Gertie Glubenheimer rầu rĩ nhìn quanh căn phòng rộng lớn. Cô thấy đâu đâu cũng có xác chết, cái bên trái, cái bên phải, cái phía trước, cái phía sau, nhiều quá, trông mà phát ốm! Gertie đứng thẳng dậy và nhìn lên cái đồng hồ treo ở cuối phòng. Mười hai giờ ba mươi rồi, cô tự nhủ, đến giờ ăn trưa rồi. Cô bèn lôi hộp đồ ăn trưa của mình ra từ bên dưới chiếc bàn mà cô đang làm việc, quay lại, cô mở một cuốn sách và đặt chiếc bánh kẹp lên trên cái xác ở bên cạnh cô. Gertie là một nhân viên ướp xác. Cô xử lý tử thi trong Nhà tang lễ để chúng nom tươm tất hơn khi thân nhân đến viếng. Khi ấy, mọi người sẽ phải trầm trồ thốt lên:”Ôi trời, nhìn kìa. Thi hài của chú Nick cuối cùng thì trông cũng ổn đấy chứ?!”. Gertie đã quá quen thuộc với những cái xác, đến nỗi cô thậm chí không thèm rửa tay trước khi cầm vào thức ăn sau khi vần vò với chúng. Có tiếng nói chợt cắt ngang: “Tên ngốc nào sau khi khám nghiệm tử thi đã quên khâu lại khoang ngực vậy?”. Người đàn ông nhỏ thó đứng gần cánh cửa cuối phòng gần như nhảy cẫng lên trong cơn thịnh nộ.
Gertie Glubenheimer gazed gloomily around the large room. Bodies everywhere, she thought bodies to the left of me, bodies to the right of me, bodies in front and bodies behind, what a sick, sick lot they look! She straightened up and looked at the clock at the far end of the room. Twelve thirty, she said to herself, lunch time. So she fished out her lunch pail from beneath the table on which she was working and, turning, she spread a book and her sandwiches on top of the body beside her. Gertie was an embalmer. She did up bodies in the Funeral Home so that they could be gazed at in the display rooms by admiring relatives. ‘Oh gee, look at ‘im. Don’t Uncle Nick look good at last, eh?’ people would say. Gertie was very familiar with dead bodies, so much so that she did not even bother to wash her hands before touching her food after messing about with these bodies. A voice broke in, ‘Who was the stupid idiot who left that autopsy case without filling up the chest cavity?’ The little man at the end of the room near the door was almost dancing with rage.
“Ông chủ, có chuyện gì vậy?” Một người đàn ông hỏi một cách thận trọng. “Có chuyện gì à? Để tôi nói cho cậu biết chuyện gì đã xảy ra!. Bà vợ của cái thi hài kia đang tì vào ông chồng để trao một nụ hôn tiễn biệt đầy trìu mến, thì ở đó chỉ có duy nhất một tờ báo lót phía dưới tấm vải phủ, và khuỷu tay bà ta bỗng rơi tọt vào cái khoang ngực chưa lấp kia. Giờ thì bà ta gần như phát cuồng lên, đe dọa sẽ kiện chúng ta đến cùng đấy.”
‘Why boss, what’s happened?’ asked one man incautiously. ‘What happened? I’ll tell you what happened! The guy’s wife leaned over him to give him a fond kiss of farewell and there was only a piece of newspaper under the sheet, and her elbow went right through into his chest cavity. Now she’s having hysterics fit to bust. She’s threatening to sue us to our back teeth.
Xung quanh căn phòng xuất hiện những tiếng xì xào bàn tán, những việc như thế này là chuyện thường tình ở đây và không mấy ai lấy làm quan trọng. Suy cho cùng thì chẳng ai có thể vui vẻ khi biết rằng cùi chỏ của mình lại lọt vào bên trong lồng ngực của người thân yêu nhất khi họ chuẩn bị được chôn cất.
There was a subdued chuckle around the room because things like that were always happening and no one took such cases too seriously. When it got down to brass tacks the relatives would not like it to be known that they had got their elbows inside their dearest just preparatory to interment.
Ông chủ nhìn lên và chạy lon ton về phía Gertie: “Bỏ hộp đồ ăn trưa của cô ra khỏi mặt ông ấy ngay” ông ta quát lên, “cô vừa làm gãy mũi của ông ấy rồi đấy và chúng ta sẽ không thể sửa lại được đâu .”
Gertie khịt mũi và nói, “Được rồi, ông chủ, cứ bình tĩnh, ông này nghèo lắm, ông ấy sẽ không được trưng bày đâu!”
The boss looked up and came trotting towards Gertie: ‘Get your lunch pail off his face,’ he roared, ‘you just bend his nose and we’ll never be able to do him up.’
Gertie sniffed and said, ‘Okay boss, okay, keep calm, this fellow is a poorey he’s not going on display!’
Ông chủ nhìn vào con số trên bàn và dò lại tờ danh sách ông ta mang theo và nói: “Ồ, đúng vậy, ông ấy không có quá ba trăm đô la, chúng ta sẽ đóng ông ấy vào hòm và chuyển ông ấy đi. Chúng ta sẽ làm gì với chỗ quần áo ấy đây? ”
Cô gái nhìn về phía thi thể trần truồng bên cạnh mình, và hỏi: “Có chuyện gì với bộ quần áo mà ông ta mặc vào đây vậy?”
Ông chủ nói: “Chúng còn không đáng vứt vào thùng rác. Dù sao thì chúng đã bị co lại rất nhiều sau khi giặt và không còn vừa với cái xác nữa.”
The boss looked at the number on the table and consulted a list he was carrying saying, ‘Oh him, yes, they can’t go above three hundred dollars, we’ll just box him up and send him off. What are we going to do about clothes?’
The girl looked to where the naked body was beside her and asked, ‘What’s wrong with the clothes he had on when he came in?’
The boss said, ‘They were hardly good enough to put in the garbage can. Anyway, they’ve shrunk so much after being washed that they won’t go on now.’
Gertie nói, “Chà, thế còn những tấm rèm cũ mà chúng ta đã gỡ xuống và quyết định sẽ không dùng nữa vì chúng đã quá phai màu, chúng ta có thể lấy một cái để quấn xác ông ấy được không?”
Ông chủ trừng mắt nhìn cô và trả lời: “Những tấm màn ấy trị giá mười đô la đấy, ai sẽ trả mười đô la cho nó? Tôi nghĩ tốt nhất là cho một số vỏ bào vào trong quan tài, đặt ông ấy vào, và rải thêm ít vỏ bào nữa lên trên. Như vậy cũng là tốt rồi, dù sao thì cũng chẳng ai đến viếng ông ấy đâu. Cứ vậy mà làm.” Ông ta dậm chân bước ra và Gertie lại tiếp tục bữa trưa của mình.
Gertie said, ‘Well, how about those old curtains we took down and we decided they were too faded to put up again, couldn’t we wrap him in one of those?’
The boss glowered at her and replied, ‘They’re worth ten dollars, who’s going to pay ten dollars for it? I think the best thing to do is to put some shavings in the casket, dump him in, and put some more shavings on top. That’s good enough, nobody’s going to see him anyhow. Do that.’ He stamped off and Gertie resumed her lunch.
Molygruber ở thể vía đang lơ lửng phía trên, không ai nhìn thấy, nghe thấy nhưng lão lại nhìn thấy và nghe thấy hết tất cả. Lão cảm thấy buồn nôn với cách người ta đối xử với thân xác của lão, nhưng có một sức mạnh kỳ lạ nào đó đã giữ lão ở lại đó, khiến lão không thể di chuyển, không thể rời khỏi nơi này. Lão đã chứng kiến mọi thứ đang diễn ra ở đây, nhìn thấy có những cái xác là đàn ông và đàn bà được người ta mặc cho những bộ y phục tuyệt đẹp, như là lễ phục và váy đầm dạ hội; còn lão, lão nghĩ may mắn lắm thì được một dúm phoi bào che thân.
Over it all hovered Molygruber in his astral form, unseen, unheard but seeing and hearing all. He was sickened at the way his body was being treated but some strange power held him there, he could not move, he could not shift from the spot at all. He watched everything going on, watched some bodies being clothed in absolutely wonderful dresses, the women and men being done up in what seemed to be evening dress or formals, while he, he thought, would be lucky to get a handful or two of shavings.
Một người đàn ông đi ngang qua và nhìn vào trang bìa của cuốn sách. ‘Anh chàng này trông buồn cười nhỉ? Không biết bức tranh đó có ý nghĩa gì?
“Tôi không biết.” chủ nhân của cuốn sách nói. ‘Đó là một trong những điều trong cuốn sách này, anh xem trang bìa và nói với tôi rằng anh không bao giờ hiểu ý nghĩa của trang bìa. Nhưng không sao, tôi mua chúng vì những nội dung bên trong.”
A man moved across and looked at the cover on the book. ‘Funny looking guy, ain’t he? Wonder what that picture’s meant to be?
‘Dunno,’ said the book’s owner. ‘That’s one of the things about these books, you get covers and blow me you never know what the covers mean. Never mind, it’s the words inside that I buy them for.’
Ông già Molygruber lơ lửng tiến lại gần. Không cần phải nỗ lực của bản thân mà lão dường như được đưa đến lơ lửng ngay phía trên hai người đàn ông đang nói chuyện về cuốn sách, và cuốn sách đã làm lão không khỏi suy nghĩ. “Nếu bạn không tin vào một điều gì đó thì chừng nào bạn còn băn khoăn về nó, chừng đó nó chưa tồn tại. Vậy khi đó bạn sẽ phải làm gì? ‘
Old Molygruber hovered closer. Through no effort of his own he seemed to be guided to places, as the men were talking about the book he was sent to hover right over them, and it stuck in his mind, ‘If you don’t believe in a thing then as far as you are concerned it doesn’t exist. And then what are you going to do?’
Giờ ăn trưa tiếp tục. Một số người dựa sách vào những cái xác mà đọc, còn Gertie thì dùng bữa trưa của cô ngay trên cái xác của ông lão Molygruber, như thể cái thi hài của lão là một chiếc bàn dự phòng tiện lợi. Cuối cùng thì tiếng chuông cũng vang lên và giờ nghỉ trưa kết thúc. Mọi người dọn dẹp phần thức ăn còn sót lại, gói vào giấy và cho vào thùng rác. Gertie cầm một chiếc bàn chải và phủi những mảnh vụn thức ăn trên cái xác của Molygruber. Lão ghê sợ nhìn những động tác bất cần và vô cảm của cô.
The lunch hour wore on. Some people were reading with books propped up against corpses, and Gertie had her lunch spread out on old Molygruber’s body just as though he were a spare table for her convenience. At last the bell went and lunch break was over. The people cleared up the remnants of their food, balled up the paper and put it in the garbage bin. Gertie picked up a brush and brushed the crumbs off Molygruber’s body. He looked down in disgust at her uncaring, unfeeling actions.
“Này, các người, hãy chuẩn bị cho xong cái xác kia nhanh lên, bỏ vào trong cái hòm số bốn mươi chín đó một số phoi bào rồi đặt cái xác lên. Sau đó, cho thêm một ít phoi bào nữa lên trên. Lão ta chẳng thể chảy nước ra đâu, nhưng chúng ta phải đảm bảo rằng mọi thứ được sạch sẽ.” Lại là ông chủ. Ông ta hoa chân múa tay đi vào căn phòng lớn với một xấp giấy trên tay, rồi lại nói: “Họ muốn tang lễ diễn ra lúc hai giờ ba mươi chiều nay, việc này hơi gấp gáp một chút. Tôi phải đi và thay đồ đây.” Nói xong, ông ta quay lưng chuồn đi.
‘Hey, you guys there, get that body ready immediately, toss some shavings in that shell number forty-nine and toss that fellow in on top of the shavings. Then put some more shavings on top. He shouldn’t leak any, but we’ve got to make sure that everything is mopped up.’ The boss man again. He danced in to the big room with a sheaf of papers in his hand, and then he said, ‘They want the funeral to be at two-thirty this afternoon which is rushing it a bit. I must go and get changed.’ He turned tail and fled.
Gertie và một trong những người đàn ông lăn xác của Molygruber sang một bên, luồn một cái dây ở bên dưới người lão rồi họ lại lật nó sang bên kia để có thể lấy được cái đầu dây. Những cái móc nhỏ được kéo lên để gắn vào khoen, và sau đó cái xác được treo lên một thứ như là một đường sắt nhỏ chạy trên những tay đòn. Họ đẩy thi thể của Molygruber sang đầu kia của căn phòng, nơi có thứ họ gọi là một cái hòm, được đánh số 49 bằng phấn, đang mở sẵn nắp. Gã trợ lý đi đến một cái thùng lớn và lấy ra rất nhiều mùn cưa, đổ thoải mái vào quan tài cho đến khi chúng dày lên khoảng sáu inch. Sau đó, thi thể của Molygruber được hạ xuống quan tài. Cô gái nói, “Ở trong đó, tôi nghĩ ông ấy sẽ ổn thôi, ông ấy sẽ không thể rỉ nước ra được đâu. Tôi đã băng chặt ông ấy lại, và tất nhiên tôi cũng đã bít kín khắp mọi nơi rồi. Tôi không nghĩ ông ấy sẽ chảy nước ra đâu, nhưng chúng ta hãy cho thêm mùn cưa thay vì phoi bào, lão sếp sẽ không biết đâu.”Thế là họ lấy bao mùn cưa khác và đổ vào cho đến khi phủ kín cái xác của Molygruber. Sau đó, họ cùng nhau nâng nắp lên và đặt đánh rầm lên cái hòm. Người đàn ông với lấy một chiếc máy vặn vít chạy bằng khí nén và vặn các con vít xuống trong khi người phụ nữ lấy ngón tay đặt chúng vào các lỗ. Cô với tay nhặt một chiếc giẻ ẩm, rồi cẩn thận lau sạch con số bằng phấn. Chiếc quan tài hay là cái hòm được nhấc bổng lên khỏi chân niễng và được đặt lên chiếc xe đẩy. Một chiếc bình màu tím được đặt bên trên cái hòm, và tất cả công việc còn lại là đẩy ra khỏi phòng xử lí, đến phòng trưng bày của nhà tang lễ.
Gertie and one of the men rolled Molygruber’s body on to one side and passed loops beneath him and then moved him to the other side so they could get at the loops. Little hooks were pulled up to engage in eyelets, and then the body was swung up on to what seemed to be a little railway running on rods. They pushed Molygruber’s body to a side of the room where what they called a shell, which was numbered 49 in chalk, was standing ready with the lid off. The man assistant went to a big bin and took out a lot of sawdust which he poured liberally into the casket until there was about six inches of sawdust. Then Molygruber’s body was lowered into the casket. The girl said, ‘There, I think he should be all right, I don’t think he’ll leak any. I’ve got him tied off all right down there, and of course I’ve got him plugged everywhere, too. I don’t think he’ll leak but let’s put in more sawdust instead of shavings, the old man won’t know.’ So they got another load of sawdust and poured it onto the body until Molygruber was covered. Then together they lifted up the lid and put it on with a slam. The man reached for a pneumatically-powered screw-driver and turned down the screws as the woman put them in the holes with her fingers. She reached out and picked up a damp rag, then carefully wiped off the number in chalk. The casket or shell was hoisted up from the trestles and moved sideways onto a wheeled trolley. A purple pall was placed over it, and the whole affair was wheeled out of the workroom into the showroom and display rooms.
Có tiếng la hét cùng sự xuất hiện của ông chủ, với vai trò là người chủ trì tang lễ, trong trang phục chỉnh tề: áo khoác đen, mũ lụa và quần tây sọc. “Đẩy ông ấy ra khỏi đây đi, các người vận động đi” ông ta quát lớn, “Xe tang đang ở ngoài kia, cửa đã mở rồi và mọi người đang đợi đấy. Đi thôi!” Gertie và nam trợ lý tiến lên và đẩy quan tài dọc theo một đoạn đường dốc, nơi có một băng tải đặc biệt. Nó bao gồm rất nhiều con lăn trong một bộ khung kéo dài từ đoạn đường dốc đến ngay cửa sau của xe tang. Họ đặt quan tài lên các con lăn và dễ dàng đẩy thẳng lên xe tang. Người lái xe rời khỏi chỗ ngồi của mình và nói, “Xong chưa? Được rồi đấy, chúng ta đi thôi!”. Người chủ tang lên xe và ngồi cạnh anh ta, cánh cửa gara từ từ được cuộn lên và chiếc xe tang di chuyển ra ngoài. Chỉ có một chiếc xe đang đợi bên ngoài, chiếc xe với bốn người đồng nghiệp của Molygruber ở trong đó. Họ đã mặc bộ quần áo Chủ nhật đẹp nhất của họ, có lẽ là quần áo đã được chuộc lại đặc biệt là từ tiệm cầm đồ. Vài người trong số họ có lẽ đã nảy ra ý tưởng sáng suốt rằng khi họ không sử dụng quần áo ngày lễ của họ thì họ nên cắm chúng ở hiệu cầm đồ vì khi đó họ sẽ có tiền để chi tiêu cho đến cuối tuần là ngày nhận lương, và hơn nữa, tiệm cầm đồ luôn giặt sạch những bộ quần áo và là gấp chúng lại gọn gàng trước khi đưa vào phòng giữ đồ.
There came shouting and the boss, now done up as a conventional Funeral Director in very formal clothing, black jacket, silk hat, and striped trousers, moved onto the scene. ‘Push him out there, get a move on will you,’ he shouted, ‘the hearse is out there, the door’s opened and everyone’s waiting. Get a move on!’ Gertie and the male assistant ‘got a move on’ and pushed the casket along to a ramp where there was a special loading device. It consisted of a lot of rollers in a frame extending from the ramp right on to the back of the hearse. They put the casket on the rollers and easily pushed it straight into the hearse. The driver got out of his seat and said, ‘Okay doke? Okay, off we go!’ The Director got in beside him, and slowly the garage doors were rolled up and the hearse moved out. There was only one car waiting outside, a car with Molygruber’s four associates in it. They were done up in their best Sunday clothes, probably clothes which had been redeemed especially from the pawnbroker. Some of these men had the bright idea that when they were not using their Sunday clothes they would leave them with the pawnbroker because then they would have money to spend until the end of the week when they were paid, and in addition the pawnbroker always cleaned the clothes and had them neatly pressed before putting them in the ‘Hold’ room.
Molygruber tội nghiệp dường như bị gắn chặt với cái xác của lão bằng những sợi dây vô hình. Khi chiếc quan tài được đẩy đi, thể vía của ông già Molygruber đáng thương cũng bị kéo theo, và lão chẳng còn gì để nói cả. Thay vào đó, lão được giữ cao hơn thi thể khoảng 10 feet, và lão thấy mình đang vô hình xuyên qua tường, sàn và trần nhà. Thế rồi cuối cùng lão được chuyển ra ngoài xe tang, rồi xe tang di chuyển ra ngoài trời. Người chủ trì tang lễ thò đầu khỏi xe tang và nói với bốn người đàn ông, “ Xong chưa? Được rồi đấy, chúng ta đi thôi.” Chiếc xe tang rời khỏi bãi đậu xe của Nhà tang lễ, và bốn người đưa tang trên một chiếc xe khác đi theo phía sau. Họ bật đèn pha để chứng tỏ rằng đây là một đám tang, và ở trên đỉnh của cửa sổ bên hông của chiếc xe đi sau có gắn một lá cờ hình tam giác nhỏ với dòng chữ “Tang lễ”. Điều đó có nghĩa là nó có thể đi qua đèn giao thông và cảnh sát sẽ không làm gì với nó. Họ di chuyển liên tục, băng qua những con phố đông đúc, qua chỗ những đứa trẻ đang chơi trong sân trường, và leo lên đoạn dốc dài dẫn đến nghĩa trang. Tại đó, người chủ trì tang lễ dừng lại, xuống xe và tiến lại chiếc xe theo sau. “Hãy theo sát chúng tôi,” ông ta nói, “bởi vì ở ngã tư tiếp theo luôn có người cố cắt ngang, chúng tôi không muốn trì hoãn mọi thứ quá lâu, và các ông có thể bị lạc đường. Chúng ta đến ngã thứ ba thì rẽ phải rồi rẽ trái ở ngã đầu tiên. Nhớ chưa?”. Người đàn ông lái chiếc xe kia gật đầu và Người chủ trì quay trở lại xe tang. Họ lại lên đường với chiếc xe sau “bám sát đuôi”.
Poor Molygruber seemed to be attached to his body by invisible cords. As the casket was being pushed along, poor old Molygruber in his astral form was being dragged along, and he had no say in the matter at all. Instead he was kept about ten feet above the body, and he found himself ploughing invisibly through walls, floors and ceilings. Then at last he was moved out into the hearse, and the hearse moved out into the open. The Funeral Director leaned out of the hearse and said to the four men, ‘Okay? All right then, let’s go.’ The hearse moved out of the Funeral Home parking lot, and the four mourners in the one car followed on behind. They had their headlights on to show that this was a funeral, and on the side of the following car there was a little triangular flag fixed from the top of the window reading ‘Funeral.’ That meant that it could go across traffic lights and the police would not do a thing about it. They moved on and on, through the busy streets, past children playing in school yards, and came to the long climb up to the cemetery. There the Funeral Director stopped, got out and went to the car following. ‘Keep close to us,’ he said, ‘because at the next intersection there is always somebody trying to cut in-between and we don’t want to delay things too long, and you may lose the way. We have to take third on the right and first on the left. Okay?’ The man driving the other car nodded so the Funeral Director went back to the hearse. They took off again with the following car really tail-gating.
Chẳng bao lâu sau họ đã đến cổng nghĩa trang. Chiếc xe tang và chiếc xe đi sau di chuyển qua cổng và đi vào một con đường dốc. Ở trên đỉnh dốc bên cạnh có một ngôi mộ mới đào với một bộ khung để bên trên cùng cái ròng rọc đặt bên cạnh. Xe tang tiến lên, quay đầu và lùi lại. Hai người đàn ông đứng đợi bên cạnh huyệt mộ tiến về phía xe tang. Tài xế và người chủ trì tang lễ xuống xe, và bốn người họ mở cửa sau của xe tang để kéo quan tài ra. Họ xoay đầu và di chuyển đến ngôi mộ. Bốn người đưa tang theo sau. “Người đàn ông này là một người vô thần,” Người chủ trì tang lễ nói, “vì vậy sẽ không có nghi lễ nào khác, và nó sẽ giúp các ông tiết kiệm được một khoản, chúng tôi sẽ chỉ hạ ông ấy xuống và lấp đất lại.”Những người kia gật đầu và chiếc qua tài được di chuyển chầm chậm trên các con lăn và hệ thống dây đai đặc biệt được luồn xuống dưới, sau đó quan tài được từ từ hạ xuống huyệt. Bốn người đàn ông tiến đến bên ngôi mộ chưa lấp, nhìn xuống, vẻ mặt có chút lo âu và đượm buồn. Một người nói, ‘ Tội nghiệp ông già Molygruber, không ai trên thế giới này quan tâm đến ông ấy.’ Một người khác nói, “Phải, tôi hy vọng ông ấy đã gặp được một ai đó tại nơi ông ấy đã hoặc đang đến.” Sau đó, họ quay trở lại xe, lùi xe, quay đầu và từ từ ra khỏi nghĩa trang. Hai người đàn ông đứng bên cạnh vị chủ trì tang lễ lật một tấm ván và cả đống đất rơi xuống quan tài với một tiếng động kinh khủng. Vị Chủ trì nói, “Tốt rồi, lấp đất lại đi, thế thôi ” và đi ra xe tang. Người lái xe lên xe, rồi họ lái xe đi.
Soon they reached the gates of the cemetery. The hearse and the following car moved in and up a driveway. At the top and off to the side there was a newly dug grave with a frame over it and the pulleys on the side. The hearse moved up, turned, and backed. Two men waiting by the graveside moved toward the hearse. The driver and the Funeral Director got out, and the four of them opened the back of the hearse pulling out the coffin. They turned it and moved to the grave. The four mourners followed. ‘This man was an atheist,’ said the Funeral Director, ‘and so there will be no service that will save you certain expense, we will just lower him and cover him up.’ The other men nodded and the coffin was eased over the top of the rollers and special web straps were put under, then slowly the coffin was lowered into the ground. The four men moved up to the open grave as one, looked down, and were quite upset, quite sad. One said, ‘Poor old Molygruber, nobody in the world to care about him.’ Another said, ‘Well, I hope he’s got somebody where he’s going or where he’s gone.’ With that they went back to their car, backed it, turned, and slowly drove off out of the cemetery. The two men beside the Funeral Director tipped a board and a whole load of earth fell into the casket with a hollow, sickening sound. The Director said, ‘Ah well, cover him up, that’s that,’ and moved to the hearse. The driver got in and they drove off.
Molygruber bất lực lơ lửng bên trên, chẳng thể làm gì, cũng chẳng di chuyển được, và lão nhìn xuống và nghĩ, ‘Vậy đây là sự kết thúc của cuộc sống à? Làm gì bây giờ? Từ đây mình sẽ đi đâu? Tôi luôn tin rằng rằng chết là hết, nhưng tôi đã chết rồi và kia là thân xác của tôi còn tôi đang ở đây, vậy tôi là cái gì và đang ở đâu? ” Cùng với đó, dường như có một tiếng vỗ mạnh như âm thanh của gió rít qua các đường dây điện thoại giăng căng trên sườn đồi cao, rồi Molygruber thấy mình như đang lao nhanh vào hư vô. Không có gì trước mặt lão, không có gì phía sau lão, không có gì ở hai bên, không có gì ở phía trước cũng không ở phía sau, và lão phóng nhanh đến hư vô.
Molygruber hovered above powerless to do anything, powerless to move, and he looked down and thought, ‘So this is the end of life, eh? What now? Where do I go from here? I’ve always believed there was nothing after death, but I’m dead and there’s my body and I’m here, so what am I and where am I?’ With that there seemed to be a loud thrumming sound like the sound of the wind through taut telephone lines on a high hillside, and Molygruber found himself speeding into nothingness. There was nothing before him, nothing behind him, nothing at either side, neither at the front nor at the back, and he sped on unto nothingness.
Yên lặng! Yên lặng, không có gì ngoài sự lặng im, không một âm thanh nào cả. Lão lắng nghe rất, rất cẩn thận nhưng không có tiếng tim đập, không có tiếng thở. Lão nín thở, hoặc nghĩ rằng lão đã làm vậy, và sau đó lão bị sốc bởi tim lão vốn không đập, và phổi của lão cũng không hoạt động. Theo thói quen, lão đưa tay ra để cảm nhận lồng ngực. Có một ấn tượng rõ ràng rằng lão đã đưa tay ra, một ấn tượng rất rõ ràng rằng mọi thứ đang hoạt động, nhưng không có gì ở đó cả, không có gì.
Silence! Silence, nothing but silence, not a sound. He listened very, very carefully but there was no sound of a heartbeat, no sound of breathing. He held his breath, or thought he did, and then it came to him with a shock that his heart was not beating, and his lungs were not working either. From force of habit he put his hands out to feel his chest. There was a distinct impression that he had put his hands out, a very distinct impression that everything was working, but there was nothing there nothing.
Sự im lặng trở nên ngột ngạt. Lão đã lướt đi một cách không dễ dàng, nhưng có đúng là như vậy không? Lão không còn chắc chắn về điều gì nữa. Lão đã thử cử động một chân. Lão cố gắng xoay một ngón chân nhưng không có gì. Không cảm giác, không có cảm giác của sự cử động, không có cảm giác rằng có cái gì đó đang tồn tại. Lão nằm ngửa ra hoặc nghĩ rằng lão đã làm thế và cố gắng bình tĩnh lại, cố gắng kiềm chế những suy nghĩ của mình. Bạn nghĩ như thế nào giữa hư vô khi bạn có ấn tượng rằng bạn không là gì cả mà bạn thậm chí còn không tồn tại? Nhưng rồi bạn vẫn phải tồn tại, đó là điều lão nghĩ, bởi vì nếu lão không thực sự tồn tại thì lão không thể nghĩ. Lão nghĩ đến cái quan tài được chôn xuống đất rất rất cứng, đất ngày ngày khô cứng lại vì không có mưa, trên trời không một gợn mây. Lão nghĩ.
The silence grew oppressive. He shifted uneasily, but did he? He was not sure of anything anymore. He tried moving a leg. Tentatively he tried to twiddle a toe, but no nothing. No sensation of feeling, no sensation of movement, no sensation that anything WAS. He lay back or thought he did and tried to compose himself, tried to compose his thoughts. How do you think in the midst of nothingness when you have the impression yourself that you are nothing that you do not even exist? But then you must exist, that is what he thought, because if he had not been existing well he could not think. He thought of the casket being lowered down into the hard, hard earth, the earth dried out with days and days of dryness, with no rain, with never a cloud in the sky. He thought.
Trong lúc mải mê suy nghĩ, lão chợt cảm nhận được sự chuyển động. Lão quan sát, và đáng lẽ lão sẽ nói: “Tránh qua một bên’ nhưng thật kinh ngạc, lão thấy rằng lão đang ở trên ngôi mộ của mình, nhưng sao có thể như vậy khi mới cách đây một giây? Thời gian là gì, thời gian, làm sao lão có thể đo được thời gian ở đây?. Theo thói quen, lão cố gắng nhìn xuống tay mình, nhưng không, không có đồng hồ ở đó, cũng không có cánh tay nào, chỉ có hư vô. Khi nhìn xuống tất cả những gì lão thấy là ngôi mộ. Lão vô cùng kinh ngạc và sợ hãi khi thấy có một đám cỏ cao trên mộ của mình. Cỏ mất bao lâu để lớn lên? Có mọi bằng chứng cho thấy lão đã được chôn cất kỹ càng hơn một tháng trước. Cỏ không thể mọc nhanh như vậy, không thể mọc trong thời gian ngắn hơn một tháng hoặc sáu tuần. Sau đó, lão thấy tầm nhìn của mình bị lướt đi, lướt xuống bên dưới đám cỏ, bên dưới mặt đất, lão thấy những con giun đất đang đào hang và di chuyển, lão thấy những con côn trùng đang nhộn nhịp xung quanh. Lão nhìn sâu hơn và lão thấy ván gỗ của quan tài. Lão nhìn sâu hơn nữa vào bên dưới của nắp quan tài, lão thấy một khối đang mục nát, thối rữa ở bên trong. Ngay lập tức lão giật mình và bật dậy với một tiếng thét kinh hoàng không tiếng động, hoặc đó là cảm giác mà lão có. Lão thấy cả người lão run rấy, nhất là ở từng chi, nhưng rồi lão nhớ lại rằng lão không có tay chân, không có cơ thể ở đó nhưng lão có thể nói. Lão nhìn chằm chằm vào xung quanh nhưng vẫn không có gì để thấy, không có ánh sáng, không có bóng tối, chỉ có khoảng trống, khoảng trống của sự trống rỗng hoàn toàn, nơi mà ngay cả ánh sáng cũng không thể tồn tại. Cảm giác thật khủng khiếp, thật sốc. Nhưng làm sao lão lại cảm thấy có cảm giác nếu lão không có cơ thể? Lão nằm đó, hay nói rằng đang tồn tại ở đó, đang cố gắng tìm ra nó là cái gì.
As he thought there was a sudden sensation of motion. He looked, he would have said, ‘over the side,’ with astonishment and found that he was over his grave, but how could that be when a second ago a second ago? what was time, time, how could he measure time here? By habit he tried to look down at his wrist, but no, there was no watch there. There was no arm there either. There was nothingness. As he looked down all he saw was the grave. He saw with considerable astonishment and fright that there was long grass on his grave. How long does grass take to grow? There was every evidence that he had been buried well over a month ago. The grass could not have grown so quickly, could not have grown in any lesser time than a month or six weeks. Then he found his vision slipping, slipping beneath the grass, beneath the earth, he saw the earthworms burrowing and moving, he saw little beetles bustling around. His sight penetrated further and he saw the wood of the coffin. Further he saw below the lid of the coffin; saw the moldering, decaying mass within. Instantly he recoiled and sprang up with a soundless shriek of terror, or that was the sensation that he had. He found himself quivering, absolutely shaking in every limb, but then he recalled that he had no limbs, he had no body there so far as he could tell. He gazed about him but still there was nothing to see, no light, no dark, only the void, the void of complete emptiness. where even light could not exist. The sensation was terrible, shocking. But how did he feel a sensation if he had no body? He lay there, or should it have existed there, trying to work out what was.
Đột nhiên một ý nghĩ mơ hồ lướt qua ý thức của lão. “Tôi tin,” “Rampa,” những ý nghĩ đó chợt xuất hiện. Lần cuối cùng lão thấy mấy gã ngồi nói chuyện ở Khu tập kết, họ nói về chuyện gì nhỉ? Ở đó có một số công nhân quét đường, và cũng có một số tài xế xe tải chở rác, và họ đang nói chuyện về sự sống và cái chết, và những điều khác nữa, một buổi nói chuyện mà Molygruber là người khởi xướng khi lão cho họ xem quyển sách của Lobsang Rampa.
Suddenly a vagrant thought came creeping across his consciousness. ‘I believe,’ the thought came. ‘Rampa,’ the thought came. What was it those fellows had been talking about the last time he saw them up at the Sanitation Depot? A number of street cleaners were there, a number of garbage truck drivers, too, and they were talking about life and death, and all the rest of it, a talk which had been generated by Molygruber showing a book by Lobsang Rampa.
Một trong những người đàn ông đã nói, “Chà, tôi không biết phải tin điều gì, không bao giờ biết phải tin vào điều gì. Tôn giáo của tôi không giúp gì cho tôi, không cho chúng tôi bất kỳ câu trả lời nào, chỉ nói rằng bạn phải có đức tin. Làm thế nào bạn có thể có niềm tin khi không bao giờ có bất kỳ bằng chứng nào về bất cứ điều gì? Có ai trong số các bạn đã từng có lời cầu nguyện được đáp lại không? ”Ông ấy hỏi. Ông ấy nhìn quanh và thấy những cái lắc đầu tiêu cực của đồng nghiệp. Một người nói, “Không, bản thân chưa bao giờ, cũng chưa từng biết ai được đáp lại lời cầu nguyện. Khi tôi còn nhỏ, tôi đã được dạy Kinh thánh và một điều đọng lại trong tâm trí tôi sau đó là tất cả các môn đồ, các nhà tiên tri vĩ đại, các vị thánh và những người khác, họ thường cầu nguyện như những kẻ ngốc nhưng chẳng có câu trả lời nào đáp lại, không có gì tốt xảy ra cả. Tôi nhớ có một lần đọc về Vụ đóng đinh. Trong Kinh thánh có kể rằng Chúa Giê su đã thốt lên vài lời trên cây Thập tự, “Lạy Chúa, lạy Chúa, tại sao Người lại bỏ rơi con?” Nhưng Ngài cũng không nhận được câu trả lời.
One of the men had said, ‘Well, I dunno what to believe, never did know what to believe. My religion don’t help me any, doesn’t give us any answers, just says you must have faith. How can you have faith when there’s never any proof of anything? Any of you fellows ever had a prayer answered?’ he had asked. He looked about and saw the negative shakes of his colleagues’ heads. One said, ‘Nope, never did, never known anyone, either, who got a prayer answered. When I was a little ‘un I got taught the Bible and a thing that stuck in my mind then was all the Old Fellows, great prophets, saints and what-nots, they used to pray their fool heads off but they didn’t get any answers, nothing good ever happened. I mind reading one day about the Crucifixion. It said in the Good Book that Christ uttered words on the Cross, “Lord, Lord, why hast thou forsaken me?” But He got no answer.’
Có một sự im lặng đầy khó chịu giữa những người đàn ông khi họ nhìn xuống và di di chân của mình một cách không thoải mái và với những suy nghĩ lạ lẫm khi họ cố gắng nghĩ về tương lai. Có gì sau cái chết? Bất kể là cái gì? Có phải thân xác chỉ là trở về đất như một khối bị phân hủy và rồi đống xương khô cũng tan thành cát bụi? Họ nghĩ phải có cái gì đó nhiều hơn thế. Chắc chắn phải có mục đích của sự sống và mục đích của cái chết. Một vài người trong số họ cảm thấy có chút lỗi với đồng nghiệp của mình khi họ nhớ lại những hoàn cảnh kỳ lạ, những diễn biến kỳ lạ và những sự kiện không thể giải thích bằng bất cứ điều gì trong ý thức của họ.
There was an uneasy silence among the men as they looked down and shuffled their feet in discomfort and with unaccustomed minds they tried to think of the future. What was there after death? Anything? Do bodies just return to the earth as a putrefying mass and then as sterile bones crumbling into dust? There must be something more than this, they thought. There was a definite purpose to life and a definite purpose to death. Some of them looked a bit guiltily at their fellows as they recalled strange circumstances, peculiar happenings, and events which could not be explained by anything within their consciousness.
Một người nói, “Chà, vị tác giả mà ông đang nói với bọn tôi là người đang sống ở trung tâm thành phố, bà xã nhà tôi đã đọc sách của ông ấy và bà ấy đang có ý định nói với tôi một điều gì đó khủng khiếp. Bà ấy nói, ” Này Jake, nếu ông không tin vào bất cứ điều gì thì khi ông chết ông sẽ chẳng có cái gì để bám vào.” Bà ấy nói “Nếu ông tin rằng có một cuộc sống sau khi chết thì khi đó ông sẽ có trải nghiệm về nó, đơn giản là, ông phải tin rằng có thế giới bên kia, nếu không ông sẽ trôi nổi như bong bóng trong gió, chỉ trôi đi đâu đó mà hầu như không tồn tại. Ông phải có lòng tin, phải giữ một tâm trí cởi mở để ông có thể sẵn sàng tin tưởng, để ông có cái gì đó kích thích sự quan tâm của ông khi ông qua đời.”
One fellow said, ‘Well, that author you’ve been telling us about who lives downtown, well my missus been reading his books and she’s been going on to me something terrible. She said, “Jake, Jake, if you don’t believe anything you’ve not nothing to hang on to when you’re dead.” She said “If you believe that there is an afterlife then you will experience an afterlife, it’s as simple as that, you’ve got to believe that there is an afterlife otherwise you’ll float like a bubble on the wind, just drifting about almost without existence. You’ve got to believe, you’ve got to keep an open mind so you can be ready to believe if you have something to stimulate your interest when you pass over.” ’
Đã có một khoảng lặng dài sau câu nói đó. Những người đàn ông trông bối rối và bồn chồn khó chịu tự hỏi làm thế nào họ có thể ra khỏi đây mà không có vẻ gì là sẽ bỏ chạy. Molygruber nghĩ về tất cả diều đó khi lão nằm đó, hoặc đứng, hoặc ngồi ở đó vì lão không biết mình đang ở độ cao nào trong hư vô, chỉ là một ý nghĩ quái gở, theo cách mà lão gọi tên nó. Nhưng rồi có lẽ tác giả đó đã đúng, có lẽ người ta đã ngược đãi ông ấy, chỉ trích ông ấy và gán cho ông ấy những cái danh bất lợi vì họ không biết, vì họ đã sai. Có lẽ vị tác giả ấy đã đúng, vậy bây giờ ông ấy muốn truyền đạt điều gì? Molygruber cố gắng hết sức nhớ lại những ý nghĩ thoáng qua khi nó chỉ vừa mới chạm vào bề mặt gợn sóng của ý thức. Rồi ý nghĩ đó đến với lão. “Bạn phải tin vào một điều gì đó. Nếu bạn là một người Công giáo thì bạn tin vào thiên đường, tin vào thánh và các thiên thần. Nếu bạn là một người Do Thái giáo, bạn sẽ tin vào một hình thái khác. Nếu bạn là một tín đồ của đạo Hồi thì bạn lại tin một hình hài khác của thiên đường. Nhưng bạn phải tin vào một điều gì đó, bạn phải giữ một tâm trí cởi mở để ngay cả khi bây giờ bạn chưa thực sự tin nhưng bạn vẫn có sự cởi mở trong tâm trí để cho phép mình có thể bị thuyết phục. Nếu không, bạn sẽ lơ lửng giữa các thế giới, giữa các hành tinh, trôi nổi như một ý nghĩ trôi dạt, mong manh như một ý nghĩ.”
There had been a long silence after that utterance. The men had looked embarrassed and fidgeted uncomfortably wondering how they could get away without appearing to run away. Molygruber thought of it all as he lay there, or stood, or sat there he did not know which high up in nothingness, being just a disembodied thought so far as he could tell. But then perhaps that author was right, perhaps people had persecuted him and picked on him and given him unfavourable publicity because they did not know, because they were wrong. Perhaps that author was right, now what was it he was teaching? Molygruber strained and strained to recall the fleeting thought which had barely touched the rippling surface of his consciousness. Then it came to him. ‘You must believe in SOMETHING. If you are a Catholic then you believe in a form of heaven, peopled with saints and angels. If you are a Jew you believe in a different form. If you are a follower of Islam then you have a different form again of heaven. But you must believe in something, you must keep an open mind so that even if you do not actually believe now you still have openness in your mind so that you can be convinced. Otherwise you will float idly between worlds, between planes, float as a drifting thought, as tenuous as a thought.’
Molygruber cứ nghĩ và nghĩ về chuyện đó. Lão nghĩ làm thế nào mà trong suốt cuộc đời mình, lão đã phủ nhận sự tồn tại của Chúa, phủ nhận sự tồn tại của một tôn giáo, nghĩ rằng tất cả các linh mục đều là những kẻ hám tiền, lừa dân chúng bằng vô số những câu chuyện cổ tích. Lão nghĩ về điều đó. Lão cố gắng hình dung khuôn mặt của vị tác giả có tuổi mà lão đã từng tiếp cận. Lão tập trung nghĩ đến khuôn mặt của tác giả, điều khiến lão kinh hãi là khuôn mặt của tác giả dường như ngay ở trước mặt lão, lên tiếng và nói chuyện với lão. ‘Bạn phải tin, nếu không BẠN sẽ chỉ là một cái bóng trôi nổi không có sức mạnh, không có động lực và không có mỏ neo. Bạn phải tin, phải giữ tâm trí mình rộng mở, phải sẵn sang đón nhận sự giúp đỡ để bạn có thể thoát khỏi sự trống rỗng, khỏi sự trống không cằn cỗi và chuyển sang một bình diện tồn tại khác. ‘
Molygruber thought and thought about it. He thought how throughout his life he had denied the existence of a God, denied the existence of a religion, thinking that all priests were money-grabbing Shylocks out to con the public with a lot of fairy tales. He thought about it. He tried to picture the old author whom he had once seen close up. He focused on his rendering of the author’s face, and to his terror it seemed that the author’s face was right in front of him, speaking, talking to him. ‘You must believe, unless you believe SOMETHING you are just a drifting shadow without power, without motivation, and without anchor. You must believe, you must keep your mind open, you must be ready to receive help so that you may be removed from the void, from the sterile emptiness and moved on to another plane of existence.’
Một lần nữa, Molygruber lại nghĩ, “Không biết bây giờ ai đang sử dụng chiếc xe kéo cũ kỹ của mình nhỉ?” Và nhanh như chớp, lão lại nhìn thấy đường phố của Calgary, lần này lão thấy một anh chàng trẻ tuổi đang đẩy chiếc xe kéo của lão dọc theo các con phố, thường xuyên dừng lại để hút thuốc. Thế rồi lão nhìn thấy vị tác giả già, và lão run lên vì sợ hãi khi nhìn xuống và thấy vị tác giả già đang nhìn lên với nụ cười nửa miệng trên môi. Rồi đôi môi như muốn nói: ‘Hãy tin vào một điều gì đó, hãy tin đi, hãy mở rộng tâm trí, luôn có người sẵn sàng giúp đỡ ông’.
Again Molygruber thought, ‘I wonder who’s using my old barrow now?’ And like a flash he saw again the streets of Calgary, saw a young fellow this time pushing along his barrow sweeping the streets, stopping every so often to have a smoke. Then he saw the old author, and he quivered with fright as he looked down and found the old author was looking up with a sort of half smile on his lips. Then the lips formed words, ‘Believe something, believe, open your mind, there are people ready to help you.’
Molygruber nhìn lại và cảm thấy tức giận dâng trào lên người đàn ông đang sử dụng chiếc xe của mình. Bây giờ nó là một cái xe đẩy cũ kỹ bẩn thỉu với vết bẩn bám sâu trong bản lề của nắp đậy và xung quanh tay cầm. Cây chổi cũng mòn, thậm chí còn mòn không đều, mòn vẹt một góc, và đối với lão, điều đó như tố cáo rằng chàng trai kia không hề tự hào về công việc của mình. Lão cảm thấy vô cùng tức giận, và cùng với đó là một tốc độ đáng sợ, một tốc độ khiến đầu óc như tê liệt. Cơ mà tất cả điều ấy thật lạ lùng, làm sao lão có thể cảm nhận được tốc độ khi không có cảm giác về chuyển động. Làm sao lão cảm nhận được tốc độ khi mà không có ngọn gió nào thổi qua mặt lão? Rồi lão rùng mình kinh hãi. Lão có mặt không nhỉ? Lão đang ở một nơi có gió không? Lão cũng không biết. Molygruber chỉ là đang tồn tại thôi. Không có cảm giác về thời gian, hầu như không có cảm giác đang hiện hữu, lão chỉ là đang tồn tại. Đầu óc lão quay cuồng, chỉ có những suy nghĩ vẩn vơ len lỏi qua màn hình thị giác. Thế rồi lão lại hình dung ra vị tác giả già và gần như nghe thấy những lời chưa được thốt ra: “Bạn phải tin vào điều gì đó.” Cùng với đó Molygruber nhớ lại bức tranh về thời thơ ấu, nghèo đói, những điều kiện sống tồi tệ mà lão đã trải qua. Lão nhớ đến một bức tranh trong Kinh thánh và câu nói: ‘Chúa là người chăn dắt tôi, nếu tôi không muốn, Người sẽ bỏ rơi tôi’
Molygruber looked again and felt a surge of rage at the man who was using his old barrow. It was a dirty old barrow now with dirt engrained in the hinges of the lids and around the handles. The broom was worn, too, not even worn evenly but worn unevenly, at an angle, and that to him betrayed that the present user was not a man with pride in his job. He felt a surge of rage, and with that a great speed frightening, mind-numbing speed. And yet it was all so strange, how could he feel speed when there was no feeling of motion. How could he have speed without the wind on his face? Then he shuddered with terror. Did he have a face? Was he in a place where there was wind? He did not know. Molygruber just WAS. There was no feeling of time, hardly a feeling of being, he just WAS. His mind ticked over, just idle thoughts creeping across the screen of his mental vision. Then again he pictured the old author and almost heard the words which had not been uttered: ‘You must believe in something.’ With that Molygruber had a picture of his childhood, the poor, poor conditions under which he had lived. He remembered a picture in a Bible and a sentence: ‘The Lord is my shepherd, I shall not want, he leadeth me ’
Người đã bỏ rơi tôi. Ý nghĩ đó đánh bại sự kiềm chế bất tận trong tâm trí Molygruber hoặc ý thức của lão hoặc bất cứ thứ gì còn lại với lão bây giờ, và lão nghĩ, ‘Tôi ước gì Người đã dẫn dắt tôi! Tôi ước có ai đó sẽ dẫn tôi đi!”. Với suy nghĩ đó, lão chợt cảm thấy “điều gì đó”, nhưng lão không thể nói nó là cái gì, lão có cảm giác rằng có người đang ở gần, nó khiến lão nhớ lại có lần lão ngủ trong một căn nhà trọ và bất cứ khi nào có người khác bước vào căn phòng lớn đó, lão đều nhận biết được, không phải đến mức thức giấc mà ở mức đề phòng sợ họ cố tình lấy trộm chiếc đồng hồ để dưới gối hoặc chiếc ví mỏng được giấu sau tấm lưng nhỏ bé của lão.
He leadeth me. The thought beat an endless refrain in Molygruber’s mind or his consciousness or whatever was left to him now, and he thought, ‘I wish He’d lead me! I wish somebody would lead me!’ With his thought he felt ‘something,’ he could not tell what it was, he had a sensation that people were near, it reminded him of when he had been sleeping in a doss house and whenever any other person came by in that big room he would be aware of it, not to the point of waking but to the point of being on guard in case they tried to steal the watch beneath his pillow or the thin wallet tucked in the small of his back.
Lão nảy ra một ý nghĩ, “Cứu tôi với, cứu tôi với,” và sau đó dường như lão cảm thấy rằng mình có bàn chân. Có một cảm giác ngứa ngáy kỳ lạ và đúng là lão có bàn chân, chân trần, và với một cảm giác sợ hãi kinh khủng, lão phát hiện chân lão đang đứng trên một thứ gì đó rất dính, có thể là hắc ín, lão nghĩ. Lão nhớ lại một lần khi còn trẻ, lão đã lao ra khỏi nhà với đôi chân trần, và đã bước thẳng vào con đường cao tốc nơi những thợ làm đường thành phố đang trải nhựa. Lão nhớ lại nỗi sợ hãi, sự kinh hoàng của một đứa trẻ với ý nghĩ mình bị mắc kẹt ở đấy và chẳng bao giờ có thể thoát ra được. Bây giờ lão cũng cảm thấy như thế, như bị mắc kẹt trong hắc ín. Và rồi lão nghĩ rằng hắc ín đang bò lên khắp người lão, phải rồi, bây giờ lão có thể cảm nhận được cơ thể, lão có cánh tay, bàn tay và các ngón tay, nhưng lão không thể cử động được chúng vì chúng đang bị dính trong hắc ín, hoặc nếu nó không phải là hắc ín thì đó là thứ gì đó rất dính, một thứ gì đó cản trở chuyển động, và xung quanh lão lão có thể thề rằng có người đang theo dõi mình. Lão cảm thấy cơn tức giận lại dâng trào, cơn tức giận màu đỏ rực, gần như một cơn thịnh nộ chết người, và lão chợt nảy ra ý nghĩ, “Được rồi, các người, các người đang trố mắt nhìn tôi làm gì, tại sao các người không đến giúp tôi một tay? Các người không thấy tôi đang bị mắc kẹt sao?” Suy nghĩ trở nên rõ ràng và phát thành tiếng, gần giống với những thứ mà lão đã nhìn thấy trên những chiếc tivi ở trên ô cửa của các cửa hàng. “Bạn phải tin, bạn phải tin, bạn phải mở rộng tâm trí trước khi chúng tôi có thể giúp bạn vì bạn đang đẩy chúng tôi ra bằng suy nghĩ của mình. Hãy có lòng tin, chúng tôi ở đây sẵn sàng giúp bạn, hãy tin vào điều đó.”
He uttered a thought, ‘Help me, help me,’ and then he seemed to feel that he had feet. There was a strange tipping sensation and yes he had feet, bare feet, and with a sickening sensation of terror he found that his feet were on something sticky, tar maybe, he thought. He recalled a time when he was young and he had rushed out of the house barefooted, and he had walked straight into where the City roadmen had been tarring the highway. He remembered the fright, the terror he was very young the thought that he was stuck on the road and would never get away again. It was like that now, he was stuck, stuck in tar. And then he thought that tar was creeping up along his body, yes he could feel a body now, he had arms, hands and fingers, but he could not move them because they were stuck in tar, or if it was not tar it was something sticky, something that inhibited movement, and about him he could swear there were people and the people were watching him. He felt a surge of rage, red, red rage, almost a killing rage, and he sent out the thought, ‘Okay, youse guys, what are you gaping at me for, why don’t you come and give me a hand? Can’t you see I’m stuck, eh?’ The thought came back clear and loud, almost like some of the things he had seen on the television sets which he had watched in the windows of dealers. ‘You must believe, you must believe, you must open your mind before we can help you for you are repelling us with every thought. Believe, we are here ready to help you, believe.
Lão khịt mũi và cố gắng chạy theo những người đang nhìn chằm chằm vào mình vì lão chắc chắn rằng họ đang chăm chú nhìn lão, nhưng lão nhận thấy rằng động tác của bản thân vô cùng lúng túng. Lão bị mắc kẹt trong hắc ín, những cử động gần như không thể cảm nhận được . Đột nhiên lão nghĩ, “Ôi, Chúa ơi, chuyện gì đã xảy ra vậy?” Và với ý nghĩ “Ôi, Chúa ơi” lão đã nhìn thấy một tia sáng trong bóng tối giống như ánh sáng mặt trời len lỏi qua đường chân trời vào lúc sớm nhất của buổi sáng. Lão nhìn với vẻ sợ hãi, và rồi lại thử lẩm bẩm ‘Chúa ơi, hãy giúp tôi!’ Trước sự thích thú và ngạc nhiên của lão, ánh sáng bừng lên và lão nghĩ rằng mình đã nhìn thấy một ‘hình bóng’ đang đứng ở đường chân trời đang vẫy gọi mình. Nhưng không, Molygruber vẫn chưa sẵn sàng, lão lẩm bẩm một mình, ‘Một đám mây kỳ lạ, tôi đoán vậy, rằng nó sẽ là như vậy. Không ai muốn giúp tôi cả.’ Thế là ánh sáng lại tối dần, tia sáng trên đường chân trời biến mất và Molygruber lại chìm sâu hơn vào hắc ín hay bất cứ thứ gì tương tự. Thời gian trôi qua, thời gian vô tận trôi qua, không có dấu hiệu cho biết thời gian đã trôi qua bao lâu, nhưng cái thực thể đã từng là Molygruber chỉ vừa yên nghỉ ‘ở một nơi nào đó’, chìm đắm trong bóng tối của sự hoài nghi, và xung quanh lão có những người sẽ giúp lão chỉ cần lão mở rộng tâm trí để tin tưởng,mở rộng tâm trí của lão để những người giúp đỡ có thể làm nhiệm vụ của họ và dẫn dắt lão tiến đến nơi có ánh sáng, đến với bất kỳ hình thức sống hoặc tồn tại nào đang tồn tại.
He snorted and tried to run after the people who were staring at him for he was sure they were staring, but he found that his movements were just floundering. He was stuck in tar, movements were almost imperceptible. He suddenly thought, ‘Oh, my God, what’s happened?’ And with the thought of ‘Oh, my God’ he had seen a light in the darkness like the sunlight creeping over the horizon at the earliest part of the morning. He looked in awe, and then again experimentally mumbled ‘God God help me!’ To his delight and surprise the light brightened and he thought that he saw a ‘figure’ standing on the skyline beckoning to him. But no, Molygruber was not ready yet, he just mumbled to himself, ‘A strange cloud, I guess, that’s what it’ll be. Nobody wants to help me.’ So the light darkened, the brightness on the skyline vanished and Molygruber sank more deeply into the tar or whatever it was. Time passed, endless time passed, there was no indication of how much time passed, but the entity that had been Molygruber just rested ‘somewhere’, immersed in the darkness of disbelief, and around him there were those who would help if only he would open his mind to belief, open his mind so that the helpers could do their task and lead him forward to the light to whatever form of life or existence there was.
Lão vô cùng hoang mang, cảm giác còn tệ hơn vì lão không thể cảm nhận được cánh tay, chân hoặc bất cứ thứ gì khác, và điều đó thật đáng lo ngại. Vì một lý do nào đó mà lão không thể loại bỏ vị tác giả già đó ra khỏi tâm trí của mình, nó thực sự cứ bám vào đó, ám ảnh lão. Có thứ gì đó nổi lên trong ý thức của lão. Cuối cùng thì lão cũng hiểu được.
He was in considerable turmoil, worse because he could not feel arms, legs, or anything else, and it was, well, disturbing to say the least. For some reason he could not get that old author out of his mind, it was really sticking there and prodding at him. There was something bubbling beneath his consciousness. At last he got it.
Vài tháng trước, lão nhìn thấy vị tác giả già trên chiếc xe lăn điện. Ông ấy đi dạo quanh công viên mới được xây dựng, và có một người đàn ông đi cùng. Molygruber, có thể không muốn, nhưng đã dừng lại để nghe hai người trò chuyện. Vị tác giả ấy đã nói: ‘Ông biết đấy, Kinh thánh Cơ đốc làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề về sự sống sau khi chết, và điều khiến tôi ấn tượng nhất là những người theo đạo Công giáo đặc biệt tin vào các vị thánh, thần, ma quỷ, v.v. , nhưng vì một số lý do khác thường nào đó mà họ dường như vẫn nghi ngờ về cuộc sống sau khi chết. Vậy họ sẽ giải thích thế nào về ghi chép trong Sách Giảng Viên( Kinh thánh Do Thái) 12: 5-7 đã viết rằng, “Bởi vì Con người thì đi về ngôi nhà vĩnh cửu của mình còn những người đi đưa đám thì đi trên khắp các con phố; trước khi sợi chỉ bạc bị đứt, hay cái bát vàng bị vỡ, hoặc cái bình bị vỡ ở đài phun nước, hoặc bánh xe bị hỏng ở bể chứa, thì cát bụi vẫn trở lại trái đất như ban đầu cũng giống như là linh hồn trở về với Đức Chúa Trời người đã ban cho họ mọi sự. ” Chà”, tác giả già nói với người đàn ông kia,”ông có biết điều đó có nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là trong cơ thể của một con người, một phần sẽ trở về cát bụi mà từ đó nó được cho là đã được tạo ra, và phần khác sẽ trở về với Chúa hoặc về với cuộc sống bên kia. Đó là Kinh thánh của Cơ đốc giáo, bây giờ họ thừa nhận có cuộc sống sau khi chết, nhưng những người theo đạo Cơ đốc thì hình như là không. Nhưng khi đó có rất nhiều điều mà các tín đồ Cơ đốc giáo không tin. Tuy nhiên, họ sẽ nhận ra khi họ sang Thế giới bên kia! ”
A few months before he had seen the old author in the electrically propelled wheelchair. He had been tootling around in the new park which had been made, and there was a man with him. Molygruber, as was his wont, had stopped to listen to the two conversing. There was something the author was saying: ‘You know, the Christian Bible sheds a lot of light on the matter of life after death and it always strikes me as most remarkable that Christians Catholics in particular believe in saints, angels, devils and so on, and yet for some extraordinary reason they still seem to doubt life after death. So how are they going to explain Ecclesiastes 12:5-7 which actually says, “Because Man goes to his eternal home and the mourners go about the streets; before the silver cord is snapped or the golden bowl is broken or the pitcher is broken at the fountain or the wheel broken at the cistern, and the dust returns to the earth as it was and the spirit returns to God who gave it.” Well,’ the old author had said to the other man, ‘you know what that means, don’t you? It means that of the body of a person, one part returns to the dust from which it was alleged to have been made, and the other portion returns to God or to life beyond this. Now, that’s the Christian Bible, they acknowledge life after death, but the Christians apparently do not. But then there are a lot of things Christians don t believe in. They’ll find out, though, when they get to the Other Side!’
Molygruber thực sự đã nhảy lên, hay đúng hơn là lão cảm thấy như thể mình đã nhảy. Làm thế nào bạn có thể nhảy nếu bạn không có cơ thể? Những lời đó dường như được thốt ra ngay sau lưng lão. Bằng cách nào đó lão đã xoay chiều được ý thức của mình nhưng không có gì ở phía sau lão cả, vậy là lão suy ngẫm về vấn đề này một lát, nghĩ rằng có lẽ lão đã bị lạc, có lẽ lão đã để cho cuộc sống đầu đời của mình làm sai lệch suy nghĩ của lão, có lẽ có cái gì đó trong cuộc sống sau cuộc sống ở trái đất. Lão kết luận rằng sẽ phải có, bởi vì chính lão đã nhìn thấy thân xác của mình đã và đang chết, lão đã rùng mình và sẽ phát ói nếu lão có thể nhìn thấy cơ thể mình đang phân hủy với bộ xương lộ ra qua lớp da thịt thối rữa.
Molygruber really jumped, or rather he felt as if he jumped. How can you jump if you have no body? The words seemed as though they had been uttered just behind him. Somehow he managed to turn around his consciousness but there was nothing behind him, so he mused on the problem for a time, thinking perhaps he had been lost, perhaps he had allowed his early life to distort his thinking, perhaps there was something in the life after the earth-life. There must be, he concluded, because he had seen his body dying, he had seen his body dead, and he had shuddered and would have been sick if he could he had seen his body decaying with the skeleton bones showing through the rotting flesh.
Đúng vậy, lão lẩm bẩm một mình, nếu có thể lẩm bẩm không thành tiếng, phải có gì đó ở cuộc sống sau khi chết, hẳn là lão đã lầm lạc suốt bao năm nay. Có thể những cay đắng trong cuộc sống khốn khó của lão đã làm sai lệch giá trị của chính lão. Đúng, phải có một cuộc sống nào đó bởi vì lão vẫn còn sống, hoặc cho là lão vẫn đang sống, và nếu lão không còn sống thì sao lão lại đang suy nghĩ về những điều này? Phải, lão chắc hẳn đang ở một dạng sống nào đó.
Yes, he muttered to himself, if one can mutter without a voice, there must be something in life after death, he must have been misled all these years. Maybe the bitterness he had generated through hardship in his early life had distorted his values. Yes there must be some sort of life because he was still alive, or he supposed he was, and if he was not alive how was he thinking these things? Yes, he must be having some sort of a life.
Khi ý nghĩ đó tới, lão cảm thấy một điều kỳ lạ nhất đang xảy ra, lão dường như có cảm giác kiến bò khắp người, cảm giác râm ran ở chỗ là đường viền của cơ thể. Lão cảm thấy mình có cánh tay và bàn tay, chân và bàn chân, và khi vặn vẹo một chút, lão có thể cảm nhận được chúng. Và rồi ôi, thật ngạc nhiên, ánh sáng đang bừng lên. Trong hư vô, trong khoảng không hoàn toàn trống rỗng mà lão đang ở đấy, ánh sáng bắt đầu xuyên qua; nó có màu hồng phấn, lúc đầu rất mờ nhạt nhưng càng ngày càng rõ nét hơn. Và rồi một sự đột ngột gần như khiến lão muốn ói, lão nghiêng người như sắp ngã, chân khuỵu xuống. Sau một thời gian ngắn, lão đáp xuống một thứ gì đó nhớp nháp, một thứ gì đó tanh tưởi, và xung quanh lão, lão có thể thấy một màn sương đen xen kẽ với những tia sáng màu hồng nhạt. Lão cố gắng di chuyển và nhận thấy rằng nó rất khó mặc dù cử động không hề gượng gạo. Lão dường như đang ở trong một loại vật chất sền sệt nào đó cản trở cử động của lão khiến lão di chuyển chậm lại, và ở đó lão đang lúng túng, nhấc chân này trước rồi đến chân kia. Lão tự nghĩ rằng mình giống như một trong những con quái vật kỳ lạ đôi khi được miêu tả trên trang bìa của những cuốn sách khoa học viễn tưởng lòe loẹt.
As that thought came to him he felt a most peculiar thing happening, he seemed to be prickling all over, prickling to what would have been the outline of a body. He felt that he had arms and hands, legs and feet, and as he twisted a bit he could sense them. And then oh, glory be to goodness the light was growing. In the nothingness, in the utter void in which he had been existing light was beginning to penetrate; it was a rosy hue, very faint at first but growing stronger. And then with a suddenness which almost made him sick he tilted and seemed to be falling, falling on his feet. After a short while he landed on something sticky, something gooey, and about him he could see a black fog interspersed with rays of pinkish light. He tried to move and found that while motion was not entirely inhibited it was difficult. He seemed to be in some viscid material which slowed him up, which made him move in slow motion, and there he was floundering about, lifting first one foot and then the other. He thought to himself that he was like one of those weird monsters sometimes portrayed on the covers of gaudy science fiction books.
Lão hét lớn, ‘Ôi Chúa ơi, nếu có Chúa, xin hãy giúp tôi!’ Ngay khi những lời đó được thốt ra thì lão đã cảm thấy mọi thứ quanh lão đã thay đổi. Lớp keo dính biến mất, vật chất xung quanh trở nên mỏng hơn, lão có thể lờ mờ nhận ra những hình bóng đang di chuyển xung quanh. Đó là một cảm giác kỳ lạ, lạ lùng. Lão ví nó như một cái túi ni lông, một cái túi có màu khói. Lão ở đó cố gắng nhìn qua lớp nhựa mờ ảo và chẳng biết đây là đâu.
He shouted aloud, ‘Oh God, if there is a God, help me!’ No sooner were the words uttered than he felt a change in his circumstances. The sticky goo disappeared, the material around him became thinner, and he could faintly discern figures moving about. It was a strange, strange sensation. He likened it to being a plastic bag, the plastic being smoke coloured. He was there trying to peer out through the hazy plastic and getting nowhere.
Lão đứng đó lấy tay che mắt và cố ép mình nhìn thấy bất cứ thứ gì có thể thấy. Điều ấn tượng đối với lão hơn cả là hình ảnh có người đang giơ tay ra với lão, nhưng không thể chạm vào lão, dường như có một rào cản nào đó, một bức tường trong suốt vô hình nào đó.
He stood there shielding his eyes with his hands and trying to force himself to see whatever there was to see. He got an impression more than vision of people stretching out their hands to reach him but not being able to touch him, there seemed to be some barrier, some invisible transparent wall.
Ôi trời, lão nghĩ, giá như cái màu sắc không thể mô tả này có thể biến mất, giá như tôi có thể phá bỏ bức tường này, hoặc bằng giấy, hoặc bằng nhựa hay bằng bất cứ thứ gì. Tôi không thể thấy những người này là ai, họ có thể muốn giúp tôi, họ cũng có thể muốn giết tôi, nhưng làm thế nào họ có thể làm điều đó khi tôi đã chết rồi? Hay tôi đã chết? Lão rùng mình, và lại rùng mình khi một ý nghĩ chợt đến: “Tôi đang ở bệnh viện à?” Lão tự nhủ. ‘Tôi đang gặp ác mộng sau khi gặp lão linh mục đó phải không? Có lẽ tôi còn sống trở lại Trái đất và tất cả đây chỉ là một cơn ác mộng gớm ghiếc. Tôi ước gì tôi biết được!” Mơ hồ, yếu ớt, như thể từ một nơi rất xa có một giọng nói truyền đến lão, rất yếu, không rõ ràng đến nỗi lão phải rất cố gắng để hiểu được những gì đang nói: “Hãy tin, hãy tin đi. Hãy tin vào cuộc sống sau này. Hãy tin, chỉ cần tin thôi và chúng tôi có thể giải thoát cho bạn. Hãy cầu nguyện với Chúa. Có Chúa đấy. Không quan trọng bạn gọi Ngài là gì, không quan trọng đó là tôn giáo nào, tôn giáo nào cũng có Thượng đế. Hãy có lòng tin. Hãy gọi Chúa của chính bạn để được giúp đỡ. Chúng tôi đang đợi, đang đợi bạn đây.”
Oh goodness, he thought, if only this unmentionable colour would go away, if only I could tear down this wall, or paper, or plastic or whatever it is. I can’t see what these people are, they may be wanting to help me, they may be wanting to kill me, but how can they do that when I am dead already? Or am I dead? He shuddered, and shuddered again as a sudden thought came to him: ‘Am I in the hospital?’ he said to himself. ‘Am I having nightmares after seeing that priest? Maybe I am alive back on Earth and this is all a hideous nightmare. I wish I knew!’ Faintly, faintly, as though from a great distance a voice came to him, so faint, so unclear that he had to strain and strain to resolve what was being said: ‘Believe, believe. Believe in life hereafter. Believe, only believe and we can set you free. Pray to God. There is a God. It doesn’t matter what you call Him, it doesn’t matter what form of religion, every religion has a God. Believe. Call unto your own God for help. We are waiting, waiting.’
Molygruber đứng yên. Đôi chân của lão không còn cựa quậy liên tục nữa để cố gắng phá vỡ bức màn bao quanh lão. Lão đứng đó, lặng lẽ. Lão nghĩ đến ông tác giả già , nghĩ đến các linh mục, nghĩ đến việc lão đã chối bỏ các linh mục như họ không là gì khác hơn ngoài những kẻ giả mạo đi tìm cách kiếm sống dễ dàng bằng cách cầu nguyện dựa theo sự mê tín của người khác. Lão nghĩ lại những ngày đầu của mình, nghĩ về Kinh thánh, và rồi lão cầu nguyện với Chúa để được soi sáng: ‘Ôi Chúa toàn năng, bằng cách nào cũng được, xin Người hãy giúp con, con đang bị bế tắc, con bị lạc lối, con có bản thể của con nhưng như không tồn tại. Hãy giúp con và để người khác giúp con.” Cầu nguyện xong cùng với đức tin nơi con tim, lão cảm thấy sốc đột ngột như thể lão vừa chạm vào hai sợi dây trần của một cái đèn điện chuẩn. Trong khoảnh khắc, lão choáng váng khi tấm màn bị xé rách.
Molygruber stood still. No more did his feet continue their ceaseless tramping to try to break through the veil that surrounded him. He stood quietly. He thought of the old author, he thought of the priests, and he rejected the priests out of hand as being nothing but fakes looking for an easy way to get a living by praying on the superstitions of others. He thought back to his early days, thought of the Bible, and then he prayed to God for enlightenment: ‘Oh Mighty God, whatever form you adopt, help me, I am stuck, I am lost, I have my being but I have no being. Help me and let others help me.’ With that and with a believing heart he felt a sudden shock as if he had touched two bare wires on an electric light standard. For a moment he reeled as the veil rent.
Người dịch: Nguyễn Thị Bích Ngọc
Biên tập: Phạm Thị Liễu
Tổng biên tập: Trung tâm VMC