Chiếc xe lao nhanh trên đường cao tốc. Những hàng dương vươn mình kiêu hãnh bên đường, thoáng chốc lại hở ra một vài khoảng trống, là chứng nhân cho sự tàn phá của chiến tranh, cuộc chiến mà tôi chỉ nghe qua lời kể của con người. Chúng tôi tăng tốc, chuyến hành trình dài như vô tận. Tôi mơ hồ tự hỏi máy móc hoạt động ra sao và điều gì khiến chúng có thể vận hành nhanh và lâu đến vậy? Nhưng dù sao đó cũng chỉ là một suy nghĩ vẩn vơ chen ngang vào tâm trí trong khi tôi đang mải ngắm nhìn khung cảnh của miền quê đang chạy qua trước mắt.
The car hummed along the highway. Tall poplar trees stood proudly at the side of the road, with frequent gaps in their ranks as testimony to the ravages of a great war, a war which I knew about only by listening to humans. We sped on, seemingly endlessly. Vaguely I wondered how these machines worked, how did they run so fast and so long? It was but a vagrant thought, my attention was almost wholly held by the sights of the passing countryside.
Suốt dặm đường đầu tiên tôi ngồi trong lòng người phụ nữ. Càng lúc càng tò mò, tôi đi lại loạng choạng trên ghế sau xe và ngồi lên chiếc kệ ở gần cửa kính, nơi đó đang đặt một tờ Michelin, vài bản đồ và những thứ khác. Tôi có thể thấy con đường phía sau lưng. Người phụ nữ vươn người về phía người đàn ông và họ thầm thì những lời ngọt ngào. Tôi tự hỏi liệu cô ấy cũng sắp có mèo con?
For the first mile or so I had sat upon the Woman’s lap. Curiosity got the better of me, and I walked somewhat unsteadily to the back of the car and sat on a shelf level with the rear window, a shelf where there was a Michelin guide, maps and other things. I could see the road behind us. The Woman moved up close to the Man and they murmured sweet things together. I wondered if she also was going to have kittens.
Mặt trời đã trôi qua trên bầu trời khoảng một giờ, lúc ấy người đàn ông nói “Chắc chúng ta gần đến rồi.” “Đúng vậy” người phụ nữ trả lời, “Em nghĩ đó là ngôi nhà to cách nhà thờ một dặm rưỡi. Chúng ta sẽ sớm tìm thấy nó thôi.” Chúng tôi lái xe chầm chậm, gần như dừng lại khi rẽ vào đường chính và thấy cổng đang đóng. Một tiếng “bíp” nhẹ nhàng và một chàng trai chạy ra khỏi trạm gác, tiếp cận chiếc xe. Nhìn thấy và nhận ra tôi, anh ta xoay người mở cổng. Tôi sướng rơn vì cảm thấy mình thật hữu dụng khi có thể làm cửa mở mà không cần một lời giải thích.
The sun was an hour across the sky as the Man said, “We should be almost there.” “Yes,” replied the Woman, “I believe it is the big house a mile and a half beyond the church. We shall soon find it.” We drove on more slowly now, slowing to a stop as we turned into the Drive and found the gates shut. A discreet “toot” and a man came running out of the Lodge and approached the car. Seeing and recognising me, he turned and opened the gates. It gave me quite a thrill to realize that I had been instrumental in having the gates opened without there having to be any explanations given.
Chúng tôi tiếp tục lái xe vào, người giữ cổng chào nghiêm trang khi chúng tôi đi ngang. Thế giới của tôi thật bé nhỏ, tôi nhận ra điều ấy, khi tôi thấy mình chưa từng có cơ hội biết đến trạm gác hay những chiếc cổng. Bà Đại sứ đang ở bên cạnh một bãi cỏ nói chuyện với một trong những người giúp việc của Pierre. Bà ta xoay người khi thấy chúng tôi tiến đến và chậm chạp tiến lại. Người đàn ông ngừng xe, bước ra lịch sự cúi chào. “Chúng tôi mang con mèo nhỏ của bà đến, thưa bà.” Ông nói, “và đây là một bản sao chứng chỉ phả hệ của chú mèo tôm” Bà Đại sứ tròn xoe mắt khi nhìn thấy tôi ngồi trong xe. “Sao ông không nhốt nó vào trong hộp?” bà ta hỏi. “Không thưa bà”, ông trả lời, “Nó là một chú mèo rất ngoan, rất trật tự và nghe lời khi ở với chúng tôi. Chúng tôi thấy nó là một chú mèo cực kỳ chỉn chu” Tôi đỏ ửng mặt vì những lời khen ngợi, và cũng phải thú nhận tôi cũng đã gừ lên với sự đồng tình cao. Bà Đại sứ nghiêm giọng bảo người phụ tá làm vườn “Chạy vào nhà kêu bà Albertine ra cho tôi ngay lập tức.”
We drove on, and the Gatekeeper gravely acknowledged me as we passed. My life had been very narrow, I decided, for I had not even known of the Lodge, or of the gates. Mme. Diplomat was at the side of one of the lawns talking to one of Pierre’s helpers. She turned at our approach and walked slowly towards us. The Man stopped the car, got out, and bowed politely to her. “We have brought your little cat, Madame,” he said, “and here is a certified copy of the Stud Tom’s pedigree.” Mme. Diplomat’s eyes opened wide when she saw me sitting in the car. “Did you not confine her in a box?” she asked. “No, Madame,” replied the Man, “She is a good little cat and she has been quiet and well-behaved all the time she was with us. We consider her to be an exceptionally well-behaved cat.” I felt myself blushing at such praise, and I confess that I was unmannerly enough to purr with complete agreement. Mme. Diplomat imperiously turned to the assistant gardener and said, “Run to the House, tell Madame Albertine I want her instantly.”
“Yah!” tiếng kêu phát ra từ sau một gốc cây, đến từ con mèo đực của người giữ trạm gác, “Tôi biết cô mới ở đâu về! Bọn mèo nông dân như chúng tôi không xứng với cô, cô phải có những anh chàng hào nhoáng!” “Ôi trời,” người phụ nữ trong xe thốt lên, “Có một con mèo khác. Fifi cần phải tránh xa mèo đực.” Bà Đại sứ xoay người, ném một cành cây nhặt được trên mặt đất. Cành cây lao hụt cách xa chú mèo của người giữ trạm gác cả một khoảng. “Ha! Ha!” cậu ta phá lên cười rồi chạy mất, “Mụ chẳng thể ném trúng tháp chuông nhà thờ với chổi rơm kể cả khi chỉ đứng cách 6 feet, mụ già chết tiệt!” tôi lại đỏ mặt. Những từ ngữ thật kinh khủng, tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy bà Albertine đang lao xuống thật nhanh với gương mặt rạng rỡ. Tôi reo lên và lao vào vòng tay của bà, nói với bà tôi yêu bà biết bao nhiêu, nhớ bà biết nhường nào, và kể lại tất cả những gì đã xảy ra với tôi. Trong một khoảnh khắc, chúng tôi chẳng còn để ý đến bất kỳ điều gì khác nữa, thì đột nhiên bà Đại sứ cao giọng, kéo chúng tôi về với thực tại. “ALBERTINE”, bà ta gằn giọng, “Bà có nhận ra tôi đang nói chuyện với bà không? Chú ý vào đây”
“Yah!” yelled the Lodgekeeper’s Tomcat from behind a tree, “I know where you have been! Us Working Toms are not good enough for you, you have to have Fancy Boys!” “Oh my goodness,” said the Woman in the car, “there is a cat. Fifi must be kept from Toms.” Mme. Diplomat whirled, and threw a stick which she snatched from the ground. It missed the Lodgekeeper’s cat by feet. “Ha! Ha!” he laughed as he ran off, “You couldn’t hit a church steeple with a whisk-broom if you were six inches from it, you ***** old woman!” I blushed again. The language was terrible, and I felt a deep sense of relief as I saw Madame Albertine waddling down the Drive at top speed, her face radiant with welcome. I yelled at her and jumped straight into her arms, telling her how much I loved her, how I had missed her, and all that had happened to me. For a time we were oblivious to everything except each other, then Mme. Diplomat’s rasping voice jerked us back to the present. “ALBERTINE!” she grated, “Are you aware that I am addressing you? Pay attention immediately.”
“Thưa bà” người đàn ông đưa tôi đến nói, “Con mèo này đã bị bỏ quên. Nó không được cho ăn đủ, thức ăn thừa không tốt đối với mèo Xiêm thuần chủng, và chúng nó cần có một chiếc giường ấm áp dễ chịu. Con mèo này là vô giá” ông tiếp tục nói “nó sẽ là một con mèo quý nếu được chăm sóc tốt hơn.”
“Madame,” said the Man who had driven me, “This cat has been neglected. She has not had enough to eat. Scraps are NOT good enough for Pedigree Siamese Cats, and they should have a warm, comfortable bed. This cat is VALUABLE,” he went on, “and would be a show-cat if she were better looked after.”
Bà Đại sứ lườm ông với ánh mắt kiêu căng, “Nó chỉ là một con vật thôi, tôi sẽ trả tiền cho anh nhưng đừng có lên lớp tôi.”
Mme. Diplomat fixed him with a haughty glare, “This is just an animal, my man, I will pay your bill, but do not try to teach me my business.”
“Nhưng thưa Bà, tôi chỉ đang cố giúp bà giữ gìn một tài sản quý giá,” người đàn ông nói, nhưng bà ta khiến ông phải im lặng khi xem hoá đơn và chặc lưỡi không hài lòng với những hạng mục trên đấy. Rồi, mở ví ra, bà ta rút một quyển séc và viết gì đó lên một mảnh giấy trước khi đưa nó cho ông rồi bà ta kênh kiệu xoay người và nguẩy mông đi. “Chúng tôi phải chịu đựng cảnh này mỗi ngày,” bà Albertine thì thầm với người phụ nữ. Họ gật đầu cảm thông rồi chậm rãi lái xe rời đi.
“But Madame, I am trying to save your valuable property,” said the Man, but she brushed him to silence as she read through the bill, clucking with displeasure at the items there. Then, opening her purse, she took out her check book and wrote something on a piece of paper before handing it to him. Rudely Mme. Diplomat turned and stalked off. “We have to live through this every day,” whispered Madame Albertine to the Woman. They nodded in sympathy and drove slowly away.
Tôi đã đi gần một tuần. Hẳn đã có rất nhiều thứ diễn ra khi tôi vắng mặt. Tôi dành thời gian còn lại trong ngày đi vòng quanh chỗ này chỗ kia, làm mới lại những mối liên hệ trước đây và nghe ngóng tin tức. Tôi nghỉ ngơi thoải mái trên một nhánh của người bạn Táo già.
Almost a week I had been away. Much must have happened during my absence. I spent the rest of the day going round from place to place renewing past associations, and reading all the news. For a time I rested snug and secure on a branch of my old friend the Apple Tree.
Bữa tối luôn là mấy thứ đồ ăn thừa, dù chất lượng, thì vẫn là đồ thừa. Tôi nghĩ nếu được ăn thứ gì đó mua riêng dành cho mình chứ không phải đồ thừa thì thật tuyệt vời. Khi hoàng hôn buông xuống, Gaston đi tìm tôi, thấy tôi và nhấc tôi khỏi mắt đất đi về phía nhà ngoài. Lọc cọc mở cửa, hắn ném tôi vào góc nhà tối, sập cửa phía sau rồi bỏ đi. Dù là mèo Pháp, tôi vẫn phải đau đớn công nhận rằng người Pháp đối xử rất thô bạo với động vật.
Supper was the usual scraps, of good quality, but still scraps. I thought how perfectly wonderful it would be to have something bought specially for me instead of always having “leavings.” With the coming of dusk Gaston came in search of me, and having found me snatched me off the ground and hurried to the outhouse with me. Wrenching open the door, he flung me into the dark interior, slammed the door behind him, and departed. Being French myself, I am very greatly pained to admit that French humans are very hard indeed on animals.
Ngày qua ngày, tuần qua tuần. Tôi dần trở nên tròn trĩnh và cử động chậm chạp. Một đêm nọ khi đã gần đủ ngày sinh nở, tôi bị ném thô bạo vào nhà ngoài bởi Pierre. Vừa tiếp đất xuống sàn bê tông cứng thì một cơn đau tê dại xuất hiện, như thể người tôi đang nứt ra. Một cách đau đớn, trong bóng tối, năm chú mèo con được sinh ra. Hồi phục một chút từ cơn đau, tôi xé vài tờ giấy báo để làm thành một chiếc tổ ấm, rồi nhấc từng đứa một vào tổ.
Day ran into day and merged into weeks. Gradually I assumed a matronly figure and became slower in my movements. One night when I was almost at full term, I was roughly thrown into the outhouse by Pierre. As I landed on the hard concrete floor I felt a terrible pain, as if I were splitting. Painfully, in the darkness of that cold outhouse, my five babies were born. When I had recovered a little I shredded some paper and made a warm nest for them, then carried them one by one to it.
Ngày hôm sau, chẳng có ai ngó ngàng đến. Ngày kéo dài lê thê, tôi bận rộn cho lũ mèo con bú mớm. Đến đêm, tôi muốn ngất vì đói và mệt lả, ở nhà ngoài chẳng có chút thức ăn hay nước uống nào. Ngày hôm sau cũng không khá hơn, chẳng có ai đến, và thời gian cứ kéo dài lê thê. Gần như không thể chịu nổi cơn khát, tôi tự hỏi tại sao mình phải chịu đựng nhiều đến thế. Khi màn đêm buông xuống, lũ cú lượn quanh, réo về lũ chuột mà chúng vừa bắt được. Tôi và đám mèo con của mình, nằm cạnh nhau, và tôi tự hỏi không biết làm sao có thể sống qua được ngày mai.
The next day no one came to see me. The day dragged on, but I was still busy feeding my babies. Night found me faint with hunger and absolutely parched, for there was neither food nor water in the outhouse. The following day brought no relief, no one came, and the hours dragged and dragged. My thirst was almost unbearable and I wondered why I should have to suffer so. With nightfall the owls swooped and hooted about the mice they had caught. I, and my kittens lay together, and I wondered how I would live through the next day.
Ngày đã quá trưa khi tôi nghe thấy tiếng bước chân. Cửa bật mở, bà Albertine đứng bước vào, mặt tái nhợt và mệt mỏi. Bà chạy đến đây từ giuờng bệnh vì có linh cảm rằng tôi đang gặp rắc rối. Như thường lệ, bà luôn mang theo thức ăn và nước uống. Một con của tôi đã chết trong đêm, bà Albertine giận không nói nên lời. Bà quá phẫn nộ trước cách tôi bị đối xử đến nỗi lao đi kiếm ông bà Đại sứ. Bà Đại sứ đau buồn chỉ vì mất đi một con mèo con, tức là mất đi một mớ tiền. Ông Đại Sứ cười trừ và nói “Có lẽ chúng ta có thể làm gì đó với việc này. Ai đó phải nói chuyện với Pierre.”
The day was well advanced when I heard footsteps. The door was opened, and there stood Madame Albertine looking pale and ill. She had got specially from her bed as she had had “visions” of me in trouble. As was her wont, she had brought food and water. One of my babies had died during the night, and Madame Albertine was almost too furious to speak. Her fury was so great at the manner in which I had been treated that she went and brought Mme. Diplomat and Monsieur le Duc. Mme. Diplomat’s sorrow was at the loss of one kitten, and the loss of money which that meant. Monsieur le Duc managed a sickly smile and said, “Perhaps we can do something about it. Someone should speak to Pierre.”
Dần dà mèo con của tôi cũng lớn và khỏe hơn, rồi chúng dần mở mắt. Người ta đến xem, tiền trao tay, và trước khi chúng kịp cai sữa thì họ đã bắt chúng đi mất khỏi tay tôi. Tôi thơ thẩn đi khắp quanh nhà buồn bã. Sự kêu khóc của tôi làm phiền bà Đại sứ và bà ta hạ lệnh tôi phải bị bịt miệng cho đến khi tôi im lặng.
Gradually my children grew stronger; gradually they opened their eyes. People came to see them, money changed hands, and almost before they were weaned they were taken from me. I wandered inconsolable around the estate. My lamentations disturbed Mme. Diplomat and she ordered me to be shut up until I was quiet.
Cho đến lúc này tôi đã quen với việc được người ta đem ra làm món đồ trưng bày trong những buổi hội họp, và chẳng thích thú gì việc bị bắt rời công việc trong vườn và đi đến trình diễn trong Phòng khách. Một ngày có một điều khác lạ. Tôi bị bắt đến một căn phòng nhỏ nơi bà Đại sứ đang ngồi viết lách tại bàn, một người đàn ông ngồi đối diện bà ta. “Ah!” ông ta thốt lên khi thấy tôi được đưa vào phòng, “Nó đây à?” Rồi ông ta xem xét tôi trong im lặng, vẻ mặt thất vọng và một tai hơi động đậy. “Nó có vẻ bị bỏ bê quá. Đánh thuốc để mang nó đi theo hành lý máy bay sẽ không phù hợp với tình trạng của nó hiện tại.” Bà Đại sứ quát ông ta một cách giận dữ; “Tôi không yêu cầu ông lên lớp tôi, ông Bác sỹ Thú Y,” bà ta nói, “Ông không chịu làm như tôi yêu cầu thì có cũng khối người khác sẵn sàng!”, bà ta nói trong cơn giận dữ, “Có mỗi một con mèo mà thật lắm chuyện!” Bác sĩ Thú Ý nhún vai vô vọng, trả lời “Thôi được thưa bà, tôi sẽ làm điều bà yêu cầu vì tôi cần kiếm sống. Hãy gọi cho tôi trước giờ bà lên máy bay khoảng 1 tiếng.” Ông ta đứng lên xách túi và lầm lì ra khỏi phòng. Bà Đại sứ mở cửa sổ bên rồi ném tôi ra ngoài vườn.
By now I was used to being shown off at social gatherings, and thought nothing of being taken from my work in the gardens in order to parade through the Salon. One day it was different. I was taken to a small room where Mme. Diplomat sat writing at a desk, and a strange man sat opposite her. “Ah!” he exclaimed as I was brought into the room, “so this is the cat?” In silence he examined me, screwed up his face and played with one of his ears. “She is somewhat neglected. To drug her so that she can be carried as luggage aboard a plane will undermine her constitution.” Mme. Diplomat scowled angrily at him; “I am not asking you for a lecture, Mister the Veterinarian,” she said, “if you will not do as I ask many more will. Good Gracious!” she expostulated in fury, “What a fuss about a mere cat!” Mister the Veterinarian shrugged his shoulders helplessly, “Very well, Madame,” he replied, “I will do as you wish, for I have my living to earn. Call me an hour or so before you are due to board the plane.” He rose to his feet, groped about for his case, and blundered out of the room. Mme. Diplomat opened the French windows and chased me into the garden.
Có một không khí phấn khởi bao trùm trong nhà. Những thùng to được phủi bụi và lau sạch, chức vụ mới của ông Đại Sứ cũng được viết lên chúng. Một người thợ mộc được gọi đến để làm một chiếc hộp gỗ du lịch đặt vừa vào trong một chiếc va li và có thể chứa được một con mèo. Bà Albertine có vẻ bấn loạn và trông như thể đang cầu mong bà Đại sứ sớm chết ngắt.
There was an air of suppressed excitement about the house. Great cases were being dusted and cleaned, and Monsieur le Duc’s new rank was being painted on them. A carpenter was called and told to make a wooden travelling box which would fit inside a case and capable of holding a cat. Madame Albertine fluttered around looking as if she hoped Mme. Diplomat would drop dead!
Một sáng nọ, khoảng một tuần sau đó, Gaston đến nhà ngoài tìm bắt tôi đưa đến garage mà chẳng cho tôi ăn bữa sáng. Tôi đã nói với hắn tôi rất đói, nhưng như thường lệ hắn không hiểu. Cô hầu gái của bà Đại sứ, Yvette, đang đợi trong chiếc Citroen. Gaston bỏ tôi vào một chiếc giỏ đan có nắp gập, tôi được đặt lên ghế sau. Chúng tôi lái đi với tốc độ rất nhanh. “Tôi không hiểu sao bà ấy lại muốn con mèo bị đánh thuốc,” Yvette nói, “Quy định nói rằng người ta có thể mang mèo vào nước Mỹ mà không có khó khăn gì.” “Aw”, Gaston nói, “Bà ta bị điên mà, tôi đã từ bỏ việc đoán xem cái gì khiến bà ta ngứa ngáy rồi!” Họ chìm vào im lặng và tập trung lái xe nhanh hơn nữa. Chiếc xe xóc ghê gớm; cân nặng ít ỏi của tôi không đủ để đè xuống lò xo của nệm, và tôi càng lúc càng bầm dập vì va đập vào trong lòng giỏ.
One morning, about a week later, Gaston came to the outhouse for me and took me to the garage without giving me any breakfast. I told him I was hungry, but as usual he did not understand. Mme. Diplomat’s maid, Yvette, was waiting in the Citroen. Gaston put me in a wicker basket with a strapped top, and I was lifted on to the back seat. We drove off at a very fast rate. “I don’t know why she wants the cat drugged,” said Yvette, “The Regulations say that a cat may be taken into the U.S.A. without any difficulties.” “Aw,” said Gaston, “That woman is crazy, I have given up trying to guess what makes HER tick!” They relapsed into silence and concentrated on driving faster and faster. The jouncing was terrible; my small weight was not enough to press down the seat springs, and I was becoming more and more bruised from hitting the sides and top of the basket.
Tôi gồng mình để giữ thẳng chân và ghim chặt móng vuốt vào giỏ. Chiến đấu kịch liệt để giữ cho mình không ngất. Cũng chẳng biết bao lâu nữa. Cuối cùng thì chiếc xe đột ngột dừng kít lại. Gaston tóm lấy chiếc giỏ của tôi và lao vài bước vào nhà. Chiếc giỏ bị ném lên bàn và nắp giỏ bật mở. Gã thò tay nhấc tôi lên và để tôi xuống bàn. Ngay lập tức tôi ngã nhào, tứ chi không còn có thể đứng vững nữa, tôi đã bị căng cơ quá lâu. Ông bác sỹ thú y nhìn tôi vừa thương vừa hoảng “Anh suýt giết chết nó rồi đấy”, ông quát Gaston một cách giận dữ. “Tôi không thể chích cho nó hôm nay được!” Gaston tức đỏ mặt “Đánh thuốc con mèo chết tiệt này đi, hôm nay máy bay đi rồi, ông đã nhận tiền rồi đấy” Ông bác sỹ thú y nhấc điện thoại lên. “Có gọi cũng vô ích thôi,” Gaston nói, “Cả nhà đang ở phi trường Le Bourget rồi, tôi không có thì giờ đâu”. Thở dài, ông bác sỹ cầm chiếc xi-lanh lên và quay sang tôi. Tôi cảm thấy một cơn đau nhói đâm sâu vào cơ bắp của mình, cả thế giới chuyển thành màu đỏ rồi tối đen. Trong lúc ngất đi, tôi còn nghe giọng nói “Giờ nó sẽ im lặng trong…” rồi sự bất tỉnh hoàn toàn ập xuống tôi.
I concentrated on keeping my legs outstretched, and sank my claws into the basket. Truly it was a grim battle to prevent myself from being knocked unconscious. I lost all count of time. Eventually we skidded to a screaming stop. Gaston grabbed my basket and rushed up some steps and into a house. The basket was plonked on to a table and the lid removed. Hands lifted me and set me down on the table. Immediately I fell over, my legs would no longer support me, I had been tensed too long. Mister the Veterinarian looked at me in horror and compassion. “You could have killed this cat,” he exclaimed angrily to Gaston, “I cannot give her an injection today!” Gaston’s face flamed with anger. “Drug the ***** cat, the plane leaves today, you have been paid, haven’t you?” Mister the Veterinarian picked up the telephone. “No use in you phoning,” said Gaston, “The Family are at Le Bourget Airport, and I’m in a hurry.” Sighing, Mister the Veterinarian picked up a big syringe and turned to me. I felt a sharp and painful stab deep within my muscles and the whole world turned blood red, then black. Faintly I heard a voice say, “There! That will keep her quiet for . . .” Then oblivion complete and utter descended upon me.
Có tiếng gầm rú ghê gớm, tôi lạnh và khổ sở, việc thở cũng là một sự lao lực. Chẳng có chút ánh sáng nào quanh đây, tôi chưa từng chìm trong bóng đen dày đặc như thế. Trong một thoáng tôi đã tưởng rằng mình bị mù. Đầu tôi đau như búa bổ, tôi chưa từng thấy mình mệt mỏi, bị bỏ rơi và khốn khổ đến thế.
There was a dreadful roaring, I was cold and miserable, and breathing was a shocking effort. Not a gleam of light anywhere, I had never known such darkness. For a time I feared that I had gone blind. My head was splitting, never before had I felt so ill, so neglected, and so miserable.
Nhiều giờ trôi qua tiếng gầm rú ghê rợn vẫn tiếp diễn, tôi cảm tưởng não mình như muốn nổ tung. Áp suất dồn lên tai và tôi nghe thấy những tiếng lách cách nổ ở bên trong. Tiếng ồn trở nên mạnh hơn, dữ tợn hơn rồi có một tiếng vang chói tai, tôi bật ngược lên nắp hộp. Những tiếng vang khác nối tiếp, rồi tiếng ồn chìm dần. Bây giờ lại có tiếng ầm ầm kỳ lạ khác, như tiếng bánh xe lăn nhanh trên đường xa lộ. Những cú xóc và tiếng động rầm rầm, rồi tiếng gầm rú ngừng hẳn. Thay vào đó là những tiếng ồn khác, tiếng cọ xát của kim loại, tiếng người nói chuyện râm ran, và tiếng chug-chug ngay phía dưới tôi. Với âm thanh vang lên khô khốc, cánh cửa kim loại lớn bật mở bên cạnh tôi, một người đàn ông lạ mặt lọc cọc đi vào khoang. Đôi tay thô ráp tóm lấy những chiếc thùng và ném chúng lên một băng chuyền đang chạy đưa chúng xa khỏi tầm mắt. Rồi đến lượt tôi; tôi bị ném lên trên không rồi rơi thụi xuống đất. Phía dưới tôi, có cái gì đó phát ra âm thanh “rầm rầm xuỳnh xuỵch rầm rầm”. Đáp xuống một cú, và chuyến bay của tôi ngừng ở đây. Tôi nằm ngửa nhìn thấy bầu trời hửng sáng qua những lỗ thở. “Trời ạ, có một con mèo” một giọng nói lạ vang lên. “Đừng lo, chẳng phải việc của bọn mình.” một người đàn ông khác trả lời. Chiếc hộp của tôi lại được tóm và ném cẩu thả lên một phương tiện nào đó. Những thùng khác được chất xung quanh và lên trên, rồi có tiếng máy xe chuyển động và rời đi “rumpf rumpf rumpf”. Tôi ngất lịm vì đau sóc.
Hour after hour the horrid roaring continued, I thought my brain would burst. There came strange pressures to my ears and things inside them went click and pop. The roaring changed, becoming fiercer, then there was a jarring clang and I was thrown violently to the top of my box. Another jar, and another and the roaring subsided. Now there came a strange rumbling, like the wheels of a fast car on a concrete highway. Strange jerks and rumbles, and then the roaring died. Other noises took over, the scraping of metal, muffled voices, and a chug-chug directly beneath me. With a shattering crash a great metal door opened beside me, and strange men came clattering in to the compartment where I was. Rough hands grabbed cases and threw them on to a moving belt which conveyed them out of sight. Then came my turn; I sailed through the air and landed with a bone jarring thud. Beneath me something went ‘rumble-rumble swish-swish.’ A bang, and my journey stopped. I lay on my back and saw a dawn sky through some air holes. “Gee, dis heah’s a cat!” said a strange voice. “Okay, Bud its not our worry,” replied another man. Unceremoniously my case was grabbed and thrown on to some sort of vehicle. Other cases were piled around and on top, and the motor thing started off with a ‘rumpf rumpf rumpf’ noise. With the pain and the shock I lost consciousness.
Tôi mở mắt và nhận thấy mình đang nhìn đăm đăm vào một bóng đèn điện trơ trọi, xuyên qua một mớ dây điện. Tôi rệu rã nhấc chân của mình để lết đến chiếc đĩa nước được đặt gần đấy. Việc uống nước cũng là quá sức với tôi, việc tiếp tục sống thật đầy trắc trở, nhưng ngụm nước khiến tôi cảm thấy khá lên. “Ồ”, một giọng khàn khàn vang lên, “tỉnh rồi đấy à!” tôi nhìn thấy một người đàn ông da đen già nua đang mở một hộp thức ăn. “Đúng rồi đấy,” ông nói “mày với tao đều có khuôn mặt đen, nên tao sẽ chăm sóc mày tốt nhé.” Ông chuyền thức ăn đến và tôi cố gừ một cách yếu ớt để tỏ lòng cảm ơn với sự tử tế của ông. Ông xoa đầu tôi, “Gee, chờ đó để tao nói với Sadie đã”, ông lầm bầm một mình.
I opened my eyes and found that I was gazing at a naked electric light bulb, gazing through wire netting. Weakly I struggled to my feet and tottered to a dish of water which I saw nearby. It was almost too much strain to drink, almost too much trouble to go on living, but having drunk I felt the better for it. “Well, well, Ma’am,” said a wheezing voice, “So you is awake!” I looked and there was a little old black man opening a tin of food. “Yaas, Ma’am,” he said, “You’n me we both got black faces, I guess I look after you good, eh?” He slipped the food in and I managed a weak purr to show that I appreciated his kindness. He stroked my head, “Gee, ain’t dat sumpin!” he muttered to himself, “Jest wait till I tell Sadie, Man of man!”
Thức ăn làm tôi cảm thấy khá hơn rất nhiều. Nhưng tôi cũng không thể ăn nhiều vì tôi đang không khoẻ, tôi đã cố ăn để người đàn ông da màu không cảm thấy phiền lòng. Tôi rỉa thêm một ít rồi uống nước, sau đó thì buồn ngủ. Có một tấm thảm thô ở góc phòng, tôi cuộn mình trên đó và ngủ thiếp.
To be able to eat again was wonderful. I could not manage much because I felt terrible, but I made an attempt so that the black man should not feel insulted. Then I had another peck and a drink, and after that I felt sleepy. There was a rug in the corner, so I curled up on it and went to sleep.
Sau cùng tôi nhận ra mình đang ở trong một khách sạn. Nhân viên liên tục đi xuống tầng hầm để ngắm nhìn tôi. “Ồ, trông nó dễ thương chưa kìa?” một cô hầu gái nói. “Wow, trông cặp mắt kia kìa, thật đẹp làm sao!” một anh chàng nói. Rồi lại một người khách khác rất được chào đón, một đầu bếp Pháp. Một trong số những người ngưỡng mộ đã gọi điện thoại đến; “Này, Francoise, xuống đây đi, chúng ta có một con mèo Xiêm Pháp đấy!” Ít phút sau một người đàn ông to béo khệ nệ đi xuống hành lang, “Cậu nói con mèo này giống Pháp hả?” ông ta hỏi một người đứng gần. Tôi gừ lớn tiếng hơn, trông thấy ông làm tôi nhớ về nước Pháp. Ông đến gần, ghé mắt nhìn và xổ một tràng tiếng Pháp giọng Paris. Tôi gừ lên để thể hiện rằng tôi hiểu tất cả những gì ông nói. “Kìa!” một giọng êm dịu vang lên “Trông kìa, lão Francois và con mèo có vẻ hợp nhau đấy”
Eventually I found that I was in an hotel. Staff people kept coming down to the basement to see me. “Oh! Isn’t she cute?” said the girl servants. “Wow! Just look at those eyes, man! Are they beautiful!” said the men. One visitor was very welcome, a French Chef. One of my admirers called through a telephone; “Hey, Françoise, come down here, we have a French Siamese Cat!” Minutes later a fat man waddled down the corridor, “You ‘av ze chat française no?” he said to the men standing around. I purred louder and louder, it was quite a link with France to see him. He came over and peered short-sightedly and then burst into a torrent of Parisian French. I purred and yelled at him that I understood him perfectly. “Saay!” said a hushed voice, “Whadyeknow? Old François and The Cat sure are hitting it off together on all cylinders.”
Người đàn ông da màu mở cửa chuồng cho tôi và tôi sà ngay vào vòng tay Francois, ông ta hôn tôi, còn tôi thì cố liếm láp, và khi tôi được cho lại vào chuồng, mắt ông rớm lệ. “Chà”, người chăm sóc da màu của tôi lên tiếng, “Mày có vẻ khá lên rồi, chắc là mày ăn tốt rồi hả.” Tôi yêu mến người chăm sóc của mình, ông ấy cũng có gương mặt đen giống tôi. Nhưng những thứ dễ chịu chẳng kéo dài lâu cho tôi. Hai ngày sau chúng tôi chuyển đến một thành phố khác ở Mỹ và tôi bị giữ trong một hầm rượu dưới đất gần như toàn bộ đời mình. Vài năm tuổi đời sau đó của tôi, ngày nào cũng như ngày nào, tháng nào cũng như tháng nào. Tôi bị dùng để sản xuất ra mèo con, và những đứa con bị tách khỏi mẹ chúng khi còn chưa kịp cai sữa.
The black man opened my cage door and I leaped straight into François’ arms, he kissed me and I gave him some of my very best licks, and when I was put in the cage again he had tears in his eyes. “Ma’am,” said my black attendant, “You sure ev made a hit. Guess you eat pretty good now.” I liked my attendant, like me he had a black face. But pleasant things did not last for me. Two days later we moved to another city in the U.S.A. and I was kept in an underground cellar for almost the whole of my time. For the next several years life was the same day after day, month after month. I was used to produce kittens which were taken from me almost before I had them weaned.
Cuối cùng sau một khoảng thời gian dài, ông Đại Sứ được gọi quay về Pháp. Một lần nữa tôi bị đánh thuốc và chẳng còn biết gì cho đến khi tỉnh lại, ốm yếu bệnh tật tại sân bay Le Bourget. Trở về nhà, cứ ngỡ là niềm vui, nhưng lại trở thành một câu chuyện đáng buồn. Bà Albertine không còn ở đó nữa, bà đã mất trước khi chúng tôi trở về vài tháng. Cây táo già cũng bị đốn hạ và ngôi nhà đã được sửa sang lại nhiều.
At long last Monsieur le Duc was recalled to France. Once again I was drugged and knew no more until I awakened, sick and ill, at Le Bourget. Homecoming, to which I had looked with avid pleasure, was instead a sad affair. Madame Albertine was no longer there, she had died a few months before we returned. The Old Apple Tree had been cut down and much remodeling of the House had taken place.
Trong vài tháng, tôi buồn rầu thơ thẩn xung quanh, lại sinh ra một lứa mới và lại nhìn thấy chúng bị lấy đi trước khi tôi sẵn sàng. Sức khoẻ của tôi bắt đầu trượt dốc và càng lúc càng nhiều con non chết yểu khi sinh ra. Thị giác của tôi không còn rõ nữa, và tôi phải học cách đánh hơi để dò đường. Tôi không bao giờ có thể quên được Tong Fa đã bị giết chết bởi vì cậu ấy già và mù!
For some months I wandered disconsolately around, bringing a few families into the world and seeing them taken from me before I was ready. My health began to fail and more and more kittens were born dead. My sight became uncertain, and I learned to “sense” my way round. Never did I forget that Tong Fa had been killed because he was old and blind!
Khi chúng tôi quay trở về từ Mỹ gần 2 năm, bà Đại sứ muốn đến Eire để xem liệu nơi đó có phù hợp để bà ta sinh sống. Bà ta luôn cho rằng tôi là vật đem lại may ắn (mặc dù bà ta chẳng tử tế hơn với tôi chút nào) và thế là tôi cũng phải đến Eire. Một lần nữa, tôi lại bị đánh thuốc và đưa đến một nơi mà cuộc sống ngừng tồn tại với tôi. Rất lâu sau đó tôi thức dậy trong một chiếc hộp lót vải ở một ngôi nhà lạ hoắc. Có tiếng vo vo đều đặn của máy bay trên bầu trời. Mùi than bùn cháy làm tôi ngứa mũi và hắt hơi. “Nó tỉnh rồi,” một giọng Ai-len vang lên. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Tôi đã ở đâu? Tôi hoảng hốt nhưng quá yếu để có thể di chuyển. Chỉ sau đó, thông qua cuộc trò chuyện của con người, và được kể lại bởi một con mèo ở khu phi trường mà tôi mới biết câu chuyện.
When we had been back from America for almost two years, Mme. Diplomat wanted to go to Eire to see if it was a suitable place for her to live. She had the fixed idea that I had brought her luck (although she was no kinder to me for it!) and I had to go to Eire as well. Once again I was taken to a place where I was drugged, and for a time life ceased to exist for me. Much much later I woke up in a cloth lined box in a strange house. There was a constant drone of aircraft in the sky. The smell of burning peat tickled my nostrils and made me sneeze. “She is awake,” said a broad Irish voice. What had happened? Where was I? Panic struck me but I was too weak to move. Only later, through hearing the talk of humans, and through being told by an Airport cat, did I get the story.
Máy bay đáp xuống phi trường Ai-Len. Người ta đang dỡ hàng hoá từ khoang hàng. “Ê, Paddy, có con mèo già chết ở đây này!” một người đàn ông nói. Paddy, người đốc công, đi đến xem. “Đi gọi Thanh tra đi” anh ta nói. Người đàn ông nói vào bộ đàm và rất nhanh sau đó, một người Thanh tra từ bộ phận quản lý động vật đến hiện trường. Hộp của tôi được mở ra và tôi được nhẹ nhàng đưa ra ngoài. “Cho gọi người chủ đi”, Thanh tra viên nói. Trong khi chờ đợi anh ta kiểm ta tôi, bà Đại sứ giận dữ đi về phía nhóm người quanh tôi. Bà ta bắt đầu lên giọng hống hách tỏ ra mình quan trọng thế nào thì bị ngắt lời bởi ông Thanh tra. “Con mèo chết rồi,” ông nói, “bị hành hạ và bỏ quên một cách độc ác. Nó đang có mang mà bà cũng nỡ đánh thuốc để tránh bị cách ly. Đây là vi phạm nghiêm trọng.”
The plane had landed on the Irish Airport. Men had removed the luggage from the luggage compartment. “Hey, Paddy, there’s an old dead cat in here!” said one of the men. Paddy, the foreman, moved to look. “Get the Inspector,” he said. A man talked into his ‘walkie-talkie’ and soon an Inspector from the Animal Department came on the scene. My box was opened and I was gently lifted out. “Get the Owner,” said the Inspector. While waiting he examined me. Mme. Diplomat walked angrily over to the little group about me. Starting to bluster, and tell how important she was, she was soon cut short by the Inspector. “The cat is dead,” he said, “killed by vicious cruelty and neglect. She is in kitten, and you have drugged her with a view to evading Quarantine. This is a serious offence.”
Bà Đại sứ bắt đầu khóc lóc nói rằng việc này có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của chồng bà nếu bà bị buộc tội vi phạm này. Ông Thanh tra mím môi rồi đột ngột quyết định và nói. “Thôi thì con vật cũng đã chết rồi. Ký vào giấy miễn trừ này đi, chúng tôi sẽ tiêu huỷ xác nó và không nói gì về việc này nữa. Nhưng tôi khuyên bà không nên nuôi mèo nữa”. Bà Đại sứ ký vào tờ giấy được đưa và sụt sùi bước đi. “Được rồi Brian, tiêu huỷ xác nó đi” Thanh tra viên nói. Rồi ông bước đi và một trong số những người đàn ông nhấc tôi lên, đặt tôi vào lại hộp và mang đi. Rất mơ hồ, tôi nghe thấy tiếng đất bị cào xới, tiếng kim loại va vào đá như thể một chiếc xẻng va phải chướng ngại vật. Rồi tôi được nhất lên, loáng thoáng nghe tiếng “Ơn trời! Nó còn sống này!” Rồi thì tôi lại mất hết tri giác. Sau đó tôi được kể lại rằng, người đàn ông đã lén lút nhìn quanh để chắn chắn không bị ai trông thấy, anh ta đã vội vã lấp chiếc hố đã đào cho tôi, rồi nhanh chóng mang tôi đến một ngôi nhà gần đấy. Tôi chẳng còn biết gì khác cho đến khi nghe thấy giọng Ai-len vang lên “Nó tỉnh rồi”. Đôi tay nhẹ nhàng vuốt ve tôi, và ai đó quết nước vào lưỡi tôi. “Sean”, giọng Ai-len vang lên, “Con mèo này mù rồi. Tôi chiếu đèn trước mắt nó mà nó cũng không thấy gì”. Tôi rùng mình, nghĩ rằng họ sẽ giết mình vì tuổi già và sự mù loà. “Mù hả?” Sean hỏi, “Chắc rồi, con mèo trông xinh quá. Tôi sẽ đi xin Sếp cho nghỉ hôm nay. Tôi sẽ mang nó cho mẹ tôi, bà ấy sẽ chăm sóc nó. Chúng ta không giữ nó ở đây được.” Có tiếng cửa mở rồi đóng lại. Đôi bàn tay nhẹ nhàng đưa thức ăn vào miệng tôi, và tôi ăn vội vì đói lả. Cơn đau trong người tôi tệ đến độ tôi nghĩ mình sẽ sớm chết. Thị giác của tôi đã mất hoàn toàn. Thời gian sau này khi tôi sống với Ngài Lạt Ma, ngài đã chi rất nhiều tiền để điều trị cho tôi, nhưng không thành công vì dây thần kinh thị giác của tôi đã bị tổn thương quá nhiều bởi những cú va đập mà tôi đã chịu đựng trong đời.
Mme. Diplomat started to weep, saying that it would affect her husband’s career if she were prosecuted for such an offence. The Inspector pulled at his bottom lip, then, on a sudden decision, said, “The animal is dead. Sign a waiver that we may dispose of the body and we will say no more about it this time. But I advise you NOT to keep cats again!” Mme. Diplomat signed the proffered paper and walked off sniffing. “All right, Brian,” said the Inspector, “Get rid of the body.” He walked away and one of the men lifted me into the box again and carried me off. Very vaguely I heard the sound of earth being turned, the clink of metal on stone as perhaps a shovel scraped against an obstruction. Then I was lifted, and faintly heard, “Glory be! She is alive!” With that my consciousness faded again. The man, so I was told, looked about him surreptitiously, then, assured that he was unobserved, filled in the grave that he had dug for me, and hurried with me to a nearby house. Nothing else was known to me until—“She is awake,” said a broad Irish voice. Gentle hands stroked me, someone wet my lips with water. “Sean,” said the Irish voice, “This cat is blind. I have been waving the light in front of her eyes and she does not see it.” I was terrified, thinking they would kill me because of my age and sightlessness. “Blind?” said Sean, “Sure, ’tis a lovely creature she is. I’ll go and see the Supervisor and get the rest of the day off. Sure and I’ll be after taking her to my Mother, she will look after her. We can’t keep her here.” There was the sound of a door opening, and closing. Gentle hands held food just beneath my mouth and being famished, I ate. The pain inside me was terrible and I thought I would soon die. My sight was gone completely. Later, when I lived with the Lama he spent much money to see what could be done, but it was then discovered that my optic nerves had been severed by the banging about that I had had.
Cánh cửa mở ra và đóng lại. “Sao rồi?” người phụ nữ hỏi. “Anh nói với Sếp rằng anh cảm thấy phẫn nộ khi một sinh vật của Chúa lại bị đối xử như vậy”. Ông ấy nói “Ồ, chắc chắn rồi Sean, anh luôn là người nhạy cảm như thế, được rồi, cứ nghỉ đi.” Vậy nên anh được ở đây. “Nó sao rồi?”
The door opened and closed. “Well?” asked the woman. “I told the Supervisor I felt upset that one of God’s creatures should be treated so.” He said “Aw, sure, Sean, you always were a one to feel such things, yes, take time off.” So here I am. “How is she doing?”
“Hmm, cũng vậy thôi,” vợ anh ta trả lời. “Em bôi nước lên môi cho nó và nó ăn được ít cá. Nó sẽ hồi phục, nhưng mà nó đã có một khoảng thời gian thật tệ.” Người đàn ông bồn chồn đi vòng qua, “Cho anh ít thức ăn, Mary, anh sẽ đưa nó đến chỗ mẹ. Giờ anh đi ra ngoài để xem mấy cái lốp xe”. Tôi thở dài, lại phải đi nữa, tôi tự hỏi. Cơn đau trong người tôi là một cơn đau âm ỉ thôi thúc. Chung quanh tôi có tiếng loảng xoảng bát đĩa, tiếng cời bếp lửa. Đoạn, người phụ nữ đến cửa và gọi “Trà, Sean ơi, nước sôi rồi đây”. Sean bước vào và tôi nghe thấy tiếng anh ta rửa tay trước khi an vị dùng bữa.
“Hmm, so so,” answered his wife, “I wet her lips and she had a bite of fish. She will recover, but she has had a terrible time.” The man fidgeted around, “Get me some food, Mary, and I will take the cat off to mother. I’ll go out now and look to me tires.” I sighed, MORE travelling, I wondered. The pain within me was a dull throbbing ache. Around me there was the clatter of dishes, and the sound of a fire being raked. Presently the woman went to the door and called, “Tea, Sean, the kettle is on the boil”. Sean came in and I heard him wash his hands before settling down to his meal.
Chúng ta phải giữ kín chuyện này,” Sean nói, “ không là sẽ bị Cảnh sát thăm hỏi. Nếu chúng ta nuôi nó khá lên, mèo con của nó sẽ mang lại nhiều tiền. Những con vật này đáng giá lắm, em biết không.” Vợ anh rót một tách trà rồi trả lời. “Mẹ anh biết tất tần tật về mèo, bà ấy sẽ chăm sóc nó tốt hơn bất kỳ ai. Anh đi đi trước khi mấy người khác tan ca.” “Ừ, anh sẽ đi ngay”, Sean vừa nói vừa đứng lên làm tiếng ghế kêu kẽo kẹt. Họ đi về phía tôi, và tôi cảm thấy chiếc hộp của mình được nhấc lên. “Anh không để cái hộp trên chỗ chở đồ được đâu Sean,” người phụ nữ nói, “kẹp nó dưới tay ấy, để em làm một cái dây choàng qua vai đủ chắc để giữ sức nặng của nó, mà nó cũng chẳng nặng là bao nhiêu, tội nghiệp sinh vật bé nhỏ!” Sean, đeo một sợi dây giữ chiếc hộp qua vai, xoay người và ra khỏi nhà. Gió mát của không khí xứ Ai-Len len lỏi vào hộp thật tuyệt vời, mang theo hơi thở sống động của biển. Nó làm tôi cảm thấy đỡ hơn rất nhiều – chỉ là ước gì cơn đau biến mất! Chuyến đi trên xe đạp là một trải nghiệm hoàn toàn mới với tôi. Một ngọn gió nhẹ len vào hộp thông qua những lỗ thông khí, và sự rung lắc rất nhẹ không khó chịu, nó nhắc tôi nhớ đến cảm giác nằm đung đưa trên cành cây cao trong cơn gió nhè nhẹ. Đôi lúc, tiếng cót két làm tôi thắc mắc. Ban đầu tôi tưởng là chiếc hộp của mình sắp rơi xuống, nhưng bằng cách tập trung nghe cẩn thận, tôi quyết định là thứ mà Sean đang ngồi lên cần được bơm dầu. Chúng tôi đi đến địa hình lên dốc. Tiếng thở của Sean bắt đầunặng hơn trong cổ họng, bàn đạp đạp càng lúc càng chậm rồi cuối cùng ngừng hẳn. “Chà Begob!” anh ta thốt lên, “cái thùng nặng phết nhỉ!” Đặt cái thùng của tôi lên yên xe, một tiếng kêu cót két, rồi anh lê bước đẩy xe lên đồi. Ngừng lại, anh mở một cánh cổng, và dắt xe đạp vào. Có tiếng kim loại va vào gỗ, rồi cánh cửa đóng sập ngay sau chúng tôi. Tôi tự hỏi “Có điều gì chờ đợi mình nữa đây?” Hương thơm dễ chịu của hoa chạm đến cánh mũi tôi, tôi hít hà tận hưởng.
“We have got to keep this quiet,” said Sean, “or we shall have the Garda after us. If we can get her well, her kittens will bring us money. These creatures are valuable, you know.” His wife poured another cup of tea before answering. “Your mother knows all about cats, she will bring this one round if anyone will. Get yourself gone before the others come off work.” “Aye, that I will,” said Sean as he pushed back his chair noisily and rose to his feet. They came over to me and I felt my box being lifted. “You can’t put the box on the carrier, Sean,” said the woman, “keep it under your arm, I will fix a sling so that you can take the weight across your shoulders, not that SHE has much weight, poor little soul!” Sean, with a strap across his shoulders and around my box, turned and left the house. The cool Irish air wafted wonderfully into my box, carrying an invigorating tang of the sea. It made me feel much better—if only the dreadful pain would go away! A ride on a bicycle was an absolutely new experience to me. A gentle breeze came through the air-holes and there was a slight swaying which was not unpleasing, it reminded me of lying on the high branches of a tree which was swaying in the wind. A most curious creaking noise puzzled me for some time. At first I thought that my box was falling apart, then by concentrating carefully I decided that the seat-thing upon which Sean sat needed oil. Soon we came to rising ground. Sean’s breath began to rasp in his throat, the pedals moved slower and slower, eventually slowing to a stop. “Ah, Begob!” he exclaimed, “tis a heavy box you have!” Resting my box on the saddle—yes, it DID squeak!—he trudged on up the hill, slowly pushing the bicycle. Stopping, he unlatched a gate, and pushed the bicycle through, there was the scrape of wood against metal, and the gate slammed shut behind us. “What am I going in to now?” I wondered. The pleasant smell of flowers came to my nostrils; I sniffed appreciatively.
“Con trai, mang gì cho mẹ thế?” một giọng già nua hỏi. “Con mang một cô bé đến cho mẹ đây”, Sean trả lời tự hào. Dựa chiếc xe vào tường, anh nhấc chiếc hộp của tôi lên, cẩn thận lau chân rồi bước vào một nhà. Hít một hơi dài khoan khoái, anh ngồi xuống và kể cho người mẹ nghe toàn bộ câu chuyện, tất cả những gì anh biết về tôi. Anh sột soạt mở nắp thùng rồi đóng lại ngay. Có sự im lặng trong thoáng chốc, “Ah, nó chắc hẳn cực kỳ xinh đẹp trong thời hoàng kim của nó. Nhưng nhìn nó đi, lông thô nhám vì không được chăm sóc. Trông nó gầy trơ xương kìa. Ah, thật là tàn nhẫn khi đối xử với động vật như vậy!”
“And what have ye brought me, my son?” asked an elderly voice. “I’ve brought Herself to you, Mother,” replied Sean proudly. Resting the machine against a wall, he lifted my box, carefully wiped his feet and entered a building. With a sigh of relief he sat down and told his mother the whole story, so far as he knew it, about me. Fumbling with the box lid he threw it back. For a moment there was silence. Then, “Ah! ’tis a wonderful creature she must have been in her heyday. Look at her now, with her coat rough with neglect. Look at her ribs showing. Ah! ’tis a cruel shame to treat creatures so!”
Cuối cùng tôi được đưa ra khỏi hộp và đặt trên sàn nhà. Bất chợt mất hẳn thị giác là một cảm giác hỗn loạn. Thoạt tiên, tôi bước những bước loạng choạng và vao vào đồ đạc. Sean lầm bầm “mẹ ơi, mẹ có nghĩ chúng ta nên, mẹ biết đó!” “Không đâu con trai, đây là giống mèo rất thông minh, cực kỳ thông minh. Con nhớ là mẹ đã kể với con là mẹ đã thấy chúng ở Anh chứ. Chỉ cần cho nó ít thời gian, nó sẽ tự điều chỉnh được.” Sean quay sang mẹ, “Mẹ, con phải mang cái hộp trả về cho Sếp vào buổi sáng.” Người phụ nữ già loay hoay xung quanh, mang thức ăn và nước, và quan trọng nhất là đưa tôi đến một chiếc hộp cát! Cuối cùng Sean cũng rời đi với lời hứa sẽ quay trở lại sau ít hôm nữa. Người phụ nữ già cẩn trọng khoá cửa rồi ném một bánh than bùn vào đống lửa, tự thầm thì bằng thứ ngôn ngữ mà tôi nghĩ là tiếng Ai-len. Đối với mèo, ngôn ngữ không quá quan trọng vì chúng tôi giao tiếp và lắng nghe bằng thần giao cách cảm. Con người suy nghĩ bằng ngôn ngữ riêng của họ, và đôi lúc cũng rất bối rối cho một con mèo Xiêm Pháp để có thể phân loại được những ý nghĩ được hình thành từ những ngôn ngữ khác.
At last I was lifted out and set upon the floor. It is disconcerting to suddenly lose one’s sight. First, as I took my staggering steps, I bumped into things. Sean muttered, “Mother, d’ye think we should—YOU know!” “No, my son, no, these are very intelligent cats, VERY intelligent cats indeed. You will remember I told you I had seen them in England. No no, give her time, she will manage.” Sean turned to his mother, “Mother, I am going to take the box back and turn it in to the Supervisor in the morning, you know.” The old woman bustled about, bringing food and water and—most necessary, leading me to a box of earth! Eventually Sean departed with a promise to come in a few days time. The old woman carefully locked the door and threw another lump of peat on the fire, mumbling to herself all the time in what I took to be the Irish language. To cats, of course, language does not matter much because we converse and listen by telepathy. Humans THINK in their own language and it is sometimes a little confusing for a French Siamese cat to sort out thought-pictures framed in some other language.
Chúng tôi nhanh chóng đi ngủ, tôi nằm trong một chiếc hộp cạnh bếp lửa, còn bà già nằm trên một chiếc ghế dài phía xa trong phòng. Tôi mệt mỏi cực độ, nhưng cơn đau cứ gặm nhấm khiến tôi không thể ngủ được. Cuối cùng thì sự kiệt sức cũng vượt qua cơn đau, tôi trôi giạt trong giấc ngủ. Những cơn mơ thật kinh hoàng. Tôi phải đi đến đâu nữa đây? Tôi tự hỏi mình trong giấc mơ, tại sao tôi phải chịu đựng đến thế? Tôi lo sợ cho đám mèo con của mình. Sợ rằng chúng sẽ chết ngay khi vừa mới sinh ra, sợ cho tương lai của chúng? Liệu tôi, trong thể trạng yếu ớt này, có thể nuôi chúng lớn?
Soon we lay down to sleep, I in a box beside the fire, and the old woman on a couch at the far side of the room. I was utterly exhausted, yet the pain gnawing within me prevented sleep. Eventually tiredness overcame the pain, and I drifted off. My dreams were terror-wracked. What had I come to? I wondered in my dream state, why had I to suffer so? I feared for my kittens-to-come. Feared that they would die at birth, feared that they would not, for what future had they? Could I, in my weakened state, feed them?
Trời sáng, bà già trở mình dậy. Lò xo của chiếc ghế dài kêu cọt kẹt khi bà đứng lên và bước đến cời lửa. Quỳ bên cạnh tôi, bà xoa đầu tôi và nói “Ta đi lễ đã rồi chúng ta sẽ ăn gì đấy” Bà đứng lên và nhanh chóng rời khỏi phòng. Tôi nghe tiếng bước chân xa dần trên con đường mòn. Có tiếng click từ cánh cửa ngoài vườn, sau đó là sự im lặng. Tôi xoay người rồi ngủ lại.
Morning found the old woman stirring. The couch springs creaked as she rose and came over to poke the fire. Kneeling beside me, she stroked my head and said, “Tis meself that will be going to Mass, then we will have a bite to eat.” She rose to her feet and soon left the room. I heard her footsteps fading away down the path. There was the ‘click’ of the garden gate, then silence. I turned over and slept again.
Đến cuối ngày, sức lực của tôi đã hồi phục phần nào. Tôi đã có thể đi loanh quanh. Đầu tiên tôi va vào hầu như tất cả mọi thứ, nhưng tôi nhanh chóng học được rằng đồ nội thất thường không bị dịch chuyển nhiều. Dần dà tôi trở nên lão luyện trong việc dò đường mà không bị quá nhiều vết bầm nữa. Ria mép của chúng tôi làm việc như radar và chúng tôi có thể tìm được đường trong bóng đêm tối nhất, khi không có một chút tia sáng nào để định hướng. Giờ thì, ria mép của tôi phải làm việc hết công suất!
By the end of the day my strength had returned somewhat. I was able to move around slowly. First I bumped into almost everything, but I soon learned that furniture was not often moved. In time I became quite adept at finding my way round without getting too many bruises. Our vibrissae (“cats’ whiskers”) act like radar and we can find our way about in the darkest of dark nights, when there is no glimmer of light by which to see. Now my vibrissae had to work overtime!
Vài ngày sau, khi người con trai đến, người phụ nữ lớn tuổi bảo anh “Sean, dọn buồng củi đi, mẹ sẽ để nó trong đó. Nó thì mù còn mẹ thì nhìn không rõ, mẹ sợ mẹ sẽ đá trúng nó và có thể làm tổn thương lũ mèo con – chúng nó đáng giá nhiều tiền lắm đó!” Sean đi ra và sau đó tôi nghe tiếng náo động ở nhà củi khi anh dọn đồ đạc và chất những bánh than bùn. Anh quay trở lại rồi nói “Được rồi đó mẹ, con đã để chồng báo trên sàn và chặn cửa sổ rồi.”
A few days later the old woman said to her son, who had called to see her, “Sean, clean out the woodshed, I am going to keep her in there. What with her being blind, and me not seeing well either, I am afraid I may kick her and hurt the kittens—and they are worth many pounds to us!” Sean walked out and soon I heard a commotion from the woodshed as he moved things round and stacked up piles of peat. He came in and said, “It is all ready, Mother, I have put piles of newspapers on the floor and stopped up the window.”
Vậy là một lần nữa, giường ngủ của tôi lại là giấy báo, lần nào là báo Ai-len. “Ồ”, tôi nghĩ “Cây táo đã nói nhiều năm trước là sự giải thoát sẽ đến vào giây phút đen tối nhất của cuộc đời tôi. Chắc là sắp tới rồi!” Nhà củi được làm từ những thanh gỗ phủ sơn và một cánh cửa ọp ẹp. Sàn đất nện, dọc bên tường là một bộ sưu tập đồ gia dụng đáng kể, những bánh than bùn và những chiếc hộp rỗng. Vì lý do kỳ quái nào đó mà bà già dùng một chiếc ổ khoá cực lớn để đóng cửa. Mỗi khi đến xem tôi bà đều đứng rất lâu để lầm bầm, không ngừng đổi chìa khoá thì mới tìm thấy chiếc chìa khoá đúng. Cuối cùng cửa cũng mở được, bà lò dò đi vào, tìm đường trong không gian nội thất ảm đạm. Sean muốn sửa lại cửa sổ để có ánh sáng chiếu vào – vì cái lỗ tối này không có lấy một tia sáng – nhưng bà già bảo, “Kính đắt lắm con trai, chờ đến khi mình có mèo con để bán đã!”
So—once again my bed was of newspapers. Irish ones this time. “Well,” I thought, “Apple Tree years ago said deliverance would come at my blackest hour. It should be almost time!” The woodshed was of tarred planks with a rickety door. The floor was of beaten earth, and along the walls was stored a remarkable collection of household effects, peat slabs and empty boxes. For some peculiar reason the old woman used a truly immense padlock with which to keep the door closed. Whenever she came to see me she stood and muttered and fiddled endlessly with keys until she found the correct one. With the door open at last, she would stumble in, feeling her way into the gloomy interior. Sean wanted to repair the window so there would be some light—no rays entered this dark hole—but as the old woman said, “Glass costs money, my son, glass costs money. Wait until we have the kittens to sell!”
Ngày chậm chạp trôi qua. Tôi được cho ăn và uống, nhưng tôi luôn phải chịu đựng những cơn đau. Thức ăn khá ít ỏi, chỉ đủ để tôi sống qua ngày nhưng không đủ để bù đắp sức khoẻ của tôi. Tôi chật vật cố sống để sinh những đứa con của mình. Mù, bệnh tật và đói, tôi cố duy trì cơ hội mỏng manh để tiếp tục sống và tin rằng “ngày tốt đẹp hơn sẽ đến!”
The days crawled on. I had food and water, but I was constantly in pain. Food was scarce, enough to keep me alive, but not enough to build up my strength. I lived to give birth to my kittens, and staying alive was a struggle. Blind, ill, and always hungry, I maintained a tenuous hold of life and faith in those “better days to come!”
Vài tuần sau khi đến Ai-len, tôi biết rằng mình sắp sinh con. Mọi cử động đều trở nên chậm chạp và cơn đau tăng dần. Tôi không còn có thể duỗi thẳng mình hay cuộn thành vòng tròn nữa. Có gì đó xảy ra trong tôi và tôi chỉ có thể nghỉ ngơi bằng cách ngồi tựa ngực vào đâu đó để phần dưới cơ thể không bị sức nặng đè lên.
A few weeks after I arrived in Ireland I knew that soon my kittens would be born. Movement became difficult, and the pain increased. No longer could I stretch at full length, or curl into a circle. Something had happened inside me and I could rest only sitting up, with my chest resting on something hard in order to keep weight off my lower parts.
Hai hay ba đêm sau đó, khoảng giữa đêm, một cơn đau khủng khiếp tấn công. Tôi gào thét đau khổ. Chậm chạp, với sự cố gắng hết sức, những đứa con của tôi cũng ra đời. Ba trong số năm đứa đã chết. Tôi nằm thở dốc hằng giờ, cả cơ thể tôi như đang bốc cháy. Đến đây, tôi nghĩ, hẳn đã là đoạn cuối cuộc đời mình, nhưng không, không được thế. Tôi vẫn tiếp tục sống.
Two or three nights later, at about midnight, really terrible pain assailed me. I screamed in agony. Slowly, with immense effort, my kittens came into the world. Three of the five were dead. For hours I lay gasping, my whole body as if aflame. This, I thought, was the end of my life, but no, it was not to be. I lived on.
Bà già ghé thăm nhà củi vào buổi sáng và chửi mắng tệ hại khi nhìn thấy ba chú mèo con đã chết của tôi. Bà ta ác khẩu đến mức, ngay sau đó phải lầm bầm cầu nguyện để sám hối. Tôi nghĩ rằng bây giờ, khi phải nuôi hai đứa nhỏ, tôi có thể được vào trong nhà, nơi ấm áp và có gì đó nhiều hơn là đống báo để nằm. Nhưng bà già tỏ vẻ phật ý khi tôi chỉ sinh được hai con. “Sean”, bà nói với anh con trai vào một tối nọ, “mấy con mèo này không sống được hơn hai hay ba tuần đâu. Con đi rao tin rằng chúng ta có bán hai con mèo Xiêm con đi?”
The old woman came into the shed in the morning and said terrible things when she found three dead kittens. She said such terrible things that she afterwards said a prayer for forgiveness! I thought that now, with two very little kittens to nurse, I would be able to go in the house where there was warmth and something more than newspapers to lie upon. But the old woman appeared to hate me for having only two live kittens. “Sean,” she said one evening to her son, “this cat won’t live more than two or three weeks. See if you can spread it around that I have two Siamese kittens for sale.”
Tôi ngày một yếu hơn và chờ đợi cái chết, chỉ là còn lo sợ cho bầy con. Một ngày nọ, khi chúng vừa đến lúc cai sữa, một chiếc xe ô tô đỗ phịch trước cổng nhà. Từ trong nhà củi, tôi có thể nghe hết mọi thứ. Tôi nghe tiếng cổng bật mở và hai người khách đi lên lối đi nhỏ. Có tiếng gõ cửa. Vài giây sau, cửa mở. Một giọng phụ nữ nói, “Tôi nghe nói bà có mèo Xiêm rao bán?” “À, mời vào”, bà già trả lời. Sự im lặng bao trùm trong một thoáng, rồi bà già run rẩy đi đến và bắt lấy một đứa con của tôi. Vài phút sau bà ta quay lại, lầm bầm bực tức, “Không hiểu ông ta muốn xem mày làm gì chứ?” Bà ta tóm lấy tôi thô bạo đến độ tôi hét toáng lên vì đâu. Bà ta làm bộ bế bồng tôi vào nhà vờ như yêu thương lắm. Những giọng nói thật êm dịu gọi tên tôi và nhẹ nhàng chạm vào tôi. Người đàn ông nói, “Chúng tôi muốn cả con mẹ nữa. Nó sẽ không sống được nếu không được chữa trị.” “À!” bà già nói “Nó này khoẻ mạnh và rất tốt đấy chứ!” Tôi đọc được từ suy nghĩ của bà ta “Đúng rồi, tôi đã đọc rất nhiều, tôi biết con mèo này sẽ rất được giá đây.” Thế là bà ta làm bộ làm tịch, nói rằng hết mực yêu thương tôi và tôi thật vô giá biết bao, bà chẳng muốn bán tôi chút nào. Tôi quay hướng sang ông khách và nói “Đằng nào tôi cũng sắp chết rồi, xin đừng quan tâm đến tôi, hãy chăm sóc hai đứa con của tôi”. Ông khách quay lại bảo bà già “Bà nói muốn bán hai con mèo con đúng không?”. Bà ta xác nhận, và ông cứng rắn nói “Chúng tôi sẽ lấy cả ba hoặc không thì thôi”. Bà già ngã một cái giá làm tôi choáng váng, nhưng người đàn ông chỉ nói “Được rồi,hãy chuẩn bị cho chúng, chúng tôi sẽ lấy luôn.” Bà già lao khỏi phòng để giấu sự vui sướng và để đếm lại thật kỹ tiền. Hai đứa con trai của tôi nhanh chóng được bỏ vào một chiếc giỏ đặc biệt mà hai người khách đã mang đến. Người phụ nữ ngồi ở băng ghế sau, đặt tôi lên lòng. Còn chiếc giỏ được đặt ở ghế trước, cạnh ghế của người đàn ông. Chậm rãi và cẩn thận, chúng tôi lái xe đi. “Rab, chúng ta phải đưa Fifi đến bác sĩ thú ý trước” ông nói. “Nó ốm nặng lắm, về nhà tôi sẽ gọi điện ngay, ông ấy sẽ đến ngay hôm nay. Mình cho bọn mèo con đi theo cùng luôn chứ?” “Đúng rồi,” người đàn ông trả lời “ để chúng không cô đơn.” Xe lái cẩn thận đến mức tôi không thấy đau. Những lời Cây Táo phảng phất “Cậu sẽ được hạnh phúc Fifi”. Liệu đã đến lúc ấy chưa? Tôi tự hỏi.
Daily I grew weaker; I longed for death but feared for my kittens. One day, when they were almost weaned, a car drew up at the gate. From my shed I could hear all. I heard the gate click open and two people walked up the little path. A knock at the cottage door. Seconds later it opened. A woman’s voice said, “I understand you have a Siamese kitten for sale.” “Ah, now, and will ye come in?” replied the old woman. For a time there was silence, then the old woman came shambling out and grabbed one of my children. Minutes later she came back, muttering bad-temperedly, “An’ what would he want to be seeing you for?” She snatched me up so violently that I screamed with pain. With a show of great affection she carried me into the house. Gentle voices spoke my name, and very lightly touched me. The Man said, “We want to take the Mother as well. She will not live unless she is treated.” “Ah!” said the old woman, “’tis a very healthy and good cat she is!” From the old woman’s mind I read her thoughts: “Yes,” she thought, “I have read all about you, you can pay plenty.” She made a great fuss, saying how much she loved me and how valuable I was. How she did not want to sell me. I turned in the Man’s direction and said, “I’m dying, just ignore me and look after my two children.” The Man turned to the old woman and said, “Did you say you had two kittens?” She admitted she had, so the Man said, firmly, “We will take all three cats or none.” The old woman named a price which staggered me, but the Man just said, “All right, get them ready, we will take them now.” The old woman left the room in a hurry in order to conceal her delight and so that she could count the money again. Soon my two boys were placed in a very special basket which the Man and the Woman had brought. The Woman sat in the back of the car, with me on her lap, and the big basket was placed on the front seat beside the Man. Slowly, carefully, we drove off. “We shall have to get the Vet to see Fifi right away, Rab,” said the Man. “She is very sick, I’ll phone as soon as we get home, he’ll come today. Shall we let the kittens go together?” “Yes,” said the Man, “then they will not be lonely.” We drove on so carefully that I felt no pain. The words of the Apple Tree came back to me, “You will know happiness, Fifi.” Was this IT? I wondered.
Xe lăn bánh qua rất nhiều dặm đường, rồi cẩn thận sẽ vào một khúc quanh và leo lên một ngọn đồi dốc. “Chúng ta đến nhà rồi mấy đứa”, người đàn ông nói. Tắt máy, ông ra khỏi xe và mang theo chiếc rổ chứa các con của tôi. Người phụ nữ cẩn thận bước ra để không làm tôi giật mình, đi lên ba bốn bậc vào trong nhà. Thật là khác biệt! Ngay lập tức, tôi đã nhận thấy mình được chờ đợi và chào đón ở đây, tôi biết lời của Cây Táo Già đã đúng. Nhưng tôi thấy mình kiệt sức. Người phụ nữ gọi một cuộc điện thoại và tôi nghe bà nói chuyện với bác sỹ thú y như vừa đề cập lúc nãy. Vừa dứt lời cảm ơn, bà ngắt máy. “Ông ấy sẽ đến ngay lập tức”, bà nói.
We rolled along the road for many miles, then carefully turned a sharp corner and started up a steep hill. “Well, we are home, cats,” said the Man. Stopping the engine, he got out and carried away the basket containing my kittens. The Woman carefully got out, without jarring me, and carried me up three or four steps into a house. What a difference! Here I felt at once that I was wanted and welcome, I decided that the Tree was right. But I felt so dreadfully weak. The Woman went to a telephone and I heard her speaking to the Vet that had been mentioned. With a word of thanks she rang off. “He is coming right away,” she said.
Tôi không muốn đi sâu vào chi tiết về cuộc phẫu thuật của tôi hay việc tôi phải vật vã chiến đấu để giành sự sống. Chỉ cần nói rằng tôi đã trải qua một cuộc phẫu thuật khó nhất để loại bỏ khối u tử cung có lẽ là đã đủ. Tôi phải cắt bỏ tử cung và như vậy sẽ không phải chịu đựng sự khó khăn của việc mang thai nữa. Hai người chủ mới thức chăm tôi mỗi đêm, vì cuộc phẫu thuật quá nghiêm trọng đến nỗi người ta cứ tưởng tôi sẽ không qua khỏi. Tôi tin vào điều ngược lại, bởi vì giờ đây tôi đã được về nhà và được yêu thương.
I do not propose to write of my operation, nor of the long struggle back to life. It will suffice to say that I had a most difficult operation to remove an immense uterine tumour. I had a hysterectomy and so was free from the hardship of having babies any more. The Man and the Woman stayed up with me for night after night, for the operation was so severe that it was thought I would not recover. I knew differently, because now I was Home—and wanted.
Người dịch: Phí Bích Thuận
Biên tập: Tô Phương Trang
Tổng biên tập: Trung tâm VMC