Chương 3
Chapter 3
Nhưng điều gì đã xảy ra với Leonides Manuel Molygruber vậy? Có phải lão đã ra đi như ngọn đèn đột nhiên bị tắt? Hay có phải lão đã kết thúc đời mình như ngọn nến bị gió thổi? Không! Không hề. Molygruper nằm trên giường bệnh của mình, ốm muốn chết, và vô cùng giận dữ với vị linh mục kia. Lão nghĩ ông ta thật chẳng giống một linh mục tí nào khi mặt mỗi lúc một rần đỏ, và từ chỗ nằm của mình lão thấy rõ rằng vị linh mục đã có ý định nhảy bổ tới bóp cổ lão, vậy nên Molygruber đã ngồi bật dậy để tự vệ, trong khi có lẽ lão đã có thể la lên kêu cứu.
But what happened to Leonides Manuel Molygruber? Did he go out like a light which has suddenly been switched off? Did he expire like a blown out match? No! Not at all. Molygruber lying in his hospital bed feeling sick enough to die, was thoroughly upset by that priest. He thought how unpriest-like it was for the man to turn redder and redder in the face, and from his position lying in the bed it was very clear that the priest intended to jump at him and choke him, so Molygruber sat up suddenly in an attempt to protect himself while perhaps he could scream for help.
Lão đã lấy hết sức lực để ngồi bật dậy và hít một hơi sâu nhất có thể trong tình huống đó.
Đột nhiên lão cảm thấy đau xé khắp ngực. Tim lão đập liên hồi như động cơ của chiếc ô tô đang ở số “Mo” mà chân ga thì đạp xuống sát sàn vậy. Tim lão đập liên hồi, rồi ngừng lại.
He sat up suddenly with a supreme effort and drew the biggest breath that he could under the circumstances.
Immediately he felt a terrible rasping, wracking pain across his chest. His heart raced like the engine of a car, the gas pedal of which has been pushed hard to the floor while the car was standing in neutral. His heart raced and stopped.
Ông lão bỗng phát hoảng. Cái gì đã xảy ra với lão vậy? Kết cục sẽ ra sao? Lão nghĩ giờ đây mình sắp kết thúc cuộc đời giống như ngọn nến mà lão thường thổi tắt khi ở nhà lúc còn nhỏ, là ngôi nhà duy nhất mà lão biết khi là một đứa trẻ mồ côi. Cơn hoảng loạn thật khủng khiếp; lão cảm thấy như mọi dây thần kinh của mình đều đang bốc cháy, như thể có ai đó đang cố lột xác lão ra, theo cách một con thỏ bị người ta lột da để chuẩn bị cho vào nồi nấu, nếu một con thỏ chết có thể cảm nhận được thì nó hẳn đã cảm thấy như lão bây giờ.
The old man felt instant panic. What was to happen to him? What was the end? Now, he thought, I am going to be snuffed out like the candle I used to snuff out as a boy at home, in the only home he had known as an orphan. The panic was terrible; he felt every nerve was on fire, he felt as if someone was trying to turn him inside out just like he imagined a rabbit must feel if a dead rabbit could feel when its skin is being pulled off preparatory to putting the rabbit’s body in a pot for cooking.
Đột nhiên có một trận động đất dữ dội chưa từng có, hoặc ít ra lão nghĩ như thế, rồi lão Molygruber thấy mọi thứ quay cuồng. Thế giới dường như được cấu thành bởi những chấm bụi mù, như cơn cuồng phong cứ xoáy tròn. Rồi cứ như thể có ai đó túm lấy lão, nhét lão vào máy vắt hay máy xay xúc xích. Lão cảm thấy khủng khiếp không nói nên lời.
Suddenly there was the most violent earthquake, or such is what he thought it was, and old Molygruber found everything swirling. The world seemed to be composed of dots like blinding dust, like a cyclone whirling around and round. Then it felt as if someone had grabbed him and put him through a wringer or through a sausage machine. He felt just too terrible for words.
Mọi thứ trở nên tối tăm. Các bức tường của căn phòng, hay là một “cái gì đó”, dường như đang vây lấy lão. Lão cảm thấy như thể mình bị kẹt vào một ống cao su nhầy nhụa và đang cố vùng vẫy để thoát ra ngoài.
Everything grew dark. The walls of the room, or ‘something’, seemed to close in around him. He felt as if he were enclosed in a clammy slimy rubber tube and he was trying to wriggle his way out to safety.
Mọi thứ trở nên tối hơn, đen hơn. Lão cứ như đang ở trong một cái ống dài dằng dặc và toàn một màu đen. Nhưng rồi ở tít đằng xa, chỗ chắc hẳn là cuối đường ống, lão nhìn thấy có ánh sáng, hay có phải là ánh sáng không nhỉ? Nó là thứ gì đó có màu đỏ, thứ gì đó chuyển sang màu cam sáng như chiếc áo phao phản quang mà lão mặc khi quét đường. Lão điên cuồng giành lấy từng inch một trong đường ống, chật vật tiến lên phía trên đường ống. Lão dừng lại một chút để thở, và nhận ra rằng mình đang không thở. Lão cố gắng lắng tai nghe, và lão không thể nghe thấy tiếng tim mình đập, mà lại có một tiếng động kỳ lạ từ bên ngoài như tiếng ào ào của một cơn gió mạnh. Rồi trong lúc không muốn di chuyển nữa, thì lão dường như lại bị đẩy lên phía trên, và dần dần lão tới cuối đường ống. Lão bị mắc kẹt ở đó một lát, bị giữ lại ở đầu ống, rồi có một tiếng ‘bốp’ thật mạnh, và lão bị thổi bật ra khỏi đường ống giống như hạt đậu được thổi ra khỏi ống phốc vậy. Lão lăn tròn hết vòng này đến vòng khác, và chẳng có gì cả, không có ánh sáng đỏ, cũng chẳng có ánh sáng cam. Thậm chí cả bóng tối cũng không. Không MỘT THỨ GÌ cả.
Everything grew darker, blacker. He seemed to be in a long, long tube, a tube of utter blackness. But then far away in the distance in what undoubtedly was the end of the tube he saw a light, or was it a light? It was something red, something changing to bright orange like the fluorescent lifejacket he wore when street cleaning. Frantically, fighting every inch of the way, he struggled along forcing his way up the tube. He stopped for a moment to draw breath and found that he was not breathing. He listened and listened, then he couldn’t hear his heart beating but there was a queer noise going on outside like the rushing of a mighty wind. Then while he remained without movement of his own volition, he seemed to be pushed up the tube and gradually he reached the top. For a time he was just stuck there, held in the end of the tube, and then there was a violent ‘pop’ and he was flung out of the tube like a pea out of a pea-shooter. He spun around sideways and end over end, and there was nothing, no red light, no orange light either. There was not even any blackness. There was NOTHING!
Lão cảm thấy hoảng sợ tột độ và thấy mình đang ở trong một tình huống thật dị thường, lão vươn tay ra, nhưng chẳng có gì cử động cả. Cứ như thể lão không có tay vậy. Cơn hoảng loạn thêm một lần nữa lại ập đến, lão cố đá chân, quẫy đạp thật mạnh đôi chân của mình, cố gắng để chạm được vào một thứ gì đó. Nhưng lại chẳng có gì cả, không một thứ gì cả. Lão không cảm nhận được cái chân nào của mình. Lão cố hết sức mình để lấy tay sờ vào bất cứ phần nào của thân thể, nhưng đến lúc ấy lão có thể nói rằng lão không có bàn tay, không có cánh tay, và lão không thể cảm nhận được thân thể của mình. Lão chỉ ‘hiện hữu’, và chỉ vậy thôi. Thoáng một điều gì đó mà lão đã nghe đến từ lâu chợt ùa về tâm thức. Đó là điều gì đó ám chỉ một linh hồn đã thoát xác, một bóng ma không hình hài, vô hình, nhưng bằng cách nào đó và ở nơi nào đó, vẫn đang tồn tại. Lão dường như quẫy đạp dữ dội, nhưng đồng thời cũng lại như đang hoàn toàn bất động. Lão cảm thấy có một áp lực lạ thường, rồi đột nhiên cảm thấy mình đang ở trong thùng hắc ín, một thứ hắc ín nóng.
Thoroughly frightened and feeling in a most peculiar condition he reached out with his arms, but nothing moved. It was just as if he had no arms. Panic set in once again, so he tried to kick out, kick out hard with his legs, trying to touch something. But again there was nothing, nothing at all. He could not feel any legs. He made a supreme effort to have his hands touch a part of his body but so far as he could tell he hadn’t any hands, he hadn’t any arms, and he couldn’t sense his body. He just ‘was’ and that is all. A fragment of something he had heard long before came back into his consciousness. It was something referring to a disembodied spirit, a ghost without form, without shape, without being, but existing somehow, somewhere. He seemed to be in violent motion, but at the same time he seemed not to be moving at all. He felt strange pressures, then of a sudden he felt that he was in tar, hot tar.
Ngày xưa, xưa đến nỗi gần biến mất khỏi ký ức của lão, lúc lão còn là một cậu bé lẩn quẩn chơi gần nơi mấy người đàn ông đang rải nhựa đường. Một người trong đó có lẽ do mắt kém, hoặc cũng có lẽ có ý tinh nghịch, đã lật nghiêng chiếc xe bên trên chở thùng hắc ín đang mở nắp khiến nó đổ xuống khắp người cậu bé. Cậu ta đã bị mắc trong đó, hầu như không thể cử động được, và đó chính xác là cảm giác của lão bây giờ. Lão thấy nóng, rồi lại thấy lạnh vì sợ hãi, rồi lại thấy nóng, và lúc nào lão cũng đều có cảm giác là cử động nhưng lại không hề cử động chút nào bởi vì lão vẫn bất động, sự bất động mà lão nghĩ là của cái chết.
Long ago, almost beyond the edge of his memory, he had as a small boy been hanging around while some men had been tarring a road. One of the men, perhaps not having very good sight or perhaps in a spirit of mischief, had tipped a barrow of tar from the open top of the barrel and it had fallen all over the small boy. He had been stuck, hardly able to move, and that was how it felt to him now. He felt hot, then he felt cold with fright, then he felt hot again, and all the time there was the sense of motion which wasn’t motion at all because he was still, he was still with he thought the stillness of death.
Thời gian vẫn trôi, hay là không nhỉ? Lão không biết nữa, tất cả những gì lão biết là lão đang ở giữa chốn hư vô. Không có gì xung quanh cả, không có gì của thân thể lão cả, không tay, không chân, và lão cho rằng mình phải có một thân thể chứ, nếu không làm sao có thể tồn tại được? Nhưng mà không có tay thì lão không thể cảm nhận được thân thể mình. Lão căng mắt nhìn, nhìn đi nhìn lại nhưng không thấy gì cả. Không có cả bóng tối, đó hoàn toàn không phải là bóng tối, đó là hư không. Một thoáng suy nghĩ lại chợt hiện ra trong tâm trí lão, theo cách nào đó, liên quan đến những hốc sâu thẳm nhất trong biển không gian, nơi không có gì cả. Lão vu vơ tự hỏi rằng ý nghĩ đó của lão đến từ đâu, nhưng không có ý tưởng nào về nó đến với lão nữa.
Time went on, or did it? He did not know, all he knew was that he was there in the centre of nothingness. There was nothing around him, there was nothing to his body, no arms, no legs, and he supposed he must have a body otherwise how could he exist at all? But without hands he could not feel the body. He strained his eyes, peering, peering, peering, but there was nothing to see. It was not even dark, it was not darkness at all, it was nothingness. Again a fragment of thought came into his mind referring in some way to the deepest recesses of the seas of space where nothing is. He idly wondered where he had got that from, but no more thoughts on it came to him.
Lão tồn tại một mình giữa hư vô. Không có gì để thấy, không có gì để nghe, không có gì để ngửi, không có gì để chạm vào, mà thậm chí nếu có thứ gì đó để sờ vào thì cũng chẳng ích gì bởi vì lão biết sờ nó bằng cái gì đây.
Thời gian vẫn trôi, hay là không nhỉ? Lão không biết mình đã ở đó bao lâu. Thời gian chẳng có ý nghĩa gì cả. Chẳng có thứ gì có ý nghĩa nữa. Lão chỉ “ở đó” thôi, dù “ở đó” là đâu đi chăng nữa. Lão như một hạt bụi lơ lửng giữa hư không giống như một con ruồi bị mắc vào mạng nhện, mà lại không phải như vậy vì con ruồi còn có mạng nhện giữ nó lại. Ông già Molygruber thì bị kẹt giữa hư không, khiến chính lão cũng trở thành hư vô. Tâm trí lão, hay bất cứ thứ gì đang ở trong đầu lão, đang quay cuồng. Lão hẳn đã cảm thấy lả đi, lão nghĩ vậy, nhưng không có cái gì ở đó để lão cảm nhận sự kiệt sức cả.
He existed alone in nothingness. There was nothing to see, nothing to hear, nothing to smell, nothing to touch, and even had there been something to touch it would not have helped him because he had nothing with which to touch.
Time wore on, or did it? He had no idea how long he stayed there. Time had no meaning. Nothing had meaning any more. He was just ‘there’, wherever ‘there’ was. He seemed to be a mote suspended in nothingness like a fly caught on a spider’s web, but yet not like a fly for a fly is held by the spider’s web. Old Molygruber was caught on nothingness which reduced him to a state of nothingness. His mind, or whatever was in place of a mind, reeled. He would have felt faint, he thought, but there was nothing there with which to feel faint.
Lão chỉ ‘là’ một thứ gì đó, hoặc thậm chí cũng có thể chỉ là hư không được bao bọc bởi hư không. Tâm trí lão, hay ý thức của lão, hay bất cứ thứ gì đi nữa giờ còn tồn tại với lão, đều đang vận hành, gắng dựng nên những suy nghĩ, gắng hình thành một thứ gì đó thay cho cái hư vô khủng khiếp đang hiện diện ở đây. Một suy nghĩ chợt đến với lão: ‘ta chẳng là gì khác ngoài cái hư vô giữa chốn hư không’.
He just ‘was’ a something or possibly even a nothing surrounded by nothingness. His mind, or his consciousness, or whatever it was that now remained to him, ticked over, tried to formulate thoughts, tried to originate something in place of the awful nothingness which was there. He had the thought coming to him, ‘I am nothing but a nothing existing in nothingness.’
Một ý nghĩ bất chợt lóe lên trong lão như que diêm tỏa sáng trong một đêm không trăng; cách đây ít lâu lão được thuê làm thêm một ít việc, một ông nọ muốn lão dọn dẹp ga-ra của ông ta. Ông già Molygruber đã đến đó, lão kiếm quanh và tìm được một cái xe đẩy và một ít dụng cụ làm vườn, rồi lão mở cửa ga-ra vì ông kia đã giao chìa khóa cho lão trước đó một ngày. Lão mở cửa ga-ra và bên trong là một đống rác kỳ quái mà ông già Molygruber chưa từng thấy bao giờ: một chiếc sô-fa gãy bung lò xo, một chiếc ghế đã gãy hai chân và những con bướm đêm dập dờn bay ra từ chiếc vỏ bọc. Treo trên tường là khung và bánh trước của một chiếc xe đạp. Chất đống đây đó là vô số lốp xe, gồm lốp đi trên tuyết và lốp xe hỏng. Rồi thì có mấy dụng cụ hoen gỉ và vô dụng. Có những thứ bỏ đi mà chỉ những người tằn tiện lắm mới có thể tích lại: một cái đèn dầu nứt bóng, và một tấm mành kiểu Venice, rồi ở góc xa, một trong những kiểu hình nộm nhồi bông trên giá gỗ mà phụ nữ thường dùng để may váy. Lão lôi hết các thứ đó ra và kéo đến đổ ở một chỗ đất hoang, chất đống để sẵn sàng cho xe gom rác ngày hôm sau. Rồi lão quay trở lại ga-ra.
A sudden thought occurred to him like a match shining in a moonless night; some time ago he had been asked to do a little extra job for pay, a man had wanted his garage cleaned out. Old Molygruber had gone there, fished around and found a wheelbarrow and a few garden tools, and then he opened the garage door as the man had given him the key the day before. He opened the garage door and inside there was the weirdest conglomeration of rubbish old Molygruber had ever seen a broken sofa with the springs coming out, a chair with two legs broken and moths fluttering out of the upholstery. Hung on a wall was the frame and front wheel of a bicycle. Stacked around were a number of tires, snow tires and worn out tires. Then there were tools rusted out and useless. There was garbage which only very thrifty people can ever accumulate a kerosene lamp with a cracked shade, and a Venetian blind, and then in the far corner one of those stuffed forms on a wooden stand which women used to use for making dresses. He pulled it all out and carted it down to a bit of waste land, and piled it ready for a garbage collection the next day. Then he went back to the garage.
Một cái bồn tắm nằm ngay sát bên dưới cái bàn nhà bếp gãy nát khiến lão tò mò, vì thế lão tóm lấy nó kéo ra nhưng không thể xê dịch nó được. Rồi lão quyết định kéo cái bàn bên trên xuống trước; lão kéo nó và cái ngăn kéo giữa bị rơi ra. Trong đó có vài đồng xu. Chà, ông già Molygruber nghĩ, vứt mấy đồng này đi cũng tiếc, chúng có thể mua được một hai cái bánh kẹp, thế là lão bỏ chúng cẩn thận vào trong túi. Sâu hơn trong ngăn kéo một chút lão thấy một phong bì chứa đủ loại những tờ tiền giấy của các nước khác nhau. Ừ, lão nghĩ, mình có thể kiếm thêm một chút nhờ những tờ tiền này, một tay đổi tiền sẽ lo việc này cho mình sớm thôi. Nhưng quay trở lại cái bồn tắm. Lão nhấc cái bàn lên rồi đẩy nó ra phía ngoài cửa ga-ra, lão thấy cả một tấm vải bạt mục nát ở trên cùng của bồn tắm, rồi đến lượt một cái ghế gãy lòi ra. Lão lôi hết chúng ra, ném hết ra ngoài cửa, và sau đó lão có thể kéo cái bồn tắm ra giữa ga-ra.
An old bath fixed in tightly beneath a tattered kitchen table lit his curiosity so he pulled at it but could not move it. Then he decided he would pull the table off the top first; he pulled and the centre drawer fell out. It contained a few coins. Well, old Molygruber thought, it’s a pity to throw them away, they could buy a hot dog or two, so he put them away in his pocket for safekeeping. A bit further back in the drawer he found an envelope with some assorted paper money of different countries. Yes, he thought, I can raise a bit on these, a money changer will soon deal with that for me. But back again to the bath. He lifted off the table and pushed it outside the garage doors, then he found a whole load of rotten awnings on top of the bath, and then a broken deck chair came to life. He pulled them all out, threw them all out of the door, and then he could pull the bath into the centre of the garage.
Cái bồn tắm tráng kẽm cũ kỹ đó chứa vô số sách, vài cuốn trong đó cũng kỳ quái nữa. Nhưng lão Molygruber cứ bới hết lên cho tới khi lão lấy được hết các cuốn sách ra và chất đống trên sàn nhà. Rồi lão tìm thấy vài cuốn sách bìa mềm gây kích thích trí tò mò của lão: Rampa, là sách của Rampa. Lão lật vu vơ một hai trang. ‘À’, lão tự nhủ, ‘gã này chắc hẳn là loại người chẳng ra gì, hắn tin rằng sự sống sẽ tiếp tục mãi đây. Hừm!’. Lão vứt mấy cuốn sách lên đống sách và moi ra thêm vài cuốn khác. Gã Rampa này dường như đã viết khá là nhiều sách. Molygruber đếm chúng và kinh ngạc với số sách đến nỗi lão bắt đầu đếm lại. Vài cuốn đã hỏng vì rõ ràng đã có một lọ mực bị đổ và chảy lên chúng. Có một cuốn có bìa bọc da rất đẹp. Molygrubber thở dài và nhặt nó lên. Mực đã thấm vào bên trong tấm bìa và làm hỏng lớp da. Tiếc quá, lão nghĩ, mình đã có thể kiếm thêm vài đồng từ cuốn sách này chỉ bởi giá trị của cái bìa này thôi đấy. Nhưng tiếc những điều đã qua thì chẳng ích gì nên lão quẳng luôn cuốn sách này cùng với những cuốn khác.
That old galvanized bath contained loads of books, weird books some of them were too. But Molygruber dug down until he got all the books out and piled on the floor. Then he found some paperbacks which excited something in his mind Rampa, books by Rampa. Idly he flicked over a page or two. ‘Ah,’ he said to himself, ‘this fellow must be a load of dromedary’s droppings, he believes that life goes on and on forever. Pah!’ He dropped the books on the pile and then fished out some more books. This fellow Rampa seemed to have written an awful lot of books. Molygruber counted them and was so astonished at the number that he started all over again and recounted. Some of the books had been ruined because obviously a bottle of ink had upset and trickled over a lot of books. There was one book with a beautiful leather binding. Molygruber sighed as he picked it up, ink had soaked right into the binding, marring the leather. What a pity, he thought, he could have got a few bucks for that book just on the worth of the binding alone. But no point in crying over spilt milk the book was tossed out to join the others.
Ngay dưới đáy bồn tắm là một cuốn sách khác, nằm uy nghi một mình, không bị bẩn, không bị bụi, không bị vấy sơn và mực vì nó nằm trong một cái túi nhựa dày. Molygruber cúi xuống nhặt cái túi lên, lôi cuốn sách ra khỏi cái túi nhựa. ‘Bạn là mãi mãi’ lão đọc. Lão lật các trang sách, thấy có vài bức hình minh họa ở bên trong.
Tự nhiên có một sự thôi thúc khiến lão bỏ tọt cuốn sách vào túi áo trong trước khi tiếp tục công việc của mình.
Right at the bottom of the bath there was another book resting in solitary splendour, saved from dirt, saved from dust, saved from paint and ink by being in a thick plastic wallet. Molygruber bent down and picked it up, pulling it out of the plastic wallet. ‘You-Forever’ he read. He flipped over the pages, saw there were some illustrations inside.
On some sudden impulse be slipped the book into an inside pocket before going on with his work.
Giờ đây khi ở trong trạng thái dị thường của hư không, lão nhớ lại vài điều trong cuốn sách. Tối hôm đó khi về đến nhà lão đã uống một lon bia cùng với miếng phô-mai to mà lão mua ở siêu thị. Rồi thì lão ngồi gác chân và đọc chỗ này chỗ kia của cuốn ‘Bạn là mãi mãi’. Vài điều trong đó dường như quá quái dị với lão, đến nỗi cuối cùng lão đã vứt cuốn sách vào góc phòng. Vậy mà, giờ đây lão cảm thấy tiếc nuối vô cùng vì đã không đọc nhiều hơn, bởi vì lão nghĩ rằng nếu đọc nhiều hơn thì lão đã có chìa khóa cho tình huống tiến thoái lưỡng nan của mình bây giờ.
Now in his peculiar state of being in nothingness he recalled some of the things in the book. When he had got home that night he had had a can of beer and a big lump of cheese which he had bought from the supermarket. Then he had put his feet up and read here and there from the book ‘You-Forever.’ Some of the things seemed so fantastic to him that eventually he had just flung it away into a corner of the room. Now, though, he bitterly regretted not reading more because he thought that had he done so he would have had a key to his present dilemma.
Suy nghĩ của lão cứ xoay tròn như hạt bụi trong cơn gió lang thang. Cuốn sách đã nói những gì nhỉ? Ý tác giả là gì khi viết điều này điều nọ trong đó nhỉ? Hãy nghĩ xem điều gì đã xảy ra? Molygruber chua chát nhớ lại mình đã luôn phản đối ý tưởng về sự sống sau cái chết như thế nào.
Round and round his thoughts swirled like dust motes in a vagrant breeze. What had the book said? What did the author mean when he wrote this or when he wrote that? Wonder what had happened? Molygruber recalled sourly how he had always opposed the thought of life after death.
Một trong những cuốn sách của Rampa, hay đó là một lá thư mà lão đã nhặt trong thùng rác, đột nhiên lại hiện ra trong tâm trí lão. ‘Một thứ không thể nào tồn tại trừ khi bạn tin vào nó’. Và một câu khác: ‘Nếu một người ngoài hành tinh đến Trái Đất, và nếu người đó hoàn toàn lạ lẫm với con người, thì thậm chí có thể họ sẽ không thể nhìn thấy người đó bởi vì tâm trí của họ không thể nào tin hay chấp nhận thứ gì đó nằm ngoài tầm hiểu biết của riêng họ”.
One of the Rampa books, or was it a letter which he picked up in the garbage, suddenly came to his mind. ‘Unless you believe in a thing it cannot exist.’ And another, ‘If a man from another planet came to this Earth, and if that man was so utterly strange to humans, it is even possible they would not be able to see him because their minds would not be able to believe or accept something which was so far out from their own points of reference.’
Molygruber nghĩ đi nghĩ lại, và rồi lão tự nhủ thầm: ‘Chà, mình chết rồi, nhưng mình vẫn đang ở đâu đó, bởi vậy mình phải tồn tại và vì thế phải có gì đó trong cuộc sống này sau khi chết. Ước gì mình biết nó là gì’. Khi lão nghĩ đến đó, sự nhầy nhụa hay nhớp nháp hay cái hư không này mang lại cảm giác kỳ quái quá đỗi, đến nỗi lão không thể nào nghĩ được chúng là cái gì, nhưng khi lão nghĩ đến khả năng lão có thể đã sai khi lão chắc chắn rằng có cái gì đó đang ở gần mình, cái gì đó mà không thể nhìn thấy, không thể chạm vào được. Nhưng như thế, lão tự vấn, có phải là vì giờ đây lão đã có thể chấp nhận rằng có sự sống sau cái chết không?
Molygruber thought and thought, and then he thought to himself, ‘Well, I’m dead, but I’m somewhere, therefore I must exist so there must be something in this life after death business. I wish I knew what it was.’ As he thought that the stickiness or the tarriness or the nothingness the sensations were so peculiar that he could not even think what they could be, but as he thought of the possibility that he might have been wrong then he was sure that there was something near him, something that he could not see, something that he could not touch. But, he wondered, is it because he could now possibly accept that there was life after death?
Và lão cũng đã nghe được vài điều kỳ lạ, mấy thằng cha ở khu tập kết bữa nọ đã nói về một gã nào đó trong bệnh viện Toronto: Gã này coi như đã chết và thoát ra khỏi thân xác. Molygruber không thể nhớ chính xác câu chuyện là như thế nào, nhưng dường như đối với lão, với tất cả những gì lão có thể nhớ, là gã đó bị bệnh rất nặng và đã chết, rồi thoát khỏi thân xác của mình và đã thấy một số điều đáng kinh ngạc ở một thế giới khác. Nhưng rồi các bác sĩ đã làm hồi sinh cơ thể đã chết hoặc đang chết của gã – điều khiến gã giận dữ – và gã đã sống lại và kể với nhà báo về tất cả việc này. Molygruber đột nhiên thấy phấn chấn, lão gần như có thể nhìn thấy các dạng tồn tại của mình.
Then again he had heard some strange things, the fellows up at the depot had been talking one day about some guy in a Toronto hospital: The guy was supposed to have died and got out of his body. Molygruber could not recollect exactly what it was, but it seemed to him, as far as he could remember, that a man had been very ill and had died, and had got out of his body and seen some astonishing things in another world. Then, to his rage, doctors had revived his dying or dead body and he had come back and told some newspaper reporter all about it. Molygruber suddenly felt elated, he could almost see forms about him.
Bất giác, lão Molygurber tội nghiệp ngồi bật dậy với tay tắt cái đồng hồ báo thức chết tiệt đó. Tiếng chuông kêu chát chúa như nó chưa từng bao giờ vang lên trước đó, nhưng rồi lão nhớ ra mình có ngủ đâu; lão nhớ ra rằng mình đã không thể cảm nhận được tay hay chân gì cả, vì lẽ đó, và vì xung quanh lão là hư vô, không có gì cả ngoại trừ tiếng réo vang vọng dai dẳng có lẽ là tiếng chuông nhưng không phải. Lão không biết đó là gì nữa. Trong lúc đang nghĩ ngợi về vấn về này thì lão thấy mình đang chuyển động, chuyển động với một tốc độ kinh khủng, một tốc độ không thể tin được, và rồi đó lại không hề là tốc độ. Lão không học đủ nhiều để hiểu được các chiều không gian khác nhau, chiều không gian thứ ba, thứ tư, và nhiều nữa, nhưng những gì đang diễn ra là lão đang di chuyển theo các định luật thần bí cổ đại. Vậy là lão đang chuyển động. Chúng ta sẽ gọi đây là chuyển động bởi vì rất khó để diễn đạt các thứ thuộc về chiều không gian thứ tư bằng khái niệm của không gian ba chiều, vậy nên hãy cứ gọi là ‘lão đang di chuyển’.
Suddenly poor Molygruber sat up violently and reached out his hand to stop that confounded alarm clock. The bell was clanging as it had never clanged before but then he remembered he was not asleep; he remembered that he could not feel his arms or his hands or his legs either, for that matter, and all about him was nothingness, nothing at all except the insistent reverberating clanging which might have been a bell but wasn’t. He didn’t know what it was. While he was still pondering the problem he felt himself move, move at terrific speed, incredible speed, but then again it wasn’t speed at all. He was not educated enough to know about different dimensions, third dimension, fourth dimension and so on, but what was happening was that he was being moved in accordance with ancient occult laws. So he moved. We will call it moved because really it is very difficult to portray fourth dimensional things in three dimensional terms of reference, so let us say ‘he moved.’
Molygruber cảm thấy dường như lão di chuyển mỗi lúc một nhanh hơn, và rồi có ‘cái gì đó’, và lão nhìn quanh mình và thấy những hình bóng mờ nhạt, lão nhìn thấy những thứ như thể đang nhìn qua một tấm kính mờ. Cách đây ít lâu đã có nhật thực diễn ra, và một trong những đồng nghiệp của lão đã trao cho lão một mảnh kính mờ và bảo: ‘Hãy nhìn qua cái này, Moly, rồi ông sẽ thấy được cái gì đang diễn ra xung quanh mặt trời, nhưng đừng làm rơi nó nhé’. Trong khi lão nhìn, sự mờ ảo dần dần biến mất trên kính, và lão nhìn vào bên trong một căn phòng lạ lẫm, lão nhìn với sự kinh hãi và cơn hoảng sợ mỗi lúc một tăng.
Molygruber sped along faster and faster it seemed to him, and then there was ‘something’ and he looked about him and saw shadowy forms, he saw things as though through smoked glass. A little time before there had been an eclipse of the sun and one of his fellow workers had handed him a piece of smoked glass and said, ‘Look through that, Moly, and you’ll see what’s happening around the sun, but don’t drop it.’ As he looked the smoke gradually disappeared from the glass and he looked down into a strange room, looked with horror and increasing fright.
Trước mắt lão là một căn phòng lớn có nhiều cái bàn, chúng trông như những cái bàn trong bệnh viện với đủ kiểu điều chỉnh xung quanh, và mỗi cái bàn đều có một xác chết, xác chết trần truồng, cả nam và nữ, và tất cả đều có một màu xanh nhợt nhạt của cái chết. Lão nhìn và mỗi lúc một thêm buồn nôn, những việc khủng khiếp đang diễn ra với mấy xác chết kia, những ống dây được cắm vào nhiều chỗ khác nhau và có tiếng ùng ục ghê rợn của chất lỏng. Cũng có tiếng rầm rầm bình bịch của máy bơm. Lão vô cùng tò mò lại nhìn gần hơn, và thấy rằng vài xác chết đang được hút máu ra, vài xác chết khác đang được bơm một loại chất lỏng nào đấy vào, và chất lỏng này khi đi vào trong cơ thể đã làm xác chết chuyển từ màu xanh nhợt ghê rợn sang một màu hồng hào quá mức.
Before him was a large room which had many different tables, they seemed to be like hospital tables with all sorts of adjustments to them, and each table was occupied by a corpse, a naked corpse, male and female, all with the bluish tinge of death. He looked and felt sicker and sicker, horrible things were happening to those corpses, tubes were being stuck in at various points and there was the ugly gurgle of fluid. There was also the rattle and chug of pumps. He looked more closely in terrified fascination and saw that some of the bodies were having blood pumped out, others were having some sort of fluid pumped in, and as the fluid went in the body turned from its horrid bluish tinge and became exaggeratedly healthy in colour.
Molygruber tiếp tục di chuyển. Lão băng ngang qua một căn buồng phụ hay một căn phòng nhỏ, trong đó có một phụ nữ trẻ đang ngồi bên cạnh một cái bàn đang trang điểm cho một xác chết nữ. Molygruber hoàn toàn bị cuốn hút. Lão thấy người ta uốn tóc như thế nào, vẽ lông mày ra sao, đánh má hồng thế nào, và đôi môi thì được tô một màu đỏ chót.
Remorselessly Molygruber was moved on. He passed an annex or cubicle in which a young woman was sitting beside one of the tables making up the face of the female corpse. Molygruber was quite fascinated. He saw how the hair was waved, the eyebrows pencilled, and the cheeks rouged, and then the lips were given a rather too vivid red.
Lão tiếp tục di chuyển và rùng mình khi thấy một xác chết khác, rõ ràng là mới được đưa vào. Trên đôi mắt đang nhắm nghiền kia là mấy miếng kim loại hình nón đặc biệt mà lão ngờ ngợ, nhưng đúng là dùng để khép các mí mắt xuống. Rồi lão nhìn thấy một cây kim trông ghê rợn được đâm xuyên từ hàm dưới lên hàm trên. Lão thấy thực sự choáng váng khi người đàn ông đang xử lý đột nhiên thọc mạnh một dụng cụ vào lỗ mũi trái của xác chết và nắm lấy đầu kim đâm thẳng qua vách ngăn, sau đó kéo chặt sợi chỉ lại để giữ cho hai hàm ngậm vào nhau và giữ cho miệng khép lại. Lão thấy rõ là buồn nôn, và nếu lão có thể phát ốm thì lão chắc hẳn đã ốm rất nặng.
He moved on and shuddered as he saw another body which apparently had just come in. On the eyes which were closed there were peculiar cone-shaped metal pieces which he surmised correctly were to hold the eyelids down. And then he saw a vicious-looking needle being pushed through the bottom gum and up through the top gum. He felt decidedly sick as the man who was doing the work suddenly thrust an instrument into the corpse’s left nostril and seized the point of the needle jabbing it straight through the septum, after which the thread was pulled tight to hold the jaws together and to keep the mouth shut. He felt definitely queasy, and if he could have he would have been thoroughly sick.
Lão tiếp tục di chuyển và rồi giật nảy mình khi thấy một xác chết mà khó khăn lắm lão mới nhận ra là của chính mình. Lão thấy xác mình nằm trần truồng trên một chiếc bàn, gầy còm, hốc hác, và rõ ràng trong tình trạng rất tội nghiệp. Lão nhìn với vẻ chẳng hài lòng chút nào vào đôi chân vòng kiềng và các đốt ngón tay gân guốc của mình. Gần chỗ lão là một cái hòm hay một cái quan tài, hoặc chính xác hơn chỉ là một cái vỏ hộp.
He moved on and then with great shock he saw a body which, with difficulty, he recognized as his own. He saw the body lying there naked on a table, scrawny, emaciated, and definitely in poor condition. He looked with disapproval at his bowed legs and knobbly knuckles. Near him was a coffin or casket, or, more accurately, just a shell.
Có một lực đẩy lão đi, và lão đi qua một đoạn hành lang ngắn và vào một căn phòng. Lão cứ di chuyển mà không cần dùng đến bất cứ lực nào của chính mình. Lão dừng lại khi vào bên trong phòng. Lão nhận ra bốn người đồng nghiệp của mình. Họ đang ngồi nói chuyện với một thanh niên ăn mặc chải chuốt, người mà trong đầu luôn có ý nghĩ mình sẽ kiếm được bao nhiêu tiền trong vụ này.
The force moved him on, and he went through a short corridor and moved into the room. He was moving without any volition of his own. In the room he was stopped. He recognized four of his fellow workers. They were sitting down talking to a well-dressed smooth young man who had in his mind thoughts all the time of how much money he could get out of this.
‘Molygruber làm việc cho Thành phố’, một đồng nghiệp của lão nói, ‘ông ấy không có nhiều tiền; ông ấy có một chiếc ô tô nhưng nó chẳng đáng giá hơn một trăm đô la. Nó là một chiếc xe già nua cũ nát nhưng tôi nghĩ nó cũng đã phục vụ ông ấy đủ tốt rồi, nhưng đó là tất cả những gì ông ấy có. Chiếc xe đó bán được khoảng một trăm đô la, và ông ấy cũng có một chiếc tivi đen trắng đời cổ lai hi, giờ nó có thể bán được hai ba chục đô. Ngoài những thứ đó ra, những vật dụng khác của ông ta tôi không nghĩ chúng có thể bán được nổi mười đô, như vậy thì khó có thể chi trả nổi cho một đám táng, phải vậy không?’.
‘Molygruber was working for the City,’ said one of his former colleagues, ‘he doesn’t have much money; he has a car but that isn’t worth more than a hundred dollars. It’s a beat up old clunker, I suppose it served him well enough, but that’s all he’s got. That car which would fetch about a hundred dollars, and he’s got a very ancient black and white TV, now that might fetch from twenty to thirty dollars. Apart from that all his other effects well, I don’t suppose they’d fetch ten dollars which doesn’t leave much room for paying for a funeral, does it?’
Người thanh niên ăn mặc chải chuốt bĩu môi rồi vuốt mặt, và rồi anh ta bảo: ‘Chà, tôi tưởng các anh sẽ kêu gọi quyên góp cho đồng nghiệp của mình, người đã chết trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế chứ. Chúng ta biết rằng ông ấy đã cứu mạng một đứa trẻ đuối nước, và đã vì thế mà qua đời. Chắc chắn sẽ có ai đó, thậm chí là Thành phố, sẽ chi trả cho một đám tang đàng hoàng chứ?’. Mấy người đồng nghiệp của lão nhìn nhau, lắc đầu, vân vê mấy đầu ngón tay, rồi một người nói: ‘Chà, tôi chẳng biết nữa, Thành phố không muốn chi trả cho đám tang của ông ấy và sẽ tạo ra một tiền lệ. Chúng tôi nghe nói rằng nếu Thành phố chi trả cho bất cứ thứ gì thì người này người nọ trong chính quyền sẽ la toáng lên với đủ thứ than phiền. Không, tôi không nghĩ là Thành phố sẽ giúp được chút nào đâu’.
The smooth well-dressed young man pursed his lips and stroked his face, and then he said, ‘Well, I should have thought you would raise a collection for one of your colleagues who died under such peculiar circumstances. We know that he saved a child from drowning, and for that he gave his life. Surely someone, even the City, would pay for a proper funeral?’ His colleagues looked at each other, shook their heads and fiddled with their fingers, and then one said, ‘Well, I dunno, the City doesn’t want to pay for his funeral and set a precedent. We’ve been told that if anything is paid by the City this alderman and that alderman will rise up on their hind legs and bray out a lot of complaints. No, I don’t think the City will help at all.’
Người thanh niên trông thiếu kiên nhẫn và đang cố che đậy điều đó. Suy cho cùng, anh ta cũng là người kinh doanh mà thôi, anh ta đã quen với sự chết chóc, xác chết, quan tài, v.v. và anh ta phải kiếm tiền để duy trì hoạt động nữa. Thế rồi anh ta nói, tỏ ra như đó là một phát kiến đột xuất: ‘Nhưng công đoàn của ông ấy chẳng lẽ không làm gì đó cho ông ấy ư?’.
The young man was looking impatient and trying to conceal it. After all, he was a businessman, he was used to death, dead bodies, coffins, etc., and he had to get money in order to keep going. Then he said, ostensibly as an afterthought, ‘But wouldn’t his Union do anything for him?’
Bốn người đồng nghiệp gần như cùng lúc lắc đầu phủ nhận. ‘Không’, một người nói, ‘chúng tôi đã tìm đến họ nhưng không ai muốn chi trả cả. Ông già Molygruber chỉ là một người quét đường bình thường và nếu người ta tặng đám tang cho ông ấy thì cũng chẳng được tiếng tăm gì cho lắm”.
The four former colleagues almost simultaneously shook their heads in negation. ‘No,’ said one, ‘we’ve approached them but no one wants to pay out. Old Molygruber was just an ordinary sidewalk sweeper and there is no great publicity if people give to his funeral.’
Người thanh niên đứng dậy và đi vào một phòng bên cạnh. Anh ta gọi với ra mấy người đàn ông: ‘Nếu các anh vào đây tôi có thể chỉ cho các anh xem mấy cái quan tài khác nhau, nhưng cái rẻ nhất có thể chôn cất được sẽ là hai trăm năm mươi đô la và đó là giá rẻ nhất rồi, chỉ là cái hộp bằng gỗ rẻ tiền nhất và cỗ xe tang để chở ra nghĩa địa. Các anh có thể quyên góp được hai trăm năm mươi đô la không?”.
The young man rose to his feet and moved to a side room. He called to the men saying, ‘If you come in here I can show you different caskets, but the cheapest we could do an interment would be two hundred and fifty dollars and that would be the very cheapest, just the cheapest wooden shell and the hearse to take it to the burial ground. Could you raise two hundred and fifty dollars?’
Mấy người đàn ông trông vô cùng bối rối, rồi một người nói: ‘À, vâng, tôi nghĩ chúng tôi có thể, chúng tôi sẽ quyên góp được hai trăm năm mươi đô la nhưng chúng tôi không thể trả cho anh ngay bây giờ được’.
The men looked thoroughly embarrassed, and then one said, ‘Well, yes, I guess we could, we could raise two hundred and fifty dollars but we can’t give it to you now.’
‘Ồ không, tôi không mong các anh trả bây giờ đâu’, người thanh niên nói, ‘miễn là các anh ký vào cái Mẫu thư đảm bảo thanh toán này. Nếu không thì, các anh thấy đấy, chúng tôi có thể phải chịu chi phí này và việc này, suy cho cùng, thì không phải là trách nhiệm của chúng tôi.’
‘Oh no, I am not expecting you to pay now,’ said the young man, ‘provided you sign this Form guaranteeing payment. Otherwise, you see, we might be left bearing the expense and that, after all, is not our responsibility.’
Bốn người đồng nghiệp nhìn nhau khá xúc động, và rồi một người trả lời: ‘Được thôi, tôi đoán chúng tôi có thể gom được đến ba trăm đô nhưng không thể hơn được một xu nào đâu. Tôi sẽ ký thư bảo đảm cho số tiền đó’.
The four colleagues looked at each other rather expressively, and then one said, ‘Well, okay, I guess we can spring up to three hundred dollars but we can’t go to a cent more. I’ll sign the Form for up to that.’
Người thanh niên mang ra một cây bút và đưa cho một người trong số họ, ông ta nhanh chóng ký tên và ghi địa chỉ của mình. Ba người còn lại cũng làm theo.
The young man produced a pen and handed it to one of them, and he hastily signed his name and put his address. The other three men followed suit.
Người thanh niên mỉm cười với họ, bây giờ anh ta đã có Thư đảm bảo trong tay, và anh ta nói: ‘Chúng tôi phải đảm bảo mấy thứ này, các anh biết đấy, bởi vì người này, ông Molygruber, đang chiếm chỗ mà chúng tôi đang rất cần, bởi vì việc làm ăn của chúng tôi đang phát triển lắm và chúng tôi muốn đưa ông ta đi càng sớm càng tốt, nếu không lại phát sinh chi phí’.
The young man smiled at them now he had the Guarantee Form, and he said, ‘We have to be sure of these things, you know, because this person, Mr. Molygruber, is occupying space which we badly need because we have a very thriving business and we want him removed as quickly as possible, otherwise charges will be incurred.’
Mấy người đàn ông gật đầu với anh ta, và một người nói: ‘Hẹn gặp lại’, và chào xong họ quay trở ra chiếc xe đã chở họ tới đây. Khi xe chạy họ trở nên trầm lặng, đăm chiêu và không ai nói gì, rồi một người nói: ‘Chắc chúng ta phải cùng nhau kiếm số tiền đó thật nhanh, chẳng muốn nghĩ đến việc ông già Mol bị kẹt lại ở đó’. Một người khác nói: ‘Hãy nghĩ xem, quỷ thần ơi, ông ấy đã làm việc bao năm quét đường, giữ gìn cái xe đẩy của mình tốt hơn hết thảy mọi người, và giờ đây khi ông ấy chết sau khi đã cứu một mạng người thì không ai muốn nhận trách nhiệm, và thế là chỉ có chúng ta tỏ chút kính trọng tới ông ấy, dù sao thì ông ấy cũng chẳng phải một đồng nghiệp tồi. Thôi thì xem chúng ta có thể cùng nhau quyên tiền như thế nào. Các anh có biết chúng mình sẽ làm gì cho tang lễ không?’.
The men nodded to him, and one said, ‘See ya,’ and with that they moved out to the car which had brought them. As they drove away they were very subdued, very quiet and very thoughtful, then one said, ‘Guess we shall have to get the money together pretty quick, don’t want to think of old Mol stuck in that place.’ Another said, ‘Just think, poor old devil, he’s worked for years sweeping the sidewalks, keeping his barrow in better condition than any of the others, and now he’s dead after saving a life and no one wants to accept the responsibility so it’s up to us to show a bit of respect for him, he wasn’t a bad fellow after all. So let’s see how we can get the money together. Do you know what we’re going to do about the funeral?’
Một sự im lặng. Chưa ai trong bọn họ nghĩ nhiều về việc đó. Cuối cùng, một người lên tiếng: ‘Phải rồi, tôi nghĩ chúng ta sẽ xin nghỉ làm để được thấy ông ấy được chôn cất đàng hoàng. Tốt nhất là chúng ta nên đi gặp quản đốc và xem ông ấy nói thế nào về việc này’.
There was silence. None of them had given much thought to it. In the end one fellow remarked, ‘Well, I suppose we shall have to get time off to see him properly put under. We’d better go and see the foreman and see what he’s got to say about it.’
Molygrubeer trôi dạt ngắm nhìn thành phố mà lão đã quá đỗi quen thuộc. Lão cảm thấy mình như những quả bóng thỉnh thoảng bay trên bầu trời Calgary để quảng cáo cho một công ty ô tô hay cho những thứ khác. Lão cứ trôi đi và dường như chẳng có chút kiểm soát nào về việc mình đang đi đâu. Đầu tiên là lão có vẻ như trồi lên từ mái của nhà tang lễ. Lão nhìn xuống và thấy đường phố mới nhợt nhạt làm sao, những ngôi nhà mới nhợt nhạt làm sao, chúng cần lắm một lớp sơn mới, lão bảo là ‘một cái liếm’của sơn. Lão nhìn thấy những chiếc ô tô cũ đậu trên lối đi và bên lề đường, rồi tiếp tục di chuyển xuống phố, và lão thấy quả là đau đớn khi nhìn thấy góc phố quen thuộc của mình và thấy một người lạ ở đó, một người lạ đội cái mũ nhựa của lão, đẩy chiếc xe của lão, và có lẽ cũng đang mặc cái áo bảo hộ phản quang màu đỏ đã từng là của lão. Lão nhìn xuống người đàn ông đang uể oải đưa những nhát chổi dọc theo các rãnh nước, và thường xuyên với tay lấy hai miếng ván cầm trên tay để hốt rác và bỏ vào xe. Chiếc xe đẩy của lão trông cũng xám xịt; nó không được bảo quản tốt như khi lão có nó, lão nghĩ vậy. Lão tiếp tục trôi đi, nhìn xuống đống rác rưởi rơi vãi trên đường phố với cặp mắt đầy phê phán và lên án. Lão nhìn xuống khu tòa nhà mới xây và thấy đất mới đào bị cơn gió mạnh hất lên và thổi bay khắp thành phố.
Molygruber drifted along seeing the city that he knew so well. He seemed to be like one of those balloons that sometimes flew over Calgary advertising a car firm or other things. He drifted along and seemed to have no control on where he was going. First he seemed to emerge from the roof of the funeral home. He looked down and saw how drab the streets were, how drab the houses were, how much they were in need of a coat of paint, he said ‘a lick’ of paint. He saw the old cars parked in driveways and at the roadside, and then moved on downtown and felt quite a twinge as he looked down at his old familiar haunt and found a stranger there, a stranger wearing his plastic helmet, pushing his barrow, and probably wearing what had been his fluorescent red safety jacket. He looked down at the man languidly pushing the broom along in the gutters and every so often reaching for the two boards which he had held in his hands to lift up garbage and deposit it in his barrow. His barrow, too, looked rather drab; it was not as well kept as when he had had it, he thought. He drifted on looking down with a critical and condemnatory eye at the litter in the streets. He looked at a new building site and saw the excavated soil being lifted up and driven across the city by strong breezes which were blowing.
Có cái gì đó đẩy lão đến Trạm vệ sinh. Lão thấy mình trôi bên trên thành phố, lão thấy mình sà xuống phía trên một chiếc xe vệ sinh đang đi gom các xe đẩy rác và đón các công nhân. Nhưng lão cứ tiếp tục trôi đi, trôi đến trạm rồi chìm xuống bên dưới xuyên qua mái nhà. Ở đó lão thấy bốn người đồng nghiệp lúc nãy đang nói chuyện với người quản đốc: ‘Chà, chúng ta chẳng thể nào cứ để ông ấy ở đó được’, một người trong bọn họ nói, ‘thật là quá tệ khi nghĩ đến việc ông ấy không đủ tiền để được chôn cất đàng hoàng và chẳng ai khác làm một cái gì để giúp cả’. Người quản đốc trả lời: ‘Tại sao chúng ta không đi quyên góp nhỉ? Hôm nay là ngày trả lương, nếu chúng ta bảo mọi người góp mỗi người chỉ mười đô la thì ông ấy sẽ được chôn cất đàng hoàng và còn có vài bông hoa hay đại loại như thế. Tôi biết ông ấy từ hồi ông còn trẻ, ông ấy chưa bao giờ có cái gì cả, đôi khi tôi nghĩ đầu óc ông ấy không ổn lắm nhưng ông luôn làm công việc của mình mặc dù có chậm hơn hầu hết những người khác. Phải, đó là việc chúng ta sẽ làm, chúng ta sẽ dán thông báo chỗ quầy trả lương để kêu gọi mọi người đóng góp ít nhất mười đô la’.
Something impelled him up to the Sanitation Depot. He found himself floating over the city, he found himself dipping down over a sanitation truck which was going to collect the barrows and the men. But he went on, went on to the depot and sank down through the roof. There he found his four former associates talking to the foreman: ‘Well, we can’t just leave him there,’ said one of the men, ‘it’s a pretty awful thought that he ain’t got enough money to get in the ground properly and nobody else is going to do a thing about it.’ The foreman said, ‘Why don’t we take a collection? It’s pay day, if we ask each of the men if they’ll only give ten dollars each we can get him buried proper with a few flowers and things like that. I’ve known him since he was a lad, he’s never had anything, sometimes I’ve thought he wasn’t quite right in his head but he always did his job although a bit slower than most others. Yes, that’s what we’ll do, we’ll put a notice up above the paying-out booth asking everyone to give at least ten dollars.’
Một người đồng nghiệp hỏi: ‘Ông sẽ góp bao nhiêu?’. Người quản đốc bĩu môi và cau mày, rồi dò dẫm tìm chiếc ví của mình trong túi áo. Ông ta lôi ra viếc ví cũ sờn và nhìn vào bên trong. ‘Đây’, ông bảo, ‘đây là tất cả những gì tôi có trên đời này cho đến khi tôi nhận lương, hai mươi đồng. Tôi sẽ góp hai mươi đồng’. Một người trong họ lục lọi xung quanh và tìm được giữa đống rác một cái hộp phù hợp, một cái hộp các-tông. Ông ta rạch một đường rãnh ở giữa và nói: ‘Đây, đây là thùng quyên góp của chúng ta. Chúng ta sẽ đặt nó trước quầy trả lương kèm theo một dòng thông báo. Chúng ta sẽ vào nhờ một người thư ký viết hộ dòng thông báo cho mình trước khi mọi người đến nhận lương’.
One of the associates said, ‘How much will you give?’ The foreman pursed his lips and screwed up his face, and then fumbled in his pocket. He produced his battered old wallet and looked inside. ‘There,’ he said, ‘that’s all I have in the world until I get my pay, twenty bucks. I’ll give twenty bucks.’ One of the men rummaged around and found amid the garbage a suitable box, a cardboard box. He cut a slot in the middle and said, ‘There, that’s our collection box. We’ll put that in front of the paying-out booth together with a notice. We’ll go in and get one of the clerks to write a notice for us now before the others get paid.’
Chẳng bao lâu sau những người công nhân trở về từ ca làm việc. Các xe đẩy rác được đưa xuống khỏi xe tải, họ đưa chúng cất vào chỗ quy định và xếp chổi lên giá để sẵn sàng cho ngày hôm sau, và rồi họ trò chuyện vu vơ như thường thấy khi di chuyển theo đám đông tiến về quầy nhận lương. ‘Cái gì thế này?’ một người hỏi. ‘Người đồng nghiệp quá cố của chúng ta đấy, ông Molygruber, không đủ tiền chi trả cho đám tang của mình. Sao các ông không móc ra ít nhất mỗi người mười đô la chứ? Ông ấy là người như chúng ta mà, các ông biết đấy, ông ấy ở trong biên chế đã lâu, rất lâu rồi.’
Soon the men came in from their rounds. The barrows were unloaded from the trucks, the men parked them in their allotted places and put their brooms in the racks ready for the next day, and then chattering away idly as men and women will when in a throng they moved to the booth to be paid. ‘What’s this?’ asked one. ‘Our late colleague, Molygruber, there isn’t enough money to pay for his funeral. How come you guys don’t fork out ten dollars each at least? He was one of our own fellows, you know, and he’s been on the council staff a long, long time.’
Mấy người đàn ông cằn nhằn một chút, làu bàu một chút, và rồi người đầu tiên tiến lên nhận phong bì tiền lương của mình. Mọi con mắt đều đổ dồn vào anh ta khi anh ta nhận tiền. Anh ta đút nhanh phong bì tiền vào túi, nhưng rồi trước mọi ánh mắt nhìn xung quanh mình, anh ta lừng khừng moi nó ra, miễn cưỡng mở một đầu bì thư. Thật chậm rãi, anh ta thọc hai ngón tay vào bên trong và cuối cùng cũng móc ra tờ mười đô. Anh ta nhìn tờ tiền, nhìn đi nhìn lại trong khi lật lật tờ tiền trong tay. Rồi với một tiếng thở thật dài anh ta nhét nhanh nó vào khe thùng quyên góp rồi rời đi. Những người khác nhận lương của mình và dưới những ánh mắt trông chừng của cả đám đông họ đều lấy ra tờ mười đô và bỏ vào thùng quyên góp. Cuối cùng thì tất cả đều đã nhận lương, tất cả đều góp mười đô la, trừ một người, anh ta bảo: ‘Ồ không, tôi đâu có biết ông kia, tôi chỉ mới vào làm ở đây một tuần thôi, tôi chưa gặp tại sao các anh lại mong tôi góp tiền cho một người mà tôi thậm chí còn chưa gặp chứ’. Nói xong anh ta kéo mũ trùm lên đầu, bước ra chiếc xe cũ của mình và lái đi cùng với tiếng gầm rú của động cơ.
The men grumbled a bit and mumbled a bit, and then the first man moved to get his pay envelope. Every eye was upon him as he took it. He quickly stuffed it in his pocket, then at the glares around him he half heartedly fished it out and reluctantly opened one end of the envelope. Slowly, slowly he put a finger and thumb inside and at last produced a ten dollar bill. He looked at it, and looked at it again turning it over in his hands. Then with a great big sigh he shoved it quickly through the slot in the collection box and moved away. Others collected their pay and under the watchful eye of all the men assembled took out a ten dollar bill and put it in the collection box. At last all the men had been paid, all the men save one had given ten dollars, and he had said, ‘Gee no, I didn’t know the guy, I’ve only been here this week, I don’t see why you expect me to pay for a guy I’ve never even seen.’ With that he pulled his cap more tightly on his head, marched out to his old car and drove off with a roar and a rattle.
Vị quản đốc tiến đến chỗ bốn người đồng nghiệp đã chủ động trong việc này và bảo: ‘Sao các anh không đi gặp mấy ông cấp trên nhỉ? Có lẽ họ sẽ góp một ít. Chẳng mất gì cả, họ không thể đuổi việc các anh vì việc này được, đúng không?’. Thế là bốn người họ đi vào văn phòng của những lãnh đạo cấp cao. Họ thấy bối rối, cứ đổi chân liên tục và im lặng, một người trong bọn họ đưa ra tờ thông báo và thùng quyên góp trước mặt một trong những người quản lý. Ông ta nhìn nó và thở dài, rồi lấy ra mười đô la, gấp lại và thả vào thùng. Những người khác cũng bắt chước làm theo. Mười đô la, không hơn không kém. Cuối cùng cũng đi hết lượt và bốn người họ quay trở lại chỗ người quản đốc. Ông ta nói: ‘Bây giờ, các anh, chúng ta sẽ đến chỗ kế toán và để anh ta đếm hết chỗ tiền này cho mình và cho chúng ta một bản kê chính xác có bao nhiêu tiền. Như thế sẽ giúp chúng ta đỡ gặp rắc rối.’
The foreman moved to the four men who were chiefly concerned in the matter and said, ‘How come you don’t go and see the Top Brass? Maybe they’ll give a bit. Nothing to lose, they can’t fire you for it, can they?’ So the four men marched into the offices of the senior officials. They were embarrassed, they shifted from foot to foot and mutely one of them held the notice and the collection box in front of one of the managers. He looked at it and sighed, and then took out ten dollars, folded it up and put it in the box. Others followed suit. Ten dollars, no more no less. At last the rounds were done and the four men went back to the foreman. He said, ‘Now, you guys, we’ll go in to the accountant and we’ll get him to count it up for us and give us a proper statement of how much it is. That lets us off the hook.’
Người dịch: Trần Thị Phận
Biên tập: Phạm Thị Liễu
Tổng biên tập: Trung tâm VMC