Chương 2: Ba kiếp sống– Lobsang Rampa

ba kiếp sống

Chương 2

Chapter 2

‘Nào, nào, bây giờ thì bỏ tay ra và không sao đâu. Nào, làm đi! ‘Một lời đề nghị nghe the thé và nài nỉ.

Leonides Manuel Molygruber khẽ cựa quậy và mơ hồ cảm thấy cánh tay của lão bị nắm chặt và bị kéo ra khỏi tấm chăn. “Tôi không biết ông phản kháng như vậy để làm gì,” người kia cáu kỉnh nói, “Tôi phải lấy một ít máu cho ông. Nào, không sao đâu. ”

Lão Molygruber mở to mắt hơn một chút và nhìn quanh. Phía trên bên trái lão, một người phụ nữ đang đứng quắc mắt nhìn. Liếc nhìn sang một cái giỏ bằng lưới sắt đang đặt trên bàn cạnh giường, lão thấy cái giỏ này giống như cái thứ mà những người bán sữa hay mang theo, nhưng thay cho những chai sữa để vào đó thì chiếc giỏ này có rất nhiều ống nghiệm có nút bông ở bên trên. ‘Chà, ông đã tỉnh rồi hả? Tốt, ông làm theo đi, ông làm mất thời gian của tôi rồi đó.’

‘Come on, now, come on, stick out your arm and no nonsense with you. Come on, get a move on!’ The voice was commanding, shrill, and insistent.

Leonides Manuel Molygruber stirred slightly and then came to a blurred awareness as his arm was roughly grasped and pulled from under the sheets. ‘I don’t know what you are putting up such a resistance for,’ the voice said irritably, ‘I’ve got to get some blood out of you. Now come on, no nonsense.’

Old Moly gruber opened his eyes a bit wider and peered around him. Above him on his left hand side a woman was standing scowling down at him. He turned his glance to a wire basket thing standing on the table by his bedside. The basket was something like the things milkmen carry around, he thought, but where the milkmen had bottles of milk stashed away, this basket had a lot of test tubes with cotton on the top of them. ‘Well, you’ve returned to us, eh? Well, come on with you, you’re wasting my time.’

Nói rồi người phụ nữ thô bạo kéo tay áo pyjama của lão lên và quàng một thứ gì đó quanh cánh tay lão, trông như một sợi dây cao su màu đen. Sau đó, cô ta xé mở một gói nhỏ và lấy thứ trong đó ra và chà mạnh lên da lão. Bất chợt một cơn đau nhói khiến lão giật nảy người lên, và người phụ nữ nói, ‘Ôi chết tiệt, hỏng mất rồi, ông không thể để cho mạch máu nổi lên được à? Vừa nãy tôi đã chọc đúng vào nó rồi.’

Cô ta rút kim ra, thắt chặt garô quanh cánh tay lão rồi chọc một mũi khác.

With that the woman roughly pulled up his pyjama sleeve and put something around his arm, it looked like a bit of black rubber to him. Then she tore open a little packet and took something out of that and vigorously scrubbed his skin. There was a sharp pain and he jumped, and the woman said, ‘Oh damn and blast it, why can’t you have your veins up properly? Now I’ve gone and stuck it right through.’

She pulled out the needle, tightened up the tourniquet around his arm and then took another jab.

Molygruber sợ hãi nhìn xuống và thấy một cái ống lớn, đó là ống nghiệm thủy tinh có gắn một cây kim đang chọc vào cánh tay mình. Trong khi lão quan sát, cái ống cứ đầy dần lên. Nhanh nhẹn với sự thuần thục của một người có kinh nghiệm lâu năm, người phụ nữ  rút cái ống đó ra và lắp vào cái ống khác cũng đang đầy dần. Cuối cùng hài lòng với số máu lấy được, cô ta rút kim tiêm ra và dán một miếng băng dính lên vết thương. Vừa càu nhàu, cô ta vừa đặt hai cái ống vào giỏ của mình sau khi cẩn thận viết tên lão lên chúng.

Molygruber looked down bemusedly and saw a big tube a glass test tube attached to a needle going into his arm. As he watched, the tube filled up. Quickly, with the deftness of long practice, the woman detached that tube and put on another which also filled. Then, satisfied at last with the supply of blood, she yanked out the needle and slapped an elastoplast patch over the perforation. With a grunt she put the two tubes in her wire basket after carefully writing his name on them.

Người phụ nữ chuyển sang một chiếc giường khác và giọng nói gầm ghè, rền rĩ của cô ta khiến những bệnh nhân khác ong cả đầu. Molygruber nhìn quanh và thấy lão đang ở trong một phòng với năm bệnh nhân khác. Thế rồi, mắt lão lại mờ đi, lão trở nên khó thở và một lát sau lại không biết gì nữa.

Tiếng va chạm ồn ào khiến lão khó chịu. Có vẻ như tiếng va chạm của đĩa bát, tiếng lăn ầm ầm và cót két bánh của một chiếc xe đẩy lớn đang được đẩy đi. Chậm rãi, đau đớn, lão mở mắt ra lần nữa và ngay bên ngoài cửa phòng đối diện giường của lão, lão nhìn thấy một chiếc xe mạ kền sáng loáng bên trong xếp đầy những ngăn kéo cũng được mạ kền.

The woman moved on to another bed and her snarling, whining voice rasped the other patient’s nerves. Molygruber looked about him and saw that he was in a room with five other patients. Then his sight blurred and his breath became difficult and for a time again he knew nothing.

The clattering noise disturbed him. There seemed to be the clatter of dishes and the rumble and squeak of a big trolley being pushed along. Slowly, painfully, he opened his eyes again and just outside the door of the ward right opposite his bed he saw a gleaming chromium contraption which seemed to be loaded with chromium-plated cabinets.

Lão quan sát thấy một y tá từ đâu đến và bắt đầu lôi ra ngoài những chiếc khay nhỏ đựng thức ăn, mỗi khay được ghi tên của một bệnh nhân.

Một người hộ lý đến chỗ lão, cúi nhìn xuống và nói, “Chà, bây giờ ông cảm thấy thế nào?

Lão Molygruber càu nhàu trả lời vì cảm thấy quá mệt mỏi để nói chuyện, và lão lơ mơ nghĩ, chắc chắn bất kỳ một kẻ ngu ngốc nào cũng có thể thấy rằng lão đang ốm nặng. Người hộ lý tháo cái gì đó từ đầu giường và nói: ‘Ông chỉ cần duỗi thẳng cánh tay trái ra, tôi sẽ đo huyết áp cho ông.’ Lão cảm thấy xung quanh cánh tay đang bị thắt chặt dần, và sau đó lão thấy người hộ lý cắm tai nghe vào tai. Tay phải anh ta đang bóp một quả bóng cao su.

As he looked a nurse came from somewhere and started handing out little trays on which were food, each tray labelled with the name of a patient.

An orderly came over to him, looked down and said, ‘Well, how do you feel now?’

Old Molygruber grunted in reply because he just felt too worn out to talk, and, as he vaguely thought to himself, surely any fool could see that he was feeling pretty sick. The orderly unhooked some things from the back of the bed and said, ‘Just put your left arm out straight, I’m going to take your blood pressure.’ He felt an increasing constriction around his upper arm, and then he saw the orderly with stethoscopes in his ears. In his right hand he had a rubber bulb which he was squeezing.

Molygruber lại lơ mơ ngủ và tỉnh lần nữa khi áp lực quanh cánh tay được xả ra. “Được rồi,” người hộ lý nói, “Bác sĩ Phlebotum sẽ sớm đến đây. Tôi tin rằng ông ấy chỉ mới bắt đầu đi khám thôi. Hẹn gặp lại ông! ” Người hộ lý đi khắp phòng, từ bệnh nhân này đến bệnh nhân khác. ‘Chà, ông bị sao vậy, ông bạn già, bữa điểm tâm sáng nay của ông có vấn đề gì à?” Anh ta hỏi một người đàn ông: Molygruber nhìn thấy người này có một cái cọc cao bên cạnh ông ta, trên đó treo một cái chai với những ống cắm vào nó. Lão yếu ớt hỏi, ‘Ông kia đang phải làm gì vậy?’ ‘Ồ, đó là dịch truyền’ người hộ lý trả lời, ‘Đang phải truyền dịch để tăng cường ý thức cho ông ấy.’

Molygruber dozed off again and awakened once more as the pressure around his upper arm was released. ‘Okay,’ said the orderly, ‘Dr. Phlebotum will be along soon. I believe he’s just starting his rounds. See you!’ The orderly moved about, going from patient to patient. ‘Well, what’s wrong with you, old fellow, what’s wrong with your breakfast this morning, eh? ’he asked one man: Molygruber saw that the man had a long pole thing beside him on which was suspended a bottle with tubes coming from it. He asked feebly, ‘What’s that guy’s having done?’ ‘Oh, that’s an I.V. drip,’ said the orderly, ‘he’s having a saline solution put into him to buck up his ideas.’

Căn phòng lại mờ đi và Molygruber có thể nghe thấy tiếng thở gấp gáp của chính mình dường như đang vang vọng trong một khoảng không rộng lớn. Một lần nữa lão lại bị quấy rầy. Lão cảm thấy có một bàn tay ở cổ họng và sau đó lão nhận ra rằng những chiếc cúc áo ngủ của lão đang được cởi ra. ‘Ông này bị sao vậy?” Một giọng nam hỏi, Molygruber mở mắt và nhìn lên. Lão nhìn thấy rõ ràng một bác sĩ mặc áo choàng trắng và ở trên ngực trái có thêu dòng chữ chữ ‘Bác sĩ. Phlebotum’.

The room faded again and Molygruber could hear his own rasping breath which seemed to be echoing in a vast distance. Once again he was disturbed. He felt a hand at his throat and then he realized that his pyjama buttons were being unfastened. ‘What’s wrong with this fellow?’ asked a male voice, and Molygruber opened his eyes and looked up. He saw what was obviously a doctor with his white coat on and above his left breast he had the words ‘Dr. Phlebotum’written in embroidery stitches.

‘Ồ, thưa bác sĩ, người ta đã đưa ông này đến đây và nhân viên cứu hộ nói rằng rằng ông ấy bị viêm phổi kép, vì vậy chúng tôi đang đợi bác sĩ đến để khám cho ông ấy.’ Vị bác sĩ cau mày nói, ‘Ồ, vậy là bây giờ  nhân viên cứu hộ tự cho mình là bác sĩ chẩn đoán bệnh rồi à? Tôi sẽ kiểm tra xem sao!’ Ông ta cúi xuống và áp ống nghe vào ngực Molygruber, sau đó để tai nghe lủng lẳng, ông ta gõ mạnh bằng ngón trỏ và nhanh nhẹn lắng nghe âm thanh.

“Tôi nghĩ ông ấy phải đi chụp X-quang, phổi của ông ấy dường như có đầy dịch. Thấy chưa, cô y tá?’ Bác sĩ cúi xuống cái bệnh án của Molygruber rồi viết gì đó, rồi tiếp tục khám cho bệnh nhân tiếp theo. Molygruber lại thiếp đi.

‘Oh, doctor, this man was brought in and the paramedic said he had double pneumonia, so we are waiting for you to examine him.’ The doctor scowled and said, ‘Oh, so the paramedics are setting themselves up as diagnosticians now, eh? I’ll look into that!’ He bent down and applied his stethoscope to Molygruber’s chest, then letting the earpiece dangle, he tapped hard with a forefinger and quickly listened-in to the sound.

‘I think he’ll have to go for X-ray, his lungs seem to be pretty full of fluid. See to it, will you nurse?’ The doctor bent down over what was obviously Molygruber’s chart and then wrote something, and went on to the next patient. Moly gruber dozed.

Có tiếng nói của ai đó và Molygruber lại mở mắt và nhìn lên. Một y tá và một người hộ lý đang đưa chiếc cáng có bánh xe đến bên giường của lão. Khá là thô bạo lão bị đẩy sang một bên giường và mép cáng trượt xuống dưới lưng lão. Thế rồi bằng một cú lật nhanh ‘như một người đàn ông đánh được một con cá lớn,’ lão hiểu rằng mình đã được chuyển vào trong cáng và người hộ lý nhanh chóng đắp tấm chăn lên người lão, và họ đẩy xe dọc theo hành lang dài. “Ông bị làm sao vậy, ông bạn già?” Người hộ lý hỏi.

‘Ôi, tôi không biết,’ Molygruber nói,’ Hôm qua tôi đã ngâm mình trong nước lạnh và không sấy khô sau đó, vì vậy tôi bị sốt nóng rồi lại sốt lạnh, và rồi tôi ngã xuống hay sao đó bởi vì khi tỉnh dậy tôi thấy mình đang ở trong phòng bệnh. Nhanh lên, tôi bị đau ở ngực, không ai định làm gì cho tôi sao? ”

Người hộ lý huýt sáo qua kẽ răng rồi nói, ‘Ồ vâng, chắc chắn rồi, chúng tôi đang làm gì đó để chữa cho ông, rồi ông sẽ khỏe lên, hãy tin vào điều đó, chúng tôi đang đưa ông đi chụp X quang đây. Ông nghĩ chúng tôi đang làm điều đó để làm gì nếu không phải để giúp ông, phải không?’

There was a clatter and a bump and the stretcher came to rest against a wall. ‘There you are,’ said the orderly backing off, ‘they’ll come and wheel you in when they’re ready for you, it’s been a busy day already. Looks to be one of those rush-rush-rush days, dunno what I stay in this racket for.’ With that he turned and hurried off down the corridor with the glass sides. Old Molygruber just lay there for what seemed hours. All the time it was getting more and more painful to breathe.

Cuối cùng, cánh cửa bật mở và một y tá đẩy chiếc cáng khác ra ngoài. ‘Bà sẽ trở về phòng bệnh,” cô nói với người phụ nữ trên cáng, “Tôi sẽ để bà ở đây và sẽ có người đến đưa bà đi khi nào họ sắp xếp được thời gian.’ Nói rồi cô cầm lấy chiếc cáng của lão Molygruber và quay lại nói với lão, ‘Được rồi, tôi nghĩ, ông sẽ là người tiếp theo, ông bị sao vậy?’

At last a door opened violently and a nurse came out pushing another stretcher. ‘It’s back to the ward for you,’ she said to the woman on the stretcher, ‘I’ll leave you here and someone will collect you when they’ve got time.’ With that she took the stretcher past old Molygruber and turned to him saying, ‘Well, you’re the next, I suppose, what’s wrong with you?’

‘Tôi không thể thở được, đó là bệnh của tôi,’ Molygruber nói. Người phụ nữ nắm lấy chiếc cáng và không cần tốn sức cô xoay nó và đẩy qua ô cửa, đi vào một căn phòng tối om. Ánh sáng yếu ớt chỉ đủ nhìn thấy bàn tay trước mặt, nhưng Molygruber khi nhìn kỹ ra xung quanh có thể thấy có những ống kim loại kỳ lạ, những dụng cụ mạ kền và dây điện chạy khắp nơi, và ở một bên của căn phòng có gì đó dường như là một quầy thu ngân trong rạp chiếu phim. Người phụ nữ đẩy lão lên ngang với thứ giống cái bàn nhưng thay vì là một cái bàn thẳng thì nó lại hơi cong một chút.

‘Can’t breathe, that’s what wrong with me,’ said Molygruber. The woman grabbed the stretcher and with what seemed to be unnecessary force swivelled it around, through the doorway, and into a dark, dark room. There was barely enough light to see your hand in front of your face, but Molygruber peering about could see that there were strange metal tubes and chromium pieces and wires going everywhere, and at one side of the room there was what seemed to be a cashier’s desk in a cinema. The woman pushed him up against what appeared to be a table but instead of being a straight table it was curved a bit.

“Ông này bị làm sao vậy?” Một tiếng hỏi cất lên, và cô gái trẻ bước ra từ phía sau phòng kính.

‘Tôi có bệnh án của ông ấy đây. Nghi ngờ viêm phổi kép. Chụp X-quang ngực sau và trước’. Cô gái trẻ và cô y tá cùng nhau nắm lấy chiếc cáng có lão Molygruber, đẩy nó sát hơn vào cái bàn và lão được đẩy trượt thẳng lên chiếc bàn mạ kền có bề mặt uốn cong.

‘Ông đã từng chụp X quang bao giờ chưa?’ Cô gái trẻ hỏi

‘Không, chưa bao giờ, tôi không biết gì về nó,’ Molygruber nói

‘What’s wrong with this one?’ asked a voice, and a young girl came out from behind the glass cabinet thing.

‘I’ve got his chart here. Suspect double pneumonia. Chest X-ray, back and front’. Together the young girl and the nurse grabbed old Molygruber, pushed the stretcher tighter against the table and with a sliding swoosh he was pushed straight on to that chromium-plated table with the curving surface.

‘Ever been X-rayed before?’ asked the young girl.

‘No, never, dunno anything about it,’ said Molygruber.

‘Được rồi, chúng tôi sẽ cố định tư thế cho ông ngay bây giờ,’cô gái nói. ‘Đây, ông nằm ngửa ra, chỉ cần làm theo hướng dẫn, đó là tất cả những gì chúng tôi muốn.’ Cô loay hoay điều chỉnh chiều cao của một chiếc hộp lớn dường như được treo trên những ống mạ kền. Cô nhấn các nút và có một tia sáng nhỏ, và cô ấy chiếu lên ngực lão một hình như chữ ‘X’. Sau đó, hài lòng với sự điều chỉnh của mình, cô nói, “Bây giờ đừng cử động nhé, ông ở đây và khi tôi nói “thở”, ông hãy thở sâu và giữ nguyên nhé. Ông hiểu chứ?’

‘Vâng, tôi hiểu, cô cho tôi biết khi nào thì giữ nguyên nhé,’ Molygruber nói

‘Okay, we’ll soon get you fixed,’ said the girl. ‘There you are, lie on your back, just do what you’re told, that’s all we want.’ She fiddled about altering the height of a big box which seemed to be suspended on chromium tubes. She pressed buttons and there was a little light, and on to his chest she projected what seemed to be an ‘X’. Then being satisfied with her adjustments she said, ‘Don’t move now, you stay there and when I say “breathe” you breathe deeply and hold it. Understand?’

‘Yes, I understand, you tell me when to hold it, then,’ said Molygruber.

Cô gái trẻ quay người và đi khuất sau cái giống bàn thu ngân. Qua một hoặc hai giây, cô kêu lên, ‘Được rồi, giữ nguyên, giữ nguyên’ rồi có một tiếng rít. Rồi cô gái trẻ nói, “Được rồi, thở đi.” Cô bước ra cạnh bàn và có vẻ như đang mở ngăn kéo hoặc thứ gì đó. Molygruber chỉ có thể thấy rằng cô có một chiếc hộp kim loại lớn trong tay, lớn hơn cả ngực của lão.

The young girl turned and went away behind the cashier’s desk thing. After a moment or two she yelled out, ‘All right, hold it, hold it,’ and there came a sort of hissing. Then the young girl said, ‘Oookay, breathe.’ She came out to the side of the table and she seemed to be opening drawers or something. Molygruber could just see that she had a big metal box in her hands, bigger than his chest.

Cô loay hoay với cái hộp kim loại rồi lấy một cái khác, cuối cùng cô trượt nó xuống gầm bàn nơi lão đang nằm. Cô nói, “Bây giờ, chúng tôi phải lật ông lại.” Cô tóm lấy lão và lật lão nằm sấp xuống, lắc nhẹ để lão vào đúng vị trí. Một lần nữa lại loay hoay điều chỉnh chiếc hộp đen đó, một lần nữa lại có tia sáng hình chữ X chiếu lên người lão.

She fiddled about with the metal box and then she took another one and she slipped it under the table on which he lay. She said, ‘Now, we’ve got to turn you over on your face.’ She grabbed him and turned him over, jiggling him about so that he was exactly in the right position. Once again there came the fiddling around with that black box, once again there came the little light which projected the ‘X’ on him.

Hài lòng, cô đi đến chỗ phòng kính và một lần nữa lại ra lệnh ‘Nín thở. Được rồi, thở ra.’ Cứ thế tiếp diễn trong một lúc. Molygruber không đếm được số lần chụp X quang, cuối cùng người phụ nữ quay lại với lão và nói, ‘Xong rồi, tôi sẽ đẩy ông ra ngoài và ông sẽ ở đó cho đến khi chúng tôi xem phim in ra có đạt không.

Nếu không, chúng tôi sẽ lại đưa ông vào. Nếu có phim, người ta sẽ đưa ông trở về phòng bệnh.’ Nói xong cô ta mở cửa và đẩy cáng ra ngoài. Molygruber cho rằng nó rất giống như những đầu máy xe lửa đang lao vào những chiếc xe tải, và trong bệnh viện này, họ dường như không còn sự ân hận hay thương xót bệnh nhân nữa, mọi thứ dường như chỉ là ‘cạch-rầm, cạch-rầm.’

Then, satisfied with that, she walked away to the glass cubicle place and once again came the command to ‘Hold your breath. Okay, let it out.’ It went on for some time. Molygruber lost count of the number of X-rays that were taken, but at last the woman came back to him and said, ‘Okay, I’ll just push you outside and you’ll have to stay there until we see if these films have come out all right.

If not we’ll fetch you in again. If they have you’ll be pushed back to your ward.’ With that she opened the door and just pushed the stretcher out. Molygruber thought it was very much like locomotives shunting trucks, and in this hospital they seemed to have no more compunction or compassion for the patients, everything seemed to be ‘slap-bang, slap-bang.’

Sau một hồi tưởng chừng như đã rất lâu, một cô gái bé nhỏ trông như khoảng mười bốn tuổi lê bước đến và sụt sịt như thể cô ấy bị cảm lạnh nặng. Không nói một lời nào với Molygruber, cô nắm lấy đuôi chiếc cáng của lão và đẩy đi. Chiếc cáng di chuyển và cùng với cô gái đang sụt sịt, Molygruber đi ngang qua hành lang một lần nữa, và cuối cùng về đến căn phòng mà lão đã nằm trước đó.

Cô gái đẩy cáng một cái cuối cùng và nói, “Đến rồi, anh ấy sẽ làm tiếp cho ông.” Cô ấy bước đi.

After what seemed to be a long, long time a small girl she looked to be about fourteen years of age came along shuffling her feet and sniffling away as if she had a terrible head cold. Without a word to Molygruber she grabbed the end of his stretcher and pushed. The stretcher moved and with the sniffling girl as his mode of propulsion Molygruber traversed the corridor again, and eventually reached the ward whence he originally came.

The girl gave the stretcher a final push and said, ‘There y’are he’s all yours.’ She walked off.

Chiếc cáng lăn thêm một chút nữa và kết thúc bằng một cú va chạm vào bức tường phía trước. Chẳng có ai để ý, nhưng cuối cùng người hộ lý cũng đã đến và đẩy chiếc cáng đến bên chiếc giường của lão Molygruber, nói: “Được rồi, xong rồi đấy. Bác sĩ sẽ đến khám lại sau khoảng một giờ nữa. Hy vọng ông sẽ ổn cho đến lúc đó.’

Molygruber bị kéo trượt trên cáng cho đến khi một lần nữa lão lại nằm trên giường của mình. Người hộ lý kéo tấm vải lên đến cằm lão và ung dung kéo chiếc cáng ra khỏi phòng.

The stretcher rolled along a bit and ended with a bump against the far wall. No one took any notice, but eventually the orderly came and pushed the stretcher to old Molygruber’s bedside, saying, ‘Okay, it’s all over. The doctor will be along again in about an hour. Hope you last all right ’til then.’

Molygruber was slid along on the stretcher until once again he was in his own bed. The orderly pulled the sheet up to his chin and in a leisurely manner pulled the stretcher out of the ward.

Một người hộ lý nhảy bổ vào phòng và phanh kít lại bên giường của lão Molygruber: ‘Hôm qua có phải ông kéo đứa trẻ lên khỏi mặt nước phải không?’, Anh ta hỏi giọng thì thầm nhưng nó cũng vang lên khắp phòng.

‘Phải, đúng là tôi làm ấy,”Molygruber nói. ‘Chà, mẹ nó đang ở đây, cô ấy đòi gặp ông, nhưng chúng tôi nói rằng ông không thể gặp được, ông đang ốm nặng. Cô ấy là một kẻ gây rối.’Đúng lúc đó, có tiếng bước chân nặng nề vang lên và một phụ nữ đi vào phòng cùng với một cảnh sát. ‘Ông ta đó,’ người phụ nữ giận dữ nói, ‘hôm qua ông ấy đã ăn cắp chiếc mũ của con gái nhỏ của tôi.’ Viên cảnh sát tiến về phía trước và nhìn Molygruber một cách lạnh lùng và nói, ‘Người phụ nữ này nói với tôi rằng hôm qua ông đã giật chiếc mũ của con cô ấy và ném nó xuống nước.’

An orderly came rushing in and skidded to a stop by old Molygruber’s bed: ‘You pull the kid out of the water yesterday?’ he asked, in what was meant to be a whisper but which sounded all around the ward.

‘Yes, guess I did,’ said Molygruber. ‘Well, the mother is here, she demanded to see you, but we said you couldn’t see her, you were too ill. She’s a troublemaker’ At that moment heavy footsteps were heard and a woman come into the ward with a policeman. ‘You him there,’ said the woman angrily, ‘he stole my little girl’s hat yesterday.’ The policeman moved forward and looked sternly at Molygruber saying, ‘This lady tells me that you snatched her child’s hat yesterday and threw it in the water.’

“Ồ, thật là dối trá!” Ông già nói. ‘Tôi đã kéo đứa trẻ lên khỏi mặt nước còn những người khác chỉ đứng quanh nhìn con bé chết đuối. Người mẹ đã không làm gì cả để giúp con bé. Tôi không nhìn thấy chiếc mũ nào cả, các người nghĩ tôi đã làm gì với nó, ăn nó à? “

Viên cảnh sát nhìn quanh rồi quay lại ông già. ‘Ông đã cứu đứa trẻ lên khỏi mặt nước à? Ông là người mà người ta đã nói đến à?’

‘Vâng, đúng thế,’ ông trả lời

‘Oh, what a lie!’ said the old man. ‘I pulled the child out of the water and everyone else was just hanging around watching her drown. The mother did nothing at all to help her. I didn’t see any hat, what do you think I done with it, eat it?’

The policeman looked around and then turned back to the old man. ‘You saved the child from the water? You were the fellow I’ve been hearing about?’

‘Yes, guess so,’ was the reply.

‘Chà, cô đã không nói với tôi về điều này,’ viên cảnh sát quay sang người phụ nữ nói, ‘cô không nói với tôi rằng ông ấy đã kéo con cô lên khỏi mặt nước. Cô là một người mẹ như thế nào mà lại đứng đó và rồi buộc tội người đã cứu con cô? Người phụ nữ đứng đó mặt đỏ lên rồi trắng bệch vì tức giận, nói, ‘Phải, chắc ai đó đã lấy chiếc mũ, đứa trẻ không có và tôi cũng không cầm, như vậy chỉ có ông ta đã lấy nó.’

‘Well, you didn’t tell me about this,’ said the policeman turning to the woman, ‘you didn’t tell me he’d pulled your kid out of the water. What sort of a mother are you to stand by and then make such accusations against the man who saved her?’ The woman stood there turning red and white with anger, then she said, ‘Well, someone must have got the hat, the child hasn’t got it and I haven’t got it so therefore he must have had it’

Viên cảnh sát suy nghĩ một lúc rồi nói: ‘Tôi cần ra trạm y tá, tôi muốn gọi điện thoại cho Cảnh sát trưởng.’ Nói xong anh ta quay người và đi ra trạm y tá bên thang máy. Ngay sau đó, người ta có thể nghe thấy anh ta đang nói, nói rất nhiều câu ‘vâng, thưa ngài’ và ‘không, thưa ngài’ và ‘được rồi, tôi sẽ làm điều đó, thưa ngài.’

The policeman thought for a moment and then said, ‘I want to go to the nurses’ station, I want to phone the Superintendent.’ With that he turned and went out to the nurses’ station by the elevator bank. Soon after he could be heard talking, saying a lot of ‘yes, sir’ and ‘no, sir’ and ‘okay, I’ll do that, sir.’

Sau đó, anh ta quay trở lại phòng bệnh và nói với người phụ nữ, ‘Tôi nói với cô rằng nếu cô vẫn cứ khăng khăng làm điều vô lý này thì tôi sẽ buộc tội cô làm loạn nơi công cộng, vì vậy tốt nhất cô nên hủy bỏ cáo buộc của mình đi, nếu không cô sẽ phải đi cùng với tôi, và Cảnh sát trưởng sẽ vô cùng tức giận vì cô đấy, tôi có thể nói như vậy.’Không nói một lời, người phụ nữ quay lưng và lén đi ra khỏi phòng, theo sau một quãng là viên cảnh sát.

Then he returned to the ward and said to the woman, ‘I’m told that if you persist in this nonsense I am to charge you with effecting a public mischief, so you’d better cancel your charge or you’re going to come along with me, and the superintendent is feeling mighty cross with you, I can tell you.’ Without a word the woman turned and stalked out of the ward, followed a moment after by the policeman.

Lão Molygruber trông hoàn toàn kiệt sức bởi tất cả sự om sòm này, hơi thở của ông rít lên trong cổ họng và người hộ lý chạy đến bên, nhìn xuống ông, rồi nhấn nút cấp cứu ở đầu giường. Ngay sau đó, y tá trưởng của tầng bước vào kiểm tra cho lão Molygruber, rồi cô ta vội vã đi ra ngoài. Khi đó, người ta nghe thấy cô gọi điện thoại cho bác sĩ trực.

Old Molygruber looked absolutely sickened by all the commotion, his breath rasped even more in his throat and the orderly came to him, looked down at him, and then pressed the emergency button at the head of the bed. Soon the chief nursing sister of the floor came in to look at old Molygruber, then she hurried out. Then she could be heard telephoning to the doctor on duty.

Lão Molygruber lại thiếp đi, đang mơ những giấc mơ sinh động nhưng bị quấy rầy bởi có ai đó đang cởi cúc áo của lão. “Y tá, kéo rèm cửa lên, tôi muốn khám ngực ông ấy,” một giọng nam nói. Ông già nhìn lên và thấy một vị bác sĩ khác, khi thấy bệnh nhân đã tỉnh, ông ta nói: “Ông có dịch trong phổi, tràn dịch màng phổi. Chúng tôi sẽ cho ống vào để hút bớt nước ra.’Một bác sĩ khác bước vào, lần này là một phụ nữ và một y tá đẩy chiếc xe bên trên có cái khay đến bên giường lão.

Old Molygruber dozed off, having various vivid dreams from which he was disturbed by someone unbuttoning his pyjama jacket. ‘Pull over the curtains, nurse, I want to have a look at his chest,’ said a male voice. The old man looked up and saw a different doctor who, seeing that the patient was awake, said, ‘You’ve got fluid on your lungs, fluid in your pleura. We’re going to tap it to get some of the water off.’ Another doctor came in, this time a woman, and a nurse wheeled a tray on wheels up to the bed.

Vị bác sĩ nói, “Bây giờ, ông có thể ngồi dậy được không, chúng tôi phải làm chỗ xương sườn của ông.’ lão đã cố nhưng không được, lão quá yếu. Vì vậy, họ giữ lão ngồi bằng một tấm chăn để dưới chân lão trông giống như một tấm khăn trải giường được cuộn lại luồn xuống dưới người lão và nó được buộc vào đầu giường, như vậy lão ở tư thế ngồi và không thể trượt xuống.

The doctor said, ‘Now, can you sit up, we’ve got to get at your ribs.’ The old man tried but no, he was too weak. So they fixed him up by having a blanket beneath his feet and what looked like a rolled sheet going under him and tied to the head of the bed, so he was in a sitting position and not able to slip down.

Cô bác sĩ bận rộn với một mũi dưới da và tiêm một thứ gì đó quanh bên tay trái của Molygruber. Cô đợi vài giây rồi dùng kim chích vào người lão. ‘Không, ông ấy không cảm thấy gì, tất cả đã sẵn sàng,’ cô nói khi lùi lại.

The woman doctor got busy with a hypodermic and kept injecting something around the left hand side of Molygruber. She waited a few moments and then pricked him with a needle. ‘No, he doesn’t feel it, it’s all ready,’ she said as she stepped back.

Một y tá đang bận rộn với chiếc lọ thủy tinh lớn có một vòi phía trên và một vòi phía dưới. Cô cẩn thận cố định các ống cao su ở phía trên và phía dưới rồi đặt kẹp lò xo vào chúng. Sau đó, khi cô giơ thứ đó lên trước ánh sáng, Molygruber thấy nó đầy nước. Khi đã xong, cô treo cái chai vào thành giường, ngay dưới cái nệm. Rồi cô đứng bên cạnh với một đầu ống trên tay; đầu kia của ống từ đáy chai chạy đến một cái thùng.

A nurse was busy with a large glass jar which had a nozzle at the top and a nozzle at the bottom. She carefully fixed rubber tubing to the top and the bottom and put spring clips on them. Then as she held the thing up to the light Molygruber saw that it was full with water. When she was satisfied she hung the bottle to the side of the bed, just below the bottom of the mattress. Then she stood by with the end of the tube in her hands; the far end of the tube coming from the bottom of the bottle went to a bucket.

Vị bác sĩ thì đang bận làm cái gì đó, ông quay lưng lại với lão Molygruber, và sau đó hài lòng với kết quả của những gì mình đang làm, ông quay người lại và ông già gần như ngất xỉu vì sốc khi nhìn thấy cái kim hay một ống kim tiêm to đùng mà vị bác sĩ đang cầm trên tay. “Tôi sẽ đặt ống dẫn lưu này vào giữa các xương sườn của ông, và tôi sẽ hút dịch trong màng phổi ra, sau khi làm xong chúng tôi sẽ cho ông dùng  màng phổi nhân tạo. Việc đó sẽ làm xẹp phổi trái của ông, nhưng chúng tôi buộc phải hút dịch ra trước đã. Nó sẽ không đau lắm đâu,’ ông ta nói. Rồi ông ta lại gần Molygruber và từ từ ấn cái ống thép vào giữa hai xương sườn của lão. Cảm giác thật khủng khiếp. Lão cảm thấy dường như xương sườn của mình đang bị biến dạng, lão cảm thấy với mỗi một nhát chọc, tim của lão như bị phun lên mồm.

The doctor was busy fiddling with something, he had his back to old Molygruber, and then satisfied with the results of what he had been doing he turned around and the old man nearly fainted with shock when he saw the immense needle or tube which the doctor was handling. ‘I am going to put this trochar in between your ribs, and I am going to tap off the fluid in the pleura, then when we’ve done that we shall give you artificial pneumothorax. That will collapse your left lung, but we’ve got to get the fluid off first. It won’t hurt much,’ he said. With that he approached Molygruber and slowly pushed the steel tube between his ribs. The sensation was awful. The old man felt as if his ribs were caving in, he felt that with every thrust his heart was going up into his mouth.

Chỗ chọc đầu tiên không thành công, vì vậy vị bác sĩ lại thử một chỗ khác, rồi lại một chỗ khác nữa, cho đến khi cuối cùng, trong tâm trạng hoàn toàn tồi tệ vì thất bại của mình, ông ta đã chọc mạnh và một chất lỏng màu vàng phun ra trên sàn nhà. “Mau đưa cái ống lại đây.” Thế rồi ông ta ấn cái ống vào cuối của kim tiêm. ‘cái kim này có vẻ khá cùn,’ ông ta nhận xét khi tiếp tục cảm nhận xung quanh ngực Molygruber.

The first place was unsuccessful, so the doctor tried another, and another, until in the end, in a thoroughly bad mood at his failure, he gave a quick jab and a yellow fluid gushed out and on to the floor. ‘Quick that tube.’ And then he pushed the tube on to the end of the steel needle. ‘This trochar seems to be quite blunt,’ he remarked as he went on feeling around Molygruber’s chest.

Cô y tá quỳ bên cạnh giường và ngay sau đó Molygruber có thể nghe thấy tiếng nước chảy. Nữ bác sĩ, nhìn thấy vẻ ngạc nhiên của lão, nói, ‘Ồ vâng, chúng tôi sử dụng ống kim này đưa vào giữa xương sườn của ông và chọc vào túi dịch trong màng phổi, sau đó khi dò được đúng ổ dich chúng tôi tháo hai cái kẹp trên cái chai này mà ông đã nhìn thấy đấy và nước cất vô trùng sẽ chảy ra ngoài kéo theo dịch sẽ được hút ra khỏi phổi của ông, chúng tôi sẽ giúp ông cảm thấy dễ chịu hơn ngay thôi,’ cô nói với vẻ chắc chắn.

The nurse knelt beside the bed and soon after Molygruber could hear water running. The woman doctor, seeing his astonishment, said, ‘Oh yes, we use this trochar in between your ribs and we insert it into a pocket of fluid in the pleura, and then when we have struck fluid we release the two clips on that bottle you saw and the weight of the water distilled sterile water running out draws the fluid out of your lungs by suction. We’ll have you better in no time,’ she said with an assurance that she by no means felt.

Ông lão càng xanh xao hơn, mặc dù có trời đất biết, trước đây lão cũng khá hồng hào. Vị bác sĩ nói, “Đây cô y tá, giữ lấy cái này.” Thế rồi ông ta quay lại bàn một lần nữa, có tiếng lách cách va chạm của kim loại và thủy tinh, rồi ông ta quay về chỗ bệnh nhân và bằng một động tác rất nhanh ông chọc cái kim vào chỗ mà Molygruber biết chắc chắn là trái tim của lão. Lão nghĩ mình sẽ chết ngay tại chỗ. Trong một khoảnh khắc, lão bị sốc dữ dội, và sau đó là cảm giác nóng bừng và ngứa râm ran, rồi lão có thể cảm thấy tim mình đập mạnh hơn. Một chút sắc hồng trở lại trên đôi má hóp của lão. ‘Chà, nó sẽ khiến ông cảm thấy tốt hơn, phải không?” Vị bác sĩ hỏi, vui vẻ trở lại.

‘Anh có nghĩ chúng ta nên truyền cho ông ấy không,’ Nữ Bác sĩ nói.

‘Phải đấy, có lẽ chúng ta nên làm. Y tá, lấy đồ cho tôi, chúng ta sẽ làm ngay bây giờ,’ Vị bác sĩ nói trong khi đang loay hoay với những cái ống khác nhau.

The old man was getting paler and paler, although goodness knows, he had little enough colour before. The doctor said, ‘Here nurse, you hold this.’ Then he turned away to the table again and there was the clink of metal and glass, after which he came back to the patient and with one quick movement shoved the needle in what Molygruber was sure was his heart. He thought he was going to die on the spot. For a moment he experienced intense shock, and then a feeling of heat and a tingling, and he could feel his heart beating more strongly. A little colour came back to his pinched cheeks. ‘Well, that made you feel better, eh?’ asked the doctor, jovial again.

‘Do you think we should give him an I.V.?’ said the woman doctor.

‘Yes, perhaps we should. Get me the things, nurse, we’ll do it now,’ said the male doctor as he fiddled about with various tubes.

Cô y tá vội vã chạy đi và khi quay lại đẩy theo một thứ giống cái cột cao có móc ở trên đầu. Đầu kia có những bánh xe trên đó. Cô ấy đẩy nó đến phía bên phải của Molygruber, sau đó cúi xuống và nhấc một cái chai lên móc lên đỉnh cột. Cô nối một số ống cao su và đưa một đầu cho vị bác sĩ người đang cẩn thận cắm một cây kim khác vào cánh tay phải của Molygruber. Cô y tá tháo cái kẹp và Molygruber có cảm giác kỳ lạ khi có thứ gì đó chảy từ trong ống vào tĩnh mạch của mình. ‘Đấy’ bác sĩ nói, “chúng tôi sẽ làm cho ông dễ chịu hơn ngay bây giờ. Chỉ cần ông giữ im lặng.’ Ông lão gật đầu, rồi lại chìm vào giấc ngủ. Bác sĩ nhìn xuống lão và nói, ‘Tôi thấy ông ấy không được khoẻ, cần phải theo dõi ông ấy.’ Nói xong hai vị bác sĩ đi ra khỏi phòng, để lại một y tá làm nốt phần việc còn lại.

The nurse bustled away and returned pushing what looked to be a long pole with a crook at the end. The other end had wheels on it. She wheeled it up to Molygruber’s right side and then bent and lifted a bottle on to the hook at the top of the rod. She connected some rubber tubing and gave the end to the doctor who carefully inserted another needle in Molygruber’s right arm. The nurse released the spring clip and Molygruber had the peculiar sensation of something running from the tube into his veins. ‘There,’ said the doctor, ‘we’ll have you better in no time. Just keep quiet.’ The old man nodded his head, and then slipped off into another doze. The doctor looked down at him and said, ‘He doesn’t look too good to me, we shall have to watch him.’ With that the two doctors moved out of the ward leaving a nurse to do the rest of the work.

Khá lâu sau, khi ngày sắp sửa kết thúc, một y tá đánh thức ông lão và nói, ‘Đấy, bây giờ ông trông khá hơn rất nhiều rồi , đã đến lúc ông phải ăn một chút gì đó, phải không?’

Ông lão đờ đẫn gật đầu. Lão không cảm thấy muốn ăn nhưng y tá cứ nài nỉ. Cô đặt một cái khay lên bàn bên cạnh giường của lão và nói, “Nào, tôi sẽ cho ông ăn, đừng để mọi thứ trở nên vô nghĩa, chúng tôi đã làm việc rất vất vả không phải để mất ông bây giờ đâu.’ Nói thế rồi cô bắt đầu đút một thìa thức ăn vào miệng Molygruber, không cho lão già tội nghiệp có thời gian để nuốt trước khi cô tiếp tục đút một thìa mới.

Much later, when the day began to come to a close, a nurse woke up the old man and said, ‘There, there, you’re looking a lot better now, it’s time you had a little something  to eat, isn’t it?’

The old man nodded dumbly. He did not feel like food but the nurse insisted. She put a tray on the table beside his bed and said, ‘Come on, I’m going to feed you, no nonsense now, we’ve worked too hard on you to lose you now.’ And with that she began to spoon food into Molygruber’s mouth, hardly giving the poor fellow time to swallow before she started in with another lot.

Đúng lúc đó, viên cảnh sát bước vào phòng bệnh và lao qua rèm vào giường của Molygruber. ‘Tôi đang giữ cho báo chí không được gặp ông,’ anh ta nói. ‘Những kẻ săn tin đã đến đây và đang cố gắng xông vào bệnh viện. Họ muốn đưa tin nóng về ‘Người lao công đường phố đã cứu một đứa trẻ’ và chúng tôi đã nói với họ rằng ông đang ốm nặng. Ông có muốn gặp họ không?’

Ông lão gật đầu dứt khoát hết mức có thể, rồi lẩm bẩm: “Không, quỷ tha ma bắt họ đi, họ không thể để cho một lão già được chết trong bình yên hay sao?’

At that moment the policeman entered the ward and pushed his way through the curtains to Molygruber’s bed. ‘I’m keeping the press off you,’ he said. ‘Those hyenas have been here trying to storm the hospital. They want headlines about “Street Cleaner Saved Child” and we’ve told them you are too ill to be seen. Do you want to see them?’

The old man nodded as emphatically as he could, and then mumbled, ‘No, bad cess to them, can’t they let a fellow die in peace?’

Viên cảnh sát nhìn lão cười và nói, ‘Ồ, ông còn tràn đầy sức sống lắm, ông bạn già ạ, ông sẽ sớm ra viện cùng với cái xe cút kít của ông để quét hết lũ người này. Nhưng chúng tôi sẽ giữ cho cánh báo chí không được tiếp cận với ông. Chúng tôi đã dọa rằng sẽ hành động chống lại họ nếu họ vào đây vì ông đang ốm nặng.’ Anh ta quay gót ra khỏi phòng, và cô y tá lại tiếp tục cho lão ăn đến khi ông lão nghĩ bụng rằng thức ăn chắc sẽ lòi ra đằng tai mất. Khoảng một giờ sau, vị bác sĩ quay lại, nhìn lão rồi cúi xuống kiểm tra cái lọ bên dưới giường. ‘À!’ ông ta nói, ‘có vẻ như chúng ta đã lấy được hết dịch vào cái túi đó rồi. Bây giờ chúng ta sẽ bơm vào một ít không khí và việc đó sẽ làm xẹp lá phổi. Ông thấy đấy, chúng tôi đưa không khí vào màng phổi và nó sẽ đẩy lá phổi vào bên trong khiến ông không thể thở bằng lá phổi này, nó phải được nghỉ ngơi một chút. Tôi cũng sẽ cung cấp oxy cho ông.’ Ông ta thò đầu ra khỏi rèm và nói, ‘Tất cả mọi người sẽ phải tắt thuốc lá, không thể hút thuốc ở đây trong khi chúng tôi đang sử dụng bình oxy.’ Có rất nhiều lời bàn tán giận dữ từ các bệnh nhân khác. Một người nói, ‘Tại sao chúng ta phải từ bỏ thú vui của mình chỉ vì ông ta? Ông ta đã làm gì cho chúng ta? ” Một gã đàn ông cố tình châm điếu thuốc mới.

The policeman looked at him laughing, and said, ‘Oh, you’ve got plenty of life left in you yet, old fellow, you’ll soon be out with that barrow of yours again sweeping up after all these people. But we’ll keep the press away from you. We’ve threatened we’ll take action against them if they come here as you are so ill.’ He turned and went out of the ward, and the nurse continued with her feeding until the old man thought the food would be coming out of his ears. About an hour later the doctor came back, looked at him, and then bent down to examine the bottle beneath the bed. ‘Ah!’ he said, ‘we seem to have got it all out from that pocket. Now we’re going to pump in a little air and that will collapse the lung. You see, we put air in to the pleura and that pushes the lung inwards so you can’t breathe with this one, it’s got to be rested a bit. I’m going to give you oxygen as well.’ He put his head out through the curtains and said, ‘You fellows will all have to stop smoking, you can’t smoke in here while we’ve got an oxygen tent going.’ There was a lot of angry talk from the other patients. One said, ‘Why should we have to give up our pleasure just for him? What’s he done for us?’ Deliberately the man lit a fresh cigarette.

Vị bác sĩ đi ra ngoài trạm y tá và gọi điện thoại đi đâu đó. Ngay lập tức, một hộ lý đến và lão Molygruber vẫn ở trên giường đang truyền dịch được từ từ đẩy ra khỏi phòng và đi vào một phòng riêng. ‘Ở đây,’ bác sĩ nói, ‘bây giờ chúng tôi có thể cung cấp oxy cho ông mà không sợ có ai gây cháy nữa. Ông sẽ ổn thôi.’

The doctor went out to the nurses’ station and telephoned somewhere. Soon an orderly arrived and old Molygruber in his bed and with the I.V. attachment still in place was slowly pushed out of the ward and into a private room. ‘There,’ said the doctor, ‘now we can give you oxygen without any of those so-and-so’s trying to cause a fire. You’ll be all right.’

Lập tức mặt nạ dưỡng khí được đặt vào vị trí, và một ống được nối với đầu ra khí ôxy lắp trên tường của căn phòng. Chẳng mấy chốc Molygruber cảm thấy lợi ích của oxy, lão thở dễ dàng hơn và nói chung lão cảm thấy tốt hơn  nhiều. ‘Chúng tôi sẽ để ông như vậy suốt đêm,’ bác sĩ nói, ‘rồi ngày mai ông sẽ khỏe lên rất nhiều đấy.’ Nói xong vị bác sỹ rời khỏi phòng.

Soon the oxygen tent was put in place, and a tube was connected to the oxygen outlet in the wall of the room. Soon Molygruber felt the benefits of the oxygen, his breathing improved and he generally felt a lot better. ‘We’ll keep you on this all night,’ said the doctor, ‘and tomorrow you should be a lot better.’ With that he left the room.

Một lần nữa ông lão lại chìm vào giấc ngủ, lần này thì thoải mái hơn.

Nhưng sau đó vào buổi tối, một bác sĩ khác đến, khám lão cẩn thận, rồi nói, ‘Tôi sẽ rút cái kim hút này ra bây giờ, chúng tôi đã làm khô chỗ này rồi. Chúng tôi sẽ cho ông chụp X-quang lại sau khoảng một giờ nữa rồi mới có thể quyết định phải làm gì tiếp theo.’ Anh ta quay lưng đi ra ngoài, nhưng ngoái lại hỏi, ‘ Ông không có người thân nào sao? Ông có muốn chúng tôi liên hệ với ai không?’

Molygruber nói, “Không, tôi chẳng còn ai trên thế giới này cả. Tôi chỉ có một mình, nhưng hy vọng chiếc xe cút kít cũ kỹ của tôi vẫn ổn.’

Once again the old man slept, this time more comfortably.

But later in the evening another doctor came in, examined him carefully, and then said, ‘I’m going to pull this trochar out now, we’ve properly dried out this particular spot. We’ll have you X-rayed again in about an hour’s time, and then we can decide what to do next.’ He turned and went out, but then came back saying, ‘Don’t you have any relatives? Who do you want us to get in touch with?’

Molygruber said, ‘No, don’t have anybody at all in the world. I’m on my own, but I hope my old barrow will be all right.’

Vị bác sĩ cười và nói, ‘Ồ vâng, chiếc xe của ông không sao cả. Cơ quan vệ sinh của thành phố đã đưa nó về chỗ gọi là khu tập kết. Chiếc xe của ông đang được bảo dưỡng, còn bây giờ chúng tôi chăm sóc ông. Ông hãy ngủ đi.’ Vị bác sỹ chưa ra tới cửa Molygruber đã ngủ say, lão mơ thấy những bà mẹ giận dữ đòi mũ mới cho con họ, mơ thấy đám phóng viên nhà báo đang điên cuồng tràn vào giường của lão. Lão ngạc nhiên mở mắt ra và thấy người hộ lý trực đêm đang ngắt thiết bị truyền dịch khỏi người lão và chuẩn bị  đưa lão xuống chụp X-quang một lần nữa.

The doctor laughed and said, ‘Oh yes, your barrow is all right. City Cleaning have taken it back to what they call the depot. Your barrow is being looked after, now we’ve got to look after you. Have a sleep.’ Before he reached the door Molygruber was asleep, dreaming of irate mothers demanding new hats for their children, dreaming of feral press reporters swarming over his bed. He opened his eyes in some astonishment and found a night orderly was disconnecting him from the I.V. apparatus and getting ready to take him down to X-ray again.

‘Tôi vào được không? Tôi là một linh mục.’ Giọng nói cực kỳ buồn bã. Lão Molygruber mở mắt và bối rối khi nhìn thấy một bóng người đang đứng trước mặt mình; một người đàn ông rất cao, đặc biệt gầy, mặc toàn đồ đen, ngoại trừ chiếc cổ áo giáo sĩ mà bên trên là yết hầu hình quả táo Adam rất nổi bật của ông ta đang nhấp nhô lên xuống như thể đang cố thoát ra khỏi cái cổ gầy nhẳng. Khuôn mặt nhợt nhạt với đôi má hóp và chiếc mũi rõ là đỏ. Vị linh mục nhìn xuống Molygruber và rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường. ‘Tôi là một linh mục và tôi đang nghiên cứu môn tâm lý học ở đây để có thể chăm sóc cho những bệnh nhân trong bệnh viện. Tôi đã được đào tạo ở Maritimes (ba tỉnh miền đông Canada).’ Molygruber cau mày hay đúng ra là cau có, rồi lão nói, ‘Ồ, còn tôi thì được đào tạo ở Calgary ngay trên bãi rác của thành phố.’

‘May I come in? I am a priest.’ The voice was melancholy in the extreme. Old Molygruber opened his eyes and gazed with some confusion at the figure standing before him; a very tall, exceptionally thin man dressed all in black except for his clerical collar above which his very prominent Adam’s apple bobbed up and down as if trying to escape from such a scrawny throat. The face was pallid with sunken cheeks and a most prominent red nose. The priest looked down at Molygruber and then sat on a chair beside the bed. ‘I am a priest and I am studying psychology here so that I may minister to the sick in the hospital. I was trained in the Maritimes.’ Molygruber frowned and, indeed, scowled, and then he said, ‘Oh, I was trained in Calgary on the city rubbish dump.’

Vị linh mục nhìn lão và nói một cách nghiêm túc nhất, “Tôi vô cùng lo lắng khi thấy trong tờ khai của ông có ghi ông không theo tôn giáo nào. Bây giờ tôi đã tới để mang Chúa đến với ông đây.’

The priest looked at him and said most earnestly, ‘I am distressed beyond all measure to note that on your admittance form it was stated that you were of no known religion. Now I have come to bring God to you.’

Ông lão lại càng cau có hơn và nói: ‘Chúa à? Tại sao tôi lại muốn nghe ông nói luyên thuyên về Chúa? Chúa đã làm gì cho tôi? Tôi sinh ra đã là một đứa trẻ mồ côi,’ lão nói miễn cưỡng một cách rõ ràng cho thấy lão đang cân nhắc điều gì nên nói và điều gì không nên. ‘Mẹ tôi chả làm gì cho tôi cả và tôi cũng không biết bố mình là ai, tôi nghĩ ông ta có thể là một trong hàng trăm gã đàn ông. Tôi đã sống một mình từ rất lâu rồi khi mới biết nhớ. Trong những ngày đầu tôi được dạy cầu nguyện và tôi đã cầu nguyện. Chẳng có gì xảy ra cho đến khi cuối cùng tôi được nhận công việc vận chuyển rác ở bãi rác thành phố.”

The old man scowled more and more, and said, ‘God? Why do I want to hear your prating’s about God? What’s God ever done for me? I was born an orphan,’ he said with a remarkable disinclination to sort out what could be and what could not be. ‘My mother had nothing to do with me and I didn’t know who my father was, it could have been one of a hundred men I suppose. I was on my own for as long as I can remember. In the early days I was taught to pray and I prayed. Nothing ever came of it until in the end I got a job shifting garbage at the city dump.’

Vị linh mục nhìn xuống mũi của mình và vân vê các ngón tay, cuối cùng ông ta nói, ‘Ông đang ở trong tình thế rất nguy kịch vì căn bệnh mà ông đang  mắc phải. Ông đã chuẩn bị để từ giã cõi đời này chưa?’

Molygruber nhìn thẳng vào người đàn ông và trả lời: “Làm sao tôi biết được ai là người đã sinh ra tôi, đó có thể là bất kỳ ai trong số hàng trăm gã đàn ông, như tôi đã nói với ông. Ông không nghĩ là Chúa đã xuống đây và nặn ra tôi từ bột đấy chứ?

The priest looked down his nose and twiddled his fingers, and eventually he said, ‘You are in a very perilous position with this illness which you have. Are you prepared to meet your Maker?’

Molygruber looked straight at the man and replied, ‘How do I know who’s my maker, it could have been any one of a hundred men, as I told you. You don’t think God came down and fashioned me out of dough, do you?’

Vị linh mục nhìn rất sốc và thấy chướng tai, với giọng nói thậm chí còn rầu rĩ hơn, ông ta trả lời: ‘Ông đang chế giễu Chúa đấy, người anh em ạ. Sẽ chẳng hay ho gì đâu khi ông giễu cợt về Chúa. Ông nên chuẩn bị để đi gặp tiên tổ, đi gặp Chúa của ông, có thể chỉ một thời gian ngắn nữa thôi  ông sẽ phải đối mặt với Đức Chúa Trời và Sự phán xét của Ngài. Ông đã chuẩn bị chưa?’

Molygruber hùng hổ đáp lại, ‘Ông cũng thực sự tin vào tất cả những điều vớ vẩn đó về một kiếp sống khác à?’

‘Tất nhiên tôi tin, tôi tin chứ,’ vị linh mục nói. ‘Nó được viết trong Kinh thánh và mọi người đều biết rằng ông tin những gì có trong Kinh thánh.’

The priest looked shocked and scandalized and even more melancholy as he replied, ‘You are scorning God, my brother. No good will come of this, you are scorning God. You should be prepared to meet your Maker, to meet your God, for in a short time maybe you will have to go to face God and His Judgment. Are you prepared?’

Molygruber replied truculently, ‘Do you really believe all that jive about another life?’

‘Of course I do, of course I do,’ said the priest. ‘It’s written in the Bible and everyone knows that you believe what’s in the Bible.’

Ông lão trả lời: ‘Không, tôi không tin. Tôi đọc rất ít khi tôi còn trẻ, thực tế là tôi đã từng đến Lớp học Kinh thánh và rồi tôi thấy tất cả toàn là giả dối. Khi anh chết là chết, tôi vẫn nói thế đấy. Anh chết và sẽ bị chôn xuống đất ở một nơi nào đó, và nếu anh có bất kỳ người thân nào, mà tôi thì không, thì khi đó họ sẽ đến nhét hoa vào một hũ mứt và đặt nó lên mộ anh. Không, anh sẽ không bao giờ thuyết phục được tôi rằng có một kiếp sống khác sau kiếp sống này đâu. Dù sao thì tôi cũng chẳng muốn có thêm kiếp nào nữa!’

The old man replied, ‘Well, I don’t. I read quite a bit when I was young, in fact I used to go to Bible Class and then I found what a phony the whole affair was. When you’re dead you’re dead, that’s what I say. You die and you get stuck in the ground somewhere, and if you’ve got any folks, which I ain’t, then they comes along and they puts flowers in a jam pot and shove it on top of you. No, you’ll never convince me there’s another life after this. I wouldn’t want one, anyhow!’

Vị linh mục bối rối đứng dậy và đi đi lại lại, đi tới đi lui khắp căn phòng cho đến khi Molygruber gần như bị choáng với hình bóng đen kịt giống như Thần chết đang dập dờn trước mắt lão.

‘Có lần tôi đã xem qua các trang sách của một gã sống gần nơi tôi đang làm việc, người đó tên là Rampa. Ông ấy cũng đã viết rất nhiều chuyện tào lao về cuộc sống sau khi chết. Chà, mọi người đều biết tất cả đều là vớ vẩn. Chết nghĩa là hết, và anh chết càng lâu thì càng bốc mùi hôi thối. Trong đời tôi đã vài lần thu nhặt xác chết, những kẻ say rượu hay đại loại thế, và sau một thời gian, phù! anh không thể đến gần ‘chúng.’

The priest rose to his feet in his agitation and paced backwards and forwards, backwards and forwards across the room until Molygruber was almost dizzy with this black form like the Angel of Death fluttering before his eyes.

‘I once looked through the pages of a book by a guy wot lives near where I’ve been working, fellow called Rampa. He wrote a lot of crap too about living after you’re dead. Well, everybody knows it’s all rubbish. When you’re dead you’re dead, and the longer you stay dead the worse you stink. I’ve picked up a few stiffs in my time, drunks and the like, and after a time phew! you can’t get near ’em.’

Vị linh mục lại ngồi xuống, nghiêm nghị vẩy ngón trỏ về phía lão Molygruber rồi giận dữ nói, ‘Ông sẽ phải chịu tội vì điều này, ông bạn ạ, ông sẽ phải bị trừng phạt đấy, ông đang nhân danh Chúa một cách vô ích, ông báng bổ cả Kinh Thánh. Chắc chắn rằng Đức Chúa Trời sẽ giáng cơn thịnh nộ của Ngài lên ông!

The priest sat down again and solemnly wagged a forefinger at old Molygruber, and then he said with some anger, ‘You will suffer for this, my man, you will suffer for this, you are taking God’s name in vain, you are mocking the Holy Book. You can be sure that God will wreak His wrath upon you!’

Molygruber ngẫm nghĩ một lúc rồi nói, ‘Sao các người nói về một Đức Chúa tốt bụng, một Đức Chúa Cha yêu thương tất cả các con chiên của Ngài, đầy lòng nhân từ, sự cảm thông và tất cả những thứ tốt đẹp khác, rồi chỉ trong tích tắc các người lại nói Đức Chúa Trời sẽ trút hận thù lên tôi.  Thế nào, ông giải thích như thế nào về điều đó? Và một điều nữa các người cũng phải trả lời, thưa ngài; sách của các người nói nếu không đi theo Chúa thì sẽ phải xuống địa ngục. Phải, tôi cũng không tin có địa ngục, nhưng nếu người ta chỉ được cứu rỗi nếu đi theo Chúa, vậy thì tất cả những người trên trái đất này sẽ như thế nào trước khi có Chúa của các người? Ông giải thích thế nào đây, hả?’

Molygruber ruminated a moment and then he said, ‘How come you guys talk about a good God, a Father God who loves all His children, shows ’em mercy, compassion, and all the rest of the stuff, and then in the next breath you say God will wreak His vengeance. How come, how can you explain that? And another thing you’ve got to answer mister; your book says unless you embrace God you go to hell. Well, I don’t believe in hell either, but if you are only saved if you embrace God, what about all the folks on Earth before your particular form of God? What d’you make of that, eh?’

Vị linh mục lại đứng dậy, giọng run lên vì tức giận, mặt ông ta đỏ bừng vì xúc động. Ông ta giơ nắm đấm về phía Molygruber và nói, ‘Hãy nhìn đây, con người kia, tôi không quen với việc bị bảng bổ bởi những kẻ như ông. Nếu ông không nghe theo những lời răn của Chúa thì ông sẽ bị đánh chết.’ Ông ta chồm về phía trước và Molygruber nghĩ rằng người đàn ông này sắp tấn công lão. Vậy là lão cố hết sức ngồi bật dậy trên giường. Đột nhiên có một cơn đau khủng khiếp lan khắp ngực lão, như thể các xương sườn của lão đang bị nghiền nát. Mặt lão tái xanh và lão ngã ngửa ra sau, thở hổn hển và đôi mắt nhắm hờ.

The priest stood up again, his voice shaking with anger, his face turning red with his emotion. He shook his fist at Molygruber and said, ‘Look here, my man, I am not accustomed to being spoken to by people like you. Unless you embrace the teachings of God you will be struck down dead.’ He moved forward and Molygruber thought the man was going to strike him. So with a supreme effort he sat up in bed. There was a sudden terrible pain across his chest, as if his ribs were being crushed. His face turned blue and he fell back with a gasping sob and his eyes stayed half closed.

Vị linh mục tái mặt, lao ra cửa. ‘Cấp cứu, cấp cứu’ ông ta the thé kêu lên, ‘đến mau, đến mau, người này đã chết khi tôi đang nói chuyện với ông ta. Tôi đã nói với ông ấy rằng Chúa sẽ trừng phạt sự vô thần của ông ấy.’ Nói vậy, ông ta tiếp tục chạy và lao thẳng vào một thang máy đang mở. Mò mẫm ông ta bấm phải nút ra ngoài và cuối cùng cũng ấn được nút ‘Đi xuống’.

The priest turned pale, and rushed to the door. ‘Quick, quick,’ he squeaked, ‘come quickly, come quickly, the man has died as I was speaking to him. I told him the wrath of God would strike down his Godlessness.’ And with that he continued his run and dashed straight into an open elevator. Blindly he stabbed out and managed to hit the ‘Down’ button.

Một y tá ló đầu ra khỏi góc tường và hỏi, ‘Có chuyện gì với con bò già đó vậy? Ông ta đủ để khiến bất kỳ ai cũng phải đau tim. Thế ông ta vừa nói chuyện với ai vậy?’ Người hộ lý đi ra từ một phòng bệnh khác nói, ‘Tôi không biết, tôi nghĩ là Molygruber. Tốt hơn là đi xem ông ấy có ổn không.’ Họ cùng nhau vào căn phòng riêng. Ở đó, họ thấy Molygruber vẫn đang ôm ngực. Đôi mắt lão mở hé, miệng lão xệ xuống. Cô y tá chạy đến nút khẩn cấp và nhấn nó bằng một mã đặc biệt. Ngay sau đó hệ thống liên lạc nội bộ trong bệnh viện đã báo động cho các bác sĩ đến cấp cứu ở tầng này.

A nurse put her head around the corner and said, ‘What’s the matter with that old creep? He’s enough to give anybody a heart attack. Who was he talking to, anyway?’ The orderly came around the corner from another ward and said, ‘Dunno, Molygruber I suppose. Better go and see if he’s all right.’ Together they went in to the private room. There they found Molygruber still clutching his chest. His eyes were half open, his mouth was sagging down. The nurse moved to the emergency button and pressed it with a special code. Soon the intercom in the hospital was broadcasting for Dr. So-and-So to come in emergency to that particular floor.

‘Tôi cho rằng chúng ta nên chăm sóc ông ấy một chút,’ cô y tá nói, ‘ kẻo bác sĩ sẽ làm om lên đấy. A, bác sĩ đây rồi.’ Vị bác sĩ bước vào căn phòng nhỏ và nói, ‘Trời ơi, chuyện gì đã xảy ra với người này vậy? Nhìn biểu cảm trên khuôn mặt ông ấy kìa. Tôi đã thực sự hy vọng rằng chúng ta sẽ cho ông ấy ra viện trong vài ngày tới. Vậy mà thế này.’ Vị bác sỹ tiến về phía trước và rút ống nghe ra, đặt ống nghe lên tai. Sau đó, ông cởi cúc áo của Molygruber, đặt ống nghe vào ngực ông lão và lắng nghe. Tay phải ông vươn ra và cảm nhận mạch của Molygruber không còn đập nữa. ‘Không còn sống nữa, cô y tá, ông ấy không còn sống nữa. Tôi sẽ ra ngoài và làm giấy chứng tử, nhưng trong lúc này hãy đưa ông ấy xuống nhà xác. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn chiếc giường này, chúng ta đang thiếu giường mà lại có quá nhiều bệnh nhân đang chờ.’ Nói xong ông ta tháo ống nghe ra khỏi tai và để nó lủng lẳng trên cổ. Ông quay lại, ghi chép vào bệnh án của Molygruber, rồi rời đi.

‘I suppose we’d better tidy him up a bit,’ said the nurse, ‘or the doctor will be commoting around us. Ah, here is the doctor.’ The doctor came into the little room and said, ‘Dear, dear, whatever has happened to this man? Look at the expression on his face. I really expected that within a few days we would have him out again. Oh well.’ He moved forward and fished out his stethoscope, putting the earpieces in his ears. Then he unbuttoned Molygruber’s pyjamas and put the bell piece to the old man’s chest and listened. His right hand reached out and felt for Molygruber’s non-existent pulse. ‘Life is extinct, nurse, life is extinct. I will come out and do the death certificate, but in the meantime have him taken down to the mortuary. We must have this bed ready, we have such a shortage, such a backlog of patients.’ With that he took the stethoscope out of his ears and let it dangle from his neck down. He turned, made a note on Molygruber’s chart, and then left.

Y tá và hộ lý cùng nhau gỡ ga giường ra khỏi người của Molygruber, kéo quần của lão lên thắt dải dút lại, và cài cúc áo ngực cho lão. Y tá nói, ‘Anh lấy cáng đi.’ Người hộ lý đi ra ngoài và nhanh chóng trở lại với chiếc cáng mà Molygruber đã dùng để đi từ phòng bệnh đến phòng X-quang. Y tá và hộ lý cùng nhấc tấm vải trải trên cáng ra để lộ ra phần bên dưới của chiếc cáng. Họ đẩy xác Molygruber lên đó và buộc người lão lại vì việc để xác chết rơi xuống sàn là điều không hay và sau đó họ lấy tấm vải phủ kín chiếc cáng che giấu hoàn toàn thi thể.

 Together the nurse and the orderly took the bedclothes off Molygruber, pulled up his pyjama trousers and tied them, and buttoned his pyjama jacket across his chest. The nurse said, ‘You get the stretcher.’ The orderly went out and soon came back with the stretcher on which Molygruber had travelled from the wards to the X-ray. Together the nurse and the orderly lifted the sheets on the stretcher to reveal beneath the stretcher proper another shelf. On this they pushed Molygruber’s body and strapped him in because it was not considered good to have dead bodies dropping on the floor and then they let the sheets fall over the sides of the stretcher concealing the body completely.

Người hộ lý cười khúc khích và nói, ‘Liệu có ai đến đây mà biết rằng chiếc cáng trông như để không này lại có một xác chết thì họ có ngất xỉu không nhỉ?’ Nói rồi anh ta đẩy chiếc cáng ra khỏi phòng và huýt sáo đi dọc hành lang ra chỗ thang máy. Anh ta bấm ‘Tầng hầm’ và đứng quay lưng về phía cáng mỗi khi thang máy dừng ở tất cả các tầng để mọi người vào và ra. Cuối cùng đến tầng trệt không khi có ai khác đi vào, họ xuống tầng hầm và anh ta kéo cáng ra ngoài. Xoay chiếc cáng, anh ta rẽ ngay theo một hành lang khác và đập tay vào một cánh cửa, cánh cửa đó nhanh chóng được mở ra. ‘Đây là một cái xác nữa cho ông,’ người hộ lý nói, ‘vừa chết trên đó. Chúng tôi đã đưa ông ấy xuống ngay đây, đừng nghĩ sẽ có khám nghiệm tử thi. Tốt nhất là ông nên đối xử với ông ấy sao cho đúng.’

The orderly chuckled and said, ‘Wouldn’t some of the visitors here throw a fit if they knew that this apparently empty stretcher had got a dead body on it?’ With that he pushed the stretcher out of the room and went whistling down the corridor to the elevators. He pushed ‘Basement’ and stood with his back to the stretcher as the elevator stopped at all floors and people got on and got off. Eventually on the ground floor no one else got on, so they went down to the basement where he pulled the stretcher out. Turning it around he went right down another corridor and rapped on a door which was quickly opened. ‘Here’s another one for you,’ said the orderly, ‘just died up there. We brought him right down, don’t think there’ll be an autopsy. You’d better get doing him up properly.’

‘Relatives?’ asked the mortuary attendant.

‘Don’t have none,’ said the orderly. ‘May have to be a Potters Field job, or as he’s a city street cleaner maybe the City will pay to get him buried. Doubt it, though, they’re a pretty cheap skatish lot.’ With that he helped the mortuary attendant move the body from the stretcher and on to a mortuary table. Snatching up the sheet which had covered the body, the orderly turned and went out whistling on his way.

‘Có người thân không?’ Người trông nhà xác hỏi.

‘Chẳng có người thân nào cả,’ người hộ lý nói. ‘Có thể bên Nghĩa trang sẽ lo, hoặc vì ông ấy là lao công đường phố nên may ra Thành phố sẽ trả tiền mai táng ông ấy. Tuy nhiên, tôi cũng nghi ngờ lắm, họ cũng là một lũ rẻ tiền.’ Nói xong anh ta giúp người trông nhà xác chuyển thi thể từ cáng lên một cái bàn. Chộp lấy tấm vải vừa che xác chết, người hộ lý xoay người đi ra ngoài vừa đi vừa huýt sáo.

Người dịch: Nguyễn Thị Hồng Nhung

Biên tập: Phạm Thị Liễu

Tổng biên tập: Trung tâm VMC