Chương 2- Câu chuyện của Rampa

CHƯƠNG II
Tây Tạng, vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, nằm trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Người Anh lớn tiếng với cả thế giới rằng Tây Tạng quá thân Nga, gây bất lợi cho Đế quốc Anh. Nga Hoàng thì kêu gào trong cung điện rộng lớn của ông ta ở Moscow, phàn nàn ầm ĩ rằng Tây Tạng đang kết thân với Anh. Còn Triều đình Trung Hoa cáo buộc Tây Tạng là đồng minh với Anh và Nga, không đủ thân thiện với họ.

TIBET, at the turn of the century, was beset by many problems. Britain was making a great uproar, shouting to all the world that Tibet was too friendly with Russia, to the detriment of British Imperialism. The Czar of all the Russia’s was shrieking in the vast halls of his palace in Moscow, complaining vociferously that Tibet was becoming too friendly with Britain. The Royal Court of China resounded with fevered accusations that Tibet was being too friendly with Britain and with Russia and was most certainly not friendly enough with China.

Lhasa đầy những gián điệp đến từ khắp mọi nơi, ngụy trang sơ sài thành các nhà sư đi khất thực hay những người hành hương, nhà truyền giáo, hoặc bất cứ cái gì cho họ cái cớ để được hiện diện tại Tây Tạng. Đủ hạng người từ các chủng tộc tụ tập, gặp lén lút trong bóng tối để xem chúng có thể khai thác được gì từ tình trạng quốc tế rối ren. Đức Thái Tuế thứ mười ba, Đức Đạt Lai Lạt Ma hóa thân lần thứ mười ba vĩ đại, và cũng là một chính khách tài ba, đã giữ bình tĩnh để bảo toàn hòa bình cho Tây Tạng, cũng như không cho đất nước bị lôi cuốn vào những lộn xộn. Những thông điệp về tình hữu nghị vĩnh cửu và những lời đề nghị giả dối muốn “bảo hộ” lan khắp vùng núi Hy Mã Lạp Sơn được gửi đến từ những vị thủ lĩnh các quốc gia đứng đầu thế giới.

Lhasa swarmed with spies of various nations, poorly disguised as mendicant monks or pilgrims, or missionaries, or anything which seemed to offer a plausible excuse for being in Tibet at all. Sundry gentlemen of assorted races met deviously under the dubious cover of darkness to see how they could profit by the troubled international situation. The Great Thirteenth, the Thirteenth Dalai Lama Incarnation and a great statesman in His own right, kept his temper and the peace and steered Tibet clear of embroilment. Polite messages of undying friendship, and insincere offers of “protection” cross the Sacred Himalayas from the heads of the leading nations of the world.

Trong bầu không khí đầy căng thẳng và bất ổn ấy, tôi chào đời. Bà Rampa từng kể, từ ngày sinh ra, tôi luôn gặp rắc rối và khốn khổ, mà chúng đều không phải do tôi tạo ra! Các nhà Tiên Tri và thầy bói đều ca ngợi về thiên bẩm thấu thị và thần giao cách cảm “của đứa trẻ” khi vừa chào đời. “Một bản ngã cao quý”, một người nói. “Số phận của cậu bé sẽ đi vào sử sách,” người khác tiên đoán. “Một Ánh Sáng Vĩ Đại cho Chính Nghĩa,” người thứ ba phán. Và ngay khi tôi còn nhỏ, tôi đã sốt sắng cất giọng lên phản đối vì thấy mình quá dại dột khi đã chọn được sinh ra một lần nữa. Họ hàng của tôi, từ khi tôi có thể hiểu những gì họ nói, đã tận dụng mọi cơ hội để nhắc tôi về sự ồn ào tôi gây ra; họ kể với niềm hoan hỉ rằng tôi sở hữu một chất giọng khó nghe nhất, khàn đặc nhất mà họ từng được nghe.

Into such an atmosphere of trouble and unrest I was born. As Grandmother Rampa so truly said, I was born to trouble and have been in trouble ever since, and hardly any of it of my own making! The Seers and Sooth-Sayers were loud in their praise of “the boy’s” inborn gifts of clairvoyance and telepathy. “An exalted ego,” said one. “Destined to leave his name in history,” said another. “A Great Light to our Cause,” said a third. And I, at that early age, raised up my voice in hearty protest at being so foolish as to be born once again. Relatives, as soon as I was able to understand their speech, took every opportunity to remind me of the noise I made; they told me with glee that mine was the most raucous, the most un-musical voice that it had been their misfortune to hear.

Cha tôi là một trong những thủ lĩnh đứng đầu Tây Tạng. Là một nhà quý tộc quan trọng, ông có ảnh hưởng lớn trong việc điều hành đất nước chúng tôi. Mẹ tôi cũng vậy, việc vận hành từ góc độ gia đình của bà cũng có ảnh hưởng nhất định tới vài khía cạnh của chính sách. Lúc này, khi nhìn lại những năm tháng đã qua, tôi tin rằng chúng thực sự rất quan trọng, giống như Mẹ nghĩ vậy, nó không hề tầm thường.

Father was one of the leading men of Tibet. A noble-man of high degree, he had considerable influence in the affairs of our country. Mother, too, through her side of the family exercised much authority in matters of policy. Now, looking back over the years, I am inclined to think that they were almost as important as Mother thought, and that was of no mean order.

Tuổi thơ của tôi trải qua trong ngôi nhà của gia đình gần cung điện Potala, ngay bên kia con sông Kaling Chu, hay còn gọi là Dòng sông Hạnh Phúc. “Hạnh phúc” bởi vì nó đem sự sống đến cho Lhasa khi chảy róc rách qua nhiều con suối, quanh co uốn khúc thành kênh ngòi xuyên khắp thành phố. Nhà chúng tôi khá sung túc, có người săn sóc, hầu hạ, và cha mẹ sống trong sự sang trọng, tráng lệ. Còn tôi – thì phải chịu nhiều kỷ luật hà khắc. Cha đã trở nên rất cáu kỉnh, gắt gỏng trong thời gian xâm lược của Trung Quốc, trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này, trông ông dường thể ghét bỏ tôi mà chẳng có lí do chính đáng nào. Mẹ, giống như rất nhiều phụ nữ hoạt động xã hội trên toàn thế giới, không có thời gian cho con cái, nhìn chúng như những gánh nặng cần thoát khỏi nhanh nhất có thể, và vì vậy đã giao cho đám gia nhân chăm sóc.

My early days were spent at our home near the Potala, just across the Kaling Chu, or Happy River. “Happy” because it gave life to Lhasa as it ran chuckling over many brooks, and meandered in rivulet form through the city. Our home was well wooded, well staffed with servants, and my parents lived in princely splendor. I—well I was subjected to much discipline, much hardship. Father had become greatly soured during the Chinese invasion in the first decade of the century, and he appeared to have taken an irrational dislike to me. Mother, like so many society women throughout the world, had no time for children, looking upon them as things to be got rid of as speedily as possible, and then parked on some hired attendant.

Anh trai Paljor không sống với chúng tôi được lâu; trước ngày sinh nhật lần thứ bảy, anh đã qua đời để đến “Thiên Đường” và Bình an. Tôi được bốn tuổi, và sự ghét bỏ của Cha đối với tôi dường như càng sâu đậm hơn. Chị gái Yasodhara lên sáu tại thời điểm anh trai qua đời, và cả hai chúng tôi đều than vãn, không phải vì bị mất anh, mà vì kỷ luật bắt đầu khắt khe hơn từ lúc anh qua đời.

Brother Paljor did not stay with us long; before his seventh birthday he left for “The Heavenly Fields” and Peace. I was four years of age then, and Father’s dislike for me seemed to increase from that time. Sister Yasodhara was six at the time of the passing of our brother, and we both bemoaned, not the loss of our brother, but the increased discipline which started at his passing.

Giờ đây, gia đình tôi đều đã chết dưới tay Cộng sản Trung Quốc. Chị gái tôi bị giết vì chống lại sự sàm sỡ của những kẻ xâm lược. Cha mẹ tôi bị hại vì từng là địa chủ. Ngôi nhà nơi tôi thường nhìn thấy vùng đất có cây cối xum xuê đã được xây dựng thành khu tập thể cho dân lao động nô lệ. Một bên của tòa nhà là nơi những người lao động nữ tá túc, và ở phía bên cánh phải là nam. Tất cả đều đã lập gia đình, nếu người chồng và người vợ cư xử phải phép và hoàn thành đủ việc, họ có thể gặp nhau một lần một tuần trong vòng nửa tiếng, sau đó họ sẽ bị khám xét thân thể. Nhưng với ngày thời thơ ấu xa xưa của tôi, thì những điều này thuộc về tương lai, và dù đã được tiên đoán trước nhưng cũng như cái chết cuối đời, chẳng ai để tâm quá nhiều cả. Các nhà chiêm tinh thực sự đã báo trước diễn biến này, nhưng chúng tôi chỉ quẩn quanh cuộc sống thường nhật một cách vui vẻ mà quên mất tương lai đó.

Now my family are all dead, killed by the Chinese Communists. My sister was killed for resisting the advances of the invaders. My parents for being landowners. The home from whence I gazed wide-eyed over the beautiful parkland has been made into dormitories for slave workers. In one wing of the house are women workers, and in the right wing are men. All are married, and if husband and wife behave and do their quota of work, they can see each other once a week for half an hour, after which they are medically examined. But in the far-off days of my childhood these things were in the future, something which was known would happen but which, like death at the end of one’s life, did not obtrude too much. The Astrologers had indeed foretold these happenings, but we went about our daily life blissfully oblivious of the future.

Ngay trước khi tôi lên bảy, là lúc anh trai tôi rời bỏ cuộc đời này, có một bữa tiệc long trọng mà tại đó các Nhà Chiêm Tinh Quốc Gia đã tham khảo các biểu đồ chiêm tinh và xác định được tương lai của tôi. Mọi người có “vai vế” đều có mặt ở đó. Nhiều người không được mời cũng đến bằng cách đút lót cho gia nhân để được vào. Đám đông dày đặc đến mức không có chỗ để nhúc nhích trong khu vườn rộng của gia đình chúng tôi.

Just before I was seven years of age, at the age when my brother left this life, there was a huge ceremonial party at which the State Astrologers consulted their charts and determined what my future was going to be. Everyone who was “anything” was there. Many came uninvited by bribing servants to let them in. The crush was so thick that there was hardly room to move in our ample grounds.

Các nhà sư lẩm bẩm và đi dọ dẫm từng bước như thể lang thang, tỏ ra dáng vẻ đầy kích động trước khi tuyên bố sự nghiệp tương lai rạng rỡ của tôi. Thực sự mà nói, phải thừa nhận rằng tất cả những điều không may họ đã tiên tri hoàn toàn đúng. Sau đó họ nói với cha mẹ tôi rằng tôi phải vào Tu Viện Chakpori để tu nghiệp thành nhà sư y sỹ.

The priest fumbled and bumbled, as priests will, and put on an impressive show before announcing the outstanding points of my career. In fairness I must state that they were absolutely right in everything unfortunate which they said. Then they told my parents that I must enter the Chakpori Lamasery to be trained as a Medical Monk.

Tôi thấy thật ủ rũ bởi cảm giác chuyện này sẽ dẫn tới những rắc rối. Dù vậy, không ai chịu lắng nghe tôi cả, và rồi tôi bị bắt ngồi ngoài cổng Tu viện ba ngày ba đêm chỉ để thử liệu tôi đủ sức nhẫn nại để trở thành bác sĩ hay không. Việc tôi vượt qua bài kiểm tra chủ yếu là do sợ Cha hơn là khổ sở thân xác. Vào được Tu Viện Chakpori là giai đoạn dễ dàng nhất. Còn đã vào, thì ngày quả là dài lê thê, khó khăn thực sự khi ngày bắt đầu từ nửa đêm, và chúng tôi phải dự các buổi lễ suốt từ đêm đến ngày. Chúng tôi được dạy về các kiến thức học thuật phổ thông, bổn phận tôn giáo, các chủ đề về thế giới siêu hình và kiến thức y học để trở thành nhà sư y tế. Các phương pháp chữa trị Đông y khác đến mức Tây y khó có thể hiểu nổi. Tuy nhiên, nhiều công ty dược Tây y đang cố gắng tổng hợp các loại thảo dược quý hiếm mà chúng tôi đã từng dùng. Để rồi những phương thuốc cổ truyền Đông y, giờ được làm nhân tạo và rồi được tung hô như một ví dụ về thành tựu của khoa học phương Tây. Hắn là tiến bộ.

My gloom was quite intense, because I had a feeling that it would lead to trouble. No one listened to me, though, and I was shortly undergoing the ordeal of sitting outside the Lamasery gate for three days and nights just to see if I had the endurance necessary to become a medical monk. That I passed the test was more a tribute to my fear of Father than of my physical stamina. Entry to the Chakpori was the easiest stage. Our days were long, it was hard indeed to have a day which started at midnight, and which required us to attend services at intervals throughout the night as well as throughout the day. We were taught the ordinary academic stuff, our religious duties, matters of the metaphysical world, and medical lore, for we were to become medical monks. Our Eastern cures were such that Western medical thought still cannot understand them. Yet—Western pharmaceutical firms are trying hard to synthesize the potent ingredients which are in the herbs we used. Then, the age-old Eastern remedy, now artificially and will be hailed as an example of Western achievement. Such is progress.

Khi lên tám tuổi, tôi đã phải trải qua một cuộc phẫu thuật để mở “con mắt thứ ba”, cơ quan đặc biệt về khả năng thấu thị mà gần như vô dụng với hầu hết mọi người bởi vì họ phủ nhận sự tồn tại của nó. Với khả năng nhìn được bằng “con mắt” này, tôi có thể nhận biết hào quang của con người và vì thế có thế nhìn thấy tâm tính của những người xung quanh. Thú vị nhất là khi nghe những lời nói sáo rỗng của những người làm ra vẻ thân thiện vì mục đích ích kỷ, trong khi tâm địa thì thực sự xấu xa, độc ác. Hào quang có thể cho biết lịch sử bệnh tật của một người. Bằng cách xác định những gì bị thiếu trong hào quang, và thay thế những khiếm khuyết bằng những liệu pháp bức xạ năng lượng đặc biệt, con người có thể được chữa khỏi bệnh tật.

When I was eight years of age I had an operation which opened my “Third Eye”, that special organ of clairvoyance which is moribund in most people because they deny its existence. With this “eye” seeing, I was able to distinguish the human aura and so divine the intention of those around me. It was—and is!—most entertaining to listen to the empty words of those who pretended friendship for self gain, yet truly had black murder in their hearts. The aura can tell the whole medical history of a person. By determining what is missing from the aura, and replacing the deficiencies by special radiations, people can be cured of illness.

Vì có khả năng thấu thị mạnh hơn bình thường, nên tôi thường xuyên được Đức Thái Tuế, Hóa thân lần thứ mười ba của Đức Đạt Lai Lạt Ma, gọi vào để nhìn hào quang của những người đến thăm Ngài “trong tình hữu nghị”. Vị Thầy hướng dẫn yêu quý của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, một người có khả năng thấu thị tài ba, đã dạy tôi rất tốt. Người cũng dạy tôi những phép huyền bí quan trọng nhất về du hành thể vía, mà bây giờ với tôi còn dễ hơn đi bộ. Hầu hết mọi người, bất kể họ thuộc tôn giáo nào, đều tin vào sự tồn tại của “linh hồn” hay “thể khác”. Trên thực tế, con người có một số “thể” hay “vỏ bọc”, mà con số chính xác chúng ta không không cần bận tâm vào lúc này. Chúng tôi tin – hay đúng hơn là chúng tôi biết! – rằng khi để lại thể xác (cái thể mà có thể mặc quần áo vào!) sang một bên, ta có thể du hành đi bất cứ nơi đâu, kể cả ngoài Trái Đất, trong thể vía.

Because I had stronger than usual powers of clairvoyance I was very frequently called upon by the Inmost One, the Great Thirteenth Incarnation of the Dalai Lama, to look at the aura of those who visited Him “in friendship”. My beloved Guide, the Lama Mingyar Dondup, a very capable clairvoyant, trained me well. He also taught me the greatest secrets of astral traveling, which now to me is easier than walking. Almost anyone, no matter what they call their religion, believes in the existence of a “soul” or “other body”. Actually there are several “bodies” or “sheaths”, but the exact number does not concern us here. We believe —rather, we know! that-it is possible to lay aside the ordinary physical body (the one that supports the clothes!) and travel anywhere, even beyond the Earth, in the astral form.

Mọi người đều du hành thể vía rồi, kể cả những kẻ nghĩ rằng đó là “vớ vẩn”! Nó tự nhiên như thở vậy. Hầu hết mọi người đều làm điều đó khi đang ngủ và vì vậy, nếu không được huấn luyện, họ sẽ không nhớ gì về điều này. Biết bao nhiêu người sáng dậy kêu lên: “Ồ! Đêm qua tôi đã có một giấc mơ thật tuyệt vời, tôi dường như đã ở với người này và người kia. Chúng tôi rất hạnh phúc bên nhau và cô ấy nói cô ấy sẽ viết thư cho tôi. Tất nhiên bây giờ tất cả mọi thứ chỉ còn rất mơ hồ thôi!” Và sau đó, thường là sau vài ngày, một lá thư đến. Để giải thích cho chuyện này, một trong số họ đã du hành thể vía đến một nơi khác, và bởi họ không được chỉ dẫn nên sự việc ấy đã trở thành một “giấc mơ”. Hầu hết mọi người đều du hành thể vía. Có bao nhiêu người xác thực rằng những người sắp chết đến thăm người họ yêu quý trong giấc mơ để nói lời tạm biệt. Người sắp lìa đời có mối ràng buộc với thế giới khá mỏng manh nên họ dễ dàng đến thăm một người bạn khi qua đời.

Everyone does astral traveling, even the ones who think it is “all nonsense”! It is as natural as breathing. Most people do it when they are asleep and so, unless they are trained, they know nothing about it. How many people, in the morning, exclaim: “Oh! I had such a wonderful dream last night, I seemed to be with So-and-so. We were very happy together and she said she was writing. Of course it is all very vague now!” And then, usually in a very few days a letter does arrive. The explanation is that one of the persons traveled astrally to the other, and because they were not trained, it became a “dream”. Almost anyone can astral travel. How many authenticated cases there are of dying persons visiting a loved one in a dream in order to say good-bye. Again, it is astral traveling. The dying person, with the bonds of the world loosened, easily visits a friend in passing.

Người đã được huấn luyện có thể nằm nghỉ ngơi và thoải mái cởi bỏ những mối ràng buộc với bản ngã hoặc linh hồn, có thể gọi theo cách nào tùy bạn, chúng đều là một. Rồi khi mối ràng buộc duy nhất còn lại là “Sợi chỉ bạc”, thể thứ hai [là thể vía] có thể trôi đi, giống như một quả bóng bị giữ ở một đầu dây. Nếu được huấn luyện, bất cứ nơi đâu bạn nghĩ đến, bạn có thể bay đến đó một cách tỉnh táo và có ý thức. Trạng thái mơ là khi một người du hành bằng thể vía mà không biết, và trở về với một ấn tượng bối rối, lộn xộn. Khi không được chỉ dẫn, sẽ có vô số những ấn tượng nhận được liên tục qua “Sợi chỉ bạc”, làm “giấc mơ” càng ngày càng xáo trộn. Trong thể vía, bạn có thể đi bất cứ nơi đâu, thậm chí vượt ra ngoài ranh giới Trái Đất, vì thể vía không thở, cũng không ăn. Tất cả những gì nó cần được cung cấp bởi “Sợi chỉ bạc”, mà khi còn sống, kết nối liên tục với thân xác.

The trained person can lie down and relax and then ease off the ties that chain the ego, or companion body, or soul, call it what you will, it is the same thing. Then, when the only connection between is the “Silver Cord”, the second body can drift off, like a captive balloon at the end of its line. Wherever you can think of, there you can go, fully conscious, fully alert, when you are trained. The dream state is when a person astral travels without knowing it, and brings back a confused, jumbled impression. Unless one is trained, there are a multitude of impressions constantly being received by the “Silver Cord” which confuses the “dreamer” more and more. In the astral you can go anywhere, even beyond the confines of the Earth, for the astral body does not breathe, nor does it eat. All its wants are supplied by the “Silver Cord” which, during life, constantly connects it to the physical body.

“Sợi chỉ bạc” được đề cập đến trong Kinh Thánh Kitô giáo: “Hãy đừng để ‘Sợi chỉ bạc’ bị đứt, và ‘Bát Vàng’ bị bể vỡ”. “Bát Vàng” là một quầng sáng, là vầng hào quang xung quanh đầu của một người đã phát triển về tâm linh. Còn những người chưa phát triển về tâm linh thì hào quang lại có màu sắc khác hẳn! Các họa sĩ thời xưa vẽ quầng sáng vàng xung quanh bức tranh của các vị thánh bởi vì các họa sĩ thực sự đã nhìn thấy hào quang, nếu không họ đã không thể vẽ được nó. Quầng sáng này chỉ là một phần rất nhỏ của hào quang con người, nhưng dễ nhìn thấy hơn bởi vì nó thường sáng hơn nhiều.

The “Silver Cord” is mentioned in the Christian Bible: “Lest the ‘Silver Cord’ be severed, and the ‘Golden Bowl’ be shattered.” The “Golden Bowl” is the halo or nimbus around the head of a spiritually evolved person. Those not spiritually evolved have a halo of a very different color! Artists of old painted a golden halo around the pictures of saints because the artists actually saw the halo, otherwise he would not have painted it. The halo is merely a very small part of the human aura, but is more easily seen because it is usually much brighter.

Nếu các nhà khoa học nghiên cứu việc du hành bằng thể vía và hào quang, thay vì phát minh những cái tên lửa mà thường xuyên không đi vào quỹ đạo, họ sẽ có chìa khóa toàn năng để bay vào không gian. Bằng cách xuất vía, họ có thể đến thăm thế giới khác và vì thế xác định được loại tàu bay cần thiết để thực hiện được chuyến đi trong cơ thể vật lý, vì du hành bằng thể vía có một bất lợi lớn là ta không thể mang theo hay mang về bất kỳ đồ bằng vật chất nào cả. Người ta chỉ có thể mang về kiến thức. Vì vậy – các nhà khoa học cần một con tàu để mang về mẫu vật sống và những bức ảnh mà nhờ nó thuyết phục thế giới hoài nghi, vì người ta không thể tin một thứ gì tồn tại trừ khi họ có thể xé nó ra từng mảnh để chứng minh rằng nó có thể có thật.

If scientists would investigate astral travel and auras, instead of meddling with fizzling rockets which so often fail to go into orbit, they would have the complete key to space travel. By astral projection they could visit another world and so determine the type of ship needed to make the journey in the physical, for astral travel has one great drawback; one cannot take any material object nor can one return with any material object. One can only bring back knowledge. So—the scientists will need a ship in order to bring back live specimens and photographs with which to convince an incredulous world, for people cannot believe a thing exists unless they can tear it to pieces in order to prove that it might be possible after all.

Tôi đặc biệt nhớ về một chuyến đi vào không gian đã thực hiện. Điều này là sự thật hoàn toàn, và những ai đã tiến hóa đều biết nó đúng như vậy. Những người khác không quan trọng, họ sẽ biết khi đạt đến giai đoạn cao hơn của sự trưởng thành tâm linh.

I am particularly reminded of a journey into space which I took. This is absolutely true, and those who are evolved will know it as such. It does not matter about the others, they will learn when they reach a greater stage of spiritual maturity.

Đây là một trải nghiệm đã xảy ra vài năm trước, khi tôi còn ở Tây Tạng, đang học trong Tu Viện Chakpori. Mặc dù nó đã xảy ra nhiều năm về trước, nhưng ký ức về nó vẫn sống động trong tâm trí tôi như thể vừa mới xảy ra ngày hôm qua vậy.

This is an experience which happened some years ago when I was in Tibet studying at the Chakpori Lamasery. Although it happened many years ago, the memory of it is as fresh in my mind as if it happened but yesterday.

Thầy Hướng Dẫn của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, và một vị lạt ma nữa, là người bạn thân thiết của tôi tên là Jigme, và tôi, đứng trên mái vòm Chakpori, trên Núi Sắt, ở thủ đô Lhasa, Tây Tạng. Đó thực sự là một đêm rất lạnh, khoảng âm bốn mươi độ. Khi chúng tôi đứng trên mái nhà, gió rít ép chặt áo choàng dán lên cơ thể đang run rẩy của chúng tôi. Những cơn gió thổi tới từ một phía khiến áo choàng tung bay như những Ngọn Cờ Cầu Nguyện, ớn lạnh đến xương tủy, tưởng chừng muốn xô ngã chúng tôi qua phía sườn dốc.

My Guide, the Lama Mingyar Dondup, and a fellow lama, actually a close friend of mine named Jigme, and I, were upon the roof of the Chakpori, on Iron Mountain, in Lhasa, Tibet. It was a cold night indeed, some forty degrees below zero. As we stood upon the exposed roof the shrieking wind pressed our robes tightly against our shivering bodies. At the side of us away from the wind our robes streamed out like Prayer Flags, leaving us chilled to the marrow, threatening to pull us over the precipitous mountainside.

Khi nhìn quanh, chống chọi lại sức gió một cách khó khăn để giữ thăng bằng, chúng tôi nhìn thấy những ánh sáng mờ ảo của thành phố Lhasa ở phía xa, còn bên phải là ánh sáng của cung điện Potala làm tăng thêm vẻ huyền ảo của khung cảnh. Tất cả cửa sổ dường như được tô điểm bởi ánh sáng của đèn bơ, chúng dẫu sao vẫn được bảo vệ bởi bức tường thành hùng vĩ, vui đùa và nhảy múa cùng cơn gió. Dưới ánh sao mờ nhạt, mái vàng của cung điện Potala phản chiếu và lấp lánh như thể Mặt Trăng đáp xuống đùa giỡn giữa những ngọn tháp và lăng mộ trên đỉnh tòa tháp lộng lẫy.

As we looked about us, leaning heavily against the wind to maintain our balance, we saw the dim lights of Lhasa city in the distance, while off to our right the lights of the Potala added to the mystical air of the scene. All the windows seemed to be adorned with gleaming butter lamps, which even though protected by the mighty walls, wavered and danced at the bidding of the wind. In the faint star-light the golden roofs of the Potala were reflecting and glinting as if the Moon itself had descended and played among the pinnacles and tombs atop the glorious building.

Còn chúng tôi run rẩy trong cái lạnh buốt giá, co ro và ước nguyện được sưởi ấm trong không gian đầy hương nhang của ngôi đền dưới chân đồi. Chúng tôi đang ở trên mái nhà để thực hiện một mục đích đặc biệt, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức đã nói vậy một cách bí ẩn. Bây giờ Người đang đứng giữa chúng tôi, vững chắc như một trái núi, và chỉ về phía một ngôi sao rất xa – một thế giới trông màu đỏ – và nói, “Những người anh em của ta, đây là ngôi sao Zhoro, một hành tinh rất cổ xưa, một trong các hành tinh cố nhất trong hệ không gian này. Bây giờ, nó đang đến hồi kết thúc sự sống rất dài của nó.”

But we shivered in the bitter cold, shivered, and wished that we were warm in the incense-laden air of the temple beneath us. We were on the roof for a special purpose, as the Lama Mingyar Dondup enigmatically put it. Now he stood between us, seemingly as firm as the mountain itself, as he pointed upwards at a far distant star—a red-a red looking world—and said, “My brothers this is the star Zhoro, an old, old planet, one of the oldest in this particular system. Now it is approaching the end of its long life-time.”

Người quay về phía chúng tôi, lưng quay về phía làn gió rét buốt, và nói, “Các con đã học nhiều về du hành thể vía rồi. Bây giờ, chúng ta sẽ cùng nhau đi bằng thể vía đến hành tinh đó. Chúng ta sẽ để lại thân xác của mình ở đây, trên mái nhà lộng gió này, và rồi vượt qua ra khỏi bầu khí quyển, thậm chí vượt ra khỏi cả Thời gian.”

He turned to us with his back to the biting wind, and said, “You have studied much in astral traveling. Now, together, we will travel in the astral to that planet. We will leave our bodies here upon this windswept roof, and we will move up beyond the atmosphere, beyond even Time.”

Trong khi nói, Người dẫn chúng tôi đến khu mái vòm thô sơ trên đỉnh núi. Người nằm xuống và bảo chúng tôi cùng nằm xuống bên cạnh. Chúng tôi quấn áo choàng chặt xung quanh thân mình và nắm lấy tay nhau. Trên cao là vòm trời Thiên Đàng tím sẫm, lốm đốm những tia sáng mờ nhạt, pha chút màu sắc, bởi tất cả hành tinh có màu ánh sáng đặc biệt khác nhau khi được quan sát trong màn đêm trong suốt ở Tây Tạng. Làn gió rít xung quanh chúng tôi, nhưng sự đào tạo của chúng tôi đã luôn rất khắc khổ, và chúng tôi chẳng nghĩ đến gì khác ngoài việc cố ngồi bám lại trên mái vòm đó. Chúng tôi biết rằng đây không phải là một cuộc du hành thông thường bằng thể vía, vì chúng tôi không thường xuyên để lại thân xác của mình bị phơi bày trong thời tiết khắc nghiệt. Khi thân xác không được thoải mái, thể vía có thể đi xa hơn và nhanh hơn, và nhớ được chi tiết hơn. Chỉ trong những chuyến du hành ngắn qua các hành tinh, chúng tôi mới để cơ thể thư giãn và thoải mái.

So saying he led the way across the roof to where there was some slight shelter afforded by a projecting cupola of the roof. He lay down and bade us to lie beside him. We wrapped our robes tightly around us and each held the hand of the other. Above us was the deep purple vault of the Heavens, speckled with faint pin-pricks of light, colored light, because all planets have different lights when seen in the clear night air of Tibet. Around us was the shrieking wind, but our training had always been severe, and we thought naught of remaining on that roof. We knew that this was not to be an ordinary journey into the astral, for we did not often leave our bodies thus exposed to inclement weather. When a body is uncomfortable the ego can travel further and faster and remember in greater detail. Only for small transworld journeys does one relax and make the body comfortable.

Thầy Hướng Dẫn của tôi nói, “Giờ chúng ta hãy nắm chặt tay nhau, và cùng nhau vượt ra ngoài Trái Đất này. Hãy theo Thầy và chúng ta sẽ đi một chuyến xa, và có những trải nghiệm đặc biệt đêm nay.”

My Guide said, “Now let us clasp our hands together, and let us project ourselves together beyond this Earth. Keep with me and we will journey far and have unusual experiences this night.”

Chúng tôi nằm xuống và thở theo một nhịp nhất định để xuất vía. Tôi nghe thấy tiếng gió gầm gừ qua dây Cờ Cầu Nguyện quật phần phật phía trên. Rồi đột nhiên, một cú co giật khiến tôi không còn cảm nhận thấy sự tê buốt của cơn gió nữa. Tôi thấy mình đang phất phơ như thể đang ở một thời khắc khác, bên trên thân xác của mình, và tất cả đều thật bình an. Lạt Ma Minh Gia Đại Đức đã đang đứng thẳng trong thể vía rồi, và sau đó, khi nhìn xuống tôi thấy người bạn Jigme của mình cũng đang rời khỏi thân xác của anh. Anh và tôi đứng lên, rồi cùng kết nối với Lạt Ma Minh Gia Đại Đức. Kết nối này, được gọi là kết nối tâm linh, được tạo ra từ thể vía bằng tư tưởng. Nó là chất liệu mà những người đồng cốt trình diễn những hiện hình tâm linh.

We lay back and breathed in the accepted pattern for astral traveling release. I was conscious of the wind screaming through the cords of the Prayer Flags which fluttered madly above us. Then, all of a sudden, there was a jerk, and I felt no more the biting fingers of the chill wind. I found myself floating as if in a different time, above my body, and all was peaceful. The Lama Mingyar Dondup was already standing erect in his astral form, and then, as I looked down, I saw my friend Jigme also leaving his body. He and I stood and made a link to join us to our guide the Lama Mingyar Dondup. This link, called ectoplasm, is manufactured from the astral body by thought. It is the material from which mediums produce spirit manifestations.

Việc kết nối đã hoàn tất, chúng tôi bay vút lên bầu trời đêm; tôi, luôn luôn tò mò, đã nhìn xuống. Đang phất phơ bên dưới chúng tôi là những Sợi Chỉ Bạc, những sợi chỉ dài vô tận kết nối thể xác với thể vía trong suốt cuộc đời. Chúng tôi không ngừng bay lên, lên mãi. Trái Đất lùi xa. Chúng tôi có thể nhìn thấy vầng hào quang của mặt trời ngang hàng phía rìa xa của Trái Đất mà ở đó là thế giới phương Tây, thế giới mà chúng tôi đã từng đi xó xỉnh bằng thể vía. Chúng tôi lên cao hơn và sau đó có thể nhìn thấy hình dáng của các đại dương và châu lục ở phần thế giới đang đươc mặt trời chiếu sáng. Từ chỗ chúng tôi, thế giới nhìn giống như trăng lưỡi liềm, với Cực Quang Bắc đang nhấp nháy trên Cực Bắc.

The bond completed, we soared upwards, up into the night sky; I, ever inquisitive, looked down. Beneath us, streaming beneath us, were our Silver Cords, those endless cords which join the physical and the astral bodies during life. We flew on and on, upwards. The Earth receded. We could see the corona of the sun peering across the far ridge of the Earth in what must have been the Western world, the Western world into which we had so extensively traveled in the astral. Higher we went and then we could see the outlines of the oceans and continents in the sunlit part of the world. From our height the world now looked like a crescent moon, but with the Aurora Borealis, or Northern Lights, flashing across the poles.

Chúng tôi tiếp tục đi ngày càng nhanh hơn, cho đến khi vượt cả tốc độ ánh sáng vì chúng tôi là linh hồn đã lìa khỏi thân xác, bay vút về phía trước, hầu như ngang với tốc độ của ý nghĩ. Khi nhìn về phía trước, tôi nhìn thấy một hành tinh khổng lồ, vẻ hăm dọa và đỏ rực, thẳng ngay trước mặt. Chúng tôi rơi thẳng về phía nó với tốc độ không thể tính được. Mặc dù tôi đã có nhiều kinh nghiệm du hành bằng thể vía, tôi vẫn cảm thấy lo lắng. Qua thần giao cách cảm, thể vía của Lạt Ma Minh Gia tủm tỉm cười và nói, “Ồ, Lobsang, nếu chúng ta có đâm vào hành tinh đó cũng sẽ không làm cả chúng và ta đau. Ta hãy đi xuyên qua nó, sẽ không có gì ngăn cản cả.”

We moved on and on, faster and faster, until we out-stripped the speed of light for we were disembodied spirits, soaring ever onwards, approaching almost the speed of thought. As I looked ahead of me I saw a planet, huge and menacing and red, straight in front of me. We were falling towards it at a speed impossible to calculate. Although I had had much experience of astral traveling I felt pangs of alarm. The astral form of the Lama Mingyar Dondup chuckled telepathically and said, “Oh Lobsang, if we were to hit that planet it would not hurt them or us. We should go straight through it, there would be no bar.”

Cuối cùng, chúng tôi thấy mình đang bay phất phơ trên một thế giới hoang vắng màu đỏ; đá đỏ, cát đỏ trong vùng biển đỏ không thủy triều. Khi đáp xuống bề mặt thế giới này, chúng tôi nhìn thấy những sinh vật lạ giống những con cua khổng lồ đang di chuyển lờ phờ dọc theo mép nước. Chúng tôi đứng phía trên bờ đá màu đỏ ấy và nhìn xuống nước, không thủy triều, chết chóc, với lớp váng màu đỏ trên đó, bốc mùi hôi thối. Như chúng tôi quan sát thấy, mặt nước đục miễn cưỡng gợn sóng lăn tăn, và gợn lần nữa, rồi một sinh vật lạ không có ở trái đất nổi lên, nó cũng màu đỏ với lớp vỏ vệ nặng nề, các khớp khác thường. Nó rên rỉ có vẻ mệt mỏi và chán nản, vươn tới bờ cát đỏ, rồi lăn phịch xuống đất. Phía trên đầu chúng tôi, mặt trời đỏ rực buồn tẻ kinh khủng, những vệt màu đỏ máu, khắc nghiệt và sặc sỡ. Khắp xung quanh, không có lấy một hoạt động nào, không hề có dấu hiệu sự sống nào khác ngoài những sinh vật lạ nằm hấp hối trên mặt đất. Mặc dù đang ở trong thể vía, tôi vẫn không khỏi rùng mình lo âu nhìn xung quanh. Biển đỏ mà trên đó nổi lên những váng đỏ, đá đỏ, những đám tro tàn chết chóc màu đỏ của ngọn lửa, ngọn lửa mong manh không còn gì.

At last we found ourselves floating above a red, desolate world; red rocks, red sand in a tideless red sea. As we sank down towards the surface of this world we saw strange creatures like huge crabs moving lethargically along the water’s edge. We stood upon that red rock shore and looked upon the water, tideless, deadly, with red scum upon it, stinking scum. As we watched, the turbid surface rippled unwillingly, and rippled again, and a strange un-earthly creature emerged, a creature also red, heavily armored, and with remarkable joints. It groaned as if tired and dispirited, and reaching the red sand, it flopped down by the side of the tideless sea. Above our heads a red sun glowed dully casting fearful, blood-red shadows, harsh and garish. About us there was no movement, no sign of life other than the strange shelled creatures which lay half-dead on the ground. Even though I was in the astral body I shivered in apprehension as I gazed about me. A red sea upon which floated red scum, red rocks, red dying embers of a fire, a fire which was about to flicker into nothingness.

Lạt Ma Minh Gia Đại Đức nói, “Đây là một thế giới đang hấp hối. Nó không còn quỹ đạo quay nữa. Thế giới này trôi nổi vô định trong biển Không Gian, vệ tinh của một mặt trời đang hấp hối, nó sẽ sớm sụp đổ, và rồi sẽ trở thành một ngôi sao lùn không có sự sống, không có ánh sáng, ngôi sao lùn cuối cùng sẽ va vào một ngôi sao khác, và từ đó một thế giới khác sẽ được sinh ra. Ta đưa các con tới đây bởi vì kể cả trong thế giới này cũng có sự sống cấp cao, sự sống tồn tại ở đây vì mục đích nghiên cứu và điều tra các hiện tượng có thể tìm được ở nơi này. Hãy nhìn xung quanh các con mà xem.”

The Lama Mingyar Dondup said, “This is a dying world. There is no longer rotation here. This world floats derelict in the sea of Space, a satellite to a dying sun, which is soon to collapse, and thus to become a dwarf star without life, without light, a dwarf star which eventually will collide with another star, and from those another world shall be born. I have brought you here because yet in this world there is life of a high order, a life which is here for research and investigation of phenomena of this sort. Look about you.”

Người quay lại và chỉ về phía xa, và chúng tôi nhìn thấy ba tòa tháp rộng lớn vươn lên trên bầu trời màu đỏ, và trên đỉnh cao của các tòa tháp này là ba quả cầu tinh thể lấp lánh sáng bóng và rung rinh ánh sáng vàng, trông thật sống động.

He turned and pointed with his right hand to the far distance, and we saw three immense towers reaching up into the red, red sky, and on the very top of those towers three gleaming crystal balls glowed and pulsated with clear, yellow light, as if they were alive.

Chúng tôi đứng đó kinh ngạc, một trong các ánh sáng thay đổi, một khối cầu trở thành màu xanh ánh kim sống động. Lạt Ma Minh Gia Đại Đức nói, “Hãy đến đó, họ đang nói lời chào mừng với chúng ta. Chúng ta hãy xuống nơi họ ở trong một căn phòng dưới lòng đất.”

As we stood there wondering one of the lights changed, one of the spheres turned a vivid electric blue. The Lama Mingyar Dondup said, “Come, they are bidding us wel-come. Let us descend into the ground to where they are living in an underground chamber.”

Chúng tôi cùng nhau di chuyển về phía chân tháp, và sau đó, khi đã đứng bên dưới, chúng tôi nhìn thấy một lối vào được bảo vệ bằng những kim loại lạ nặng nề lấp lánh và nổi bật, giống như một vết sẹo trên vùng đất đỏ cằn cỗi. Chúng tôi di chuyển qua nó, vì kim loại, hoặc đá, hoặc bất cứ chất liệu nào khác cũng không ngăn cản được những người trong thể vía. Chúng tôi di chuyển qua và đi dọc theo những hành lang màu đỏ của đá đã chết cho đến khi cuối cùng chúng tôi đứng trong một căn phòng rất lớn, căn phòng được bao quanh bởi những biểu đồ và bản đồ, những máy móc và dụng cụ lạ lùng. Ở giữa căn phòng có một cái bàn dài, mà ở đó có chín bô lão đang ngồi bên, trông họ không giống nhau. Một cụ người cao và gầy, đầu nhọn, đầu hình nón. Còn mấy người khác thì thấp và trông rất rắn rỏi. Họ rất khác nhau. Rõ ràng là mỗi người đến từ một hành tinh, từ một giống dân khác nhau. Con người ư? Có lẽ sinh vật có hình dạng giống người thì đúng hơn. Tất cả họ đều là người, nhưng một số dáng vẻ giống con người hơn những kẻ khác.

Together we moved toward the base of that tower, and then, as we stood beneath the framework we saw there was an entrance heavily secured with some strange metal which glimmered and stood out like a scar upon that red and barren land. We moved through it, for metal, or rocks, or anything is no bar to those in the astral. We moved through and traversed long red corridors of dead rock until at last we stood in a very large hall, a hall surrounded by charts and maps, and strange machines and instruments. In the center there was a long table at which sat nine very aged men, all unlike each other. One was tall and thin, and with a pointed head, a conical head. Yet another was short and very solid looking. Each of these men was different. It was clear to us that each man was of a different planet, of a different race. Human? Well perhaps humanoid would be a better word with which to describe them. They were all human, but some were more human than others.

Chúng tôi nhận thấy cả chín người đang chăm chú nhìn về phía mình. “A,” một cụ già nói bằng thần giao cách cảm, “chúng ta có khách từ xa đến. Chúng tôi đã nhìn thấy các bạn hạ xuống đây, trạm nghiên cứu của chúng tôi, và chúng tôi chào đón các bạn.”

We became aware that all nine were looking fixedly in our direction. “Ah,” said one telepathically, “we have visitors from afar. We saw you land upon this, our research station, and we bid you welcome.”

“Thưa Ngài Tôn kính,” Lạt Ma Minh Gia Đại Đức nói, “Tôi đưa đến với các Ngài hai học trò mới được tấn phong Lạt Ma, và họ là những học trò nghiêm túc nhất trong việc học hỏi tri thức.”

“Respected Fathers,” said the Lama Mingyar Dondup, “I have brought to you two who have just entered upon the state of Lamahood and who are earnest students in search of knowledge.”

“Thành thật chào đón các bạn,” cụ già cao lớn, có vẻ là người đứng đầu của nhóm, nói. “Chúng tôi sẽ làm mọi điều để giúp đỡ các bạn như chúng tôi đã giúp những người khác trước đây.”

“They are indeed welcome,” said the tall man, who was apparently the leader of the group. “We will do anything to help as we have helped you with others previously.”

Đây thực sự là điều mới mẻ với tôi bởi tôi không biết rằng Thầy Hướng Dẫn của tôi đã du hành thể vía rộng khắp như vậy trên thiên hà.

This was indeed news to me because I had no idea that my Guide did such extensive astral traveling through celestial places.

Cụ già người thấp nhìn tôi và mỉm cười. Cụ nói bằng ngôn ngữ phổ biến trong thần giao cách cảm, “Tôi thấy rằng, anh bạn trẻ, bạn đang tò mò về vẻ ngoài khác nhau của chúng tôi.”

The shorter man was looking at me, and smiled. He said in the universal language of telepathy, “I see, young man, that you are greatly intrigued by the difference in our appearances.”

“Thưa Ngài tôn kính,” tôi đáp, lòng đầy kính nể vì họ hiểu được suy nghĩ của tôi một cách dễ dàng dù tôi đã cố hết sức che dấu. “Đó là sự thật. Con ngạc nhiên trước sự khác biệt về kích thước và hình dáng của các Ngài, và con chợt nảy ra ý nghĩ là có thể không phải tất cả các Ngài đều là người đến từ Trái Đất.”

“Respected Father,” I replied, somewhat overawed by the ease with which he had divined my thoughts, thoughts which I had tried hard to conceal. “That is indeed a fact. I marvel at the disparity of sizes and shapes between you, and it occurred to me that you could not all be men of Earth.”

“Bạn nhận biết rất chính xác,” cụ già nói. “Tất cả chúng tôi đều là con người, nhưng do môi trường, chúng tôi đã thay đổi hình dạng và tầm vóc của mình phần nào, nhưng có thể bạn không nhận thấy điều tương tự trên hành tinh của mình sao, ở đó, trên vùng đất Tây Tạng có một số nhà sư mà các bạn sử dụng như những người canh gác có chiều cao trên bảy foot. Tuy nhiên, ở nước khác trong thế giới của các bạn, có những người chỉ bằng một nửa chiều cao đó, và các bạn gọi họ là người lùn Pich-mê. Cả hai loại đó đều là con người; họ có thể sinh sản với nhau, mặc dù khác biệt về kích thước, vì tất cả chúng ta đều là con người có cấu tạo phân tử carbon. Ở đây trong thế giới đặc biệt này, mọi thứ đều phụ thuộc vào các phân tử cơ bản gồm carbon và hydro, vì cả hai loại phân tử này là những viên gạch tạo thành cấu trúc Thiên Hà của các bạn. Chúng tôi, những người di chuyển trong những Thiên Hà khác, rất xa bên ngoài nhánh tinh vân đặc biệt này của các bạn, biết rằng các Thiên Hà khác nhau sử dụng những loại gạch khác nhau. Một số sử dụng silicon, một số sử dụng thạch cao, một số sử dụng những phân tử khác, nhưng họ khác với con người của Thiên Hà này, và chúng tôi thấy buồn là tư tưởng của chúng tôi không phải luôn giống với họ.”

“You have perceived correctly,” said the short man. “We are all human, but due to environment we have altered our shapes and our stature somewhat, but can you not see the same thing on your own planet, where upon the land of Tibet there are some monks whom you employ as guards who are seven feet tall. Yet upon another country of that world, you have people who are but half that stature, and you call them pygmies. They are both human; they are both able to reproduce each with the other, notwithstanding any difference in size, for we are all humans of carbon molecules. Here in this particular Universe everything depends upon the basic molecules of carbon and hydrogen for these two are the bricks composing the structure of your Universe. We who have traveled in other Universes far beyond this particular branch of our nebulae know that other Universes use different bricks. Some use silicon, some use gypsum, some use other things, but they are different from people of this Universe, and we find to our sorrow that our thoughts are not always in affinity with them.”

Lạt Ma Minh Gia Đại Đức nói, “Tôi đưa hai vị lạt ma trẻ tới đây để họ có thể thấy các giai đoạn chết và phân rã của một hành tinh đã bị cạn kiệt không khí, và ở đó khí ô xy trong không khí đã kết hợp với kim loại và rồi đốt cháy chúng và làm cho mọi thứ trở thành tro tàn.”

The Lama Mingyar Dondup said, “I have brought these two young lamas here so that they can see the stages of death and decay in a planet which has exhausted its atmosphere, and in which the oxygen of that atmosphere has combined with metals to burn them and to reduce everything to an impalpable dust.”

“Điều đó đúng như vậy,” cụ già cao lớn nói. “Chúng tôi muốn chỉ ra cho những người bạn trẻ này rằng mọi thứ được sinh ra đều phải chết đi. Mọi vật sống trong khoảng thời gian phân bổ cho nó, và thời gian được phân bổ là số lượng đơn vị của sự sống. Một đơn vị sự sống trong bất cứ một sinh vật đang tồn tại nào cũng là một nhịp tim của sinh vật đó. Sự sống của một hành tinh là 2,700,000,000 nhịp đập, sau đó hành tinh sẽ chết, nhưng từ cái chết của hành tinh này, những hành tinh khác được sinh ra. Con người, cũng vậy, sống trong 2,700,000,000 nhịp đập, và đó là khoảng đời khiêm tốn nhất. Một con côn trùng, sống trong hai mươi bốn giờ, trong suốt thời gian đó có 2,700,000,000 nhịp đập. Một hành tinh, tất nhiên là rất khác, mỗi nhịp đập của nó có thể tới 27,000 năm, và tiếp đó sẽ có một cơn chấn động trên thế giới khiến nó lắc mình chuyển sang nhịp đập tiếp theo. Tất cả sự sống, như vậy,” cụ già tiếp tục, “có khoảng thời gian như nhau, nhưng mỗi sinh vật sống ở một tốc độ khác nhau. Những loài sinh vật trên Trái Đất như voi, rùa, kiến và chó, có cùng một số lượng nhịp đập, nhưng tim chúng lại đập với tốc độ khác nhau, và do đó chúng biểu hiện sự sống dài hơn hay ngắn hơn.” Jigme và tôi nhận thấy điều này vô cùng thú vị, và điều đó giải thích rất nhiều cho chúng tôi để hiểu biết về vùng đất Tây Tạng quê hương mình. Chúng tôi đã nghe về rùa ở trong cung điện Potala đã sống rất nhiều năm, và về loài côn trùng chỉ sống trong một đêm về mùa hè. Bây giờ chúng tôi có thể thấy rằng khả năng hiểu biết của chúng hẳn phải được đẩy nhanh lên để bắt kịp với tốc độ nhịp tim đập.

“That is so,” said the tall man. “We would like to point out to these young men that every thing that is born must die. Everything lives for its allotted span, and that allotted span is a number of units of life. A unit of life in any living creature is a heartbeat of that creature. The life of a planet is 2,700,000,000 heartbeats, after which the planet dies, but from the death of a planet others are born. A human, too, lives for 2,700,000,000 heartbeats, and so does the lowliest insert. An insect which lives for but twenty-four hours has, during that time, had 2,700,000,000 heartbeats. A planet—they vary, of course—but one planet may have one heart-beat in 27,000 years, and after that there will be a convulsion upon that world as it shakes itself ready for the next heartbeat. All life, then,” he went on, “has the same span, but some creatures live at rates different from those of others. Creatures upon Earth, the elephant, the tortoise, the ant and the dog, they all live for the same number of heartbeats, but all have hearts beating at different speeds, and thus they may appear to live longer or to live less.” Jigme and I found this extremely enthralling, and it explained so much to us that we had perceived upon our native land of Tibet. We had heard in the Potala about the tortoise which lives for so many years, and about the insect which lived for but a summer’s evening. Now we could see that their perceptions must have been speeded up to keep pace with their speeding hearts.

Cụ già người thấp nhìn chúng tôi có vẻ đồng tình và nói, “Vâng, không chỉ có vậy, mà nhiều loài động vật đại điện cho những chức năng khác nhau của cơ thể. Con bò chẳng hạn, như bất cứ ai cũng có thể thấy, chỉ đơn thuần là một tuyến vú sống, con hươu cao cổ là một cái cổ, một con chó – phải rồi, ai cũng biết điều mà một con chó luôn nghĩ đến là đánh hơi gió để có tin tức vì tầm nhìn của nó quá nghèo nàn – và do đó một con chó có thể xem như là một cái mũi. Những loài vật khác có sự giống nhau về cấu trúc tương tự với các bộ phận khác nhau về giải phẫu học. Loài thú ăn kiến của Nam Mĩ có thể được coi như một cái lưỡi.”

The short man who seemed to look upon us with considerable approval, said, “Yes, not only that, but many animals represent different functions of the body. The cow, for instance, as anyone can see, is merely a walking mam-mary gland, the giraffe is a neck, a dog—well, anyone knows what a dog is always thinking of—sniffing the wind for news as his sight is so poor—and so a dog can be regarded as a nose. Other animals have similar affinities to different parts of one’s anatomy. The ant-eater of South America could be loked upon as a tongue.”

Chúng tôi nói chuyện bằng thần giao cách cảm một lúc, học được nhiều điều mới lạ với tốc độ ý nghĩ khi trong thể vía. Rồi cuối cùng, Lạt Ma Minh Gia đứng lên và nói đã đến lúc phải đi.

For some time we talked telepathically, learning many strange things, learning with the speed of thought as one does in the astral. Then at last the Lama Mingyar Dondup stood up and said it was time to leave.

Khi trở về, bên dưới chúng tôi là mái vàng cung điện Potala ánh lên trong ánh sáng mặt trời phủ đầy sương giá. Cơ thể của chúng tôi đã cứng lại, nặng nề và khó cử động bởi các khớp bị đông cứng. “Và như vậy,” chúng tôi nghĩ, khi vụng về đứng dậy, “một kinh nghiệm nữa, một chuyến đi nữa đã kết thúc. Tiếp theo sẽ là gì đây?”

Beneath us as we returned the golden roofs of the Potala gleamed in the frosty sunlight. Our bodies were stiff, heavy and difficult to work with their half frozen joints. “And so,” we thought, as we stumbled to our feet, “another experience, another journey has ended. What next?”

Một ngành khoa học mà người Tây Tạng chúng tôi rất xuất sắc là chữa bệnh bằng thảo dược. Luôn là như vậy, kể cả đến nay, Tây Tạng được ngăn cách với người ngoại quốc, quần thể động thực vật của chúng tôi chưa từng bị người ngoại quốc khám phá. Trên các cao nguyên có nhiều loài cây lạ. Cây có loại nhựa độc curare, và chất gây ra ảo giác mescalin “được khám phá mới đây”, chẳng hạn, đã được biết đến ở Tây Tạng nhiều thế kỷ trước. Chúng tôi có thể chữa nhiều căn bệnh đau đớn của thế giới phương Tây, nhưng trước tiên, người Tây phương cần phải có nhiều niềm tin hơn một chút. Nhưng dù sao đi nữa, đa phần người phương Tây đều điên khùng, vậy thì sao phải bận tâm?

A science at which we Tibetans excelled was healing by herbs. Always, until now, Tibet has been shut off from foreigners, and our fauna and flora have never been explored by the foreigners. On the high plateaus grow strange plants. Curare, and the “recently discovered” mescalin, for instance, were known in Tibet centuries ago. We could cure many of the afflictions of the Western world, but first the people of the Western world would have to have a little more faith. But most of the Westerners are mad anyway, so why bother?

Hàng năm, nhiều nhóm các nhà sư chúng tôi, những người học giỏi nhất đã lên đường tham gia các cuộc thám hiểm, thu hái thảo dược. Cây và phấn hoa, rễ và hạt, đã được tập hợp, xử lý và bảo quản cẩn thận trong những bao tải bằng da bò yak (Bò Tây Tạng). Tôi rất thích được làm và nghiên cứu. Bây giờ tôi nhận ra rằng các loại thảo dược mình biết rõ ấy không thể tìm thấy được ở đây.

Every year parties of us, those who had done best at their studies went on herb-gathering expeditions. Plants and pollens, roots and seeds, were carefully gathered, treated, and stored in yak-hide sacks. I loved the work and studied well. Now I find that the herbs I knew so well cannot be obtained here.

Cuối cùng, tôi được đánh giá là đã sẵn sàng để tham gia Nghi lễ Chết lâm sàng, mà tôi đã viết về nó trong cuốn sách Con Mắt Thứ Ba. Theo nghi lễ đặc biệt, tôi được đặt vào trạng thái chết lâm sàng, rất sâu bên dưới cung điện Potala, và du hành về quá khứ theo Thư Viện Vũ Trụ Akashic. Tôi đã tới nhiều nơi trên Trái Đất. Nhưng hãy để tôi viết về nó như đã cảm nhận được lúc ấy.

Eventually I was considered fit to take the Ceremony of the Little Death, which I wrote about in The Third Eye. By special rituals I was placed in a state of cataleptic death, far beneath the Potala, and I journeyed into the past, along the Akashic Record. I journeyed, too, to the lands of the Earth. But let me write it as it felt to me then.

Hành lang trong động đá phủ rêu, sâu hàng trăm feet bên dưới vùng đất băng giá nhớp nháp khó chịu và tối đen như trong nhà mồ. Tôi di chuyển dọc theo chiều dài trôi dạt như khói trong bóng tối của nó, và bóng tối ngày càng trở nên đậm đặc hơn, thoạt đầu tôi nhận thấy mờ mờ các hiện tượng lân quang màu lục nhạt của thực vật đã rữa nát bám trên các vách đá. Đôi khi ở những nơi lớp thực vật dày nhất và ánh sáng rực rỡ nhất, tôi có thể bắt gặp những tia sáng màu vàng chói của mạch vàng chạy dọc theo chiều dài của đường hầm trong đá này.

The corridor in the living rock hundreds of feet beneath the frozen earth was dank, dank and dark with the darkness of the tomb itself. I moved along its length drifting like smoke in the blackness, and with increasing familiarity with that blackness I perceived at first indistinctly the greenish phosphorescence of moldering vegetation clinging to the rock walls. Occasionally where the vegetation was most prolific and the light the brightest I could catch a yellow gleam from the gold vein running the length of this rocky tunnel.

Tôi trôi đi trong tĩnh lặng, mất ý thức về thời gian, không suy nghĩ về bất cứ điều gì ngoài việc phải đi xa hơn và sâu hơn vào trong lòng trái đất, vì đây là một ngày rất quan trọng với tôi, ngày tôi đang trở về sau ba ngày du hành thể vía. Thời gian trôi qua và tôi nhận thấy mình ngày càng đi xuống sâu hơn, vào trong căn phòng bí mật trong bóng tối càng ngày càng tối, đen kịt hơn, bóng tối như thể phát ra âm thanh, tạo nên rung động.

I drifted along soundlessly without consciousness of time, without thought of anything except that I must go farther and farther into the interior of the earth, for this was a day which was momentous to me, a day when I was returning from three days in the astral state. Time passed and I found myself deeper, deeper in the subterranean chamber in increasing blackness, a blackness which seemed to sound, a blackness which seemed to vibrate.

Trong trí tưởng tượng của mình, tôi có thể hình dung về thế giới trên kia, thế giới mà tôi đang trở về. Tôi có thể hình dung cảnh tượng quen thuộc giờ đang bị che phủ trong bóng tối. Tôi chờ đợi, lơ lửng trong không trung giống như một đám khói hương trầm trong một ngôi đền. Dần dần, phải mất một thời gian tôi mới có thể nhận biết được nó, một âm thanh dội xuống hành lang, âm thanh mơ hồ nhất, nhưng dần dần to dần lên và tăng thêm nữa. Tiếng cầu kinh, âm thanh của tiếng chuông bạc, và tiếng những bước chân đi giầy da “sặt, sặt” lờ mờ. Cuối cùng, một thời gian dài trôi qua, một ánh sáng chập chờn kì quái xuất hiện lấp lánh dọc theo bức tường hầm. Âm thanh lúc này trở nên lớn hơn. Tôi bình thản chờ đợi phía trên phiến đá trong đêm tối. Tôi chờ đợi.

In my imagination I could picture the world above me, the world to which I was now returning. I could visualize the familiar scene now hidden by total darkness. I waited, poised in the air like a cloud of incense smoke in a temple. Gradually, so gradually, so slowly that it was some time before I could even perceive it, a sound came down the corridor, the vaguest of sounds, but gradually swelling and increasing in intensity. The sound of chanting, the sound of silver bells, and the muffled “shush-shush” of leather-bound feet. At last, at long last, an eerie wavering light appeared glistening along the walls of the tunnel. The sound was becoming louder now. I waited poised above a rock slab in the darkness. I waited.

Dần dần, dần dần, chậm rãi một cách chán ngắt, những bóng người di chuyển thận trọng len lỏi xuống đường hầm về phía tôi. Khi họ đến gần hơn, tôi nhìn thấy đó là những nhà sư mặc áo choàng màu vàng giơ cao những ngọn đuốc sáng chói, những ngọn đuốc quí giá từ đền thờ trên kia được tẩm nhựa cây hiếm có và những que hương bó chặt với nhau tỏa hương thơm để xua đi mùi chết chóc và thối rữa, ánh sáng chói lòa làm mờ đi và biến mất ánh sáng ma quái của cây cối rậm rạp.

Gradually, oh so gradually, so painfully slowly, moving figures crept cautiously down the tunnel towards me. As they came closer I saw that they were yellow-robed monks bearing aloft glaring torches, precious torches from the temple above with rare resin woods and incense sticks bound together giving a fragrant scent to drive away the odors of death and of decay, bright lights to dim and make invisible the evil glow of the rank vegetation.

Từ từ, các tu sĩ bước vào căn phòng ngầm dưới lòng đất. Hai người tiến đến bên bức tường hai bên gần lối vào và dò dẫm trên các gờ đá. Sau đó, họ lần lượt thắp lên những ngọn đèn bơ bừng sáng. Lúc này, căn phòng được chiếu sáng hơn và tôi có thể nhìn quanh một lần nữa sau ba ngày không được nhìn.

Slowly the priests entered the underground chamber. Two moved to each of the walls near the entrance and fumbled on the rocky ledges. Then one after the other flickering butter lamps sprang into life. Now the chamber was more illuminated and I could look about me once again and see as I had not seen for three days.

Các vị tu sĩ đứng xung quanh tôi, họ đứng quanh ngôi mộ ở giữa căn phòng. Tiếng cầu kinh vang to cùng với tiếng chuông bạc. Cuối cùng, sau khi một vị lạt ma già ra dấu, sáu nhà sư dừng lại và cùng nâng chiếc nắp đá ra khỏi chiếc quan tài, vừa thở hổn hển. Nhìn vào bên trong, tôi thấy xác mình được phủ trong lớp áo choàng của tu sĩ thuộc tầng lớp lạt ma. Lúc này các tu sĩ tiếp tục cầu nguyện to hơn:

The priests stood around me and saw me not, they stood around a stone tomb resting in the center of the chamber. The chanting increased, and the ringing of the silver bells too. At last, at a signal given by an old man, six monks stopped and panting and grunting lifted the stone lid off the coffin. Inside as I looked down I saw my own body, a body clad in the robes of a priest of the lama class. The monks were chanting louder now, singing:

“Ô, Linh hồn của vị Lạt Ma đang đi du hành, lang thang trên khắp thế giới, hãy trở về, ngày thứ ba đã đến và sắp trôi qua. Que hương thứ nhất được thắp lên để gọi Linh hồn vị Lạt ma đang du hành trở về.”

“Oh Spirit of the Visiting Lama, wandering the face of the world above, return for this, the third day, has come and is about to pass. A first stick of incense is lit to recall the Spirit of the Visiting Lama.”

Một nhà sư đứng ra và thắp một nén hương mùi thơm ngọt ngào, màu đỏ, và sau đó lấy một nén khác từ hộp khi các nhà sư khấn nguyện:

A monk stood forth and lit a stick of sweet smelling incense, red in color, and then took another from a box as the priests chanted:

“Ô, Linh hồn của vị Lạt ma đang du hành, hãy trở lại đây với chúng tôi, hãy về nhanh vì giờ thức tỉnh của ngài sắp đến. Nén hương thứ hai được thắp lên để hối thúc ngài trở về.” Khi nhà sư long trọng rút một nén hương ra khỏi hộp, vị tu sĩ khấn:

“Oh Spirit of the Visiting Lama, returning here to us, hasten for the hour of your awakening draws nigh. A second stick of incense is lit to hasten your return.” As the monk solemnly drew a stick of incense from the box, the priest recited :

“Ô, Linh hồn của vị Lạt ma đang du hành, chúng tôi đang chờ đợi và nuôi dưỡng thân xác của ngài. Hãy nhanh chóng quay về, vì thời giờ sắp đến rồi, và sự trở về cho thấy ngài đã qua được bài học để tới cấp độ cao hơn. Nén hương thứ ba được thắp lên để kêu gọi trở về.”

“Oh Spirit of the Visiting Lama, we await to reanimate and nourish your earthly body. Speed you on your way for the hour is at hand, and with your return here another grade in your education will have been passed. A third stick of incense is lit at the call of returning.”

Khi làn khói cuộn bốc lên uể oải phủ ngập thể vía của tôi, tôi rùng mình sợ hãi. Như thể những bàn tay vô hình đang kéo tôi, như thể những bàn tay đang kéo Sợi chỉ bạc của tôi, kéo tôi xuống, cuốn tôi, đẩy tôi vào cái cơ thể lạnh lẽo, không còn sự sống đó. Tôi cảm thấy cái lạnh chết chóc, tôi cảm thấy run rẩy chân tay, tôi cảm thấy thị giác thể vía của tôi trở nên mờ nhạt, và sau đó những hơi thở mạnh làm nát vụn cơ thể đang run lẩy bẩy không thể kiểm soát được của mình Các tu sĩ cấp cao cúi xuống ngôi mộ đá, nâng đầu và vai tôi lên, ấn một cái gì đó có vị đắng vào giữa hai hàm răng đang nghiến chặt của tôi.

As the smoke swirled lazily upwards engulfing my astral form, I shivered in dread. It was as if invisible hands were drawing me, as if hands were drawing on my Silver Cord, drawing me down, reeling me in, forcing me into that cold, lifeless body. I felt the coldness of death, I felt shivering in my limbs, I felt my astral sight grow dim, and then great gasps wracked my body which trembled uncontrollably. High Priests bent down into the stone tomb, lifted my head and my shoulders and forced something bitter between my tightly clenched jaws.

“À,” tôi nghĩ, “lại trở về giam cầm trong cơ thể một lần nữa, lại bị giam cầm trong cơ thể.”

“Ah,” I thought, “back in the confining body again, back in the confining body.”

Dường như lửa đang chảy qua huyết quản tôi, tĩnh mạch vốn đã không hoạt động trong ba ngày. Cuối cùng, các tu sĩ đưa tôi ra khỏi ngôi mộ, đỡ tôi, nâng tôi lên và giữ cho tôi đứng, dẫn tôi đi quanh căn phòng đá, quỳ trước tôi, phủ phục dưới chân tôi, đọc thần chú, nói những lời cầu nguyện, và thắp những nén hương. Họ cho tôi ăn, tắm, rồi lau khô, và thay áo choàng cho tôi.

It seemed as if fire was coursing through my veins, veins which had been dormant for three days. Gradually the priests eased me out of the tomb, supporting me, lifting me, keeping me on my feet, walking me around in the stone chamber, kneeling before me, prostrating themselves at my feet, reciting their mantras, saying their prayers, and lighting their sticks of incense. They forced nourisment into me, washed me and dried me, and changed my robes.

Ý thức đang trở về với cơ thể, vì lý do lạ lùng nào đó, trí nhớ từ ba ngày trước đây khi sự kiện tương tự xảy ra quay trở lại. Rồi tôi được đặt xuống trong chính cỗ quan tài đá này. Từng người một, các vị Lạt ma nhìn tôi. Sau đó họ đặt cái nắp lên trên cỗ quan tài đá và dập tắt các que hương. Họ trang nghiêm đi lên hành lang đá, mang đèn đuốc theo, trong khi tôi nằm hơi sợ trong quan tài đá đó, sợ hãi bất chấp tất cả những gì đã được học, sợ mặc dù biết về những điều sẽ xảy ra. Tôi đã ở rất lâu trong bóng tối, trong sự im lặng chết chóc. Im lặng ư? Không, vì nhận thức của tôi đã được huấn luyện, và sắc bén đến mức tôi có thể nghe được tiếng thở của họ, âm thanh của sự sống đang giảm dần khi họ đi khỏi. Tôi có thể nghe thấy bước chân của họ ngày càng mờ nhạt, và sau đó là bóng tối, sự yên lặng, tĩnh mịch, và hư vô.

With consciousness returning into the body, for some strange reason my thoughts wandered back to the time three days before when a similar occurrence had taken place. Then I had been laid down in this self same stone coffin. One by one the lamas had looked at me. Then they had put the lid upon the stone coffin and extinguished the sticks of incense. Solemnly they had departed up the stone corridor, bearing their lights with them, while I lay quite a little frightened in that stone tomb, frightened in spite of all my training, frightened in spite of knowing what was to happen. I had been long in the darkness, in the silence of death. Silence? No, for my perceptions had been trained, and were so acute that I could hear their breathing, sounds of life diminishing as they went away. I could hear the shuffling of their feet growing fainter and fainter, and then darkness, silence, and stillness, and nothingness.

Cái chết không thể tồi tệ hơn thế này, tôi nghĩ. Thời gian kéo dài lê thê tưởng như vô tận khi tôi nằm đó ngày càng trở nên lạnh hơn. Bất thình lình thế giới bùng nổ như một ngọn lửa vàng, tôi thoát khỏi sự trói buộc của cơ thể, rời khỏi sự tăm tối của ngôi mộ đá và căn phòng trong lòng đất. Tôi thoát ra khỏi lòng đất lạnh băng, và đi vào không khí trong lành se lạnh, vượt xa trên dãy Himalaya cao chót vót, tới khắp các vùng đất và đại dương, tới nới xa xôi tận cùng của trái đất với tốc độ của ý nghĩ. Tôi lang thang một mình, trên thinh không, như bóng ma trong thể vía, nhằm tìm ra những nơi thích hợp, những cung điện trên Trái đất, tiếp thu bài học bằng cách quan sát những người khác. Ngay cả những hầm mộ bí mật cũng không che dấu được tôi, vì tôi có thể lang thang tự do bằng ý nghĩ để đi vào Phòng Hội đồng của thế giới. Lãnh đạo của tất cả các vùng đất lướt qua tôi trong bức tranh toàn cảnh liên tục, những ý nghĩ của họ phơi bày trước con mắt thăm dò của tôi.

Death itself could not be worse than this, I thought. Time crawled endlessly by as I lay there becoming colder and colder. All of a sudden the world exploded as in a golden flame, and I left the confines of the body, I left the blackness of the stone tomb, and the underground chamber. I forced my way through the earth, the icebound earth, and into the cold pure air, and away far above the towering Himalayas, far out over the land and oceans, far away to the ends of the earth with the speed of thought. I wandered alone, ethereal, ghostlike in the astral, seeking out the places and palaces of the Earth, gaining education by watching others. Not even the most secret vaults were sealed to me, for I could wander as free as a thought to enter the Council Chambers of the world. The leaders of all lands passed before me in constant panorama, their thoughts naked to my probing eye.

“Và bây giờ,” tôi nghĩ, khi chóng mặt tôi liền được các vị lạt ma đưa tay đỡ, “Bây giờ tôi phải báo cáo tất cả những gì tôi đã nhìn thấy, tất cả những gì tôi đã trải nghiệm, rồi sao? Có lẽ tôi sớm sẽ lại phải trải qua kinh nghiệm tương tự. Sau đó, tôi sẽ phải đi vào thế giới phương Tây, phải chịu đựng những khó khăn đã được tiên tri.”

“And now,” I thought, as dizzily I stumbled to my feet supported by lamas, “Now I have to report all that I saw, all that I experienced, and then? Perhaps soon I shall have another similar experience to undergo. After that I shall have to journey into the Western world, to endure the hardship forecast.”

Sau quá trình đào tạo lâu dài, và cũng rất khó khăn, tôi bắt đầu rời khỏi Tây Tạng để tiếp tục học tập, và nhiều khó khăn hơn nữa. Khi nhìn lại, trước khi băng qua dãy Himalaya, tôi nhìn thấy những tia nắng mặt trời đầu tiên, lấp ló bên trên dãy núi, đang vuốt ve mái vàng của Cung điện Linh thiêng và làm cho khung cảnh trở nên hấp dẫn mê hoặc lòng người. Thung lũng Lhasa dường như vẫn còn đang trong giấc nồng, và thậm chí những Lá cờ Cầu nguyện cũng gà gật mơ màng trên đầu cột cờ. Bên Pargo Kaling, tôi có thể thấy rõ một đoàn bò yak, các nhà buôn, cũng dậy sớm giống như tôi, bắt đầu khởi hành đến Ấn Độ trong khi tôi về phía Trùng Khánh.

With much training behind me, and much hardship too, I set out from Tibet to more training, and much more hardship. As I looked back, before crossing the Himalayas, I saw the early rays of the sun, peeping over the mountain ranges, touching the golden roofs of the Sacred Buildings and turning them into visions of breath-taking delight. The Valley of Lhasa seemed still asleep, and even the Prayer Flags nodded drowsily at their masts. By the Pargo Kaling I could just discern a yak-train, the traders, early risers like me, setting out for India while I turned towards Chungking.

Vượt qua dãy núi, chúng tôi đi theo con đường mòn mà các thương gia mang trà vào Tây Tạng, những viên gạch trà từ Trung Quốc, trà cùng với bánh tsampa là một trong các loại lương thực chính của người Tây Tạng. Năm 1927, đó là khi tôi rời khỏi Lhasa, và đi đến Chotang, một thị trấn nhỏ bên bờ sông Brahmaputra. Trên đường đi Kanting, xuống dưới vùng đồng bằng, qua những khu rừng tươi tốt, những thung lũng với thảm thực vật ẩm ướt, trên đường đi chúng tôi thở rất khổ sở, bởi vì tất cả đoàn chúng tôi đều quen với việc thở trong không khí ở độ cao 15,000 feet, thậm chí còn cao hơn thế nữa. Vùng đồng bằng, với bầu không khí nặng nề, đang đè nén làm tinh thần chúng tôi chán nản, nó ép chặt phổi làm chúng tôi cảm thấy như đang bị chết đuối trong không khí. Chúng tôi đi ngày này sang ngày khác, được khoảng hơn một ngàn dặm thì đến vùng ngoại ô thành phố Trùng Khánh của Trung Quốc.

Over the mountain ranges we went, taking the paths trodden by the traders bringing tea into Tibet, bricks of tea from China, tea which with tsampa was one of the staple foods eaten by Tibetans. 1927 it was when we left Lhasa, and made our way to Chotang, a little town on the river Brahmaputra. On we went to Kanting, down into the lowlands, through lush forests, through valleys steaming with dank vegetation, on we went suffering with our breathing, because we, all of us, were used to breathing air only at l5,000 feet or higher. The lowlands with their heavy atmosphere pressing upon us depressed our spirits, compressing our lungs, making us feel that we were drowning in air. On we went day after day, until after a thousand miles or more we reached the outskirts of the Chinese City Of Chungking.

Cắm trại đêm, đêm cuối cùng chúng tôi ở bên nhau, vì ngày mai, các bạn đồng hành của tôi sẽ lên đường trở về Lhasa thân yêu. Cùng cắm trại, chúng tôi trò chuyện một cách buồn rầu. Điều làm tôi đau khổ là những người đồng môn, những tùy tùng, đang đối xử với tôi như thể người đi vào cõi chết, một người bị kết án phải sống trong những thành phố vùng đồng bằng. Và ngày mai, tôi sẽ tới Đại học Trùng Khánh, một Trường Đại học mà ở đó gần như tất cả các giáo sư, tất cả các nhân viên đều làm việc chăm chỉ để đảm bảo sự thành công cho các sinh viên, giúp đỡ họ bằng mọi cách có thể, chỉ một thiểu số rất ít bị khó khăn hay bất hợp tác, hoặc bị khổ sở vì kỳ thị ngoại quốc.

Encamped for the night, our last night together, for on the morrow my companions would set off on the return journey to our beloved Lhasa, encamped together, we talked mournfully. It distressed me considerably that my comrades, my retainers, were already treating me as a person dead to the world, as a person condemned to live in the lowland cities. And so on the morrow I went to the University of Chungking, a University where almost all the professors, almost all the staff worked hard to ensure the success of the students, to help in any way possible, and only the very minute minority were difficult or uncooperative, or suffered from xenophobia.

Ở Trùng Khánh, tôi học để trở thành bác sĩ và nhà giải phẫu. Tôi cũng học để trở thành một phi công, vì cuộc đời tôi đã được vạch ra, báo trước đến từng chi tiết nhỏ nhất, và tôi biết, như là sau đó được minh chứng, rằng sau này tôi sẽ làm việc nhiều trong không trung cũng như trong ngành y. Nhưng ở Trùng Khánh, chỉ có những lời đồn ngầm rằng chiến tranh sẽ đến và hầu hết những người ở đó, một thành phố tổ hợp cả cổ xưa và hiện đại, sống ngày này sang ngày khác, tận hưởng hạnh phúc bình dị của họ, làm những công việc bình thường của họ.

In Chungking I studied to be a surgeon and a physician. I studied also to be an air pilot, for my life was mapped out, foretold in minutest detail, and I knew, as proved to be the case, that later I would do much in the air and in medicine. But in Chungking there were still only the mutterings of war to come and most of the people in this, an ancient and modern city combined, lived day by day enjoying their ordinary happiness, doing their ordinary tasks.

Đây là chuyến thăm đầu tiên của tôi trong thể vật lý tới một trong những thành phố lớn, cũng là chuyến thăm đầu tiên, trên thực tế, tới một thành phố bên ngoài Lhasa, mặc dù trong thể vía, tôi đã đến thăm hầu hết các thành phố lớn trên thế giới, vì bất cứ ai cũng có thể làm nếu họ tập luyện, vì không có gì khó khăn, không có gì phép màu trong thể vía. Nó dễ dàng như đi bộ, dễ dàng hơn cả đi xe đạp, bởi vì trên một chiếc xe đạp người ta phải giữ thăng bằng; còn trong thể vía người ta chỉ sử dụng năng lực mà bẩm sinh chúng ta đã có.

This was my first visit in the physical to one of the major cities, my first visit, in fact, to any city outside Lhasa, although in the astral form I had visited most of the great cities of the world, as anyone can if they will practice, for there is nothing difficult, nothing magical in the astral, it is as easy as walking, easier than riding a bicycle because on a bicycle one has to balance; in the astral one has merely to use the abilities and faculties which our birthright gave us.

Khi tôi vẫn đang theo học tại Đại học Trùng Khánh, tôi được gọi về Lhasa vì Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Mười Ba sắp qua đời. Tôi trở về và tham gia vào các buổi lễ trong tang lễ của Ngài, và sau khi xử lý xong vài công việc tại Lhasa, tôi lại trở về Trùng Khánh. Tại một buổi nói chuyện sau đó với vị Sư Trưởng tối cao, T’ai Shu, tôi đã bị thuyết phục nhận một nhiệm vụ trong lực lượng không quân Trung Quốc, và đi đến Thượng Hải, một nơi tôi phải đến, mặc dù tôi biết nơi đó chẳng có gì hấp dẫn mình cả. Vì vậy, một lần nữa, tôi bị buộc phải rời chỗ ở để đến một ngôi nhà khác. Ở đó, vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, người Nhật đã dàn cảnh sự cố tại cầu Lư Câu.

While I was still studying at the University of Chungking I was summoned back to Lhasa because the Thirteenth Dalai Lama was about to die. I arrived there and took part in the ceremonies which followed His death, and then after attending to various business in Lhasa I again returned to Chungking. At a later interview with a Supreme Abbot, T’ai Shu, I was persuaded to accept a commission in the Chinese air force, and to go to Shanghai, a place which although I knew I had to visit had no attraction whatever for me. So once again I was uprooted and made my way to another home. Here on July 7th, 1937, the Japanese staged an incident at the Marco Polo Bridge.

Đây là điểm khởi đầu thực sự của cuộc chiến Trung Quốc – Nhật Bản, và nó làm cho mọi việc thực sự rất khó khăn cho chúng tôi. Tôi phải rời khỏi phòng mạch đang sinh lời rất tốt của mình để đến làm việc tại Hội Đồng thành phố Thượng Hải trong một thời gian, nhưng sau đó tôi đã dành hết thời gian của mình cho chuyến bay cứu thương của quân đội Trung Quốc. Tôi và những người khác bay đến những nơi cần phẫu thuật khẩn cấp. Chúng tôi bay trên chiếc máy bay cũ đã được xem là hết tác dụng với mọi chức năng, như là chiến đấu, nhưng đủ tốt để chở người cứu thương.

This was the actual starting point of the China-Japanese war, and it made things very difficult indeed for us. I had to leave my quite lucrative practice in Shanghai and place myself at the disposal of the Shanghai Municipal Council for a time, but afterwards I devoted all my time to mercy flying for the Chinese forces. I and others flew to places where there was a great need of urgent surgery. We flew in old aircraft which were actually condemned for anything else but which were considered good enough for those who were not fighting but patching up bodies.

Tôi đã bị quân Nhật bắt, sau khi bị bắn rơi, và chúng đối xử với tôi rất thô bạo. Tôi không giống một người Trung Quốc, chúng thực sự không biết tôi như thế nào, và cũng vì bộ đồng phục của tôi, vì cấp bậc của tôi, mà chúng đã đối xử rất tệ đối với tôi.

I was captured by the Japanese, after being shot down, and they treated me quite roughly. I did not look like a Chinaman, they did not quite know what I looked like, and so because of my uniform, because of my rank, they were thoroughly unpleasant.

Tôi đã trốn thoát được và trở về với quân đội Trung Quốc với hy vọng tiếp tục công việc của mình. Đầu tiên, tôi được chuyển về Trùng Khánh để thay đổi hoàn cảnh trước khi trở lại nhiệm vụ. Trùng Khánh lúc này khác với Trùng Khánh mà tôi đã biết trước đó. Có nhiều tòa nhà mới, hay đúng hơn là những tòa nhà cũ có mặt tiền mới vì đã bị trúng bom. Nơi đó rất đông đúc, và tất cả các loại doanh nghiệp đến từ các thành phố lớn của Trung Quốc lúc này đang dồn về Trùng Khánh với hy vọng thoát khỏi sự tàn phá của chiến tranh đang hoành hành ở những nơi khác.

I managed to escape and made my way back to the Chinese forces in the hope of continuing with my work. First I was sent to Chungking to have a change of scene before returning to active duty. Chungking was then a different place from the Chungking which I had known before. The buildings were new, or rather some of the old buildings had new fronts because the place had been bombed. The place was absolutely crowded and all types of businesses from the major cities of China were now congregating in Chungking in the hopes of escaping the devastation of the war which was raging elsewhere.

Sau khi hồi phục phần nào, tôi được điều động xuống miền duyên hải theo lệnh của Tướng Yo. Tôi được chỉ định làm nhân viên y tế phụ trách bệnh viện, nhưng “bệnh viện” chỉ đơn thuần là nơi thu gom người bị thương trên cánh đồng lúa ngập nước. Chẳng bao lâu sau, lính Nhật đến và bắt giữ chúng tôi, giết tất cả những bệnh nhân không thể đứng lên và đi được. Tôi lại bị bắt và bị đổi xử rất thậm tệ bởi lính Nhật nhận ra tôi là người đã trốn thoát khỏi trại giam của chúng trước đó, và chúng thực sự không ưa những người đã trốn trại.

After recovering somewhat I was sent down to the coast under the command of General Yo. I was appointed as medical officer in charge of the hospital, but the “hospital” was merely a collection of paddy fields which were thoroughly waterlogged. The Japanese soon came along and captured us and killed all those patients who were unable to rise and walk. I was taken off again and treated remarkably badly because the Japanese recognized me as one who had escaped before, and they really did not like people who escape.

Sau một thời gian, tôi bị đưa đến làm nhân viên y tế ở một trại giam dành cho phụ nữ đến từ các nước khác nhau. Tại đó, do chuyên ngành đào tạo của tôi là thảo dược, nên tôi có thể sử dụng tốt nhất nguồn cây cỏ thiên nhiên của trại giam để giúp cho các bệnh nhân không còn thuốc chữa. Lính Nhật nghĩ rằng tôi đã làm quá nhiều cho các tù nhân và không để họ chết, vì vậy chúng đã chuyển tôi đến một trại giam ở Nhật Bản, trại giam mà chúng nói là dành cho những kẻ khủng bố. Tôi bị dồn vào trong một con tàu rò nước để đi ngang qua biển sang Nhật, chúng tôi thực sự đã bị đối xử một cách tàn tệ. Tôi đã bị tra tấn rất dã man, và những đòn tra tấn liên tục của chúng khiến tôi bị viêm phổi. Chúng không muốn tôi chết và vì vậy chúng đã chăm sóc tôi, theo cách của chúng, và điều trị cho tôi. Khi tôi đang hồi phục nhưng không để chúng biết thì mặt đất rung chuyển. Tôi đã nghĩ đó là động đất, nhưng rồi qua cửa sổ, tôi thấy lính Nhật đang chạy trốn và toàn bộ bầu trời chuyển sang màu đỏ, như thể mặt trời đã bị che khuất. Dù rằng tôi đã không biết gì về nó, đây là vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima, ngày ném quả bom đầu tiên, 6 tháng Mười năm 1945.

After some time I was sent to be Prison Medical 0fficer in charge of a prison camp for women of all nationalities. There due to my specialized training in herbs, I was able to make the best use of the natural resources of the camp to treat patients who otherwise would have been denied all medication. The Japanese thought that I was doing too much for the prisoners and not letting them die enough, and so they sent me to a prison camp in Japan, a camp which they said was for terrorists. I was herded across the Sea of Japan in a leaky ship and we were very badly treated indeed. I was badly tortured by them, and their continual torture gave me pneumonia. They did not want me to die and so in their way they looked after me, and gave me treatment. When I was recovering—I did not let the Japanese know how well I was recovering—the earth shook; I thought it was an earthquake, and then I looked out of the window and found that the Japanese were running in terror, and all the sky turned red, it looked as if the sun was obscured. Although I did not know it, this was the atom bombing of Hiroshima, the day of the first bomb on October 6th, 1945.

Người Nhật không có thời gian dành cho tôi, họ cần toàn bộ thời gian để chăm sóc bản thân, tôi nghĩ vậy nên tôi cố lấy một bộ đồng phục, mũ và một đôi xăng-đan nặng. Rồi tôi lảo đảo đi ra ngoài qua ô cửa hẹp không có lính gác, cố gắng đi xuống bờ biển, nơi đó tôi thấy một chiếc thuyền đánh cá. Rõ ràng là chủ nhân của nó đã bỏ trốn khi quả bom rơi xuống vì không thấy ông ta đâu cả. Con thuyền dập dềnh một cách biếng nhác nơi neo đậu. Dưới đáy thuyền có một vài mẩu cá đã bị ôi, bắt đầu bốc mùi. Một cái can vứt gần đó vẫn còn nước, có thể uống được, nhưng cũng chỉ có vậy. Tôi cố gắng cắt sợi dây mỏng manh đang neo thuyền và bỏ trốn. Gió thổi căng những cánh buồn rách bươm khi tôi đã cố kéo lên một giờ sau đó, và con thuyền hướng mũi ra biển đi đến nơi nào không biết. Nỗ lực đó là quá nhiều với tôi, và tôi sụp ngay xuống đáy thuyền, bất tỉnh.

The Japanese had no time for me, they needed all their time to look after themselves, I thought, and so I managed to pick up a uniform, a cap, and a pair of heavy sandals. Then I tottered out into the open air through the narrow unguarded doorway, and managed to make my way down to the shore where I found a fishing boat. Apparently the owner had fled in terror as the bomb dropped, for he was nowhere in sight. The boat idly rocked at its moorings. In the bottom there were a few pieces of stale fish already starting to give off the odor of decay. There was a discarded can nearby which had stale water in it, drinkable, but only just. I managed to hack away the flimsy rope holding the boat to the shore, and cast off. The wind filled out the ragged sail when I managed to hoist it hours later, and the boat headed out into the unknown. The effort was too much for me. I just toppled to the bottom in a dead faint.

Một thời gian dài sau đó, bao lâu không biết, chỉ có thể đánh giá thời gian qua tình trạng phân hủy của cá, tôi tỉnh dậy trong ánh sáng mờ ảo của bình minh. Con thuyền tiếp tục trôi, những con sóng nhỏ đập vào mạn thuyền. Tôi quá yếu vì bệnh viêm phổi, và vì vậy tôi chỉ nằm, vai và phần thân dưới ngập trong nước muối, cùng với toàn bộ rác thải xung quanh. Rồi mặt trời lên chói lòa. Tôi cảm thấy não trong đầu sôi lên, như thể mắt đang bị đốt cháy. Tôi cảm thấy như các đầu ngón tay đang sưng to hơn cả cánh tay, nó khô rát và đau đớn. Môi và má tôi nứt nẻ. Nỗi đau đớn quá sức chịu đựng, phổi như nổ tung ra một lần nữa, và tôi biết rằng bệnh viêm phổi một lần nữa lại tấn công hai lá phổi của mình. Ánh sáng ban ngày mờ dần, tôi lại chìm vào vũng nước đáy tàu, ngất đi.

A long time after, how long I cannot say, I can only judge the passage of time by the state of decomposition of the fish, I awakened to the dimness of a dawn. The boat was racing on, the little waves breaking over the bows. I was too ill with pneumonia to bale, and so I just had to lie with my shoulders and the bottom of my body in the salt water, in all the refuse which swilled about. Later in the day the sun came out with blinding power. I felt as if my brains were being boiled in my head, as if my eyes were being burned out. I felt as if my tongue was growing to be the size of my arm, dry, aching. My lips and my cheeks were cracked. The pain was too much for me. I felt that my lungs were bursting again, and I knew that once more pneumonia had attacked both lungs. The light of the day faded from me, and I sank back into the bilge water, unconscious.

Thời gian không có ý nghĩa gì cả, thời gian chỉ là một chuỗi mờ ảo màu đỏ, bị nhấn chìm trong bóng tối. Cơn đau nổ ra dữ dội trong tôi và tôi vật vờ giữa sự sống và cái chết. Đột nhiên có một cú sốc dữ dội, và tiếng rít của sỏi bên dưới lườn con thuyền. Cột buồn lắc lư như thể nó sẽ gãy gục, cánh buồm rát bươm vẫy điên cuồng trong gió mạnh. Tôi trượt về phía trước đáy thuyền, bất tỉnh trong vũng nước xoáy và hôi thối.

Time had no meaning, time was just a series of red blurs, punctuated by darkness. Pain raged through me and I hovered at the border between life and death. Suddenly there was a violent jolt, and the screech of pebbles beneath the keel. The mast swayed as if it would snap, and the tattered rag of a sail fluttered madly in the stiff breeze. I slid forward in the bottom of the boat, unconscious amid the stinking, swirling water.

“Này, Hank, có một người châu Á nằm dưới đáy xuyền, trông như chết rồi!” Giọng mũi khuấy động ý thức chập chờn của tôi. Tôi nằm đó, không thể cử động, không thể ra hiệu là tôi vẫn còn sống.

“Gee, Hank, dere’s a gook in de bottom of de boat, sure looks like a stiff to me!” The nasal voice roused me to a flicker of consciousness. I lay there, unable to move, unable to show that I was still alive.

“Có chuyện gì vậy? Xác chết à? Chúng ta muốn cái thuyền, đúng hông? Hãy giúp tôi một tay và chúng ta quăng nó ra ngoài.”

“Whatsamadder wid ya? Scairt of a corpse? We want da boat, don’t we? Give me a hand and we toss him out.”

Những bước đi nặng nề làm rung chuyển con thuyền, và xuýt giẫm lên đầu tôi.

Heavy footsteps rocked the boat, and threatened to crush my head.

“Ôi trời ơi!” giọng người ban đầu nói, “tên tội ngiệp này chắc chắn bị thương rất nặng vì bị phơi ngoài trời. Anh ta vãn còn thở, Hank, anh nghĩ thế nào.”

“Man oh man!” said the first voice, “Dat poor guy he sure took a beating from exposure. Mebbe he still breathes, Hank, what ya think.”

“Ầy, ngừng than vãn đi. Anh ta sắp chết rồi. Quăng anh ta ra. Chúng ta không có thời gian để lãng phí đâu.”

“Aw, stop bellyachin. He’s good as dead. Toss him out. We got no time to waste”

Những bàn tay rắn chắc và mạnh mẽ túm lấy đầu và chân tôi. Tôi bị vung lên một lần, hai lần, sau đó bị quăng đi, bay ra khỏi con thuyền rồi rớt xuống, kêu tiếng rầm thấu xương lên bãi biển đầy cát sỏi. Không buồn liếc nhìn trở lại, hai người đàn ông ráng sức kéo con thuyền bị mắc cạn.

Strong, harsh hands grabbed me by the feet and head. I was swung once, twice, and then let go and I sailed over the side of the boat to fall with a bone-rattling crash on to a pebble-and-sand beach. Without a backward glance, the two men heaved and strained at the stranded boat.

Vừa lẩm bẩm chửi rủa, họ dốc sức, ném sang bên những viên đá lớn nhỏ. Cuối cùng, con thuyền cũng thoát ra và lạo xạo trượt xuống nước. Trong lúc hoảng hốt, vì lý do nào đó mà tôi không biết, hai người đàn ông đã cuống cuồng tranh nhau lên thuyền và bỏ đi theo một loạt những đường chạy ngoằn ngoèo vụng về.

Grunting and cursing they labored, throwing aside small rocks and stones. At last the boat broke free and with a grating scrunch floated slowly backwards into the water. In a panic, for some reason unknown to me, the two men scrambled frenziedly aboard and went off in a series of clumsy tacks.

Mặt trời vẫn đang rực sáng. Những sinh vật nhỏ trong cát cắn tôi, và tôi chịu đựng sự tra tấn giống những kẻ đã chết. Dần dần, ngày cũng qua đi, cho đến khi cuối cùng, mặt trời lặn, màu đỏ máu vẻ hăm dọa. Nước vỗ bập bềnh vào chân tôi, dâng đến đầu gối của tôi. Rồi cao hơn nữa. Với nỗ lực kỳ lạ, tôi trườn lên một vài feet, thục sâu khuỷu tay vào trong cát, quằn quại, vật lộn. Và lại rơi vào hư vô.

The sun blazed on. Small creatures in the sand bit me, and I suffered the tortures of the damned. Gradually the day wore out, until at last the sun set, blood-red and threatening. Water lapped at my feet, crept up to my knees. Higher. With stupendous effort I crawled a few feet, digging my elbows into the sand, wriggling, struggling. Then oblivion.

Nhiều giờ sau đó, hoặc cũng có thể là vài ngày trôi qua, tôi tỉnh dậy, nhận thấy ánh sáng mặt trời đang tỏa sáng bên trên. Run rẩy, tôi quay đầu và nhìn xung quanh. Xung quanh hoàn toàn xa lạ. tôi đang ở trong một ngôi nhà tranh chỉ có một phòng nhỏ, với biển sáng lấp lánh phía xa. Khi quay đầu lại, tôi nhìn thấy một vị tu sĩ Phật giáo già đang nhìn tôi. Ông mỉm cười và đi về phía tôi, ngồi xuống sàn nhà bên cạnh tôi.

Hours later, or it may have been days, I awakened to find the sunlight streaming in upon me. Shakily I turned my head and looked about. The surroundings were wholly unfamiliar. I was in a small one-roomed cottage, with sea sparkling and glistening in the distance. As I turned my head I saw an old Buddhist priest watching me. He smiled and came towards me, sitting on the floor by my side.
Ngập ngừng, và khá khó khăn, chúng tôi trò chuyện với nhau. Ngôn ngữ của chúng tôi tương tự nhau nhưng không hoàn toàn giống, và với rất nhiều nỗ lực, dùng những từ thay thế và lặp đi lặp lại, chúng tôi đã thảo luận về địa điểm.
Haltingly, and with some considerable difficulty, we conversed. Our languages were similar but not identical, and with much effort, substituting and repeating words, we discussed the position.

“Vì đôi lúc,” vị tu sĩ nói, “Tôi biết rằng mình sẽ có một vị khách có khả năng xuất chúng, người có nhiệm vụ lớn lao trong cuộc sống. Vì vậy dù đã già, tôi vẫn nán lại cho đến khi nhiệm vụ của mình được hoàn thành.”

“For some time,” the priest said, “I have known that I would have a visitor of some eminence, one who had a great task in life. Although old, I have lingered on until my task was completed.”

Căn phòng rất nghèo nàn, sạch sẽ và vị tu sĩ già rõ ràng là đang rất thiếu ăn. Ông hốc hác và đôi bàn tay run rẩy vì già yếu. Cái áo choàng cũ kỹ, bạc màu của ông được vá bằng những đường may khéo léo những chỗ đã sửa chữa vì cũ và hỏng.

The room was very poor, very clean, and the old priest was obviously on the verge of starvation. He was emaciated and his hands shook with weakness and age. His faded, ancient robe was patterned with neat stitches where he had repaired the ravages of age and accidents.

“Chúng tôi thấy anh bị ném ra khỏi thuyền,” ông nói. “Rất lâu nên chúng tôi nghĩ anh đã chết và chúng tôi không thể đến được bãi biển vì những băng cướp. Đêm xuống, hai người trong làng đã ra đó và mang anh về đây cho tôi. Nhưng đó là năm ngày trước; anh thực sự rất ốm yếu. Chúng tôi biết rằng anh sẽ sống để thực hiện một hành trình rất xa và cuộc sống sẽ rất khó khăn.”

“We saw you thrown from the boat,” he said. “For long we thought you were dead and we could not get to the beach to make sure because of marauding bandits. At nightfall two men of the village went out and brought you here to me. But that was five days ago; you have been very ill indeed. We know that you will live to journey afar and life will be hard.”

Khó khăn! Tại sao tất cả mọi người luôn cho tôi biết rằng cuộc đời sẽ khó khăn? Họ nghĩ tôi thích điều đó hay sao? Chắc chắn nó đã khó khăn rồi, luôn luôn khó khăn, và tôi ghét khó khăn nhiều như bất cứ ai.

Hard! Why did everyone tell me so often that life would be hard? Did they think I liked it? Definitely it was hard, always had been, and I hated hardship as much as anyone.

“Đây là Najin,” vị tu sĩ tiếp tục. “Chúng tôi ở vùng ngoại ô. Ngay khi có thể, anh sẽ phải rời đi vì cái chết của tôi đang cận kề.”

“This is Najin,” the priest continued. “We are on the outskirts. As soon as you are able, you will have to leave for my own death is near.”

Trong hai ngày, tôi di chuyển cẩn thận xung quanh, cố gắng lấy lại sức mạnh của mình, cố gắng phục hồi mạch sống một lần nữa. Tôi yếu, đói, và gần như đến ngưỡng không quan tâm đến việc mình sẽ sống hay chết nữa. Một vài người bạn cũ của vị tu sĩ đến gặp tôi và đề xuất những điều tôi nên làm, và tôi nên đi như thế nào. Vào buổi sáng thứ ba khi tôi thức dậy, tôi nhìn thấy vị tu sĩ đang nằm lạnh cứng bên cạnh tôi. Trong đêm tối, ông đã từ bỏ sự níu kéo của cuộc sống, và đã ra đi. Với sự giúp đỡ của những người bạn cũ của ông, chúng tôi đào một ngôi mộ và chôn ông. Tôi bọc chỗ thức ăn ít ỏi còn lại vào trong một mảnh vải, và với một cây gậy cứng cáp để chống, tôi lên đường.

For two days I moved carefully around, trying to regain my strength, trying to pick up the threads of life again. I was weak, starved, and almost beyond caring whether I lived or died. A few old friends of the priest came to see me and suggested what I should do, and how I should travel. On the third morning as I awakened, I saw the old priest lying stiff and cold beside me. During the darkness he had relinquished his hold upon life, and had departed. With the help of an old friend of his, we dug a grave and buried him. I wrapped what little food was left in a cloth, and with a stout stick to help me, I departed.

Đi được một dặm hay khoảng đó, tôi đã kiệt sức. Chân tôi run lên và đầu dường như quay tròn, mắt tôi mờ đi. Mất một lúc, tôi nằm bên vệ đường bờ biển, tránh xa khỏi tầm nhìn của người qua đường, vì tôi được cảnh báo rằng đây thực sự là một vùng nguy hiểm đối với những người lạ. Ở đây, tôi được nghe nói, người ta có thể mất mạng nếu vẻ mặt anh ta làm ngứa mắt những tên côn đồ có vũ trang lang thang làm khiếp sợ khắp cả vùng rộng lớn.

A mile or so and I was exhausted. My legs shook and my head seemed to spin, making my vision blurry. For a time I lay by the side of the coast road, keeping out of sight of passers-by, for I had been warned that this was a dangerous district indeed for strangers. Here, I was told, a man could lose his life if his expression did not please the armed thugs who roamed at large terrorizing the district.

Cuối cùng, tôi lại tiếp tục cuộc hành trình của mình và lên đường đến Unggi. Những người cung cấp tin tức của tôi cho tôi hướng dẫn rất rõ ràng về cách vượt qua biên giới vào lãnh thổ Nga. Tình trạng sức khỏe của tôi rất kém, thường xuyên phải nghỉ, và trong một lần như vậy, tôi đang ngồi nghỉ bên vệ đường vẩn vơ nhìn người qua lại tấp nập. Mắt tôi lang thang nhìn từ nhóm này sang nhóm khác đến khi bị thu hút vào năm người lính Nga, được trang bị vũ khí và có ba con chó ngao rất lớn. Vì lý do nào đó, đúng lúc ấy, một trong những người lính tình cờ nhìn tôi. Cùng lúc báo tin cho đồng đội, anh ta thả ba con chó, chúng phóng nhanh về phía tôi theo tốc độ chớp nhoáng, những chiếc răng nanh nhe ra, gầm gừ nhỏ dãi với vẻ phấn khích dữ tợn. Những người lính bắt đầu chạy về phía tôi, những khẩu súng tiểu liên sẵn sàng trong tay. Khi những con chó đến gần, tôi gửi những suy nghĩ thân thiện đến chúng, những con vật không sợ hãi hay ghét tôi. Bất thình lình chúng chồm lên tôi, vẫy đuôi, liếm láp và chảy cả nước dãi lên người tôi, và gần như bóp nghẹt tôi bằng tình bạn thắm thiết, vì tôi đang rất yếu. Một mệnh lệnh sắc gọn, và những con chó rúm lại bên chân những người lính, lúc này đang đứng phía trên tôi. “A!” viên hạ sĩ nói, “Anh hẳn phải là một người Nga thật thà và là một người gốc ở đây, nếu không những con chó sẽ xé rách anh ra thành từng mảnh. Chúng được huấn luyện để làm điều đó. Hãy quan sát và anh sẽ thấy.”

Eventually I resumed my journey and made my way to Unggi. My informants had given me very clear instructions on how to cross the border into Russian territory. My condition was bad, frequent rests were necessary, and on one such occasion I was sitting by the side of the road idly watching the heavy traffic. My eyes wandered from group to group until I was attracted to five Russian soldiers, heavily armed and with three huge mastiffs. For some reason, at the same time, one of the soldiers chanced to look at me. With a word to his companions he unleashed the three dogs which came towards me in a blue of speed, their snarling fangs slavering with fierce excitement. The soldiers started towards me, fingering their sub-machine-guns. As the dogs came, I sent friendly thoughts to them, animals had no fear or dislike of me. Suddenly they were upon me, tails wagging, licking and slobbering over me and nearly killing me with friendship, for I was very weak. A sharp command, and the dogs cowered at the feet of the soldiers, now standing over me. “Ah!” said the corporal in charge, “You must be a good Russian and a native here, otherwise the dogs would have torn you to pieces. They are trained for just that. Watch awhile and you will see.”

Họ bước đi, kéo theo những con chó miễn cưỡng muốn ở lại bên tôi. Một vài phút sau, những con chó bật dậy quyết liệt và lao nhanh tới bụi cây thấp bên vệ đường. Những tiếng thét khủng khiếp bị dập tắt đột ngột bằng tiếng bong bóng sủi bọt. Một tiếng xào xạc phía sau tôi, và khi tôi quay lại, một bàn tay đẫm máu, bị cắn đứt ở cổ tay, đã bị thả dưới chân tôi trong khi con chó đứng đó vẫy đuôi!

They walked away, dragging the reluctant dogs, who wanted to stay with me. A few minutes later the dogs leaped urgently to their feet and dashed off to the under-growth at the side of the road. There were horrible screams suddenly choked off by frothy bubbling. A rustling behind me, and as I turned, a bloody hand, bitten off at the wrist, was dropped at my feet while the dog stood there wagging his tail!

“Đồng chí,” viên hạ sĩ nói, trong khi đi lại phía trên tôi, “anh thực sự phải rất trung thành thì Serge mới như thế. Chúng tôi sẽ đi tới căn cứ tại Kraskino. Anh đang trên đường đi, vậy có muốn một chuyến đi xa cùng với năm xác chết không?”

“Comrade,” said the corporal, strolling over, “you must be loyal indeed for Serge to do that. We are going to our base at Kraskino. You are on the move, do you want a ride that far with five dead bodies?”

“Vâng, thưa đồng chí hạ sĩ, tôi rất biết ơn,” tôi trả lời.

“Yes, Comrade corporal, I should be much obliged,” I replied.

Dẫn đường, với những con chó bước đi bên cạnh tôi đang ngoe nguẩy đuôi, anh ta đưa tôi đến một chiếc xe bán tải có rơ mooc đi kèm. Từ một góc của rơ mooc, một dòng máu nhỏ đang chảy bắn tung tóe trên mặt đất.

Leading the way, with the dogs walking beside me wagging their tails, he took me to a half track vehicle with a trailer attached. From one corner of the trailer a thin stream of blood ran to splash messily on the ground.

Tình cờ liếc nhìn vào đống xác người chất ở đó, anh ta nhìn chăm chú vào một người hấp hối đang vật vã yếu ớt. Kéo khẩu súng lục của mình ra, anh ta bắn vào đầu người đó, sau đó lại cho súng vào bao đựng và bỏ đi về đầu xe không một lần nhìn lại.

Casually glancing in at the bodies piled there, he looked more intently at the feeble struggle of a dying man. Pulling out his revolver he shot him in the head, then re-holstered his gun and walked off to the half track without a backward glance.

Tôi được cho một chỗ ngồi phía sau của chiếc xe bán tải. Những người lính đang ở trong một tâm trạng tốt, tự hào rằng không có một người nước ngoài nào từng vượt qua Biên giới khi họ đang làm nhiệm vụ, nói với tôi rằng trung đội của họ được trao tặng phần thưởng Sao Đỏ vì thành tích tốt. Tôi nói với họ rằng, tôi đang đi tới Vladivostok để thăm thành phố vĩ đại này lần đầu tiên, và hy vọng tôi sẽ không gặp khó khăn vì ngôn ngữ. “À!” viên hạ sĩ cười hô hố. “Chúng tôi có một chiếc xe tải chở hàng sẽ đến đó vào ngày mai, để cho những con chó này nghỉ ngơi, bởi vì mỗi khi tiếp xúc với quá nhiều máu người thì chúng trở nên hung dữ đến nỗi chúng tôi không thể giữ kỷ luật chúng được. Anh biết cách để làm việc với chúng. Hãy chăm sóc chúng cho chúng tôi và chúng tôi sẽ đưa anh đến Vladi vào ngày mai. Anh đã hiểu chúng tôi, nên anh cũng được mọi người ở khắp nơi trong vùng này hiểu – đây không phải là Moscow!”

I was given a seat on the back of the half track. The soldiers were in a good mood, boasting that no foreigner ever crossed the Border when they were on duty, telling me that their platoon held the Red Star award for competency. I told them that I was making my way to Vladivostok to see the great city for the first time, and hoping I would have no difficulty with the language. “Aw!” guffawed the corporal. “We have a supply truck going there tomorrow, taking these dogs for a rest, because with too much human blood they get too savage so that even we cannot handle them. You have a way with them. Look after them for us and we will take you to Vladi tomorrow. You understand us, you will be understood everywhere in this district—this is not Moscow!”

Vì vậy mà tôi, vốn là người ghét Cộng sản, đã trải qua đêm đó như một khách mời của những người lính Biên Phòng Nga. Tôi được mời rượu, gái và những bài hát, nhưng tôi lấy cớ có tuổi và ốm yếu. Với một bữa ăn đơn giản đầy đủ cho tôi, bữa ăn tốt nhất trong một thời gian rất, rất dài, tôi nằm ngủ trên sàn, và thiếp đi với lương tâm thanh thản.

So I, a confirmed hater of Communism, spent that night as a guest of the soldiers of the Russian Frontier Patrol. Wine, women and song were offered me, but I pleaded age and ill-health. With a good plain meal inside me, the best for a long, long time, I went to bed on the floor, and slept with an untroubled conscience.

Vào buổi sáng, chúng tôi lên đường đến Vladivostok, viên hạ sĩ, và một lính thường khác, ba con chó và tôi. Và như vậy, thông qua tình bạn thân thiết với những con vật dữ tợn, tôi đã đến được Vladivostok mà không gặp khó khăn gì, không phải đi bộ, và có thức ăn ngon.

In the morning we set out for Vladivostok, the corporal, one other rank, three dogs and me. And so, through the friendship of fierce animals, I got to Vladivostok without trouble, without walking, and with good food inside me.

Người dịch: Nguyễn Thị Kiều Khanh

Biên tập: VMC