Con đường đầy bụi bặm và ổ gà. Trên đường, chúng tôi đi qua hàng nhóm phụ nữ, mỗi nhóm có một quản lý mang theo vũ trang, đang thi công, lấp đầy những hố sâu bằng đá sỏi hay bất cứ thứ gì họ kiếm được. Khi chúng tôi băng qua, đám lính đi cùng tôi la ó những lời thô bỉ, tục tĩu và làm các cử chỉ gợi tình.
The road was dusty and full of holes. As we drove along we passed gangs of women in the charge of an armed overseer, filling up the deepest of the holes with stones and with anything at hand. As we passed, the soldiers with me yelled ribald remarks and made suggestive gestures.
Đi qua một quận đông dân cư, chúng tôi đến những khu nhà lạnh lẽo, chắc hẳn là trại giam. Chiếc xe bán tải phóng vào và đỗ vào bãi đầy sỏi cát. Không có ai cả. Đám đàn ông nhìn quanh một cách lo lắng. Ngay sau khi tài xế tắt động cơ, chúng tôi liền nhận ra tiếng la hét ầm ĩ thất thanh, tiếng la lớn của mấy gã đàn ông và tiếng chó sủa dữ tợn. Tất cả vội chạy tới phía phát ra tiếng động, tôi cũng bám theo đám lính. Băng qua cánh cổng mở xuyên qua bức tường đá cao lớn, chúng tôi nhìn thấy hàng rào kiên cố đang nhốt khoảng năm mươi con chó ngao khổng lồ.
We passed through a populated district and on, on until we came to grim buildings which must have been a prison. The half-track swept on and into a cobbled courtyard. No one was in sight. The men looked about in consternation. Then, as the driver switched off the engine we became immediately aware of a tremendous clamour, the shouting of men and the fierce barking of dogs. We hurried towards the source of the sound, I with the soldiers. Passing through an open door set in a high stone wall we saw a strong fenced enclosure which seemed to contain about fifty huge mastiffs.
Ngay lập tức, một gã ở rìa đám lính phía ngoài hàng rào lắp bắp kể sự tình. Lũ chó, trong cơn khát máu người đã mất kiểm soát, chúng giết và ăn thịt hai người lính quản. Có một sự hỗn loạn bất ngờ, và khi đám đông rẽ ra, tôi thấy gã thứ ba, bám trên hàng rào dây thép trên cao tuột tay và rơi vào giữa lũ chó. Có một tiếng thét thảm thiết, một âm thanh ớn lạnh thực sự, và sau rồi không còn gì ngoài đàn chó gầm gừ. Viên Hạ sĩ quay sang nhìn tôi, “Này, anh kia! Anh biết điều khiển lũ chó đó.” rồi quay qua tên lính bên cạnh, “Đề nghị Đồng chí Đại úy tới đây đi, nói rằng chúng ta có một người biết điều khiển lũ chó.” Ngay sau khi tên lính vội vã rời đi, tôi suýt ngất vì sợ hãi. Tôi? Tại sao luôn là tôi khi cần đối phó với những nguy hiểm và gian khó? Sau đấy, khi nhìn vào đám chó tôi lại nghĩ, “Tại sao không? Những con chó này không hề dữ tợn như giống chó ngao Tây Tạng, và chúng đã tấn công vì ngửi thấy mùi sợ hãi của đám lính.” Một viên Đại úy vẻ ngạo mạn sải bước qua đám đông, ai cũng tỏ vẻ kính trọng trước hắn. Hắn dừng vài feet trước mặt tôi, nhìn lướt từ đầu đến chân, thái độ khinh khỉnh, cười nhếch mép chế nhạo. “Khiếp quá, Hạ sĩ quan,” hắn kiêu căng, ngạo mạn, “Chúng ta có cái gì đây? Một tên linh mục bản xứ dốt nát?” “Đại úy,” Hạ sĩ quan nói, “Anh chàng này không bị chó của chúng tôi tấn công, Serge còn cắn đứt tay của một kẻ vượt biên và mang đến cho anh ta. Hãy cho anh ta vào chuồng đi, Đồng chí Đại úy.”
Quickly a man on the edge of the crowd of soldiers outside the enclosure gabbled out his story. The dogs, with human blood-lust upon them had got out of hand and had killed and devoured two of their keepers. A sudden commotion, and as the crowd shifted and swayed, I saw a third man, clinging high up on the wire fence, lose his grip on the wire and fell among the dogs. There was a horrid scream, a really blood chilling sound, and then nothing but a snarling mass of dogs. The corporal turned to me, “Hey, you! You can control dogs.” Then, turning to a soldier beside him, “Ask the Comrade Captain to come this way, say we have a man here who can control dogs.” As the soldier hurried off I nearly fainted with fright on the spot. Me? Why always me for the difficulties and dangers? Then as I looked at the dogs I thought, “Why not? These animals are not so fierce as Tibetan mastiffs, and these soldiers smell of fear to the dogs and so the dogs attack.” An arrogant-looking captain strode through the crowd, which parted respectfully before him. Stopping a few feet from me he looked me up and down, and a disdainful sneer passed over his face. “Faugh, corporal,” he said haughtily, “What have we here? An ignorant native priest?” “Comrade Captain,” said the corporal, “This man was not attacked by our dogs, Serge bit off the hand of a frontier-crosser and gave it to him. Send him into the enclosure, Comrade Captain.”
Viên đại úy cau mày, bồn chồn dụi chân vào đất và liên tục cắn móng tay. Cuối cùng, hắn ngước lên. “Thôi, thế cũng được,” hắn nói, “Moscow đã nói rằng ta không được bắn thêm bất kỳ con chó nào nữa, nhưng họ không cho ta biết phải làm gì khi lũ chó lên cơn khát máu. Người này nếu chết thì coi như tai nạn. Nếu sống, dù cũng khó đấy, chúng ta sẽ thưởng cho anh ta.” Hắn quay lưng và bước qua bước lại, nhìn những con chó đang gặm xương của ba người lính gác chúng đã giết và xơi thịt. Quay mặt về hạ sĩ, hắn nói, “Giải quyết việc đi hạ sĩ, và nếu anh ta làm được, cậu sẽ được lên hàm trung sĩ.” Nói xong hắn vội vã bước đi.
The captain frowned, shuffled his feet in the dust, and industriously bit his nails. At last he looked up. “Yes, I will do it,” he said. “Moscow said that I must not shoot any more dogs, but they did not tell me what to do when the dogs had the blood-lust. This man, if he is killed, well, it was an accident. If he should live, though very unlikely, we will reward him.” He turned and paced about, then stood looking at the dogs gnawing at the bones of the three keepers whom they had killed and eaten. Turning to the corporal, he said, “See to it, corporal, and if he succeeds, you are a sergeant.” With that he hastened away.
Viên hạ sĩ tròn mắt đứng như trời trông một lát. “Tôi, trung sĩ à? Trời!” anh ta thốt lên, quay sang tôi, “Anh mà thuần hóa được lũ chó này thì tất cả cánh Bộ đội Biên Phòng sẽ là đều là bạn của anh. Hãy vào đi.”
“Đồng chí hạ sĩ,” tôi trả lời, “tôi muốn ba chú chó kia vào chuồng cùng với tôi, chúng quen với tôi và cũng quen lũ chó này.”
“Cứ làm vậy đi,” anh ta trả lời, “Hãy đi với tôi và ta sẽ đón chúng.”
For a time the corporal stood wide-eyed. “Me, a sergeant? Man!” he said, turning to me, “You tame the dogs and every man of the Frontier Patrol will be your friend. Get in.”
“Comrade corporal,” I replied, “I should like the other three dogs to go in with me, they know me and they know these dogs.”
“So it shall be,” he answered, “Come with me and we will get them.”
Chúng tôi tiến về phía xe moóc kéo đằng sau chiếc xe bán tải quân sự. Tôi vuốt ve ba chú chó, để chúng liếm tôi, cho mùi của chúng bám lên người tôi. Rồi ba chú chó xô đẩy, nhảy nhót quanh tôi, tôi bước đến cổng vào chuồng rào. Lính gác trang bị vũ trang đứng phòng thủ trong trường hợp lũ chó xổng chuồng. Cánh cổng nhanh chóng được hé ra một chút, và tôi gần như bị tống cổ vào trong.
We turned and went out to the trailer of the half-track. I fondled the three dogs, letting them lick me, letting them put their smell on me. Then, with the three dogs jostling and bounding around me, I went to the barred entrance of the enclosure. Armed guards stood by in case any dog escaped. Quickly the gate was opened a trifle, and I was roughly thrust inside.
Lũ chó lao vào tôi từ mọi phía. Những hàm răng sắc nhọn từ ba chú chó “của tôi” đã chặn hầu hết lũ chó, không cho chúng tiến đến quá gần, nhưng một con to lớn, dữ tợn chắc hẳn là thủ lĩnh, đã nhảy xổ đến trước mặt tôi. Tôi thì đã sẵn sàng rồi, và khi tôi tránh sang một bên tôi đá cho nó một đòn ngay vào cổ, đòn judo (hay karate như mọi người bây giờ gọi) đã giết chết nó trước khi nó kịp đáp xuống đất. Thi thể con chó này đã bị lũ chó gầm gừ nhảy bổ vào trước khi tôi kịp né sang một bên. Những âm thanh và tiếng gầm gừ nghe thật gớm ghiếc.
Dogs rushed at me from everywhere. The snapping jaws of “my” three discouraged most from coming too close to me, but one huge, ferocious beast, obviously the leader sprang murderously at my throat. For that I was well prepared, and as I stepped aside I gave him a quick thrust in the throat, a judo (or karate as people now term it) thrust which killed him before he touched the ground. The body was covered with a seething, struggling mass of dogs almost before I could jump out of the way. The snarling and snapping noises were hideous.
Tôi chờ khoảng một lúc, rồi không vũ khí, không phòng vệ, chỉ nghĩ đến những ý nghĩ thân thiện và tử tế gửi đến lũ chó, nói với chúng bằng tư tưởng rằng tôi không sợ chúng, tôi là chủ nhân của chúng. Rồi chúng quay lại, tôi có có chút khiếp sợ khi thấy đống xương trơ trụi còn lại của con chó đầu đàn. Lũ chó quay về phía tôi. Tôi ngồi xuống đất và phát tư tưởng cho chúng làm tương tự. Chúng cúi xuống trước tôi, xếp thành một nửa vòng tròn, chân giơ ra phía trước, nhe răng, lè lưỡi một cách uể oải, còn đuôi thì vung vẩy.
Tôi đứng dậy và gọi con Serge về phía tôi. Đặt tay lên đầu nó, tôi nói lớn, “Từ giờ trở đi, mày, Serge, sẽ là thủ lĩnh của lũ chó này, và mày sẽ nghe lời tao và đảm bảo chúng nó cũng sẽ nghe lời tao.”
For a few moments I waited, unarmed, defenseless, thinking only kind and friendly thoughts towards the dogs, telling them by thought that I was not afraid of them, that I was their master. Then they turned, and I had a moment of revulsion as I saw the bare skeleton of what had moments ago been the leader. The dogs turned towards me. I sat upon the ground and willed them to do the same. They crouched before me, in a half circle, paws outstretched, grinning, tongues lolling lazily, and tails sweeping from side to side.
I stood up, and called Serge to my side. Putting my hand on his head, I said loudly, “From now on, you, Serge, will be leader of all these dogs, and you will obey me and will see that they obey me.”
Từ bên ngoài chuồng, tiếng vỗ tay hò reo lập tức vang lên. Tôi đã quên mất đám lính! Khi tôi quay về phía họ, cả đám vẫy tay với đầy sự thân thiện. Viên Đại úy, gương mặt hắn tràn đầy vẻ vui mừng, đến gần rào thép và hét lên, “Mang xác của mấy tên quản chó ra ngoài đi.” Tôi nhăn nhó bước đến thi thể đầu tiên, một khối đẫm máu, rách nát, xương ngực lòi ra khỏi thịt. Tôi nhấc cánh tay của cái xác đi nhưng nó lìa ngay khỏi bả vai. Tôi đành lôi cái xác bằng đầu, với ruột gan người đàn ông lê lết theo phía sau. Tôi nghe thấy một tiếng thở gấp đầy sợ hãi, và nhận ra Serge đang đi bên cạnh tôi, mõm ngoạm cánh tay của người đàn ông đó. Một cách vất vả, tôi đưa ba cái xác, hay những gì còn lại của chúng, ra khỏi chuồng. Rồi thực sự mệt mỏi và căng thẳng, tôi lết tới chỗ cánh cổng và được thả cho đi.
From outside the enclosure came a spontaneous roar of applause. I had forgotten all about the soldiers! As I turned I saw that they were waving their hands in friendship. The captain, his face suffused with excitement, came close to the wire and yelled, “Bring out the bodies of the keepers or their skeletons.” Grimly I walked to the first body, a shredded, bloody mass, with the chest bones bare of flesh. I took it by an arm and pulled, but the arm came off at the shoulder. Then I pulled the man by the head, with his entrails dragging along behind. There was a gasp of horror, and I saw that Serge was walking beside me, carrying the man’s arm. Laboriously I removed all three bodies, or what was left of them. Then, really exhausted with the strain, I stepped to the gate and was let out.
Viên đại úy đứng trước mặt tôi. “Anh bốc mùi quá!” hắn nói. “Hãy đi gột hết những chỗ bẩn từ xác chết đi. Anh hãy ở lại đây một tháng để trông coi lũ chó. Sau một tháng chúng trở về đơn vị tuần tra và anh có thể đi. Anh sẽ được nhận lương của một hạ sĩ quan. Quay sang viên hạ sĩ, hắn nói, “Cậu là trung sĩ kể từ giờ phút này như tôi đã hứa.” Hắn quay người bước đi, chắc hẳn rất vui mừng với toàn bộ sự việc.
The captain stood before me. “You stink!” he said. “Get cleaned of the filth of those bodies. You shall remain here for a month looking after the dogs. After a month they return to their patrols and you can go. You shall have the pay of a corporal.” He turned to the corporal and said, “As promised, you are now a sergeant as from this moment.” He turned and walked away, obviously quite delighted with the whole affair.
Viên trung sĩ cười rạng rỡ với tôi. “Anh đúng là một phù thủy! Tôi sẽ không bao giờ quên cách anh giết con chó đó. Không thể quên ánh nhìn của đồng chí đại úy khi nhảy nhảy nhót ghi hình toàn bộ vụ này. Anh đã làm được một điều lớn lao cho bản thân. Lần trước, chúng tôi có một trận náo loạn với lũ chó, mất đi sáu người anh em và bốn mươi con chó. Moscow đã kỷ luật đồng chí đại úy rất nặng nề. Đe dọa ông ta sẽ có chuyện nếu để mất thêm chó. Ông ấy sẽ đối xử với anh rất tử tế. Từ giờ anh gia nhập với chúng tôi. Chúng tôi sẽ không chất vấn nữa. Nhưng này, đúng như đại úy nói, anh bốc mùi thật đấy. Hãy gột sạch đống bẩn thỉu này đi. Tôi luôn bảo Andrei rằng hắn ăn nhiều quá và thở hôi khủng khiếp, giờ thấy hắn bị xé từng mảnh, tôi biết mình đã đúng.” Tôi đang cảm thấy thật mệt mỏi và kiệt sức nên sự hài hước ghê tởm này chẳng gây sốc được.
The sergeant beamed upon me. “You are a magic-maker! Never will I forget how you killed that dog. Never will I forget the sight of the captain hopping from foot to foot filming the whole affair. You have done a big thing for yourself. Last time we had a dog riot we lost six men and forty dogs. Moscow came down heavy on the captain’s neck. Told him what would happen if he lost any more dogs. He will treat you good. You mess-in with us now. We don’t ask questions. But come, you stink, as the captain said. Wash off all that filth. I always told Andrei he ate too much and smelled bad, now I have seen him in pieces I know I was right.” I was so tired, so exhausted, that even such macabre humour as this did not shock me.
Một đám hạ sĩ trong phòng ăn cười phá lên và nói điều gì đó với viên trung sĩ. Hắn rú lên và hối hả lao đến tôi. “Hô hô! Đồng chí tu sĩ,” anh ta kêu lên, ánh mắt rưng rung với sự hài hước. “Họ nói người anh bị lấp hết bởi đống lục phủ ngũ tạng của Andrei nên cũng hãy lấy hết của cải của hắn đi bởi hắn chết rồi. Hắn không có người thân đâu. Chúng tôi sẽ gọi anh là Đồng chí hạ sĩ quan Andrei trong thời gian anh ở đây. Tất cả những gì của hắn giờ là của anh. Và anh đã giúp tôi thắng được rất nhiều đồng rúp (tiền Liên-xô cũ) khi đặt cược vào anh trong cái chuồng ấy. Anh đúng là bạn của tôi.”
A group of men, corporals, in the mess hall, guffawed loudly and said something to the sergeant. He roared, and hastened over to me. “Haw! Haw! Comrade priest,” he bellowed, eyes streaming with mirth. “They say that you have so much of Andrei’s inside on your outside that you should have all his possessions now he is dead. He has no relatives. We are going to call you Comrade Corporal Andrei for as long as you are here. All that was his is now yours. And you won me many roubles when I bet on you in the enclosure. You are my friend.”
Trung sĩ Boris là một người khá tử tế. Luộm thuộm, thô lỗ, và không hề học qua trường lớp, nhưng anh ấy vẫn thể hiện tình bạn hữu hảo với tôi vì đã giúp cho sự thăng tiến của mình– “Không có anh có khi cả đời tôi chỉ làm hạ sĩ thôi đấy,” anh nói – và thắng cược nhiều đồng rúp nhờ cược vào tôi. Một số gã lính khác đã cá rằng tôi chẳng có chút cơ hội nào trong chuồng chó. Boris nghe thấy liền nói, “Anh bạn tôi rất lợi hại. Các cậu chưa thấy lúc bọn tôi thả chó ra chỗ anh ta thôi. Anh ấy ngồi im như một pho tượng. Lũ chó nghĩ anh ấy là người của chúng. Rồi anh ấy cũng sẽ thuần hóa được lũ chó kia thôi. Rồi các cậu sẽ thấy!”
Sergeant Boris was quite a good fellow at heart. Uncouth, rude in manner, and without any pretence of education, he still showed much friendship to me for securing his promotion—“I would have been a corporal all my life else,” he said—and for the large number of roubles he had won on me. A number of men had been saying that I had not a chance in the dog enclosure. Boris had heard, and said, “My man is good. You should have seen him when we set the dogs on him. Didn’t move. Sat like a statue. The dogs thought he was one of them. He will get that crowd straightened out. You’ll see!”
“Cược ăn tiền không, Boris?” một tay hét lớn.
“Chơi ba tháng lương luôn,” Boris nói. Cuối cùng, anh ấy đã thu về ba năm rưỡi tiền lương và cảm thấy rất biết ơn.
Đêm hôm đó sau bữa tối rất đầy đủ vì Bộ đội Biên phòng sống khá sung túc, tôi ngủ trong một căn lều ấm áp gần phía chuồng chó. Nệm được nhồi bằng cỏ giấy khô, và cánh đàn ông cho tôi đống chăn mới. Lòng tôi tràn đầy biết ơn những chỉ dạy đã giúp thấu hiểu về bản tính tự nhiên của động vật.
“Bet on it, Boris?” cried one man.
“Take you three months to pay,” said Boris. As a direct outcome, he had won about three and a half years’ pay and was grateful.
That night, after a very ample supper, for the Border Patrol men lived well, I slept in a warm hut by the side of the dog enclosure. The mattress was well stuffed with dried esparto grass, and the men had obtained new blankets for me. I had every reason to be grateful for the training which gave me such an understanding of animals’ nature.
Ánh ban mai đầu tiên vừa hé rạng, tôi mặc đồ và đi thăm lũ chó. Tôi được chỉ nơi để thức ăn của chúng, và giờ tôi biết chúng được nuôi rất tốt. Chúng túm tụm quanh tôi, đuôi vung vẩy, và cứ thi thoảng một con lại đứng thẳng người và đặt bàn chân lên vai tôi. Đột nhiên, tôi nhìn quanh và thấy viên đại úy đang dõi theo từ ngoài rào thép. “À! Tu sĩ,” ông ta gọi, “tôi chỉ đến để xem tại sao lũ chó lại yên lặng đến vậy. Giờ chúng ăn là khoảng thời gian điên cuồng như chiến tranh, lính gác bên ngoài ném đồ ăn vào trong, còn đám chó cắn xé lẫn nhau để tranh giành phần của chúng. Tôi sẽ không chất vấn anh điều gì, tu sĩ. Chỉ cần anh hứa sẽ ở lại đây khoảng bốn đến năm tuần tới khi lũ chó được điều đi nơi khác, rồi anh có thể tự do đi lại và vào nội thành khi anh muốn.”
At first light I was dressed and went to see the dogs. I had been shown where their food was kept, and now I saw that they had a very good feed indeed. They clustered around me, tails awag, and every so often one would rear up and put his paws on my shoulders. At one such time I happened to look around, and there was the captain, outside of the wire of course, looking on. “Ah! Priest,” he said, “I merely came to see why the dogs were so quiet. Feeding time was a time of madness and fights, with the keeper standing outside and throwing food in, with the dogs tearing at each other to get their share. I will ask you no questions, Priest. Give me your word to remain here for four to five weeks until the dogs all move out and you can have the run of the place and go to the city when you want to.”
Đồng chí Đại úy,” tôi trả lời, “tôi hoàn toàn hài lòng và hứa sẽ ở lại đây cho đến khi lũ chó rời đi. Sau đó tôi sẽ lên đường.”
“Còn một chuyện nữa. Tu sĩ,” viên đại úy nói. “Lần cho ăn tới, tôi sẽ mang máy quay đến và ghi lại hình này để cấp trên có thể thấy chúng ta trông nom lũ chó kỷ luật như thế nào. Hãy đến khu hậu cần và kiếm lấy bộ đồng phục hạ sĩ mới, và nếu tìm được ai đó giúp thì nhờ họ dọn dẹp sạch sẽ cái chuồng. Còn nếu họ sợ thì anh hãy tự làm.”
“Comrade Captain,” I replied, “I will gladly give you my word to remain here until all these dogs leave. Then I will be on my way.”
“Another matter, Priest,” said the captain. “At the next feeding time I will bring my cine camera and take a film so that the Superiors can see how we keep our dogs in order. Go to the Quartermaster and draw a new corporal’s uniform, and if you can find anyone to help you in the enclosure, get them to clean it thoroughly. If they are afraid, do it yourself.”
“Tôi sẽ tự làm, thưa Đồng chí Đại úy,” tôi trả lời, “như thế lũ chó sẽ không bị khó chịu.”
Viên đại úy gật đầu tắp lự, và bước đi, có vẻ phấn khích vì giờ đây có thể đi khoe mình đã xoay xở với lũ chó khát máu thế nào!
Trong ba ngày, tôi không đi đâu quá một trăm thước trong khu chuồng chó. Lính quanh khu này rất kích động và sẵn sàng bắn vô cớ vào các bụi rậm “phòng trường hợp trong đó có điệp viên”, theo lời họ nói.
“I will do it myself, Comrade Captain,” I replied, “then the dogs will not be upset.”
The captain nodded curtly, and marched off, obviously a very happy man that he could now show how he managed the blood-lusting dogs!
For three days I did not move more than a hundred yards from the dog enclosure. These men were “trigger-happy” and thought nothing of shooting into the bushes “in case there should be spies hiding” as they put it.
Trong ba ngày tôi cũng nghỉ ngơi, hồi phục sức khỏe và trao đổi, trò chuyện với đám lính. Tìm hiểu họ và những thói quen sinh hoạt của họ. Andrei có kích cỡ, vóc dáng khá giống tôi, nên bộ đồng phục khá vừa vặn. Tất cả mọi thứ của anh ta đều phải giặt đi giặt lại mới sạch, vì anh ta là không phải là một người được đánh giá cao về sự sạch sẽ. Nhiều lần, viên đại úy đến gặp tôi và cố gắng bắt chuyện. Tuy ông ta có vẻ thân thiện và quan tâm thực sự, tôi vẫn phải nhớ đóng vai một tu sĩ đơn giản, chỉ đơn thuần hiểu biết về Kinh điển Phật giáo và lũ chó! Ông ta thường chế nhạo tôn giáo, nói rằng không có kiếp sau, không có Chúa, không có gì ngoài Cha Stalin. Lúc đó tôi sẽ trích dẫn Kinh Phật, nhưng không vượt quá tầm kiến thức mà một tu sĩ quê mùa có thể đạt được.
For three days I rested, regaining my strength, and mixing with the men. Getting to know them, getting to know their habits. Andrei had been much the same size as me, so his clothes fitted reasonably well. Everything of his had to be washed and washed again, though, because he had not been noted for cleanliness. Many times the captain approached me, trying to engage me in conversation, but while he seemed genuinely interested and friendly enough, I had to remember my role of a simple priest who merely understood the Buddhist Scriptures—and dogs! He would sneer at religion, saying that there was no afterlife, no God, nothing but Father Stalin. I would quote Scriptures, never exceeding the knowledge that a poor village priest could be expected to have.
Trong một buổi nói chuyện như vậy, Boris xuất hiện, chống tay vào chuồng chó, vẩn vơ nhai một nhúm cỏ. “Này Trung sĩ,” viên đại úy gọi với vẻ bế tắc, “đồng chí Tu sĩ chưa bao giờ ra khỏi cái làng nhỏ bé của mình. Hãy đưa anh ta dạo quanh và ngắm thành phố đi. Cho anh ta đi cùng trong các đợt tuần tra đến Artem và cả Razdol’noye. Cho anh ta thấy cuộc sống. Anh ta chỉ biết về cái chết và nghĩ đó chính là cuộc sống.” Anh ta nhổ toẹt nước bọt xuống đất, châm một điếu thuốc lậu và bước đi.
At one such discussion, Boris was present, leaning up against the dog compound idly chewing a sliver of grass. “Sergeant,” exclaimed the captain in exasperation, “the Priest has never been out of his little village. Take him around and show him the City. Take him on patrol to Artem and to Razdol’noye. Show him life. He only knows about death, thinking that that is life.” He spat on the ground, lit a contraband cigarette, and stalked away.
“Đúng rồi đấy, đi thôi, thầy tu, anh đã ở quá lâu với lũ chó đến mức anh sắp trông giống chúng đến nơi rồi. Dẫu sao tôi cũng phải thừa nhận rằng anh khiến chúng ngoan hẳn. Và anh đã giúp tôi thắng được một khoản tiền lớn. Tôi như bay trên không với số tiền này, tu sĩ ạ, và phải tiêu hết trước khi chết.”
“Yes, come on, Priest, you have stayed with the dogs so long you are beginning to look like them. Though I must admit that you have them well-behaved now. And you did win for me a pile of money. I float on air with it, Priest, and must spend it before I die.”
Rồi anh ta dẫn ra xe, bước vào và ra hiệu tôi ngồi vào. Anh ta bắt đầu nổ máy, vào số và nhấn ga. Chúng tôi khởi hành lên đường, nảy lên nảy xuống trên còn đường lồi lõm, gồ ghề rách nát, gầm rú ầm ĩ trên con phố chật hẹp ở Vladivostok. Dưới bến cảng có rất nhiều tàu bè, nhiều hơn cả số tàu tôi biết về sự tồn tại của chúng trên thế giới. “Nhìn kìa, Tu sĩ,” Boris nói, “những con tàu đó chở hàng chiếm được. Đó là hàng hóa được tụi Mỹ cho nước khác “thuê-mượn” (chính sách trong đó Mỹ cung cấp thực phẩm, dầu, và trang bị quân sự cho các nước Khối Đồng Minh, và ngược lại được họ trao quyền thuê căn cứ hải quân của các nước này). Họ nghĩ lũ Nhật đã bắt được hàng hóa này, nhưng chúng tôi sẽ vận chuyển hàng theo Đường Sắt (Đường sắt xuyên Siberian) trở về Moscow nơi Lãnh đạo Đảng sẽ được chọn những thứ hàng họ nghĩ là “ngon” nhất. Nhưng thực ra chúng tôi mới là người được chọn hàng đầu tiên bởi đã dàn xếp với bên cảng. Chúng tôi nhắm mắt làm ngơ với những thứ chúng làm và ngược lại họ cũng vậy. Anh từng có một chiếc đồng hồ bao giờ chưa, Tu sĩ?”
He led the way to a car, got in, and motioned for me to do the same. He started the engine, moved the gear lever, and let in the clutch. Off we went, bouncing on the rutted roads, roaring into the narrow streets of Vladivostok. Down by the harbour there were many ships, almost more ships than I had known existed in the world. “Look, Priest,” said Boris, “those ships have captured goods. Goods which were going to be ‘lend-lease’ from the Americans to some other country. They think the Japanese captured them, but we ship the cargoes over The Railway (the Trans-Siberian Railway) back to Moscow where the Party Bosses have what they think is first pick. We have first pick because we have an arrangement with the docks. We turn a blind eye on their doings while they turn a blind eye on ours. Have you ever had a watch, Priest?”
“Chưa,” tôi trả lời, “Tôi thì sở hữu rất ít đồ đạc trong đời. Tôi tính thời gian bằng vị trí mặt trời và bóng râm.”
“Anh phải có một chiếc đồng hồ chứ, Tu sĩ!” Boris tăng tốc và vèo một cái chúng tôi vòng đến một con tàu chở hàng neo gần bến cảng. Con tàu bị gỉ sắt nâu đỏ và sủi bọt bụi nước muối ngoài trời. Chuyến hành trình quanh vịnh Sừng Vàng (Golden Horn) đã là một chặng đường gian nan và khó khăn. Những chiếc cần cẩu vung vẩy tay cẩu của chúng dỡ hàng, sản phẩm từ khắp nơi trên thế giới. Cánh đàn ông la hét, chỉ chỏ, điều khiển lưới chở hàng và kéo dây cột thuyền. Boris nhảy ra ngoài, lôi tôi theo và xông lên ván tàu một cách vội vã khi tay vẫn kéo tôi.
“No,” I replied, “I have owned very little in my life. I know the time by the position of the sun and the shadows.”
“You must have a watch, Priest!” Boris speeded up the car and shortly we drew alongside a freighter moored to the dock side. The ship was streaked with red rust and sparkling with dried salt spray. The journey round the Golden Horn had been a hard and rough one. Cranes were swinging their long jibs, unloading the produce from different parts of the world. Men were shouting, gesticulating, manipulating cargo nets, and pulling on hawsers. Boris jumped out, dragging me with him, and rushed madly up the gangplank, still with me in tow.
“Chúng tôi muốn đồng hồ, Thuyền trưởng,” anh ta gầm lên với người đầu tiên nhìn thấy trong một bộ đồng phục. “Đồng hồ, để đeo tay.”
Một người đàn ông với bộ quân phục nhiều họa tiết, nghiêm chỉnh hơn những người khác, xuất hiện và ra hiệu chúng tôi đến cabin của ông ấy. “Đồng hồ, Thuyền trưởng,” Boris la lớn. “Một cái cho anh ta và hai chiếc cho tôi. Ông muốn lên bờ không Thuyền trưởng? Lên bờ vui lắm. Ông cứ làm những gì ông thích. Gái, rượu, đều được, chúng tôi không can thiệp. Chúng tôi muốn đồng hồ.”
Thuyền trưởng mỉm cười và rót rượu. Boris uống một cách vồn vã, tôi cũng đưa luôn ly của mình cho anh ta uống. “Anh ta không uống, Thuyền trưởng ạ, anh ta là tu sĩ giờ thành người trông coi chó, mà trông coi giỏi luôn đấy, lại còn lại là một người anh em tốt nữa,” Boris nói.
“We want watches, Cap’n,” he bawled at the first man in uniform. “Watches, for the arm.”
A man with a more ornate uniform than the others appeared and motioned us to his cabin. “Watches, Cap’n,” bawled Boris. “One for him and two for me. You want to come ashore, Cap’n? Good time ashore. Do what you like. Girls, get drunk, we not interfere. We want watches.”
The captain smiled, and poured drinks. Boris drank his noisily, and I passed mine to him. “He no drink, Cap’n, he a Priest turned dog watcher, good dog watcher, too, good fellow,” said Boris.
Thuyền trưởng cúi xuống gầm giường và lấy ra một chiếc hộp. Mở nó ra, ông ta khoe ra hàng tá đồng hồ đeo tay. Nhanh như chớp, Boris chộp lấy hai chiếc bằng vàng, và không thèm lên dây, đeo liền lên cả hai tay.
“Lấy một chiếc đi, tu sĩ,” Boris ra lệnh.
Tôi đưa tay lấy một chiếc bằng crôm. “Cái này đẹp hơn nhiều này, Tu sĩ,” Thuyền trưởng nói. “Chiếc này là thép không gỉ, mẫu Omega, chịu nước, là chiếc đồng hồ chất lượng hơn rất nhiều.”
“Cảm ơn Thuyền trưởng,” Tôi trả lời, “Nếu ông không phiền, tôi sẽ lấy chính cái đồng hồ ông vừa gợi ý.”
“Giờ tôi thấy anh điên thật, tu sĩ,” Boris nói, “đi lấy một chiếc đồng hồ bằng thép trong khio có thể lựa cái bằng vàng?”
Tôi cười và đáp lời, “Thép đủ dùng với tôi rồi, anh là trung sĩ, nhưng tôi chỉ là một hạ sĩ quan tạm bợ thôi.”
The captain went to a space beneath his bunk and drew out a box. Opening it, he displayed perhaps a dozen wrist watches. Almost quicker than the eye could see, Boris picked two gold ones, and without bothering to wind them, slipped one on each arm.
“Take a watch, Priest,” commanded Boris.
I reached out and took a chromium one. “This is a better one, Priest,” said the Captain. “This is a stainless steel, waterproof Omega, a far better watch.”
“Thank you, Captain,” I replied, “If you have no objection, I will have the one of your choice.”
“Now I know you are crazed, Priest,” said Boris, “a steel watch when you can have gold?”
I laughed and replied, “Steel is good enough for me, you are a sergeant, but I am only a very temporary corporal.”
Từ con thuyền, chúng tôi đi đến phía Đường sắt xuyên Siberi. Đoàn công nhân làm việc bận rộn, vận chuyển những lô hàng hời nhất từ những con tàu. Từ đây, những món hàng sẽ được chuyển đến Moscow, cách xa hơn chín ngàn rưởi cây số. Khi chúng tôi đứng đó, một con tàu bắt đầu khởi hành. Hai động cơ kéo một loạt những toa tàu theo, mỗi động cơ có năm bánh mỗi bên. Những cỗ máy khổng lồ được bảo trì tốt và được coi gần như là những sinh vật sống bởi đội ngũ làm việc trên tàu.
From the ship we went to the Trans-Siberian Railroad sidings. Work gangs were busily loading the trucks with the choicest goods from the ships. From here the trucks would leave for Moscow, some six thousand miles away. As we stood there, one train moved out. Two engines pulling a vast array of railroad cars, each engine with five wheels on each side. Giant things which were well kept and which were regarded almost as living creatures by the train crew.
Boris lái xe dọc đường ray. Lính gác ở khắp mọi nơi, từ các hầm ngầm, đám lính có vũ trang kiểm tra dưới gầm tàu, tìm kiếm đám lậu vé.
“Các anh có vẻ rất sợ có ai đó trốn vé tàu nhỉ,” tôi nói, “Đây là điều tôi không hiểu. Có phiền phức gì nếu để họ lên tàu?”
“Tu sĩ,” Boris trả lời một cách phiền não, “anh không biết gì về Cuộc sống cả, đúng như đại úy nói. Kẻ thù của Đảng cộng sản, khủng bố và gián điệp tư bản đều muốn trốn vào các thành phố của chúng tôi. Không một người Nga trung thực nào muốn đi du lịch mà không được chỉ đạo bởi Ủy viên nhân dân của anh ta.”
“Nhưng có nhiều người muốn đi lậu không? Anh làm gì nếu thấy họ?”
Boris drove along beside the tracks. Guards were everywhere, from pits in the ground armed men scanned the undersides of the passing trains, looking for stowaways.
“You seem to be very afraid of anyone illegally riding the trains,” I said, “this is a thing which I do not understand. What harm could it do to allow people to take a ride?”
“Priest,” sadly replied Boris, “you have no knowledge of Life, just as the captain said. Enemies of the Party, saboteurs, and capitalist spies would try to steal into our cities. No honest Russian would want to travel unless so directed by his Commissar.”
“But are there many trying to take rides? What do you do with them when you see them?”
“Làm gì chúng hả? Tất nhiên là bắn luôn chứ sao! Ở đây không có nhiều lậu vé, nhưng mai tôi đưa anh đến Artem và anh sẽ thấy chúng tôi xử lý những thành phần này như thế nào. Đoàn nhân viên tàu khi bắt được ai đó sẽ trói tay hắn lại, buộc dây quanh cổ hắn, và quăng ra khỏi tàu. Nhưng mà thế bẩn đường ray lắm, với cả thu hút lũ sói.” Boris ngồi thụp xuống ghế, đôi mắt nhìn chằm chằm vào những chiếc xe lửa chở những kiện hàng đang lăn bánh. Như thể bị điện giật, anh ta ngồi thẳng người, đạp mạnh chân ga. Chiếc xe lao đi về phía trước đuổi theo đầu xe lửa, và vượt qua đầu tàu. Phanh một cái thật mạnh, Boris nhảy ra, cầm khẩu súng tiểu liên nấp bên cạnh chiếc xe ô tô. Xe lửa chậm rãi chạy ầm ầm qua. Tôi thoáng thấy ai đó đang trốn giữa hai toa xe lửa, và rồi tiếng súng tiểu liên giật đùng đùng. Cái xác ngã xuống sàn giữa khoang tàu. “Bắt được nó rồi!” Boris đắc thắng nói và cẩn thận khắc thêm một nốt trên báng súng. “Thế là năm mươi ba, tu sĩ ạ, năm mươi ba kẻ thù của đảng bị triệt tiêu.”
“Do with them? Why, shoot them, of course! Not many stowaways just here, but tomorrow I am going to Artem and I will take you. There you will see how we deal with such subversive elements. The train crews, when they catch one, tie his hands, slip a rope round his neck, and throw him off. Makes a mess of the track, though, and encourages the wolves.” Boris slumped in the driving seat, his eyes scanning the packed railroad cars trundling along. As if electrified, he sat bolt upright and jabbed the accelerator right down. The car leaped ahead and raced past the head of the train. Slamming on the brakes, Boris jumped out, grabbed his sub-machine-gun, and hid by the side of the car. Slowly the train rumbled by. I caught a glimpse of someone riding between two railroad coaches, and then there was the stuttering stammer of the sub-machine-gun. The body tumbled to the ground between the tracks. “Got him!” said Boris triumphantly, as he carefully cut another nick in the stock of his gun. “That makes fifty-three, Priest, fifty-three enemies of the State accounted for.”
Tôi quay mặt đi, ghê tởm và sợ hãi ra mặt, bởi Boris có thể bắn tôi một phát dễ dàng như anh ta bắn cậu thanh niên kia nếu biết tôi không phải là một tu sĩ quê mùa.
Xe lửa chạy băng qua, và Boris cuốc bộ về phía cái xác đầy máu đã bị bắn. Lật ngửa cái xác bằng chân, anh ta nhìn vào khuôn mặt và nói, “Tôi nhận ra đây là thợ làm ở khu đường ray xe lửa. Đáng lẽ hắn không nên trốn vé. Có lẽ tôi nên bắn vào mặt hắn để đỡ bị hỏi han nhiều.” Nói xong, anh ta đặt miệng súng gần mặt của người đàn ông đã chết và bóp cò. Để lại một cái xác không đầu, anh ta trở lại xe và chúng tôi lái đi.
I turned away, sick at heart, and afraid to show it, for Boris would have shot me as easily as he had shot that man if he had known that I was not the village priest.
The train passed on, and Boris walked to the riddled, bleeding body. Turning it over with his foot he looked at the face, and said, “I recognize this as a railroad worker. He should not have been riding. Perhaps I should blow off his face so there will be no difficult questions.” So saying, he put the muzzle of the gun near the face of the dead man and pulled the trigger. Leaving the now headless corpse, he returned to the car and we drove away.
“Tôi chưa từng đi xe lửa bao giờ, Boris,” Tôi nói.
“Ừm,” anh ấy trả lời, “ngày mai chúng ta sẽ đi Artem bằng xe lửa chở hàng và anh có thể ngắm xung quanh. Tôi có một vài người bạn tốt ở đó, và vì giờ tôi đã lên hàm trung sĩ nên tôi cũng muốn thăm họ.”
Từ lâu tôi đã ấp ủ ý tưởng trốn vé lên mấy con tàu hỏa và tàu thủy để đến Mỹ. Tôi ướm thử với Boris về những kẻ trốn vé lên tàu thủy.
“Boris,” tôi nói, “các anh dành hết thời gian để ngăn mọi người vượt biên qua tàu hỏa. Nhưng mà lại có nhiều tàu thủy thế này, ai mà chả tự tiện lên tàu và trốn lại được?”
“I have never been on a train, Boris,” I said.
“Well,” he replied, “tomorrow we will go to Artem by goods train and you can look around. I have some good friends there I want to meet now that I am a sergeant.”
For long I had cherished the idea of stowing away aboard some ship and steaming off to America. I mentioned ship-stowaways to Boris.
“Boris,” I said, “you spend all your time stopping people at the frontier and making sure there are no stowaways on the trains. Yet all these ships, anyone could walk aboard and stay.”
Boris ngả người về phía sau và cười lớn. “Tu sĩ,” anh ấy cười hô hố, “anh chắc hẳn là một thằng ngốc! Cảnh sát biển sẽ lên tàu cách bờ một dặm và họ kiểm tra tất cả thành viên trong thủy thủ đoàn. Sau đó, họ bịt kín tất cả các cửa hầm tàu và lỗ thông gió, và đổ khí ga chất xyanua lên khoang tàu và các lỗ hổng khác, kể cả thuyền cứu sinh. Họ thường bắt được hàng tá lũ phản động chết cứng đơ.”
Boris leaned back and roared with laughter. “Priest,” he guffawed, “you must be a simpleton! The Water Guards board the ships a mile from the shore and they check all members of the crew. Then they seal all hatches and ventilators, and pour cyanide gas into the holds and other spaces, not forgetting the life-boats. They get a good bag of stiffs from reactionaries who do not know about this.”
Tôi cảm thấy sầu não bởi sự nhẫn tâm khi những người này đối xử mọi việc như trò giải trí và tôi cũng thay đổi suy nghĩ ngay về việc trốn vé tàu!
Hiện tại tôi đang ở Vladivostok, nhưng tôi đã có nhiệm vụ được giao phó trong đời, theo như Lời tiên tri đã nói, tôi phải đi đến Mỹ trước, sau đó đến Anh quốc và trở về khu vực Bắc Mỹ. Vấn đề là – làm sao để tôi trốn thoát khỏi nơi này của thế giới. Tôi đã quyết định tìm hiểu thật kĩ càng về Đường sắt xuyên Siberian, nơi nào tàu không còn bị kiểm tra nữa, và điều gì xảy ra ở cuối đường tàu phía Moscow.
I felt very sick at the callous manner in which these men treated the whole affair as sport, and I hastily changed my mind about stowing aboard ship!
Here I was in Vladivostok, but I had my allotted task in life, and as the Prophecy had stated, I had to go first to America, then to England, and back to the North American continent. The problem was—how to get out of this part of the world. I determined to find out as much as possible about the Trans-Siberian Railway, where the checks and searches ended, and what happened at the Moscow end.
Ngày hôm sau, tôi tập thể dục và cho đám chó ăn sớm, và sau khi chúng đã ngoan ngoãn, tôi khởi hành cùng Boris và ba tên lính gác khác. Chúng tôi di chuyển khoảng năm mươi dặm đến tiền đồn nơi ba người lính đi cùng tôi sẽ thay ca cho ba người khác. Suốt chặng đường những người đàn ông này tán gẫu về số lượng “kẻ tẩu thoát” mà họ đã bắn hạ, và tôi hóng được vài thông tin hữu ích. Tôi nghe được vị trí, khu vực nào không còn kiểm tra nữa, và tôi cũng học được rằng nếu cẩn thận, một người có thể di chuyển đến vùng ngoại ô của Moscow mà không bị bắt.
The next day I exercised and fed the dogs early, and with them well settled, I set out with Boris and three other Guards. We traveled some fifty miles to an outpost where the three Guards were to replace three others. All the way the men were chatting about how many “escapees” they had shot, and I picked up some useful information. I learned the point at which there were no more checks, I learned that if one was careful one could travel to the outskirts of Moscow without being caught.
Tiền sẽ là vấn đề, tôi có thể đoán trước. Tôi kiếm được chút tiền bằng việc làm nhiệm vụ hộ những người lính khác, chữa bệnh cho họ, và qua quan hệ của vài người này, điều trị cho các Đảng viên giàu có trong thành phố. Giống những người lính khác, tôi cũng thường xuyên đến thăm tàu thủy, và lấy phần của mình từ đống hàng hóa mới được bắt giữ. Tất cả “chiến lợi phẩm” của tôi được bán hết thành rúp. Tôi chuẩn bị băng qua Nga.
Money was going to be the problem, that I could see. I made money by standing duty for other men, by treating their ills, and through the good offices of some of them, treating wealthy Party members in the city itself. Like others, I arranged to visit ships, and took my share of the spoils of new train loads. All my “bounty” was turned into roubles. I was preparing to cross Russia.
Khoảng năm tuần sau, đại úy nói với tôi rằng lũ chó hiện giờ sẽ trở về trạm tuần tra. Một Chính ủy mới sẽ đến, và tôi phải rời đi trước khi ông ta đến nơi. Tôi sẽ đi đâu đây? Ông ấy hỏi. Giờ đã hiểu người đàn ông này, tôi trả lời, “Tôi sẽ ở lại Vladivostok, thưa Đồng chí Đại úy. Tôi thích ở đây.”
Gương mặt ông ấy lộ vẻ sợ hãi. “Anh phải rời khỏi đây, rời khỏi vùng này. Ngày mai.”
“Nhưng thưa Đồng chí Đại úy, tôi không có nơi nào để đi, và không có tiền,” tôi trả lời.
“Anh sẽ được chu cấp tiền, đồ ăn, quần áo, và sẽ có phương án đưa anh ra khỏi vùng này.”
“Thưa Đồng chí Đại úy,” tôi lặp lại, “Tôi chẳng biết phải đi đâu cả. Tôi đã làm việc chăm chỉ ở đây, và tôi muốn ở lại Vladivostok.”
Nearly five weeks later the captain told me that the dogs were now going back to their patrol stations. A new Commissar was coming, and I must leave before he arrived. Where was I going? he asked. Knowing my man by now, I replied, “I will remain in Vladivostok, Comrade Captain. I like it here.”
His face grew apprehensive. “You must leave, get right out of the district. Tomorrow.”
“But Comrade Captain, I have nowhere to go, and no money,” I answered.
“You shall be given roubles, food, clothing, and taken out of this district.”
“Comrade Captain,” I reiterated, “I have nowhere to go. I have worked hard here, and I want to stay in Vladivostok.”
Viên đại úy kiên quyết. “Ngày mai chúng tôi sẽ cử lính đến khu ranh giới giáp với thành phố Voroshilov. Anh sẽ được đưa đến đó và bỏ lại. Tôi sẽ viết cho anh một bức thư nói rằng anh đã giúp chúng tôi và anh đã đến nơi đó với sự cho phép của chúng tôi. Như vậy, Cảnh sát Voroshilov sẽ không giữ anh.”
Điều này quá tuyệt vời, hơn cả mong đợi. Tôi đã muốn đến Voroshilov, bởi đó là nơi tôi có ý định lên tàu. Tôi đã biết rằng có thể an toàn đi đến đầu kia thành phố.
The captain was adamant. “Tomorrow we send men to the very limit of our area, to the boundary of Voroshilov. You shall be taken there and left. I will give you a letter saying that you have helped us and you have gone there with our permission. Then the Voroshilov Police will not arrest you.”
This was far better than I had hoped. I wanted to get to Voroshilov, because that was where I intended to board the train. I knew that if I could get to the other side of that city I should be fairly safe.
Ngày hôm sau, với một vài người lính khác, tôi trèo lên một chiếc xe vận tải chở lính cơ động và chiếc xe gầm rú từ nơi xuất phát đến tận Voroshilov. Lần này, tôi mặc một bộ quần áo tươm tất, và một túi ba lô đựng đầy đồ đạc. Tôi cũng có thêm một túi đeo vai đầy đồ ăn. Cũng chả chút day dứt gì dù nhớ rằng bộ quần áo này được lấy từ một kẻ lậu vé đã bị bắn.
“Tôi không biết anh sẽ đi đâu, Tu sĩ” Boris nói, “nhưng Đại úy khai rằng chính ông ta đã huấn luyện lũ chó đó, và vì vậy anh phải rời đi. Anh có thể ngủ ở tiền đồn tối nay, và lên đường vào buổi sáng.”
The next day, with a number of other men, I climbed aboard a fast troop-carrier and we roared up the road on the way to Voroshilov. This time I was wearing a good suit of clothes, and had a large rucksack stuffed with belongings. I also had a shoulder bag full of food. It gave me not a qualm to remember that the clothes I wore had been taken from a dead ship-jumper.
“Don’t know where you are going, Priest,” said Boris, “but the captain has said that he trained those dogs, so you had to leave. You can sleep at the outpost tonight, and be on your way in the morning.”
Đêm đó, tôi trằn trọc. Tôi rất chán nản vì phải rong ruổi, lang thang khắp nơi này đến nơi khác. Quá mệt mỏi với việc sống cùng với Cái Chết luôn luôn sát cánh. Tôi thực sự rất cô đơn khi sống chung với những con người kì lạ này, hoàn toàn trái ngược với lối sống yên bình của tôi.
That night I was unsettled. I was sick and tired of roaming from place to place. Sick and tired of living with Death nudging my elbow. It was utterly lonely living with these people who were so alien, so absolutely opposed to my peaceful way of living.
Buổi sáng, sau một bữa ăn ngon lành, tôi chào tạm biệt Boris và những người lính khác, khoác ba lô lên vai và ra đi. Tôi bước đi hàng dặm, kín đáo, tránh con đường chính, cố đi vòng quanh Voroshilov. Có tiếng nổ ga, gầm rú của một chiếc xe ô tô chạy nhanh đằng sau, một tiếng kít khi tài xế phanh gấp và tôi thấy mình đang đối diện với một nòng súng tiểu liên.
“Anh là ai? Đang đi đâu ?” một hạ sĩ quan cau có, gầm gừ.
“Tôi đang trên đường đến Voroshilov,” tôi trả lời. “Tôi có bức thư từ Đồng chí Đại úy Vassily.”
In the morning, after a good breakfast, I said good-bye to Boris and the others, shouldered my load, and set off. Mile after mile I covered, avoiding the main road, trying to circle Voroshilov. There was the roar of a speeding car behind me, the squeal of hastily-applied brakes and I found myself looking down the muzzle of a sub-machine-gun.
“Who are you? Where are you going?” snarled a scowling corporal.
“I am on my way to Voroshilov,” I replied. “I have a letter here from Comrade Captain Vassily.”
Giật lá thư tôi đang cầm, hắn xé nó ra, cau mày tập trung đọc. Mặt hắn bỗng nở một nụ cười toe toét. “Chúng tôi vừa đi từ chỗ Trung sĩ Boris,” hắn nói. “Lên xe đi, chúng tôi sẽ chở anh đến Voroshilov và thả anh xuống nơi anh muốn.”
Thật phiền toái. Tôi đã cố tránh thành phố! Nhưng rồi tôi trèo lên chiếc xe tuần tra và nhanh chóng đến Voroshilov. Tôi được thả xuống gần Trụ sở Cảnh sát, và khi chiếc xe chạy vào nhà đậu xe, tôi bước đi thoăn thoắt, cố gắng vượt càng nhiều dặm càng tốt trước khi đêm xuống. Tôi dự định cắm trại gần Đường ray để quan sát mọi thứ trong một ngày trước khi trèo lên tàu.
Snatching the letter from me, he tore it open, frowning in the concentration of reading. Then his face broke into a broad grin. “We have just come from Sergeant Boris,” he said. “Get in, we will drive you to Voroshilov and let you off where you say.”
This was a nuisance, I was trying to avoid the city! But I climbed into the patrol car and was speedily driven to Voroshilov. I alighted near the Police Headquarters, and as the car shot off into the garage, I walked smartly along, trying to cover as many miles as possible before nightfall. I planned to camp out near the Railroad and observe what happened for a night and day before climbing aboard.
Các xe lửa chở khách đều dừng lại và bị kiểm tra ở Voroshilov, nhưng xe lửa chở hàng dừng ngay ngoài thành phố, có thể để tránh cho người dân địa phương biết là bao nhiêu người trốn lên tàu bị bắn. Tôi quan sát chăm chú, và quyết định rằng hi vọng duy nhất là lên được con tàu ngay khi nó đang rời bến.
Passenger trains were stopped and checked at Voroshilov, but the goods trains stopped just outside, possibly so that the local people should not see how many stowaways were killed. I watched and watched, and decided that my only hope was to get on a train just as it was pulling out.
Đêm thứ hai, một chuyến xe lửa rất thuận lợi dừng bánh. Một chuyến tàu mà theo kinh nghiệm của tôi có rất nhiều hàng hóa “vay-mượn” trên tàu. Không thể bỏ lỡ chuyến tàu này được, tôi nghĩ, và rón rén dọc theo đường ray, nhòm dưới tàu, kiểm tra những cánh cửa bị khóa, mở những cánh không khóa. Thỉnh thoảng một tiếng súng lại vang lên, kèm theo tiếng ngã uỵch của một cơ thể rơi xuống đất. Lũ chó không có ở đây vì sợ chúng bị bánh xe cán chết. Tôi lăn mình trong đất bụi để cơ thể càng lấm bẩn càng tốt.
On the night of the second day a very desirable train stopped. A train which my experience told me had many “lend-lease” cargoes aboard. This was not one to be missed, I thought, as I eased myself along the tracks, peering under, testing locked doors, opening those which were not locked. Every now and then a shot rang out, followed by the thud of a falling body. Dogs were not used here for fear that they would be killed by the wheels. I rolled in the dust, making myself as dirty as possible.
Đám lính bước qua, săm soi xe lửa, la hét, chiếu những ánh đèn rất mạnh khắp nơi. Không ai nghĩ đến việc kiểm tra phía sau xe lửa mà chỉ tập trung chiếc xe lửa thôi. Tôi nằm sấp xuống sàn đằng sau chúng, nghĩ, “lũ chó của tôi còn hiệu quả hơn thế này nhiều. Có chó thì tôi đã sớm bị phát hiện rồi!”
The guards came by, peering at the train, shouting to each other, flashing powerful lamps. No one thought to look behind the train, and the train only engaged their attention. I, prone on the ground behind them, thought, “my dogs would be far more efficient than this. Dogs would soon have found me!”
Cánh đàn ông hài lòng với cuộc kiểm tra và bỏ đi. Tôi lăn ngang qua đường ray rồi chui vào giữa những bánh xe của một toa tàu. Một cách nhanh chóng, tôi trèo trục bánh và buộc sợi dây đã mang theo vào một cái móc chìa ra. Thít chặt nó vào một cái móc phía bên kia toa tàu, tôi vươn lên và buộc thân mình sát đáy sàn tàu – vị trí duy nhất có thể tránh việc bị phát hiện. Việc này tôi đã lên kế hoạch trong một tháng. Chiếc tàu bắt đầu với một cú giật mạnh khiến tôi suýt văng ra, và như đã đoán trước được, một chiếc xe jeep chạy bên cạnh đường, với lính vũ trang chăm chú soi đèn vào những thanh trục. Tôi ép mình chặt hơn vào sàn tàu, cảm giác như một người đàn ông trần truồng đứng trước các ni sư! Xe jeep chạy qua chạy lại, và cuối cùng cũng khuất ra khỏi tầm nhìn cũng như cuộc đời tôi. Chuyến tàu tiếp tục xình xịch chạy. Trong khoảng năm hay sáu dặm, tôi cố giữ vị trí bất động đau đớn của mình, và khi hoàn toàn cảm thấy đã hết nguy hiểm, tôi chậm rãi thả lỏng dây buộc quanh mình và xoay xở để giữ cân bằng trên một miếng bìa trên trục bánh xe.
The men, satisfied with their search, strolled off. I rolled sideways to the track and darted between the wheels of a railroad car. Quickly I climbed on to an axle and hitched a rope I had ready to a projecting lug. Fastening it to the other side, I drew myself up and tied myself to the bottom of the railroad car floor—in the only position which would escape scrutiny. This I had planned for a month. The train started with a jerk which nearly dislodged me, and as I anticipated, a jeep with a spotlight came racing alongside, with armed guards peering at the axle-bars. I drew myself tighter to the floor, feeling as a naked man would before a convention of nuns! The jeep raced on, turned and came back, and passed out of my sight and life. The train rumbled on. For five or six miles I held grimly to my painful position, then convinced that the danger was over, I slowly eased myself out from the rope and managed to balance on one of the covers of the axles.
Thoải mái được một lúc, rồi tôi bắt đầu thầy cảm giác chân tay bị chuột rút, đau đớn trong lằn dây thít lại. Dần dần, một cách cẩn trọng, tôi ép mình xuống cuối toa, và xoay xở nắm lấy được một thanh sắt. Có lẽ mất khoảng nửa tiếng, tôi ngồi sụp trên các khớp nối tàu, rồi đu mình lên một cái bục đang lắc lư, cuối cùng cũng mò mẫm trèo lên được nóc tàu. Trời giờ khá tối, ngoại trừ ánh sáng từ các ngôi sao. Trăng còn chưa nhô lên, và tôi biết phải nhanh chóng chui được vào toa chở hàng trước khi nhân viên tàu phát hiện thấy mình trong ánh trăng Siberia. Trên nóc tàu, tôi buộc chặt một đầu dây quanh người, đầu kia vào thanh sắt trên nóc, rồi trượt xuống một bên, nhả dần sợi dây đang nắm. Tới cạnh tàu gồ ghề, tôi nhanh chóng mở khóa cửa bằng chìa tôi lấy được ở Vladivostok, một chìa khóa mở được cửa tất cả các toa. Cánh cửa trơn tuột khiến tôi rất vất vả mới bò được vào trong, ánh trăng vừa lên chiếu sáng khiến tôi thêm phần động lực. Thả một đầu dây, tôi giật và kéo cho đến khi cả đoạn dây nằm trong tay. Run rẩy vì kiệt sức, tôi đóng cửa và ngã xuống sàn.
For a time I rested as best I could, getting feeling back into my cramped and aching limbs. Then slowly, cautiously, I edged myself along to the end of the railroad car and managed to grasp an iron bar. For perhaps half an hour I sat on the couplings, then drawing myself up on that swaying platform, I crept blindly around the end and on to the roof. It was quite dark now, except for the starlight. The moon had not yet risen, and I knew that I had to work fast to get inside a wagon before any prowling trainman saw me in the Siberian moonlight. On the roof I tied an end of the rope around me, passed the other end around the roof-rail, and slid cautiously down over the side, paying out the rope I held. Bumping and scraping along the rough edges, I soon managed to unlock the door with a key which I had obtained in Vladivostok for the purpose—one key fitted all the train locks. It proved to be fantastically difficult to slide the door open as I swung like a pendulum, but sight of the first rays of the bright moon gave me that extra impetus, the door slid open and I crawled exhaustedly inside. Relinquishing the free end of the rope, I jerked and pulled until the whole length was in my hands. Shaking with utter exhaustion, I slid the door shut and dropped to the floor.
Hai hoặc ba ngày sau – thật khó để nhận biết thời gian trong những điều kiện như thế này – tôi cảm thấy tàu đi chậm lại. Vội vàng tiến đến phía cửa, tôi ngó qua một khe hở và nhòm ra ngoài. Không có gì ngoài tuyết, tôi vội vã chạy sang phía bên kia. Lính gác tàu đang chạy đuổi theo sau một đám tị nạn. Một cuộc kiểm tra lớn đang đang diễn ra. Vác đống hành lí lên người, tôi lăn qua một bên và đáp xuống tuyết. Luồn lách, chui rúc giữa những bánh xe, tôi xoay xở để đánh lạc hướng, xóa dấu vết trên tuyết của mình. Trong lúc tôi còn đang nấp thì chiếc tàu bắt đầu di chuyển. Tôi tuyệt vọng bám lấy một khớp nối toa phủ đầy băng. Rất may mắn, tôi kịp vòng cánh tay qua một cái móc, treo người trên đó, chân lơ lửng, cho đến khi một cú lắc đột ngột khiến tôi có thể nâng người lên trên tàu.
Two or three days later—one loses all count of time under such conditions—I felt the train slowing. Hurrying to the door, I opened it a crack and peered out. There was nothing to be seen except snow, so I rushed to the other side. Train guards were running along after a group of refugees. Obviously a big search was under way. Picking up my belongings, I dropped over the side and into the snow. Dodging and twisting between the wheels of the trucks I managed to completely confuse my snow-trail. While I was still at it, the train started to move, and I grabbed desperately at the nearest icy coupling. By great good fortune I managed to get my arms around one, and I hung there, feet dangling, until a sudden jolt enabled me to get my legs up as well.
Tôi đứng dậy và nhận ra đang ở cuối một toa tàu được phủ bởi lớp bạt đông cứng. Các nút dây thừng đóng đầy băng, vải bạt cứng như sắt. Tôi đứng lên những chiếc khớp nối phủ băng đang đung đưa, và cố gắng gỡ những nút dây thừng ra. Tôi thổi hơi vào chúng, mong có thể tan chảy, nhưng hơi thở của tôi cũng đóng băng luôn khiến cho sợi dây càng đông cứng. Tôi cọ sợi dây liên tục vào thành toa tàu. Bóng tối bao trùm khi những sợi dây cuối cùng bị cắt đứt, và tôi, đã vô cùng nỗ lực moi góc tấm bạt và bò vào. Khi vừa ngã xuống sàn bên trong, một gã đàn ông nhảy đến phía tôi, vung một thanh sắt sắc nhọn vào cổ họng tôi. Bản năng và thói quen tự vệ đã cứu thoát tôi, gã đàn ông ngay sau đó ôm lấy cánh tay bị gãy và rên rĩ. Hai gã đàn ông khác tiến đến phía tôi, một người cầm gậy sắt, người kia cầm chai thủy tinh bị vỡ đầy góc nhọn. Với một người đã được huấn luyện như tôi thì họ chẳng là gì cả, và họ ngay lập tức bị tước vũ khí. Theo luật rừng, ai mạnh nhất sẽ là vua! Giờ tôi đã đánh bại hết tất cả nên họ trở thành thuộc hạ của tôi.
Standing up, I found that I was at the end of a truck which was covered with a stiff, frozen tarpaulin. The knots were solid ice, the heavy canvas was like sheet iron. I stood upon the swaying, ice-covered couplings battling with the icy knots. I breathed upon them, hoping that they would soften, but my breath froze and made the ice thicker. I dragged the rope backwards and forwards against the metal of the truck side. Darkness was falling when the last frayed strand parted, and I was able, with immense effort, to prise up an edge of the canvas and crawl inside. Inside, as I fell to the floor, a man jumped at me, flailing a piece of sharp steel at my throat. Instinct and habit came to my rescue, and the man was soon nursing a broken arm and moaning. Two other men came at me, one with an iron bar and one with a broken jagged bottle. To one with my training, they presented no real problem, and they were soon disarmed. Here was the law of the jungle, the strongest man was king! Now that I had beaten them, they were my servants.
Toa tàu chở đầy hạt ngũ cốc, và chúng tôi ăn sống như vậy. Đồ uống sử dụng tuyết, hoặc những tảng băng được được đập ra khỏi tấm bạt. Chúng tôi không có gì để sưởi ấm, bởi không có cái gì để đốt, nếu có thì lính gác tàu cũng sẽ phát hiện ra khói. Tôi có thể chịu đựng được cái lạnh, nhưng người đàn ông với cánh tay gãy đã đóng băng thì chỉ trong một đêm chúng tôi phải đẩy anh ta ra khỏi tàu.
Siberia không chỉ toàn tuyết, nhiều khu vực là đồi núi, giống dãy núi Rockies ở Canada, và một số nơi xanh tươi như ở Ireland. Dù sao, lúc này chúng tôi có gặp khó khăn với tuyết, bởi thời điểm này là mùa tồi tệ nhất để đi du lịch.
The wagon was full of grain which we ate just as it was. For drink we collected snow or sucked ice which we broke from the tarpaulin. We could get no warmth, for there was nothing to burn, and the train crew would have seen the smoke. I could manage with the cold, but the man with the broken arm froze solid one night and we had to dump him over the side.
Siberia is not all snow, parts of it are mountainous, like the Canadian Rockies, and other parts are as green as Ireland. Now, though, we were troubled with snow, for this was the worst season in which to be traveling.
Chúng tôi nhận ra rằng hạt ngũ cốc ảnh hưởng tồi tệ đến mình, nó khiến chúng tôi bị phù và kiết lỵ nghiêm trọng, làm chúng tôi suy yếu đến mức còn không quan tâm mình sẽ sống hay chết nữa. Cuối cùng, chứng kiết lỵ dịu dần đi, và chúng tôi chịu đựng sự khổ sở dằn vặt của cơn đói. Tôi cúi người về phía sợi dây thừng và đập vụn, cạo lấy lớp dầu mỡ từ hộp trục xe. Chúng tôi đã ăn nó, ói mửa, nôn ọe khủng khiếp trong lúc đó.
Con tàu tiếp tục lao ầm ầm. Quanh phía cuối hồ Baykal, tới Omsk. Như tôi biết, ở đây các toa tàu sẽ bị tháo gỡ ra và lắp lại. Tôi sẽ phải nhảy ra khỏi tàu trước khi nó đến thành phố, và lên một chuyến tàu khác đã được ráp toa. Kể lể chi tiết về những thử thách và gian nan trong quá trình đổi tàu cũng chả ích gì, nhưng cuối cùng tôi, một người Nga và một người Trung Quốc đã trèo lên được một chuyến tàu chuyên chở hàng nhanh đến Moscow.
We found that the grain disturbed us badly, it caused us to swell up, and gave us severe dysentery, weakening us so much that we hardly cared whether we lived or died. At last the dysentery abated, and we suffered the sharp pangs of starvation. I lowered myself over the side with my rope and scraped the grease from the axle boxes. We ate that, retching horribly in the process.
The train rumbled on. Around the end of Lake Baykal, on to Omsk. Here, as I knew, it would be shunted and reassembled, I should have to leave before reaching the city, and jump aboard another train which had been remade. There is no point in detailing all the trials and tribulations of the change of trains, but I, in company with a Russian and a Chinaman, managed to board a fast freight train to Moscow.
Con tàu trông ổn. Tôi mở một toa xe bằng chiếc chìa khóa được bảo quản kĩ của mình và chui vào trong, ẩn nấp dưới bóng tối mờ ảo không trăng. Toa xe chật ních, và chúng tôi phải dùng sức để chui vào. Không có bất kì tia sáng le lói nào và chúng tôi chẳng biết xung quanh là gì. Một điều bất thú vị đang chờ chúng tôi vào sáng sớm. Đang đói cồn cào, tôi thấy một góc toa tàu được chất đống đầy các bưu kiện của Hội Chữ Thập Đỏ có vẻ đã không đến được nơi nhận, mà được “giải phóng” bởi mấy gã người Nga. Thế là giờ chúng tôi lên đời rồi. Sô cô la, đồ hộp, sữa hộp, tất cả mọi thứ. Chúng tôi còn thấy một bưu kiện có chiếc bếp lò nhỏ, với nguyên liệu không khói, dạng rắn.
The train was in good condition. My carefully-preserved key opened a wagon and we clambered inside, hidden by the darkness of a moonless night. The wagon was very full, and we had to force our way in. There was no glimmer of light and we had no idea of the contents. A pleasant surprise awaited us in the morning. We were starving, and I saw that one corner of the wagon was stacked with Red Cross parcels which had apparently not reached their destination, but had been “liberated” by the Russians. Now we lived well. Chocolate, canned foods, canned milk, everything. We even found in a parcel a little stove with a supply of solid, smokeless fuel.
Lục tung đống hàng, chúng tôi tìm thấy đống quần áo và báo chí, giấy tờ có thể đã bị cướp từ cửa hàng ở Thượng Hải. Máy quay, ống nhòm, đồng hồ. Chúng tôi mặc quần áo tinh tươm, vì quần áo của chúng tôi đang trong tình trạng thậm tệ. Mong muốn lớn nhất của chúng tôi là nước. Chúng tôi phải lấy tuyết và cạo chúng ra.
Investigating the bales, we found them to be full of clothing and articles which could have been looted from Shanghai stores. Cameras, binoculars, watches. We fitted ourselves out in good clothes, for ours were in a shocking state. Our greatest need was for water. We had to depend upon snow which we could scrape off ledges.
Bốn tuần và sáu ngàn dặm sau khi rời khỏi Vladivostok, chuyến tàu đang gần đến Noginsk, cách Moscow khoảng ba mươi hoặc bốn mươi dặm. Cả ba chúng tôi ngồi thảo luận và quyết định rằng khi nào thấy nhân viên tàu hoạt động nhiều hơn – vì chúng tôi nghe thấy họ đi qua lại trên nóc tàu – thì chúng tôi sẽ rời khỏi tàu.
Một cách kỹ càng, chúng tôi kiểm tra lẫn nhau để đảm bảo rằng không có gì trông đáng ngờ, rồi chúng tôi lấy một chút đồ ăn và “vật phẩm” mang theo. Cậu người Trung đi trước, và khi chúng tôi đóng cánh cửa lại, tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Ba hoặc bốn tiếng sau đó, cậu người Nga nhảy ra ngoài, rồi khoảng nửa tiếng, tôi cũng làm tương tự.
Four weeks and six thousand miles after I left Vladivostok, the train was approaching Noginsk, some thirty or forty miles from Moscow. The three of us held a discussion and decided that as the train crews were becoming active—we heard them walking across our roofs—we would be wise to leave.
Very carefully we inspected each other to make sure that there was nothing suspicious about us, then we picked a very good supply of food and “treasures” with which to barter. The Chinaman went first, and as we slid the door shut after him, I heard rifle fire. Three or four hours later the Russian dropped off, followed by me after a half-hour interval.
Tôi di chuyển chậm chạp trong bóng tối, khá chắc chắn với con đường của mình, vì người Nga, một người gốc Moscow bị lưu đày ở Siberia, đã hướng dẫn chúng tôi rất cẩn thận. Tới sáng, tôi đã đi được hai mươi dặm, và đôi chân vì từng bị đánh đập liên tục trong nhà tù khiến tôi rất đau đớn.
I plodded along in the dark, quite sure of my way, for the Russian, a native of Moscow who had been exiled in Siberia, had carefully coached us. By morning I had covered a good twenty miles, and my legs, so badly battered in prison camps, were troubling me greatly.
Ở một khu vực ăn uống, tôi đưa giấy tờ của mình là hạ sĩ Bộ đội Biên phòng. Những thứ này thuộc về Andrei; tôi được bảo lấy hết đồ đạc của anh ta nhưng không ai nghĩ đến việc nói thêm “ngoại trừ các loại giấy tờ hợp pháp và thẻ căn cước”. Cô phục vụ trông có vẻ đăm chiêu và gọi cảnh sát đang đứng bên ngoài. Ông ta bước vào và họ trao đổi với tôi rất lâu. Không, tôi không có thẻ cấp khẩu phần ăn, tôi đã sơ ý bỏ lại nó ở Vladivostok, quy định thực phẩm không được áp dụng cho Bộ đội ở Vladivostok. Ông cảnh sát lật giở đống giấy tờ của tôi rồi nói, “Anh sẽ phải ăn ở Chợ Đen cho đến khi anh có thể đến Cục Thực Phẩm và lấy một chiếc thẻ khác. Trước đó, họ sẽ liên lạc với Vladivostok.” Nói xong, ông ta quay đầu đi.
In an eating place I showed my papers as a corporal in the Frontier Guards. These were Andrei’s; I had been told that I could have all his belongings, and no one had thought of adding “except his official papers and Identity Card”. The waitress looked doubtful, and called a policeman who was standing outside. He came in and there was much discussion. No, I had no food ration card, I had inadvertently left it in Vladivostok, food regulations were not enforced for the Guards at Vladivostok. The policeman fiddled with my papers, and then said, “You will have to eat on the Black Market until you can get to the Food Bureau and obtain another Card. They will have to get in touch with Vladivostok first.” With that he turned and walked away.
Cô phục vụ nhún vai. “Lấy những gì anh muốn đi, Đồng chí, nhưng nó sẽ đắt gấp năm lần giá gốc đấy.” Cô ấy đưa tôi chút bánh mì đen có vị chua, và chút mứt trông lạ lùng và hương vị thì còn tệ hơn. Cô ấy hiểu nhầm cách tôi ra hiệu gọi “đồ uống” và đem cho tôi một thứ gì đó khiến tôi suýt ngất ngay tại chỗ. Chỉ uống một ngụm mà tôi nghĩ mình bị đầu độc. Một ngụm là đủ, nhưng cô phục vụ còn tính thêm cả tiền nước lọc trong khi cô ấy đã uống ừng ực hết cốc bia đắt đỏ mà tôi phải trả tiền.
The waitress shrugged her shoulders. “Have what you like, Comrade, it will cost you five times the official price.” She brought me some sour, black bread and some awful-looking and worse-tasting paste. She misunderstood my signs for “drink” and brought me some stuff which almost made me pass out on the spot. One sip of it, and I thought I had been poisoned. One sip was enough, but the waitress even charged me for water while she slurped up the vile brew for which I had paid so much.
Khi tôi rời đi, viên cảnh sát đang đợi. Anh ta bước theo cùng tôi. “Khá bất thường, Đồng chí ạ, khi đi bộ với túi hành lý trên vai. Tôi tự hỏi có nên đưa anh đến Đồn để thẩm vấn. Đồng chí có dư cái đồng hồ nào không, để giúp tôi quên đi trách nhiệm của mình?”
As I left the policeman was waiting. He fell into step as I walked along. “This is very irregular, Comrade, walking with a pack on your back. I wonder if I should not take you to the Station for interrogation. Have you a spare watch on you, Comrade, to make me forget my duty?”
Tôi im lặng lục lọi ví và lôi ra một trong những chiếc đồng hồ đã lấy được trên tàu. Viên cảnh sát cầm lấy, liếc nhìn nó rồi nói, “Moscow – đi thẳng phía trước. Tránh đường lớn và anh sẽ ổn thôi.” Rồi hắn ta bỏ đi.
Silently I fumbled in my pocket, and then I produced one of the watches I had taken from the train. The policeman took it, glanced at it, and said, “Moscow—straight ahead. Avoid the main thoroughfare and you will be all right.” Then he turned and walked away.
Tôi bước đi nặng nề, mệt nhọc trên những con đường phụ, cẩn trọng quan sát nhỡ có viên cảnh sát nào đòi thêm đồng hồ. Theo kinh nghiệm của tôi, đám người Nga có một sự khao khát đáng sợ với đồng hồ. Nhiều trong số họ không biết đọc thời gian nhưng chỉ cần sở hữu một chiếc đồng hồ khiến họ thỏa mãn một cách kỳ lạ. Một người đàn ông gầy gò lảo đảo, đi chập choạng trước mặt tôi đột nhiên rơi xuống rãnh nước bên đường. Người qua đường không thèm nhìn ông ta mà đi thẳng. Tôi tính tiến đến gần anh ta nhưng một ông lão phía sau tôi lẩm bẩm, “Cẩn trọng, Đồng chí, nếu cậu tiến đến chỗ anh ta, cảnh sát sẽ nghĩ cậu đang cướp bóc. Dù sao anh ta cũng chết rồi. Chết đói. Chuyện này xảy ra hàng trăm mạng mỗi ngày.”
I plodded along the side roads, keeping a good look-out for policemen who might demand watches. It seemed to me, from my own experience, that Russians had a simply dreadful craving for watches. Many of them could not tell the time, but the mere fact of having a watch seemed to satisfy them in some strange manner. An emaciated man tottering ahead of me suddenly swayed and fell on to his face in the gutter at the side of the road. Passers-by did not even glance at him, but went on their way. I made as if to go to him when an old man just behind me muttered, “Careful, Comrade stranger, if you go to him the police will think you are looting. He is dead anyway. Starvation. It happens to hundreds here every day.”
Gật đầu cảm ơn, tôi bước thẳng đi. “Nơi này thật tồi tệ,” tôi nghĩ, “mọi người chống lại người anh em của mình. Chắc hẳn bởi họ không có đức tin để dẫn lối.”
Đêm hôm đó, tôi nằm ngủ sau bức tường đổ nát, bong tróc của một nhà thờ bỏ hoang, với khoảng ba trăm người khác nằm quanh đó. Chiếc ba lô trở thành gối, và suốt đêm ấy, tôi cảm thấy có đôi tay lén lút, vụng trộm cố tháo dây quai ra. Một cú đánh nhanh vào cổ của tên trộm khiến anh ta thở hổn hển, quay cuồng, lảo đảo bỏ đi, thế là đêm đó tôi không gặp phải phiền toái nữa.
Nodding my thanks, I walked straight on. “This is a terrible place,” I thought, “with every man’s hand against his fellows. It must be because they have no religion to guide them.”
That night I slept behind the crumbling wall of a derelict Church. Slept, with about three hundred others for company. My rucksack was my pillow, and during the night I felt stealthy hands trying to unfasten the straps. A quick blow to the would-be thief’s throat sent him gasping and reeling backwards, and I was not troubled again.
Vào buổi sáng, tôi mua đồ ăn ở Chợ Đen Chính Phủ, vì ở Nga, Chính phủ nắm giữ và vận hành Chợ Đen, và sau đó tiếp tục lên đường. Gã người Nga trên tàu đã bảo tôi nên đóng giả làm khách du lịch và đeo máy ảnh quanh cổ. Tôi không có phim, và trong những ngày đó hầu như chả biết gì về máy ảnh.
In the morning I bought food on the Government Black Market, for in Russia the Government runs the Black Market, and then continued on my way. The Russian on the train had told me to pose as a tourist and to hang a camera (taken from the train) around my neck. I had no film, and in those days hardly knew one side of the camera from the other.
Chẳng mấy chốc, tôi thấy mình ở khu vực sáng sủa hơn của Moscow, nơi khách du lịch bình thường được chiêm ngưỡng, nhưng họ không hề thấy “hậu trường” – cái nghèo khổ và chết chóc tồn tại trong khu ổ chuột. Sông Moscow trước mặt, và tôi đi bộ dọc theo bờ một lúc trước khi rẽ qua Quảng Trường Đỏ. Điện Kremlin và Lăng Lenin không hề khiến tôi ấn tượng. Tôi từng quá quen với vẻ nguy nga diễm lệ của Cung điện Potala rồi. Gần đến cổng Kremlin, một nhóm người đứng đợi chờ, thất thần, nhếch nhác, trông như thể trâu bò, gia súc được đưa đến đây vậy. Với một tiếng “vù”, ba chiếc ô tô màu đen khổng lồ ập tới, vượt qua Quảng Trường, và biến mất trong cảnh mờ mịt của đường phố. Khi nhận thấy đám người lờ đờ kia đang nhìn về phía của tôi, tôi giơ chiếc máy ảnh lên. Đột nhiên tôi cảm thấy một cơn đau nhói kinh khủng xé ngang qua đầu. Trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ một tòa nhà đã đổ xầm vào đầu mình. Tôi ngã xuống đất, và chiếc máy ảnh bị đập văng khỏi tay.
Soon I found myself in the better part of Moscow, the part that the ordinary tourist sees, for the ordinary tourist does not see “behind the scenes”,—the misery, poverty and death which exists in the slum side streets. The Moscow River was before me, and I walked along its banks for a time before turning up into Red Square. The Kremlin, and the Tomb of Lenin impressed me not at all. I was used to the grandeur and sparkling beauty of the Potala. Near an entrance to the Kremlin a small group of people waited, apathetic, slovenly, looking as if they had been driven there like cattle. With a “swoosh” three huge black cars rushed out, across the Square, and disappeared into the obscurity of the streets. As people were looking dully in my direction, I half raised the camera. Suddenly I felt a terrific pain shoot through my head. For a moment I thought that a building had fallen on me. I fell to the ground, and the camera was smashed from my hands.
Đám lính Xô Viết vạm vỡ, dữ tợn kéo tôi lên; một trong số chúng còn dồn dập, lạnh lùng đá vào xương sườn của tôi để khiến tôi đứng dậy. Tôi vẫn choáng váng, bị đánh nửa bất tỉnh nên thật khó để tôi có thể đứng lên được, nên hai ông cảnh sát cúi xuống và kéo tôi lên một cách thô bạo. Họ bắn một tràng câu hỏi vào mặt tôi, nhưng nói quá nhanh và với giọng Moscow thì tôi chẳng hiểu từ nào. Sau cùng, mệt mỏi vì tra vấn mà không thu được gì, họ dẫn giải tôi dọc qua Quảng Trường Đỏ, mỗi bên một viên cảnh sát, và một tay ở đằng sau với khẩu súng lục chọc vào gáy đau đớn.
Towering Soviet guards stood over me; one of them was methodically and unemotionally kicking me in the ribs in order to make me rise to my feet. Half stunned as I was, it was difficult for me to rise, so two policemen reached down and roughly dragged me to my feet. They fired questions at me, but they spoke so rapidly and in such a “Moscow accent” that I understood not a word. At last, tired of asking questions and getting no reply, they marched me off along Red Square, a policeman on each side, and one behind me with a huge revolver poking painfully into my spine.
Chúng tôi dừng lại tại một tòa nhà trông có vẻ lạnh lẽo và bước vào cửa hầm. Tôi bị đẩy mạnh, mà nói quăng thì đúng hơn – xuống một vài bậc đá vào trong căn phòng nhỏ. Một viên sĩ quan đang ngồi trên bàn, với hai lính gác có vũ khí đứng canh bên tường. Tay cảnh sát áp giải tôi lải nhải một tràng dài với viên sĩ quan, đặt túi ba lô của tôi xuống sàn cạnh hắn. Viên sĩ quan viết một tờ giấy biên nhận tôi với đống đồ đạc, rồi tay cảnh sát quay người rời đi.
We stopped at a dismal-looking building, and entered by a basement door. I was roughly pushed—shoved would be a better word—down some stone steps and into a small room. An officer was sitting at a table, with two armed guards standing by a wall of the room. The senior policeman in charge of me gabbled out a lengthy explanation to the officer, and placed my rucksack on the floor beside him. The officer wrote what was obviously a receipt for me and for my belongings, and then the policemen turned and left.
Tôi bị đẩy thô bạo sang một căn phòng khác rộng hơn, đứng một mình trước chiếc bàn lớn, mỗi bên một tên lính gác được vũ trang. Một lát sau, ba gã đàn ông bước đến, ngồi xuống bàn và lục lọi mọi thứ trong ba lô của tôi. Một tên gọi điện cho viên trợ lý, đưa chiếc máy ảnh của tôi khi hắn vào, kèm vài lời chỉ dẫn ngắn gọn. Viên trợ lý quay đầu đi ra ngoài, cầm theo chiếc máy ảnh vô hại một cách cẩn thận như thế nó là quả bom sắp phát nổ.
I was roughly pushed into another room, a very large one, and left standing before an immense desk, with an armed guard on each side of me. Some time later, three men came in and seated themselves at the desk and went through the contents of my rucksack. One rang for an attendant, and, when he entered, gave him my camera, giving him brusque instructions. The man turned and went off, carefully carrying that inoffensive camera as if it were a bomb about to explode.
Chúng liên tục hỏi tôi những câu tôi không hiểu. Cuối cùng, chúng gọi một phiên dịch viên, rồi một người khác, người khác nữa đến khi tìm được người có thể nói chuyện được với tôi. Tôi bị lột hết quần áo và bị khám bởi một bác sĩ. Tất cả đường chỉ nối quần áo đều bị khám nghiệm, và một số bị xé toạc. Sau cùng, đống quần áo bị quăng trả lại trước mặt tôi, nhưng không còn cúc, thắt lưng và dây giày. Được lệnh, lính gác đẩy tôi ra khỏi phòng, mang theo đống quần áo, dẫn tôi đi qua hết hành lang này đến hành lang khác. Chúng không tạo ra chút tiếng động nào, chân mang dép lê nỉ, và cũng không hề nói chuyện với nhau hay với tôi. Sau khi chúng tôi đi hết đoạn đường đầy yên lặng, một tiếng thét ghê rợn vang lên và run rẩy trong hư không. Tôi vô tình đi chậm lại nhưng bị tên lính gác đằng sau giật cho một cú thật mạnh ở vai khiến tôi cảm tưởng anh ta đánh gãy cổ tôi rồi.
They kept on asking me questions which I could not understand. At last, they called an interpreter, then another, and another until they found one who could converse with me. I was stripped of my clothes and examined by a doctor. All the seams of my clothing were examined, and some of them were ripped open. At last my clothes were flung at me, less buttons, less belt and shoe laces. At a command the guards hustled me out of the room, carrying my clothes, and marched me along corridor after corridor. They made no sound, felt slippers were on their feet, nor did they speak to each other or to me. As we marched silently along, a really blood-curdling scream rose and fell quavering on the still air. I involuntarily slowed down, but the guard behind me jumped at my shoulder with such force that I thought he had broken my neck.
Cuối cùng, chúng tôi dừng lại trước một cánh cửa màu đỏ. Một tên lính mở khóa, và tôi bị đẩy vào, lăn qua ba bậc thềm đá. Phòng ngục thật tăm tối và ẩm ướt. Chiều ngang khoảng 6 feet, chiều dọc 12 feet, kèm một chiếc chăn hôi thối trên sàn. Trong một thời gian không xác định được, tôi ở trong bóng tối, cảm thấy đói và tự hỏi tại sao loài người lại có bản tính thật man rợ.
At last we stopped at a red door. A guard unlocked it, and I was pushed in to fall headlong down three stone steps. The cell was dark and very damp. It was about six feet by twelve feet, with a foul and stinking mattress on the floor. For a quite unknown time I stayed there in the darkness, becoming hungrier and hungrier, wondering why mankind had such a savage nature.
Thật lâu sau đó, một khoanh bánh mì đen chua và một bình nước lợ nhỏ được đẩy vào. Tên lính im lặng thúc tôi uống nước. Tôi uống được một ngụm thì hắn ta giật lấy chiếc bình khỏi miệng tôi, đổ hết nước xuống sàn và đi ra ngoài. Cánh cửa đóng lại một cách lặng lẽ. Không một tiếng động ngoại trừ những tiếng la hét ghê gớm thi thoảng xuất hiện vì bị đàn áp bạo lực. Thời gian trôi qua chậm chạp. Tôi gặm nhấm chiếc bánh mì đen chua. Tôi đói và nghĩ có thể ăn được bất cứ thứ gì nhưng chiếc bánh mì này thật tệ; nó bốc mùi như thế từng bị kéo qua một hầm chứa phân.
After a very long interval, a hunk of sour black bread and a small jug of brackish water was passed in. The silent guard motioned for me to drink the water then. I took a gulp, and he snatched the jug from my lips, poured the water on the floor, and went out. The door closed silently. There was no sound except occasional hideous screams which were quickly and violently suppressed. Time crawled on. I nibbled at the sour black bread. I was hungry and thought that I could have eaten anything, but this bread was terrible; it stank as if it had been dragged through a cesspool.
Phải rất lâu sau, lâu đến mức tôi tưởng như bị bỏ quên rồi thì đám lính có vũ trang đến phòng ngục một cách lặng lẽ. Không nói một lời, chúng ám chỉ tôi phải đi theo chúng. Không còn lựa chọn nào khác, tôi đi theo và chúng tôi bước qua những hành lang vô tận, cảm tưởng như đang bước tại chỗ đầy hồi hộp. Cuối cùng, tôi được đẩy vào một căn phòng dài có một bức tường sơn trắng phía cuối. Lính gác thô bạo xích tay tôi ra đằng sau, và đẩy tôi đối diện với bức tường trắng. Trong một hồi lâu, không điều gì xảy ra rồi thứ ánh sáng chói mắt đầy mạnh mẽ được bật lên và chiếu thẳng vào tường trắng. Cảm giác như thể đôi mắt của tôi bị cháy xém dù đã khép lại. Lính gác đeo kính đen. Ánh đèn nhấp nháy theo từng nhịp. Cảm giác như thể kim châm đang chọc vào con mắt tôi.
A long time after, so long that I feared I was quite forgotten, armed guards came silently to my cell. Not a word was spoken; they gestured for me to go with them. Having no choice, I did so, and we tramped through endless corridors, giving me the impression that we were retracing our steps time after time in order to build up a suspense. At last I was marched into a long room which had a brightly painted white wall at one end. Roughly the guards manacled my arms behind me, and turned me to face the white wall. For long moments nothing happened, then very powerful, utterly dazzling lights were switched on so as to reflect from the white wall. It felt as if my eyeballs were being scorched even with my eyes shut. The guards wore dark glasses. The light beat down in waves. The sensation was as if needles were being pushed into my eyes.
Cánh cửa mở ra và đóng lại một cách nhẹ nhàng. Có tiếng cọt kẹt của ghế và tiếng sột soạt của giấy tờ. Một đoạn trò chuyện lẩm bẩm thì thầm mà tôi không hiểu. Sau đó, một đòn từ khẩu súng trường vào giữa vai tôi, và cuộc tra tấn bắt đầu. Tại sao tôi có máy ảnh mà không có cuộn film bên trong? Tại sao tôi có giấy tờ của một Lính gác Biên giới đóng tại Vladivostok? Như thế nào? Tại sao? Khi nào? Hàng giờ đồng hồ với những câu hỏi ngu xuẩn lặp đi lặp lại. Ánh đèn sáng chói khiến tôi đau đầu. Một đòn đánh từ báng súng nếu như tôi từ chối trả lời. Thời gian giải lao, nghỉ ngơi duy nhất là khoảng nghỉ cho mỗi hai tiếng khi lính gác và người hỏi cung được đổi ca và vì đám lính cũng mệt mỏi bởi ánh đèn chói chang.
A door softly opened and shut. The scrape of chairs and the rustle of papers. A low-voiced muttered conversation which I did not understand. Then—the blow of a rifle-butt between my shoulders, and the questioning began. Why had I a camera which had no film in it? Why had I the papers of a Frontier Guard stationed at Vladivostok. How? Why? When? Hour after hour the same stupid questions. The light blazed on, giving me a splitting headache. A blow from a gun-butt if I refused to answer. The only respite was for a few moments every two hours when the guards and questioners were replaced by fresh ones; for the guards too became exhausted by the bright lights.
Sau những gì xảy ra dường như vô tận, mà thực tại chắc không quá sáu tiếng, tôi gục xuống sàn. Đám lính gác lạnh lùng đâm tôi bằng lưỡi lê sắc nhọn của chúng. Găng gượng, đánh vật với đôi chân khi hai cánh tay bị trói giật đằng sau thật khó chịu, nhưng tôi đã gượng dậy, hết lần này đến lần khác. Khi tôi bắt đầu mất ý thức, những xô nước bẩn thỉu được hắt lên người tôi. Cuộc tra tấn hỏi cung diễn ra hàng tiếng đồng hồ. Chân tôi bắt đầu sưng tấy. Mắt cá chân bắt đầu cứng hơn đùi bởi chất lỏng cơ thể bị bòn rút và khiến da thịt trở nên ngập úng.
After what seemed to be endless hours, but which in reality could not have been more than six, I collapsed on the floor. Guards quite unemotionally began pricking me with their sharpened bayonets. To struggle to my feet with my arms fixed behind me was difficult, but I did it, again and again. When I became unconscious buckets of cesspool water were thrown over me. Hour after hour the questioning went on. My legs began to swell. My ankles became thicker than my thighs as the body fluids drained down and made the flesh waterlogged.
Vẫn những câu hỏi như vậy, vẫn sự tàn bạo như vậy. Sáu mươi tiếng đồng hồ đứng. Bảy mươi tiếng. Xung quanh trở thành đống sương mù đỏ, tôi gần như chết rồi nhưng vẫn đứng trên chân. Không đồ ăn, không nghỉ ngơi, không giải lao. Chỉ một chút nước từ vài loại thuốc chống ngủ được nhét vào miệng. Hỏi cung. Hỏi cung. Hỏi cung. Bảy mươi hai tiếng, tôi không còn nghe thấy hay nhìn thấy gì cả. Hỏi cung, ánh sáng, cơn đau đớn, tất cả mờ dần đi, và rồi chỉ còn bóng tối.
Always the same questions, always the same brutality. Sixty hours of standing. Seventy hours. The world was a red haze now, I was all but dead on my feet. No food, no rest, no respite. Just a drink of some sleep-preventing drug forced into my mouth. Questions. Questions. Questions. Seventy-two hours, and I heard no more, saw no more. The questions, the lights, the pain, all faded, and there was blackness.
Không rõ đã bao lâu trôi qua, tôi tỉnh lại với cảm giác đầy đau đớn, nằm bẹp dí trên mặt sàn ướt át và lạnh lẽo trong căn ngục đầy mùi hôi thối. Quá đau đớn để động đậy, cơ thể tôi trở nên nặng nề và lưng cảm giác như xương sống đã bị vỡ vụn thành từng mảnh. Không một tiếng động để biết có bất kỳ ai quanh đó, không một tia sáng nào để phân biệt ngày hay đêm. Không có gì ngoài cơn đau đớn vô tận, đói và khát. Cuối cùng, cũng có một tia sáng khi cửa được mở hé bởi tên lính gác nhét đĩa đồ ăn lên sàn. Một ca nước đặt phịch bên cạnh. Cánh cửa đóng lại, và tôi cô độc một mình với những suy nghĩ trong đêm tối.
An unspecified time elapsed, and I regained a pain-filled consciousness, flat on my back on the cold, wet floor of a reeking cell. It was agony to move, my flesh felt soggy and my back felt as if the spine were made of broken glass. No sound there was to show that others were alive, no glimmer of light to mark night from day. Nothing, but an eternity of pain, hunger and thirst. At last there was a chink of light as a guard roughly shoved a plate of food on to the floor. A can of water slopped beside it. The door shut, and again I was alone with my thoughts in the darkness.
Một lúc lâu sau lính gác trở lại, và tôi bị lôi đi – tôi không thể đi bộ – đến Phòng Thẩm vấn. Tôi phải ngồi và viết về lịch sử cuộc đời. Trong năm ngày liền như vậy. Tôi được đưa đến phòng, được đưa mẩu bút chì và giấy, viết tất cả mọi thứ về tôi. Trong vòng 3 tuần, tôi ở lại trong phòng giam và hồi phục một cách chậm rãi.
Much later the guards came again, and I was dragged—I could not walk—to the Interrogation Room. There I had to sit and write my life history. For five days the same thing happened. I was taken to a room, given a pencil stub and paper and told to write everything about myself. For three weeks I remained in my cell, recovering slowly.
Một lần nữa, tôi được đưa đến một căn phòng, đứng trước ba viên chức cao cấp. Một gã nhìn chằm chằm vào những gã còn lại, rồi nhìn vào tờ giấy trong tay anh ta, nói rằng có một vài người quyền lực đã chứng thực tôi đã giúp đỡ họ ở Vladivostok. Một người đã khai rằng tôi đã giúp con gái họ thoát khỏi một tù nhân người Nhật trong trại Chiến tranh.
Once again I was taken to a room, where I stood before three high officials. One glanced at the others, looked at a paper in his hands, and told me that certain influential people had testified that I had helped people in Vladivostok. One testified that I had helped his daughter escape from a Japanese Prisoner of War camp.
“Anh sẽ được thả,” quan chức, viên chức nói, “và được giải đi Stryj, Ba Lan. Chúng tôi có một chi đội, lính được cử ra vùng đó. Anh sẽ đi cùng họ.”
Trở về buồng – lần này là một căn phòng tốt hơn – đủ giúp tôi hồi phục để di chuyển tiếp. Cuối cùng, tôi bước đi, qua cánh cổng của Nhà tù Lubianka, Moscow, đi về hướng Tây.
“You will be released,” said the official, “and taken to Stryj, in Poland. We have a detachment of men going there. You will accompany them.”
Back to a cell—a better one this time—while my strength was built up enough to enable me to travel. At last I marched through the gate of the Lubianka Prison, Moscow, on my way to the West.
Người dịch: Nguyễn Thị Kiều Khanh
Biên tập: VMC