, tôi đã thấy anh ở hình dạng một quả cầu ánh sáng cơ mà!’ Arnold bối rối nói. ‘Và bây giờ tôi lại thấy anh trong hình dạng một siêu siêu nhân mặc dù quanh anh vẫn có luồng sáng rất chói lóa.’
Người kia cười và trả lời, ‘Ông sẽ sớm làm quen với điều đó thôi. Ông sẽ ở trong cõi giới này khá lâu, sẽ có nhiều thứ phải làm, nhiều việc phải lên kế hoạch.’ Họ cùng nhau trôi dạt một lúc. Rồi Arnold bắt đầu nhìn thấy những thứ mà ông chưa từng thấy trước đây. Hai người kia quan sát ông và một người lên tiếng, ‘Tôi mong rằng ông đang quen với cách nhìn các thứ ở đây, bây giờ ông đang ở trong chiều không gian thứ năm, ông biết đấy, chúng ta đã ra khỏi thế giới hay cõi giới vật chất. Ở đây, ông không cần phải mơ về thức ăn nước uống hay vật chất nào khác nữa. Ở đây, ông tồn tại dưới dạng linh hồn thuần khiết.’
‘But, good gracious me, I saw you as a ball of light!’ said Arnold in some confusion. ‘And now I see you as super, super-human forms although you still have a lot of light around you.’
The others laughed and replied, ‘You’ll soon get used to it. You’re going to be here in this plane for quite a long time, there is a lot to be done, a lot to be planned.’ They drifted on for some time. Arnold was beginning to see things he had never seen before. The others were watching him and one said, ‘I expect your sight is getting used to seeing things here, you are in the fifth dimension now, you know, away from the world or plane of material things. Here you won’t need to dream up food or drink or things of that nature. Here you exist as pure spirit.’
‘Nhưng nếu chúng ta là những linh hồn thuần khiết, vậy tại sao tôi lại thấy các anh dưới hình dạng con người?’ Arnold hỏi.
‘Việc chúng ta là gì không quan trọng, Arnold à, chúng ta vẫn sẽ có một hình dạng nhất định. Nếu chúng ta là những quả cầu lửa, thì chúng ta vẫn có hình dạng, và bây giờ, ở đây, ông đang nhìn trong chiều không gian thứ năm, vậy nên ông thấy chúng tôi như chúng tôi hiện tại đang ở hình dạng con người. Ông cũng thấy đó, cỏ cây hoa lá, nhà cửa xung quanh ông, đến những con người sống cùng cõi giới mà ông vừa từ đó đến, họ không là gì ở đây, họ cũng không thể đến đây, nếu họ đến đây họ cũng sẽ bị thiêu đốt bởi bức xạ ở nơi này rất cao.’
‘But if we are pure spirit,’ said Arnold, ‘how is it that I see you as human shapes?’
‘But it doesn’t matter what we are, Arnold, we still have to have a shape. If we were round balls of flame we would have a shape, and now, here, you are getting your fifth dimensional sight in focus and so you see us as we are, human in shape. You see, also, plants, flowers, dwellings around you; to the people of the plane from which you have just come they would be nothing, not that they could come here if they came here they would be burned by the very high radiations here.’
Họ trôi qua khắp vùng không gian tươi đẹp mà Arnold vừa tiến vào. Ông nghĩ sẽ khó khăn biết nhường nào nếu ông còn có thể quay trở lại Trái Đất và mô tả lại những điều kiện sống ở đây như nó đang tồn tại. Trên Trái Đất, hay trên cõi giới ở chiều không gian thứ tư, chẳng từ ngữ nào có thể diễn tả được hết cuộc sống ở chiều không gian thứ năm này.
They drifted on over such beautiful country that Arnold was entranced. He thought how difficult it would be if he ever had to return to the Earth and describe what conditions here were like. On the Earth, or on the fourth dimensional plane there were no words at all to describe life in this fifth dimension.
‘Ồ, những người kia họ đang làm gì vậy?’ Arnold hỏi, tay chỉ vào nhóm người đang ở trong một khu vườn rất đẹp. Có vẻ họ đang ngồi thành một vòng tròn, và mặc dù ý nghĩ này hoàn toàn vô lý đối với Arnold, nhưng hình như họ đang tạo ra cái gì đó bằng suy nghĩ. Một trong những người đồng hành với ông ung dung quay lại và nói, ‘ Ồ, họ ấy à? Họ đang chuẩn bị những điều để sau này sẽ gửi đến cho một số con người trên Trái Đất như một nguồn cảm hứng. Ông thấy đó, có rất nhiều thứ được bắt nguồn từ đây mà chúng tôi đã nhồi vào những cái óc ngu ngốc của con người để cố gắng nâng cấp tinh thần cho họ. Thật không may những con người trên Trái Đất chỉ toàn muốn dùng mọi thứ cho sự hủy diệt, cho chiến tranh, hoặc để vơ vét tiền của.
‘Oh, what are those people doing?’ asked Arnold as he pointed to a group inside a very pleasant garden. They seemed to be sitting in a circle, and they seemed although the idea was quite absurd to Arnold that they were making things by thought. One of his companions turned leisurely and said, ‘Oh them? Well, they are just preparing things which will later be sent forth as an inspiration to certain people on the Earth. You see, there are many things originating here which we put into the dull minds of humans to try to raise their spiritual level. Unfortunately the people of the Earth want to use everything for destruction, for war, or for capitalistic gain.’
Họ lại tiếp tục tăng tốc trong không gian. Không có con đường nào cả, từ những gì mà ông suy đoán Arnold ngạc nhiên nhận ra rằng tất cả giao thông ở đây đều được thực hiện trong không trung.
Họ đến một khu công viên khác với rất nhiều người ở đó. Những người này dường như đang đi dạo đây đó trên những lối nhỏ bên trong công viên. ‘Như vậy họ có thể tản bộ dễ dàng hơn đấy, Arnold ạ’, một người hướng dẫn nói. ‘Chúng tôi xem việc tản bộ là thú vui và như là một cách để chúng tôi đi từ chỗ này đến chỗ khác một cách chậm rãi, vì vậy chúng tôi chỉ dùng những lối nhỏ để chúng tôi có thể đi bộ một cách thoải mái bên bờ sông hoặc bờ hồ hoặc trong công viên. Thông thường chúng tôi chỉ di chuyển bằng cách điều khiển bay như chúng ta đang làm bây giờ thôi.’
They were speeding along now up in the air. There were no roads, Arnold was astonished to note, from which he divined that all traffic here was done through the air.
They came to more parkland with a lot of people in the park. These people seemed to be walking about and they had paths just through the park. ‘So they can stroll more easily, Arnold,’ said one of his guides. ‘We use walking as a pleasure and as a means of getting to places slowly so we only have pathways where we can practice pleasurable walking by the side of a river or lake, or in a park. Normally we go by controlled levitation as we are doing now.’
Nhưng tất cả những người này là ai vậy?’ Arnold hỏi. ‘Tôi có cảm giác rất hoang mang, hình như tôi có thể nhận ra vài người trong số họ. Tất nhiên, nó thật ngớ ngẩn, thật phi lý, không thể nào tôi biết ai đó trong số họ, hoặc là họ có thể biết về tôi, nhưng bản năng nói với tôi, và tôi có một cảm giác rất kỳ lạ là tôi đã từng trông thấy họ. Họ là ai vậy?’
‘But who are all these people?’ asked Arnold. ‘I have a most uneasy feeling that I well, I seem to recognize some of them. It’s perfectly absurd, of course, perfectly preposterous, it just is not possible that I know any of them or they know me, but I have a distinct and very uncanny feeling that I have seen them before. Who are they?’
Hai người hướng dẫn nhìn xung quanh và nói, ‘Ồ, HỌ ấy à? À, thì người đằng kia đang nói chuyện với người đàn ông cao lớn, từng được biết đến trên Trái Đất là Leonardo da Vinci, và ông ấy đang nói chuyện với người từng được biết trên Trái đất là Winston Churchill. Ở đằng kia’ họ chỉ tay vào một nhóm người khác, ‘ ông sẽ thấy Aristotle, người mà rất lâu trước kia trên Trái đất được tôn sùng là Cha đẻ của Y học. Ông ấy đã khá chật vật để lên đến đây, bởi vì người ta cho rằng thay vì là Cha đẻ của ngành y ông ấy đã làm chậm lại sự tiến bộ của y học trong một thời gian dài.
The two guides looked about them and said, ‘Oh, THEM! Well, that one over there talking to a big man was known on Earth as Leonardo da Vinci and he is talking to the one known on Earth as Winston Churchill. Over there ’ pointing to another group ’you will find Aristotle who on Earth in days long gone was known as the Father of Medicine. He had a hard time getting up here because it was held that instead of being the Father of Medicine he delayed the progress of medicine for many, many years.’
‘Ồ, việc ấy là thế nào?’ Arnold hỏi trong khi nhìn về phía nhóm người.
‘Chà, ông thấy đấy, Aristotle được cho là biết tất cả mọi thứ về y học và về cơ thể con người, và sẽ là tội ác chống lại một con người vĩ đại như thế nếu có người cố gắng tìm hiểu sâu hơn, và do đó đã có một đạo luật được thông qua với hình phạt là cái chết nếu ai đó giải phẫu cơ thể người hoặc nghiên cứu sâu hơn về giải phẫu học, vì việc đó là xúc phạm đến Aristotle. Và việc này đã làm cho sự tiến bộ của y học bị chậm lại hàng trăm năm.’
‘Oh, how is that then?’ asked Arnold looking toward the group.
‘Well, you see, Aristotle was claimed to know everything there was to know about medicine and about the human body and it was therefore a crime against such a great person to try to investigate further, and so a law was passed making it an absolute death punishable crime to dissect a body or to make research into anatomical things because in doing so there would be insult to Aristotle. And that delayed progress in medicine for hundreds and hundreds of years.’
‘Tất cả mọi người đều lên đây à?’ Arnold hỏi. ‘Ở đây có vẻ không nhiều người lắm mà?’
‘Ồ không, không, không, đương nhiên không phải tất cả đều lên đây. Ông hãy nhớ người xưa đã nói rằng rất nhiều người được chọn, nhưng chỉ ít người thành công. Nhiều người đã ngã xuống dọc đường. Lên đến đây chỉ có một số ít ỏi những con người có trí tuệ và tinh thần thật sự xuất chúng. Họ ở đây vì những mục đích đặc biệt, mục đích là cố gắng đẩy nhanh sự tiến bộ của nhân loại trên Trái Đất.’
‘Does everyone come up here?’ asked Arnold. ‘There seem to be not many people about if that is the case.’
‘Oh no, no, no, of course they don’t all come up here. Remember the old saying about many are chosen but few succeed. Many fall by the wayside. Up here there is a small number of people of very advanced mentality or spirituality. They are here for a special purpose, the purpose being to try to advance the progress of humanity on Earth.’
Arnold trông khá rầu rĩ. Trong ông dấy lên một cảm giác tội lỗi vô cùng khó chịu. Rồi ông khiêm nhường nói, ‘Tôi nghĩ chắc có nhầm lẫn gì ở đây rồi, các anh biết mà. Tôi chỉ là một tu sĩ nghèo, tôi chưa từng có ham muốn trở thành một cái gì khác, và nếu anh nói rằng những người ở đây đều là những người xuất chúng về trí tuệ và tinh thần thì việc tôi ở đây chắc là do sai lầm.’
Cả hai người hướng dẫn đều mỉm cười với ông và nói, ‘Những người có trí tuệ thường đánh giá sai về bản thân mình. Ông đã trải qua những bài kiểm tra cần thiết, và tinh thần của ông đã được tra xét rất kỹ càng, đó là lý do tại sao ông có mặt ở đây.’
Arnold looked very gloomy. He had a terribly uneasy, guilty feeling. Then he said humbly, ‘I think a mistake has been made, you know. I am just a poor monk, I have never aspired to be anything else, and if you say there are people of superior mentality or spirituality here then I must be here under false pretences.’
The two guides smiled at him and said, ‘People of good spirituality usually misjudge themselves. You have passed the necessary tests and your psyche has been examined in very great detail, that is why you are here.’
Họ tăng tốc, và bỏ lại phía sau mặt đất dễ chịu, rồi lại bay lên đến một cõi giới mà Arnold gọi là vùng cấp cao. Ông nhận ra rằng với cái nhìn tâm linh đang cải thiện của mình và những hiểu biết sâu sắc về chiều không gian thứ năm này, ông sẽ chẳng thể giải thích được cho bất kỳ ai những gì đang diễn ra. Trước khi họ đáp xuống một thành phố rất đặc biệt, ông lại có một câu hỏi nữa: ‘Hãy nói cho tôi biết, liệu có người nào ở Trái Đất đã từng lên đến đây rồi lại trở về Trái Đất không?’
‘Có chứ, trong những trường hợp rất đặc biệt, những con người đặc biệt đã được chọn xuống kia một thời gian để tóm tắt những gì đang diễn ra vào thời gian đó, và đem những thông tin mới nhất để nói cho con người trên Trái Đất.’
Họ đáp xuống, cả ba cùng nhau như thể họ được buộc lại bằng những mối liên kết vô hình, và Arnold bước vào một cõi giới hoàn toàn mới, một cõi vượt ra ngoài sự hiểu biết và niềm tin của con người.
They sped on, leaving behind the pleasure grounds, going up into what in another plane Arnold would have called a high country. He found that with his improving spiritual sight and fifth dimensional insight it would have been impossible for him to explain to anyone else what was happening. Before they came down to a landing in a very special city he had one further question: ‘Tell me, do any people of the Earth plane ever come here and then return to the Earth plane?’ he asked.
‘Yes, under very special circumstances, very special people who have been chosen to go down there in the first place come up for a time to be, let us say, briefed on how things were at this time and to be given fresh information as to what they should tell people on Earth.’
They swooped down, three together as if tied together with invisible bonds, and Arnold entered into a fresh phase of existence, one which would be beyond the understanding of humans to comprehend or to believe.
Người dịch: Phí Bích Thuận
Biên tập: Phạm Thị Liễu
Tổng biên tập: Trung tâm VMC