Chương 4: Lái Máy Bay – Bác Sĩ Đến Từ Lhasa – Lobsang Rampa

Đó là một buổi tối nóng bức, oi ả, hầu như không có gió. Những đám mây ở khoảng hơn sáu mươi mét phía trên chúng tôi, bên trên những vách đá nơi chúng tôi đang đi dạo, gợi trong tôi nỗi nhớ về Tây Tạng khi chúng vươn cao lên thành những hình dạng tuyệt đẹp tựa như những rặng núi. Huang và tôi đã trải qua một ngày vất vả trong phòng mổ. Vất vả, bởi vì những tử thi ở đó đã được bảo quản trong một thời gian dài, và bốc mùi kinh khủng. Mùi của những tử thi đang phân hủy, mùi của thuốc khử trùng, và cả những mùi khác đã thực sự làm chúng tôi kiệt sức.

Tôi tự hỏi tại sao mình lại phải rời Tây Tạng nơi mà không khí luôn tinh khiết, và suy nghĩ của con người cũng thật tinh khiết. Sau khi đã xong việc trong phòng mổ, chúng tôi tắm rửa sạch sẽ và leo lên đỉnh núi này. Thật sảng khoái, tôi nghĩ, khi được đi dạo buổi tối và ngắm nhìn thiên nhiên. Chúng tôi ngắm nhìn cả những thứ khác nữa bởi vì, khi nhìn xuống vách đá, chúng tôi có thể thấy giao thông tấp nập ở bờ sông phía dưới.

Chúng tôi có thể thấy những người phu khuân vác đang chất hàng lên tàu, liên tục vác những kiện hàng nặng với một thanh tre dài trên vai, tại mỗi đầu của thanh tre treo những khối hàng nặng tới chín mươi pound[1], được chất trong những chiếc sọt. Mỗi chiếc sọt nặng khoảng năm pound, và như vậy người phu khuân vác phải gánh không ít hơn một trăm chín mươi pound suốt cả ngày dài. Cuộc đời của họ thật cực nhọc, họ làm việc tới tận lúc chết, và họ chết khi tuổi còn khá trẻ, mệt mỏi và kiệt sức như loài ngựa, có khi còn bị đối xử tồi tệ hơn cả những con vật trên cánh đồng. Và khi họ kiệt sức rồi gục xuống chết, đôi khi họ lại kết thúc trong phòng mổ của chúng tôi nơi họ tiếp tục làm việc thiện, lần này, bằng cách cung cấp các bộ phận cơ thể cho các bác sĩ nghiên cứu phôi và các bác sĩ phẫu thuật, giúp họ thu được những kỹ năng để điều trị cho các cơ thể sống.

IT was a warm, sultry evening, with hardly a breeze. The clouds above the cliff upon which we were walking were perhaps two hundred feet above us, glowering cloud masses which reminded me of Tibet as they towered into fantastic shapes as imaginary mountain ranges. Huang and I had had a hard day in the dissecting rooms. Hard, because the cadavers there had been kept a long time, and the smell from them was just terrible. The smell of the decaying bodies, the smell of the antiseptic, and the other odors had really exhausted us. I wondered why I had ever had to come away from Tibet where the air was pure, and where men’s thoughts were pure, too. After a time we had had enough of the dissecting rooms and we had washed and gone out to this cliff top. It was good, we thought, to walk in the evening and look upon nature. We looked upon other things as well because, by peering over the edge of the cliff, we could see the busy traffic on the river beneath. We could see the coolies loading ship, eternally carrying their heavy bales with a long bamboo pole across their shoulders on each end of which would be loads of ninety pounds, heaped in panniers. The panniers weighed five pounds each, and so the coolie would be carrying not less than one hundred and ninety pounds all day long. Life for them was hard, they worked until they died, and they died at quite a young age, worn out, human draught horses, treated worse than the beasts in the fields. And when they were worn out and fell dead sometimes they ended up in our dissecting rooms to continue the work of good, and this time by providing material for embryo doctors and surgeons who would acquire skill with which to treat living bodies.

Chúng tôi quay lưng lại các vách đá, hướng mặt đón những làn gió nhẹ mang theo hương thơm ngọt ngào của cây cối và của những bông hoa. Có một khóm cây nhỏ ở ngay phía trước, và chúng tôi quay gót để bước tới gần. Còn cách vách đá chừng vài mét, chúng tôi dừng lại, nhận thức về một cảm giác lạ lùng nào đó như báo hiệu một sự cấp bách nào đó, một cảm giác khó chịu và căng thẳng, một thứ không thể nào giải thích. Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác, không thể xác định được đó là gì. Huang nói, vẻ ngờ vực:

– Đó không phải là sấm.

– Tất nhiên là không rồi, tôi đáp, nó là cái gì đó rất lạ, cái gì đó mà chúng ta chưa biết.

Chúng tôi đứng tần ngần, ngoảnh đầu về một phía, lắng nghe. Chúng tôi nhìn xung quanh, nhìn xuống đất, nhìn lên cây, và rồi nhìn lên những đám mây. Nó xuất phát từ phía đó, một tiếng “brum-brum-brum” đều đều mỗi lúc một to và gay gắt hơn. Ngước nhìn lên phía trên qua một lỗ hổng trong các đám mây, chúng tôi nhìn thấy một vật có cánh màu tối bay vụt qua. Nó biến mất vào đám mây đối diện gần như trước khi chúng tôi kịp nhận thức về sự hiện diện của nó.

– Trời đất! tôi thốt lên, một vị Thần trên trời đang đến để đưa chúng ta đi.

Chúng tôi chẳng thể làm gì. Chúng tôi chỉ đứng đực ra tự hỏi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Tiếng ồn vang lên như sấm, một loại tiếng ồn mà cả hai chúng tôi chưa từng nghe thấy trước đây.

Ngay sau đó, chúng tôi nhận ra, một vật thể lớn đang xuất hiện, gạt văng những dải mây xung quanh nó như thể nóng vội thoát ra khỏi sự cản trở nhẹ nhất của những đám mây. Nó lóe sáng trên bầu trời, lướt ngang qua đầu chúng tôi trên các vách đá với tiếng gầm kinh người, để lại đằng sau khối không khí bị xé toạc. Tiếng ồn chấm dứt và im lặng trở lại. Chúng tôi đứng đó nhìn nhau vô cùng kinh ngạc và ớn lạnh. Sau đó, như thể có cùng một suy nghĩ, chúng tôi quay lại và chạy vội về phía vách đá để nhìn xem điều gì đã xảy ra với vật thể đến từ bầu trời, một vật thể thật kỳ quái và ồn ào. Bên gờ đá, chúng tôi nép mình và chăm chú nhìn một cách cẩn trọng xuống dòng sông lấp lánh.

Tại đây, trên doi cát là con quái vật biết bay kỳ lạ, lúc này đang nghỉ ngơi. Chúng tôi quan sát và thấy nó nhả ra những cụm lửa và khói đen. Điều này làm cho chúng tôi giật mình và sợ xanh mặt, nhưng đó chưa phải là điều kỳ quái nhất. Trước sự sửng sốt hoài nghi và khiếp sợ của chúng tôi, một cánh cửa mở ra ở một bên và hai người đàn ông bước ra. Lúc đó tôi nghĩ đây là điều tuyệt vời nhất mà tôi từng được thấy, nhưng chúng tôi đang lãng phí thời gian ở trên này. Chúng tôi lao như bay trên con đường dẫn xuống phía dưới. Khi đã ở bên dưới, chúng tôi chạy cuống cuồng dọc theo các con phố bậc thang, phớt lờ xe cộ đi lại, bỏ qua cả phép lịch sự, vội vàng đến điên rồ để lao tới mép nước.

We turned away from the edge of the cliff and faced into the very slight breeze which carried the sweet scent of the trees and the flowers. There was a slight grove of trees almost ahead, and we altered our steps slightly in order to go to them. A few yards from the cliff we stopped, aware of some strange sense of impending calamity, some sense of unease and tension, something inexplicable. We looked at each other questioningly, unable to decide what it was. Huang said, dubiously. “That cannot be thunder.” ”Of course not,” I replied. “It is something very strange, something we know nothing about.” We stood uncertainly, head on one side, listening. We looked about us, looked at the ground, at the trees, and then we looked at the clouds. It was from there that the noise was coming, a steady “brum-brum-brum” getting louder and louder, harsher and harsher. As we gazed upwards we saw, through a hole in the cloud base, a dark winged shape flit across. It was gone into the opposite cloud almost before we were aware of its presence. “My!” I shouted. “One of the Gods of the Sky is come to take us off.” There was nothing we could do. We just stood wondering what would happen next. The noise was thunderous, a noise of a sort that neither of us had heard before. Then, as we watched, a huge shape appeared, flinging wisps of clouds from it as if impatient of even the slight restraint of the clouds. It flashed out of the sky, Skimmed straight over our heads, over the edge of the cliff with a sickening shriek, and with a buffet of tortured air. The noise ended and there was silence. We stood absolutely aghast, absolutely chilled, looking at each other. Then, upon a common impulse, we turned and ran toward the cliff edge to see what had happened to the thing from the sky, the thing which was so strange and so noisy. At the edge we flung ourselves prone and peered cautiously over at the sparkling river. There upon a sandy strip of ground was the strange, winged monster, now at rest. As we looked it coughed with a spurt of flame and a burst of black smoke. It made us jump and turn pale, but this was not the strangest thing. To our incredulous amazement and horror a piece opened in the side and two men got out. At that time I thought that was the most wonderful thing I had ever seen, but—we were wasting time up there. We sprang to our feet and raced for the path leading down. Down we sped through the street of steps, ignoring traffic, ignoring all courtesy, in our mad rush to get to the water’s edge.

Xuống đến bờ sông, chúng tôi thấy mình khó chịu đến mức có thể dậm chân thình thịch được. Không một chiếc thuyền nào, không một người lái đò nào, không có ai hết. Họ đang lũ lượt kéo đến nơi mà chúng tôi cũng đang muốn đến. Nhưng kìa, có rồi! Có một chiếc thuyền sau tảng đá. Chúng tôi chạy lại với ý định kéo nó xuống nước và đi sang bên kia sông, nhưng khi vừa đến đó chúng tôi thấy một ông già đang đi xuống dốc với những tấm lưới trên tay.

– Này, cha ơi, Huang nói to, đưa chúng con qua sông với.

– Thế à, ông già nói, tôi thì chẳng muốn đi. Các cậu trả bao nhiêu?

Ông ném cái lưới vào trong thuyền và tựa người vào cạnh thuyền, ngậm chiếc tẩu cũ trong miệng. Ông già ngồi vắt chéo chân như thể sẽ ở đó cả đêm chỉ để tán gẫu. Chúng tôi thì hết sức nóng vội.

– Thôi nào, ông già, ông tính bao nhiêu?

Ông già đưa ra một cái giá thật hoang đường, số tiền ấy đủ mua được cả chiếc thuyền cũ nát của ông ta, chúng tôi nghĩ. Nhưng chúng tôi đang rất nôn nóng, chúng tôi có thể trả bất cứ giá nào để sang được bờ bên kia. Huang cố gắng mặc cả. Tôi nói:

– Thôi, đừng phí thời gian nữa. Hãy đưa cho ông ấy một nửa số tiền mà ông ấy đòi.

Ông già chớp ngay lấy cơ hội. Số tiền gấp lớn gấp mười lần so với ông ta mong đợi. Ông ta đồng ý ngay, thế là chúng tôi khẩn trương đẩy thuyền xuống. Ông già nói:

– Đừng vội vã, các anh bạn trẻ, cẩn thận đấy. Các cậu làm hỏng thuyền của tôi mất.

Huang nói:

– Thôi nào, ông nội, nhanh lên, sắp hết ngày rồi.

Ông già ung dung lên thuyền, vừa cọt kẹt vì bệnh thấp khớp, vừa càu nhàu. Một cách chậm rãi, ông ta nhặt mái chèo lên và đưa chúng tôi vào dòng chảy. Chúng tôi sốt ruột, cố gắng dùng tư tưởng để đẩy thuyền đi nhanh hơn, nhưng không gì có thể thúc giục ông già này cả.

Ở giữa dòng chảy, một vài xoáy nước đã làm chệch hướng con thuyền chở chúng tôi, rồi ông già lại đưa con thuyền về đúng hướng lần nữa, và chúng tôi đi ngang qua sông tới dải đất dài dọc bên bờ sông. Để tiết kiệm thời gian, khi gần đến nơi, tôi đã đếm tiền và dúi vào tay ông già. Ông ta cầm tiền thì nhanh lắm. Sau đó, chưa đợi đến lúc thuyền cập bờ, chúng tôi đã nhảy xuống khi nước ngập tới đầu gối và chạy vội vào bờ.

Down by the side of the river we could have stamped our feet with frustrated anger. There was not a boat to be had, not a boatman, no one. They had all flocked across the water to be where we wanted to be. But, yes! There was a boat behind a boulder. We turned towards it with the intention of launching it and going across, but as we reached it we saw an old, old man coming down a steep path carrying nets. “Hey, father,” Huang shouted, “take us across.” “Well,” the old man said, “I don’t want to go. What’s it worth to you?” He tossed his nets in the boat and leaned against the side, old battered pipe in his mouth. He crossed his legs and looked as if he could have stayed there all night, just chatting. We were in a frenzy of impatience. “Come, on, old man, what’s your charge?” The old man named a fantastic sum, a sum which would have bought his rotten old boat, we thought. But we were in a flurry of excitement, we would have given almost anything we had to get across to the other side. Huang bargained. I said, “Oh, don’t let’s waste time. Let’s give him half what he asks.” The old man jumped at it. It was about ten times more than he had expected. He jumped at it, so we rushed for his boat. “Steady on, young gentlemen, steady on. You’ll wreck my boat,” he said. “Oh, come on, grandpa,” said Huang, “hurry up. The day is getting old.” The old fellow leisurely got aboard, creaking with rheumatism, grunting. Slowly he picked up a pole, and poled us out into the stream. We were fidgeting, trying mentally to move the boat more rapidly, but nothing would hurry the old man. In the centre of the stream some eddy of current caught us and swung us around, then he got the boat on the right course again, and we went across to the far bank. To save time, as we were approaching, I counted out the money and pushed it at the old man. He was certainly quick to take it. Then, without waiting for the boat to touch, we jumped knee-deep in water and ran up the bank.

Trước mặt chúng tôi là một cỗ máy kỳ diệu, một cỗ máy thật khó tin, nó đến từ bầu trời, và chở được người. Chúng tôi nhìn nó trong sự sững sờ, và ngạc nhiên trước sự táo bạo của chính mình khi dám tiếp cận gần đến vậy. Những người khác cũng đã ở đó, nhưng họ đứng cách xa. Chúng tôi di chuyển về phía trước, đến gần nó, phía dưới nó, sờ mó lốp cao su trên những chiếc bánh xe, và thử lấy tay đấm chúng. Chúng tôi di chuyển đến phần sau của nó và thấy rằng ở đây không có bánh xe, nhưng có một thanh bằng kim loại có lò xo cùng với một vật giống như chiếc giày ở một đầu.

– À, tôi nói, đó chắc là cái má phanh để giúp nó giảm tốc khi hạ cánh. Chúng tôi có một cái giống như vậy trên những chiếc diều.

Rón rén, e dè, chúng tôi chạm ngón tay lên phía bên thân của cỗ máy, chúng tôi không thể tin được rằng nó là một loại vải, được sơn theo cách nào đó và căng trên khung gỗ. Chà, điều này mới thực sự ấn tượng! Ở giữa cánh và đuôi cỗ máy, chúng tôi chạm vào một tấm bảng, chúng tôi đã suýt ngất vì sốc khi nó bật mở, và một người đàn ông nhẹ nhàng nhảy xuống đất. Anh ấy nói:

– Ái chà, các anh có vẻ rất thích thú với nó nhỉ.

– Chúng tôi thực sự rất thích thú, tôi trả lời. Ở Tây Tạng tôi đã bay trên một cái giống như cái máy của anh, nhưng nó không kêu.

Anh ta nhìn tôi, mắt mở to và hỏi :

– Anh nói là ở Tây Tạng à?

Tôi trả lời:

– Đúng vậy.

Huang cắt ngang:

– Bạn tôi là một vị Phật sống, một vị Lạt Ma, đang học ở Trùng Khánh. Cậu ấy thường bay trên những chiếc diều có người lái.

Người đàn ông đến từ chiếc máy bay nhìn vẻ quan tâm, anh nói:

– Điều đó thật tuyệt vời, chúng ta vào bên trong nói chuyện nhé?

Anh quay đi và dẫn đường đi vào. Chà, tôi nghĩ, tôi đã có nhiều kinh nghiệm. Nếu người đàn ông này có thể tự tin vào bên trong máy bay thì tôi cũng vậy. Vì vậy, tôi cũng bước vào, Huang cũng vào theo tôi. Tôi đã nhìn thấy một cái máy lớn hơn cái này ở trên Cao nguyên Tây Tạng mà trong đó các vị Thần của Bầu Trời đã bay ra khỏi thế giới. Nhưng cái đó hoàn toàn khác với cái ở đây, nó không đáng sợ, bởi vì cái máy mà họ sử dụng ở đó hoàn toàn im lặng, còn cái ở đây thì gầm rú, xé rách không khí, và lại còn rung lắc nữa.

Before us was that wonderful machine, that incredible machine, which had come from the sky, and which had brought men with it. We looked at it in awe, and were amazed at our own temerity in daring to approach like this. Other people were there, too, but they were staying a respectable distance away. We moved forward, we moved close to it, under it, feeling the rubber tires on the wheels, punching them. We moved to the stern and saw that here there was no wheel, but a bar of springy metal with a thing like a shoe at the end. “Ah,” I said, “that’ll be a skid to slow it down as it lands. We had a thing like that on my kites.” Gingerly, half frightened, we fingered the side of the machine, we looked with incredulity as we found that it was a sort of fabric, painted in some way and stretched on a wooden frame. Now, this really was something! About half way between the wings and the tail we touched a panel, and we nearly fainted with shock as it opened, and a man dropped lightly to the ground. “Well,” he said, “you certainly seem to be very interested.” “We are indeed,” I replied. “I’ve flown a thing like this, a silent one in Tibet.” He looked at me and his eyes went wide. “Did you say in Tibet?” he asked. “I did,” I answered. Huang broke in, “My friend is a living Buddha, a lama, studying in Chungking. He used to fly in man-lifting kites,” he said. The man from the air machine looked interested. “That is fascinating,” he said. “Will you come inside where we can sit down and talk?” He turned and led the way in. Well, I thought, I have had many experiences. If this man can trust himself inside the thing—so can I. So I entered as well, with Huang following my example. I had seen a thing larger than this in the Highlands of Tibet, in which the Gods of the Sky had flown straight out of the world. But that had been different, not so frightening, because the machine that they had used had been silent, but this had roared and torn at the air, and shook.

 

Bên trong có ghế ngồi, cũng khá thoải mái. Chúng tôi ngồi xuống. Người đàn ông vừa nãy, không ngừng hỏi tôi về Tây Tạng, những câu hỏi mà tôi nghĩ là hoàn toàn ngớ ngẩn. Tây Tạng là một nơi quen thuộc, quá đỗi bình thường, trong khi anh ta đang ở đây, trong một cái máy tuyệt vời nhất, mà lại nói về Tây Tạng. Cuối cùng, sau khoảng thời gian dài và vô cùng sốt ruột, chúng tôi cũng có được một vài thông tin từ anh ta. Đây là một cái máy mà người ta gọi là máy bay, một thiết bị được gắn động cơ để nâng nó lên bầu trời. Chính động cơ đã gây ra tiếng ồn, anh ta nói. Cái máy đặc biệt này do người Mỹ làm ra và nó được một công ty Trung Quốc ở Thượng Hải mua về, công ty này đang tính mở một đường hàng không từ Thượng Hải đến Trùng Khánh. Ba người đàn ông mà chúng tôi đã nhìn thấy là phi công, hoa tiêu, và kỹ sư đang thực hiện một chuyến bay thử nghiệm. Phi công là người đàn ông mà chúng tôi đang ngồi nói chuyện cùng:

– Chúng tôi cần thu hút những người có danh tiếng và mời họ bay thử để rồi họ sẽ chấp nhận liên doanh của chúng tôi.

Chúng tôi gật đầu, nghĩ điều này thật thú vị biết bao và thầm mong ước chúng tôi cũng là những người nổi tiếng để có cơ hội được bay.

Anh tiếp tục:

– Anh bạn đến từ Tây Tạng, anh cũng có vẻ là người nổi tiếng đấy. Anh có muốn thử chiếc máy này cùng chúng tôi không?

Tôi đáp:

– Hay quá, tôi sẽ bay ngay lúc nào anh muốn!

Anh ta chỉ vào Huang, và yêu cầu cậu bước ra ngoài, khi nói rằng cậu ấy không được bay …

– Ồ không, tôi nói, ồ, không. Nếu tôi được bay thì cậu ấy cũng được bay.

Vì vậy Huang được phép ở lại (Sau đó cậu ta còn không buồn cảm ơn tôi!). Hai người đàn ông đã đi ra ngoài trước đó, di chuyển về phía trước máy bay và ra tín hiệu bằng tay. Họ làm gì đó ở phía trước, sau đó là một tiếng “bam” và họ làm gì đó nữa. Đột nhiên có một tiếng ồn đột ngột, và cái máy rung khủng khiếp. Chúng tôi bám chặt, cứ ngỡ rằng đã có một vụ tai nạn nào đó, chúng tôi bị rung mạnh đến mức cảm tưởng người sắp rã ra thành từng mảnh. Người đàn ông nói:

– Bám chắc vào.

Chúng tôi không thể bám chặt hơn, vì vậy yêu cầu đó của anh ta hoàn toàn vô dụng. Anh nói:

– Chúng ta sắp cất cánh.

Những tiếng ồn kinh hoàng, những cú xóc nẩy người, những cú va mạnh, và những tiếng rơi, tệ hơn cả lần đầu tiên tôi đi trên chiếc diều có người lái. Lần này tệ hơn bởi vì ngoài các chấn động, còn có tiếng ồn, thứ tiếng ồn đáng ghét. Một tiếng rơi cuối cùng, gần như xô đầu tôi vào giữa hai vai, và sau đó có cảm giác như có ai đó ấn chặt tôi xuống dưới và đẩy ra phía sau.

Tôi cố gắng ngẩng đầu lên và nhìn ra ngoài cửa sổ bên cạnh. Chúng tôi đã ở trên không trung và đang lên cao. Chúng tôi nhìn thấy dòng sông kéo dài như một sợi chỉ bạc, hai con sông gặp nhau, chập lại làm một. Chúng tôi nhìn thấy những chiếc xuồng và những con thuyền buồm, chúng trông hệt như những món đồ chơi bé nhỏ, những mảnh gỗ li ti đang trôi nổi trên sông.

Rồi chúng tôi nhìn xuống Trùng Khánh, nhìn những con phố, những con phố bậc thang mà trên đó chúng tôi đã phải leo rất vất vả. Từ trên cao này chúng nhìn có vẻ bằng phẳng, phía bên kia vách núi, những mảnh ruộng bám chênh vênh vào những bậc thang dốc đứng. Chúng tôi nhìn thấy những người nông dân đang làm việc cực nhọc phía xa, chẳng để ý gì đến chúng tôi. Đột nhiên có một màu trắng toát, sự mờ mịt hoàn toàn, thậm chí tiếng ồn của động cơ dường như cũng bị bóp nghẹt. Chúng tôi đang ở trong những đám mây. Vài phút trôi qua những dải mây trượt khỏi cửa sổ, và ánh sáng trở nên mạnh mẽ hơn. Chúng tôi thoát ra để bay vào vùng trời màu xanh nhạt, tràn ngập  trong ánh sáng mặt trời vàng rực rỡ.

Khi chúng tôi nhìn xuống cứ như thể nhìn xuống một biển tuyết băng giá, trắng lấp lánh, rực rỡ và chói chang tới lóe mắt. Chúng tôi lên cao hơn, và cao hơn và tôi tôi nhận ra người đàn ông lái máy bay đang nói với tôi.

– Tôi cá là anh chưa bao giờ lên cao được đến thế này, chỗ này cao hơn nhiều so với độ cao mà anh từng đạt được trước đây.

– Không hề, tôi trả lời, bởi vì khi tôi xuất phát trên chiếc diều có người lái, tôi đã ở trên độ cao mười bảy nghìn feet rồi.

Điều đó làm anh ta ngạc nhiên. Anh quay lại nhìn ra cửa số bên cạnh, hạ dần độ cao, chúng tôi lướt nghiêng sang một bên trong một cú bổ nhào khiếp đảm.

Mặt Huang tái xanh, một sắc xanh khủng khiếp, và vài thứ không nên nhắc đến đã xảy ra với cậu ta. Cậu lảo đảo rời khỏi chỗ ngồi, và nằm úp mặt xuống sàn máy bay. Cậu ấy trông không dễ chịu chút nào, và những gì đang xảy ra với cậu ấy cũng chẳng dễ chịu. Còn tôi, tôi luôn miễn dịch với chứng say độ cao, và tôi không cảm thấy gì ngoại trừ sự dễ chịu nhẹ nhàng của chuyến bay thử. Nhưng Huang thì khác, cậu ấy hoàn toàn sợ hãi. Tới lúc chúng tôi hạ cánh cậu chỉ còn là một cục thịt run rẩy, thỉnh thoảng lại phát ra tiếng rên đau đớn. Huang chắc chắn không phải là một phi công giỏi!

Trước khi chúng tôi hạ cánh, viên phi công tắt động cơ và chúng tôi lướt trên bầu trời, xuống thấp dần, thấp dần. Chỉ còn tiếng “vù vù” của gió đập vào cánh máy bay, và tiếng phần phật của vải ở bên thân máy bay cho chúng tôi biết rằng chúng tôi đang ở trong một cái máy nhân tạo. Đột nhiên, khi chúng tôi xuống gần mặt đất, viên phi công bật lại động cơ và chúng tôi lại bị điếc tai một lần nữa vì tiếng gầm rú của hàng trăm mã lực. Lượn một vòng tròn, chúng tôi trở lại mặt đất. Một tiếng kêu dữ dội và một tiếng rít từ phần đuôi, có tiếng loảng xoảng rồi dừng lại. Động cơ được tắt một lần nữa, viên phi công và tôi đứng lên để đi ra ngoài. Tội nghiệp Huang, cậu ta còn không đứng dậy nổi. Chúng tôi phải đưa cậu ra và đặt nằm xuống cát để hồi phục.

Inside there were seats, quite comfortable seats, too. We sat down. That man, he kept asking me questions about Tibet, questions which I thought absolutely stupid. Tibet was so commonplace, so ordinary, and here he was, in the most marvelous machine that ever had been, talking of Tibet. Eventually, after much time and with a great amount of trouble, we got some information out of him instead. This was a machine that they called an aeroplane, a device which had engines to throw it through the sky. It was the engines which made the noise, he said. This particular one was made by the Americans and it had been bought by a Chinese firm in Shanghai who had been thinking of starting an airline from Shanghai to Chungking. The three men that we had seen were the pilot, a navigator, and engineer, on a trial flight. The pilot—the man to whom we were talking said, “We are to interest notabilities and to give them a chance of flying so that they may approve of our venture.” We nodded, thinking how marvelous it was, and how we wished that we were notabilities and would have a chance of flying. He went on, “You from Tibet, you are indeed a notability. Would you like to try this machine with us?” I said, “My goodness me, I would as quickly as you like!” He motioned to Huang, and asked him to step outside, saying that he couldn’t go. “Oh no,” I said, “Oh, no. If one goes, the other goes.” So Huang was allowed to stay (he did not thank me later!). The two men who had got out before moved toward the plane and there were a lot of hand signals. They did something to the front, then there was a loud “bam” and they did something more. Suddenly there was a shocking noise, and terrible vibration. We clung on, thinking that there had been some accident, and we were being shaken to pieces. “Hang on,” said the man. We couldn’t hang on more tightly, so it was quite superfluous of him. “We are going to take off,” he said. There was a simply appalling racket, jolts, bumps, and thuds, worse than the first time I went up in a man-lifting kite. This was far worse because in addition to the jolts, there was noise, abominable noise. There was a final thud, which nearly drove my head between my shoulders, and then a sensation as if someone were pressing me hard beneath and at the back. I managed to raise my head and look out of the window at the side. We were in the air, we were climbing. We saw the river lengthening into a silver thread, the two rivers joining together to make one. We saw the sampans and the junks as little toys like little chips of wood floating. Then we looked at Chungking, at the streets, at the steep streets up which we had toiled so laboriously. From this height they looked level, but over the side of the cliff the terraced fields still clung precariously at the appalling steep slope. We saw the peasants toiling away, oblivious to us. Suddenly there was a whiteness, complete and utter obscurity, even the engine noises seemed muffled. We were in the clouds. A few minutes with streamers of cloud rushing by the windows, and the light became stronger. We emerged into the pale blue of the sky, flooded with the golden sunlight. As we looked down it was like gazing down on a frozen sea of snow, scintillatingly white, dazzling, eye-hurting with the intensity of the glare. We climbed and climbed, and I became aware that the man in charge of the machine was talking to me. “This is higher than you have been before,” he said, “much higher than you have been before.” “Not at all,” I replied, “because when I started in a man-lifting kite I was already seventeen thousand feet high.” That surprised him. He turned to look out of the side window, the wing dipped, and we slid sideways in a screaming dive. Huang turned a pale green, a horrible colour, and unmentionable things happened to him. He lurched out of his seat, and lay face down on the bottom of the plane. He was not a pleasant sight, but nothing pleasant was happening to him. I—I was always immune to air-sickness, and I felt nothing at all except mild pleasure at the maneuvers. Not Huang, he was frightfully upset by it. By the time we landed he was just a quivering mass who occasionally emitted a painful groan. Huang was not a good airman! Before we landed the man shut off his engines and we drifted in the sky, gradually getting lower, and lower. There was only the “swish” of the wind past our wings, and only the drumming of the fabric at the sides of the plane to tell us that we were in a man-made machine. Suddenly, as we were getting quite near the ground, the man switched on his engines again and we were once more deafened by the ear-shattering roar of many hundreds of horse-power. A circle, and we came in to land. A violent bump, and a screech from the tail skid, and we clattered to a stop. Again the engines were switched off and the pilot and I rose to get out. Poor Huang, he was not ready to rise. We had to carry him out and lay him on the sand to recover.

Tôi e là tôi đã hơi vô tâm; Huang đang nằm úp mặt xuống thềm cát của mũi đất mà trên đó chúng tôi hạ cánh, giữa một dòng sông rộng gần một dặm. Cậu ta đang nằm úp mặt xuống, tạo ra những âm thanh và cử động kỳ dị, mà tôi lại lấy làm mừng khi cậu không thể đứng lên.  Mừng vì nó cho tôi một lý do thích đáng để dừng lại và nói chuyện với người phi công vừa bay cùng. Chúng tôi đứng nói chuyện. Thật không may là anh ta cứ muốn nói về Tây Tạng. Quốc gia đó có thuận tiện cho việc bay không? Liệu máy bay có thể hạ cánh được không?  Lính có thể nhảy dù xuống đó được không? Chà, tôi chẳng biết dù là gì cả, nhưng để an toàn tôi vẫn nói:

– Không!

Chúng tôi đi đến một thỏa thuận. Tôi sẽ nói cho anh ta nghe về Tây Tạng và anh ta sẽ nói cho tôi về máy bay. Sau đó, anh ta nói:

– Tôi thực sự lấy làm hân hạnh nếu anh có thể gặp một vài người bạn của tôi, những người cũng rất quan tâm đến những điều bí ẩn của Tây Tạng.

Sao nào, tôi muốn gặp những người bạn của anh để làm gì chứ? Tôi chỉ là một sinh viên đại học, và tôi muốn trở thành một sinh viên hàng không, và tất cả những gì anh chàng này đang nghĩ đến là khía cạnh xã hội của sự việc.

Ở Tây Tạng, tôi là một trong số rất ít người từng được bay. Tôi đã bay cao bên trên những ngọn núi trên chiếc diều có người lái, nhưng mặc dù cảm giác đó thật tuyệt vời, và sự im lặng thật nhẹ nhàng, nhưng chiếc diều vẫn bị buộc vào mặt đất. Nó chỉ đơn thuần bay lên trên không trung, nhưng nó không thể bay đến khắp các xứ sở hay bất cứ nơi nào mà người phi công muốn. Nó bị buộc như chú bò ở ngoài đồng cỏ. Tôi muốn biết nhiều hơn về cỗ máy gầm rú biết bay này vì tôi đã từng mơ ước được bay, bay tới bất cứ nơi đâu, tới mọi miền trên thế giới như người phi công đã kể cho tôi, thế mà tất cả những gì anh ta quan tâm là nói về Tây Tạng.

I am afraid that I was quite hard-hearted; Huang was lying face down in the yellow sand of the spit upon which we had landed in the middle of the mile-wide river. He was lying face down, making peculiar sounds and motions, and I was glad that he was not able to rise. Glad, because it gave me a good excuse to stop and talk with the man who had flown the machine. Talk we did. Unfortunately he wanted to talk about Tibet. What was the country like for flying? Could planes land there? Could an army land there dropped by parachute? Well, I hadn’t the vaguest idea what parachutes were, but I said “No,” to be on the safe side! We came to an arrangement. I told him about Tibet and he told me about aircraft. Then he said “I would feel deeply honoured if you would meet some of my friends who also are interested in the Tibetan mysteries.” Well, what did I want to meet his friends for? I was just a student at the college, and I wanted to become a student of the air, and all this fellow was thinking of was the social side of things. In Tibet I had been one of the very few who had flown. I had flown high above the mountains in a man-lifting kite, but although the sensation had been wonderful, and the silence soothing, yet the kite had still been tethered to the earth. It could merely go up in the air, it could not fly over the land, wherever the pilot wanted to fly. It was tethered like the yak at pasture. I wanted to know more of this roaring machine that flew as I had dreamed of flying, that could fly anywhere, to any part of the world the pilot told me, and all he was bothering about was—talk about Tibet.

Trong một lúc câu chuyện có vẻ như bế tắc. Chúng tôi ngồi trên cát đối diện nhau cùng với Huang tội nghiệp đang rên rỉ bên cạnh mà không nhận được một chút cảm thông nào từ chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi đi đến một thỏa thuận. Tôi đồng ý gặp những người bạn anh ta và nói với họ một vài điều về Tây Tạng và về những điều bí ẩn của Tây Tạng. Tôi đồng ý đưa ra một vài bài giảng về vấn đề đó. Còn anh ta, ngược lại, sẽ đưa tôi vào máy bay một lần nữa và giải thích cách nó hoạt động. Trước tiên, chúng tôi đi quanh máy bay, anh ta chỉ ra những bộ phận khác nhau. Cánh thăng bằng, bánh lái, bánh lái lên xuống – cùng nhiều thứ khác.

Sau đó chúng tôi vào trong máy bay và ngồi xuống cạnh nhau ngay phía đằng trước. Phía trước mỗi người có một loại cần gạt với một nửa bánh xe gắn vào nó. Bánh xe có thể xoay, sang trái hoặc sang phải, trong khi cần gạt có thể được kéo trở về sau hoặc đẩy về phía trước. Anh ta giải thích cho tôi việc kéo trở về sau làm máy bay bay lên như thế nào, và đẩy về phía trước sẽ làm cho nó trúc xuống, và việc xoay cần gạt sẽ làm chuyển hướng máy bay. Anh cũng chỉ những nút bấm và công tắc khác nhau. Sau đó động cơ khởi động và sau lớp kính đồng hồ tôi nhìn thấy các cây kim run rẩy thay đổi vị trí khi tốc độ của động cơ thay đổi. Chúng tôi đã ở cùng nhau một khoảng thời gian dài, anh ấy đã làm tốt phần việc của mình, và giải thích tất cả mọi thứ. Sau đó, động cơ ngừng lại, chúng tôi ra ngoài,  anh tháo những nắp đậy và lưu ý những chi tiết khác nhau. Bộ chế hòa khí, bu-gi, và nhiều bộ phận khác nữa.

For a time it seemed to be a deadlock. We sat on the sand facing each other with poor Huang groaning away to the side, and not receiving any sympathy from us. Eventually we came to an arrangement. I agreed to meet his friends and tell them a few things about Tibet and about the mysteries of Tibet. I agreed to give a few lectures about it. He, in his turn, would take me in the aeroplane again and explain how the thing worked. We walked around the machine first, he pointed out various things. The fins, the rudder, the elevators—all sorts of things. Then we got in and sat down, side by side, right in the front. In front of each of us now there was a kind of stick with half a wheel attached to it. The wheel could be rotated, left or right, while the whole stick could be pulled back or pushed forward. He explained to me how the pulling back would make a plane rise, and pushing forward would make it sink, and turning would also turn the machine. He pointed out the various knobs and switches. Then the engines were started and behind glass dials I saw quivering pointers which altered their position as the rates of the engines varied. We spent a long time, he did his part well, he explained everything. Then, with the engines stopped, we got out and he took off inspection covers and pointed out various details. Carburetors, sparking plugs, and many other things.

Tối hôm đó tôi gặp những người bạn của anh ta như đã hứa. Tất nhiên họ đều là người Trung Quốc. Tất cả họ đều có liên kết với quân đội. Một người trong số họ nói rằng có biết Tưởng Giới Thạch rất rõ, và, anh ta nói, Ngài Tổng tư lệnh đang cố gắng xây dựng lực lượng nòng cốt cho kỹ thuật quân sự. Đang cố gắng nâng cao trình độ chung của các quân chủng trong quân đội Trung Quốc. Anh ta nói rằng trong vòng một một đến hai ngày nữa, các máy bay nhỏ hơn sẽ đến Trùng Khánh. Anh ta nói với tôi, đó là những chiếc máy bay được mua từ Mỹ. Sau đó, trong đầu tôi chẳng nghĩ được gì nữa, ngoại trừ việc bay. Tôi phải làm gì để có được một trong những chiếc máy bay này? Tôi sẽ làm thế nào để đưa nó lên không trung? Tôi có thể học bay như thế nào?

That evening I met his friends as promised. They were, of course, Chinese. They were all connected with the army. One of them told me that he knew Chiang Kai-Shek well, and, he said, the Generalissimo was trying to raise the nucleus of a technical army. Trying to raise the general standard of the services in the Chinese army. He said that in a few days’ time one or two planes, smaller planes, would arrive at Chungking. They were planes, he told me, which had been purchased from the Americans. After that I had little thought in my head beyond flying. How could I get to one of these craft? How could I make it go up in the air? How could I learn to fly?

Huang và tôi rời khỏi bệnh viện một vài ngày sau đó, khi thấy hai bóng sáng bạc lao đến xuyên qua những đám mây nặng chĩu phía trên đầu chúng tôi, đó là hai chiếc máy bay chiến đấu một chỗ ngồi đến từ Thượng Hải như đã hứa. Chúng bay lòng vòng phía trên Trùng Khánh. Sau đó, có vẻ như đã nhận ra chính xác được chỗ để hạ cánh, chúng lao xuống theo đội hình. Chúng tôi không lãng phí chút thời gian nào, vội vã đi xuống con phố bậc thang, và đến bên bờ cát. Có hai phi công người Trung Quốc đang đứng bên cạnh những chiếc máy bay của họ, bận rộn lau chùi những vết bẩn do bay qua những đám mây bụi. Huang và tôi tiến lại gần, giới thiệu về mình cho người chỉ huy, đại úy Po Ku.

Huang nói chắc nịch với tôi rằng không có điều gì có thể thuyết phục cậu ấy bay lên trời một lần nữa. Cậu ấy đã tưởng mình suýt chết sau chuyến bay đầu tiên và cuối cùng của cậu.

Huang and I were leaving the hospital a few days later when out of the heavy clouds stretching above our heads darted two silver shapes, two single-seater fighter planes which had come from Shanghai as promised. They circled over Chungking, and circled again. Then, as if they had just spotted exactly where to land, they dived down in close formation. We wasted no time. We hurried down the street of steps, and made our way across to the sand. There were two Chinese pilots standing beside their machines, busily engaged in polishing off marks of their flight through dirty clouds. Huang and I approached them, and made our presence known to the leader of the two, a Captain Po Ku. Huang had made it very clear to me that nothing would induce him to go up into the air again. He had thought that he would die after his first—and last—flight.

Đại úy Po Ku nói:

– À, vâng, tôi đã nghe về các anh. Tôi đang tự hỏi làm thế nào để liên lạc với các anh.

Tôi cảm thấy khá được tâng bốc. Chúng tôi nói chuyện một lúc, anh ta chỉ ra sự khác nhau giữa những chiếc máy bay này và máy bay chở khách mà chúng tôi đã  thấy hôm trước. Theo như anh ta nói, chiếc máy bay có một chỗ ngồi duy nhất và chỉ có một động cơ, còn máy bay kia là loại có ba động cơ. Chúng tôi không có nhiều thời gian lúc đó, vì chúng tôi còn phải giải quyết những công việc của mình, và chúng tôi thực sự miễn cưỡng khi phải rời đi.

Captain Po Ku said, “Ah, yes, I have heard about you. I was actually wondering how to get in touch with you.” And I was much flattered thereby. We talked for a time. He pointed out the differences between this machine and the passenger machine which we had seen before. This, as he pointed out, was a machine with a single seat, and one engine, but the other had been a three-engine type. We had little time to stay then, because we had to deal with our rounds, and it was with extreme reluctance that we left.

Ngày hôm sau chúng tôi có nửa ngày nghỉ và chúng tôi đến chỗ hai chiếc máy bay một lần nữa, sớm nhất có thể. Tôi nhờ viên Đại úy dạy tôi lái máy bay như đã hứa. Anh ta nói:

– Ồ, tôi không thể làm điều đó. Tôi chỉ ở đây theo lệnh của Tưởng Giới Thạch. Chúng tôi đang phô diễn những chiếc máy bay này.

Tôi vẫn cứ kiên trì bám theo anh ta trong suốt ngày hôm đó, và khi tôi gặp anh ngày hôm sau, anh nói:

– Cậu có thể ngồi vào trong máy bay, nếu cậu thích. Cậu sẽ thấy khá thỏa mãn. Ngồi trong đó và thử điều khiển. Đây là cách nó hoạt động, hãy nhìn này.

Và anh đứng lên chỗ cánh máy bay, chỉ cho tôi cách điều khiển, chỉ cho tôi biết chúng làm việc thế nào. Cũng giống như máy bay ba động cơ, nhưng tất nhiên là đơn giản hơn nhiều. Tối hôm đó chúng tôi đưa anh và người bạn đồng hành của anh về chùa và cũng là nhà của chúng tôi, họ để lại một cảnh sát để trông nom những chiếc máy bay, và mặc dầu tôi đã làm mọi cách, tôi vẫn không nhận được bất kỳ thỏa thuận nào về việc họ sẽ dạy tôi bay. Anh ấy nói:

– Ồ, anh có thể phải đợi một thời gian dài, phải mất hàng tháng trời huấn luyện. Anh không thể bay thẳng một mạch như anh muốn. Anh sẽ phải học tại trường dưới mặt đất, rồi anh sẽ phải học bay trên máy bay có ghế phụ, và sẽ phải thực hành nhiều giờ trước khi anh được phép lái một chiếc máy bay giống như chiếc này.

The next day we had half a day off and we made our way again, as early as possible, to the two planes. I asked the Captain when he was going to teach me to fly as promised. He said, “Oh, I could not possibly do that. I am just here by order of Chiang Kai-Shek. We are showing these planes.” I kept on at him for that day, and when I saw him the day after he said, “You can sit in the machine, if you like. You will find that quite satisfying. Sit in and try the controls. This is how they work, look.” And he stood on the wing root and pointed out the controls to me, showed me how they worked. They were much the same as those of the three-engine machine, but of course much simpler. That evening we took him and his companion—they left a guard of police on the machine—to the temple which was our home, and although I worked on them very hard I could not get any statement at all about when they were going to teach me to fly. He said, “Oh, you may have to wait a long time. It takes months of training. It’s impossible to fly a thing straight off as you want to. You would have to go to ground school, you would have to fly in a dual-seat machine, and you would have to do many hours before you were allowed in a plane such as ours.”

Vào cuối buổi chiều ngày hôm sau, chúng tôi lại đến đó một lần nữa. Huang và tôi vượt qua sông và lên bờ cát. Hai người đàn ông đang ở một mình với những chiếc máy bay của họ. Hai chiếc máy bay nằm cách nhau một quãng xa. Hình như có chuyện gì đó không ổn với người bạn của Po Ku, bởi vì anh ta đang mở nắp động cơ, và các dụng cụ bày la liệt. Po Ku đang khởi động chiếc máy bay của mình. Anh đang điều chỉnh nó. Anh tắt máy, điều chỉnh và khởi động lại. Nó kêu “phụt, phụt, phụt” và không chạy đều chút nào cả.

Anh ta quên cả chúng tôi, anh đứng trên cánh máy bay, và làm gì đó với động cơ. Sau đó, khi động cơ nổ đều, trơn tru, giống như con mèo khi được ăn no nê, anh đứng thẳng lên, lau tay vào mảnh vải lấm dầu. Trông anh có vẻ rất hạnh phúc. Anh vừa quay lại để nói chuyện với chúng tôi thì người bạn gọi gấp từ chiếc máy bay kia. Po Ku đang định tắt động cơ nhưng người phi công kia vẫy tay cuống cuồng, vì thế từ trên cánh máy bay, anh nhảy ngay xuống cát, rồi chạy đi vội vã.

The next day at the end of the afternoon we went down again. Huang and I crossed the river and landed on the sand. The two men were quite alone with their machine. The two machines were many yards apart. Apparently there was something wrong with that of Po Ku’s friend, because he had got the engine cowling off, and tools were all over the place. Po Ku himself had the engine of his machine turning over. He was adjusting it. He stopped it, made an adjustment, and started it again. It went “phut-phut-phut” and did not run at all evenly. He was oblivious to us, as he stood on the wing, and fiddled about with the engine. Then, as the motor purred evenly, smoothly, like a well-pleased cat, he straightened up, wiping his hands on a piece of oily waste. He looked happy. He was turning to speak to us when his companion called urgently to him from the other plane. Po Ku went to stop the motor but the other pilot waved his hands frantically, so he just dropped to the ground from the wing and hurried off.

Tôi nhìn Huang và nói:

– A ha, anh ấy đã nói là tớ có thể ngồi vào trong, đúng không? Được thôi, tớ sẽ ngồi vào trong.

– Lobsang, Huang nói, cậu không định làm liều đấy chứ?

– Hoàn toàn không, tôi trả lời. Tớ có thể lái chiếc máy bay này, tớ biết tất cả về nó rồi.

– Nhưng, anh bạn, Huang nói, cậu sẽ tự giết mình thôi.

– Nhảm nào! tôi nói. Tớ đã từng bay trên diều đấy thôi? Tôi cũng đã từng bay lên không trung đấy thôi, và tớ đâu có bị say?

Huang tội nghiệp trông có vẻ phật ý khi tôi nói vậy, bởi vì khả năng ngồi máy bay của cậu ấy không tốt chút nào.

I looked at Huang. I said, “Ah ha, he said I could sit in, did he not? Well, I will sit in.” “Lobsang,” said Huang, “You are not thinking of anything rash are you?” “Not at all,” I replied. “I could fly that thing, I know all about it.” “But, man,” said Huang, “you’ll kill yourself.” “Rubbish!” I said. “Haven’t I flown kites? Haven’t I been up in the air, and been free from air-sickness?” Poor Huang looked a bit crestfallen at that because his own airmanship was not at all good.

Tôi nhìn về phía chiếc máy bay kia, hai người phi công đang quá bận rộn để để tâm đến tôi. Họ quỳ trên cát làm gì đó với phần động cơ, rõ ràng là họ đang rất mải miết với công việc. Không có ai khác ngoài Huang, vì vậy tôi tiếp cận chiếc máy bay. Như tôi đã nhìn thấy những người khác làm, tôi đá văng vật nặng chèn trước các bánh xe và vội vàng nhảy vào trong khi máy bay bắt đầu lăn bánh. Họ đã giải thích cho tôi về bảng điều khiển vài lần, và tôi biết đâu là cần gạt, tôi biết phải làm gì.

Tôi đẩy nó thật mạnh về phía trước, đẩy mạnh gần như hết cỡ, mạnh đến nỗi cổ tay trái tôi gần như bị trật ra. Động cơ gầm lên mạnh mẽ như thể nó đang tự xé mình để được tự do. Sau đó, tôi lao xuống dải cát vàng. Tôi nhìn thấy ánh sáng lấp loáng nơi cát và nước gặp nhau. Trong một khoảnh khắc tôi cảm thấy sợ, sau đó tôi nhớ ra: phải kéo cần ngược trở lại. Tôi kéo cần điểu khiển ra phía sau một cách khó khăn, mũi máy bay ngóc lên, các bánh xe lướt nhẹ trên sóng, làm tóe lên những tia nước, và tôi đang bay lên. Có cảm giác như một bàn tay khổng lồ và mạnh mẽ đang đẩy phía dưới tôi, nhấc bổng tôi lên trên cao.

Động cơ gầm lên và tôi nghĩ, “Không được để nó bay quá nhanh, phải giảm ga nếu không nó sẽ rơi thành từng mảnh.” Vì vậy tôi kéo cần điều khiển xuống một phần tư và tiếng động cơ lắng xuống. Tôi nhìn qua phía bên của máy bay, và giật mình. Ở tít phía dưới kia là những vách đá trắng của Trùng Khánh. Tôi đang ở trên cao, rất cao, cao đến nỗi tôi khó có thể nhận ra mình đang ở đâu. Tôi vẫn đang bay lên cao hơn. Vách đá trắng của Trùng Khánh ư? Ở đâu vậy? Lạ nhỉ! Nếu mình bay cao hơn nữa mình sẽ bay luôn ra khỏi thế giới này, tôi nghĩ.

Ngay sau đó là một cú rung khủng khiếp, và tôi cảm thấy mình như đang rơi ra thành từng mảnh. Cần điều khiển đã tuột khỏi tay tôi. Tôi va vào thành chiếc máy bay đang lật nghiêng, tròng trành dữ dội, rồi xoay tròn và bổ nhào xuống đất. Trong một khoảnh khắc tôi vô cùng sợ hãi. Tôi tự nói với mình, “Thôi thế là hết, Lobsang, anh bạn. Mày tự cho rằng mình quá thông minh. Chỉ giây lát nữa thôi, người ta sẽ phải cạo mày ra khỏi những tảng đá. Trời ơi, tại sao mày lại rời khỏi Tây Tạng chứ?” Đột nhiên tôi nhớ lại những gì tôi đã được nghe và từ kinh nghiệm bay trên diều của mình: trong tình huống xoay tròn; bảng điều khiển không hoạt động, tôi phải mở hết ga để cố gắng lấy lại hướng. Vừa nghĩ vậy, tôi liền đẩy ngay cần điều khiển về phía trước một lần nữa, và động cơ lại gầm lên.

Tôi vồ lấy cần điều khiển đang văng loạn xạ và dốc hết sức đẩy người vào lưng ghế. Dùng tay và đầu gối, tôi đẩy mạnh cần điều khiển về phía trước. Mũi máy bay chúc xuống đáng kể, như thể đuôi máy bay đã bị rơi ra ngoài. Không có đai an toàn và nếu không bám thật chặt vào cần điều khiển tôi có thể đã bị bắn ra ngoài. Tôi cảm thấy huyết quản của mình như đóng băng, như thể đang bị ai đó đẩy tuyết xuống lưng vậy. Đầu gối tôi trở nên mềm oặt một cách kỳ lạ, động cơ gầm lên, tiếng rền rĩ ngày càng to lên. Tôi không có tóc, nhưng nếu có thì tôi khá chắc rằng không có một cọng tóc nào không dựng ngược bất chấp luồng không khí.

“Ồ, đủ nhanh rồi,” tôi tự nhủ, và một cách nhẹ nhàng, thật nhẹ nhàng, để không làm chết máy, tôi kéo nhẹ cần điều khiển trở lại. Mũi máy bay ngóc lên, ngóc lên, chậm dãi đến đáng sợ. Trước sự vui mừng của mình tôi quên hẳn phải bay thẳng lại. Mũi máy bay tiếp tục ngóc lên cho tới khi một cảm giác kỳ lạ khiến tôi nhìn xuống, hay là nhìn lên nhỉ? Tôi nhận thấy mặt đất đang ở trên đầu mình! Trong khoảnh khắc tôi hoàn toàn không còn nhận biết được điều gì đang xảy ra. Sau đó, chiếc máy bay chao đảo và bổ nhào một lần nữa, để rồi mặt đất, mặt đất cứng rắn ở bên dưới lại ở ngay trước cánh quạt. Tôi đã lộn nhào. Tôi đã bay ngược, bám trụ bằng tay và đầu gối trong buồng lái, bị treo ngược mà không có đai an toàn, và rõ ràng là không có nhiều hy vọng.

Tôi thừa nhận là mình đã rất hoảng sợ nhưng rồi tôi nghĩ, “Nếu mình có thể trụ trên lưng ngựa, thì mình cũng có thể trụ trên một cỗ máy.” Thế là tôi để mũi máy bay chúc xuống sâu hơn một chút và sau đó nhẹ nhàng kéo ngược cần điều khiển. Một lần nữa tôi cảm thấy một bàn tay khổng lồ đang đẩy mình; nhưng lần này tôi kéo cần điều khiển một cách thật từ từ, cẩn thận, trong khi luôn luôn quan sát mặt đất, và tôi đã có thể giữ máy bay thăng bằng trong suốt quá trình. Trong một lúc, tôi chỉ ngồi đó, lau mồ hôi trên trán, nghĩ lại câu chuyện kinh khủng vừa nãy; đầu tiên là lao cắm xuống, sau đó lại lao thẳng lên, rồi bay lộn ngược, và bây giờ tôi không biết mình đang ở đâu.

I looked toward the other plane, but the two pilots were far too busy to bother with me. They were kneeling on the sand doing something to part of an engine, obviously they were quite engrossed. There was no one else about except Huang, so—I walked up to the plane. As I had seen the others do I kicked away the chocks in front of the wheels and hastily jumped in as the plane began to roll. The controls had been explained to me a few times and I knew which was the throttle, I knew what to do. I slammed it hard forward, hard against the stop, so hard that I nearly sprained my left wrist. The engine roared under full power as if it would tear itself free. Then we were off absolutely speeding down that strip of yellow sand. I saw a flash where water and sand met. For a moment I felt panic, then I remembered: pull back. I pulled back on the control column hard, the nose rose, the wheels just kissed the waves and made spray, we were up. It felt as if an immense, powerful hand was pressing beneath me, pushing me up. The engine roared and I thought, “Must not let it go too fast, must throttle it back or it will fall to pieces.” So I pulled the throttle control a quarter way back and the engine note became less. I looked over the side of the plane, and had quite a shock. A long way below were the white cliffs of Chungking. I was high, really high, so high that I could hardly pick out where I was. I was getting higher all the time. White cliffs, of Chungking? Where? Goodness! If I go any higher I shall fly out of the world, I thought. Just then there was a terrible shuddering and I felt as if I was falling to pieces. The control in my hand was wrenched from my grasp. I was flung against the side of the machine which tilted, and lurched violently, and went spinning down to earth. For a moment I knew utter fright. I said to myself “You’ve done it this time, Lobsang, my boy. You’ve been too clever for yourself. A few more seconds and they’ll scrape you off the rock. Oh, why did I ever leave Tibet?” Then I reasoned out from what I had heard and from my kite flying experience. A spin; controls cannot operate, I must give full throttle to try and get some directional control. No sooner had I thought of it than I pushed the throttle right forward again, and the engine roared anew. Then I grabbed the wildly threshing control and braced myself against the back of the seat. With my hands and my knees I forced that control forward. The nose dropped startlingly, as if the bottom had fallen out of the world. I had no safety belt and if I had not been clinging on very tightly to the controls I would have been shot out. It felt as if there were ice in my veins, as if someone was pushing snow down my back. My knees became strangely weak, the engine roared, the whine getting higher and higher. I was bald, but I am sure that had I not been the hair would have stood absolutely on end in spite of the airstream. “Ouch, fast enough,” I said to myself, and gently, oh, so gently, in case it broke off, I eased back that control. Gradually, terrifying slowly, the nose came up, and up, but in my excitement I forgot to level off. Up went the nose until the strange feeling made me look down, or was it up? I found the whole earth was above my head! For a moment I was completely at a loss to know what had happened. Then the plane gave a lurch and turned over into a dive again, so that the earth, the hard world beneath, was directly in front of the propeller. I had turned a somersault. I had flown upside down, braced on hands and knees in the cockpit, hanging upside down with no safety belt, and definitely without much hope. I admit I was frightened but I thought, “Well, if I can stay on the back of a horse, I can stay in a machine.” So I let the nose drop some more and then gradually pulled back the stick. Again I felt as if a mighty hand was pushing me; this time, though, I pulled back the stick slowly, carefully, watching the ground all the time, and I was able to level off the plane in even flight. For a moment or two I just sat there, mopping the perspiration from my brow, thinking what a terrible affair it had been; first going straight down, then going straight up, then flying upside down, and now I did not know where I was.

 

Tôi nhìn sang hai bên, chăm chú quan sát mặt đất, quay đi quay lại mà vẫn hoàn toàn mơ hồ về vùng đất mình đang bay trên. Rất có thể tôi đang ở trên sa mạc Gobi cũng nên. Cuối cùng, khi tôi sắp sửa từ bỏ hy vọng, một ý nghĩ chợt đến với tôi – cũng như những ý nghĩ đã xảy đến trong buồng lái! – dòng sông, nó ở đâu nhỉ? Rõ ràng, tôi nghĩ, nếu tôi có thể tìm được dòng sông thì dù tôi đi sang trái hay sang phải, thì cuối cùng tôi cũng sẽ đến được đâu đó.

Vậy là tôi bay vòng tròn một cách nhẹ nhàng, chăm chú quan sát phía xa. Cuối cùng tôi nhìn thấy một sợi chỉ bạc mờ nhạt phía cuối đường chân trời.

Tôi đổi hướng máy bay, và bay thẳng về phía đó. Tôi đẩy cần điều khiển về phía trước để tới đó nhanh hơn, nhưng ngay sau đó tôi kéo cần ngược lại phòng trường hợp có thứ gì hỏng hóc với tất cả tiếng ồn mà tôi đang tạo ra. Tôi không cảm thấy quá vui vẻ lúc này. Tôi nhận thấy mình đã làm mọi thao tác quá mạnh. Tôi đã đẩy cần điều khiển về phía trước khiến mũi máy bay nhấc lên quá nhanh, và khi tôi kéo cần điều khiển ra sau, mũi máy bay chúc xuống cũng quá đột ngột. Vậy nên từ giờ tôi sẽ làm mọi việc thật nhẹ nhàng; đó là một thái độ mới mà tôi đã áp dụng cho lần này.

I looked over the side, I peered at the ground, I turned round and round, and I hadn’t got the vaguest idea where I was. I might have been in the Gobi Desert. At last, when I had just about given up hope, inspiration struck me—just about everything in the cockpit had as well!—the river, where was it? Obviously, I thought, if I can find the river then I either go left or right, eventually I will go somewhere. So I turned the plane in a gentle circle, peering into the distance. At last I saw a faint silver thread on the horizon. I turned the plane in that direction, and kept it there. I pushed forward the throttle to get there more quickly, and then I pulled the throttle back again in case something broke off with all the noise I was making. I wasn’t feeling too happy at this time. I had found that I was doing everything in extremes. I had pushed forward the throttle, the nose would rise with alarming rapidity, or I would pull back the throttle and the nose would fall with even more alarming suddenness. So now I was trying everything gently; it was a new attitude which I had adopted for the occasion.

Khi tôi đã tới được dòng sông, tôi bay ngược lại dọc theo nó, tìm kiếm những vách đá của Trùng Khánh. Thật hoang mang. Tôi không thể xác định được nó. Thế là tôi quyết định xuống thấp hơn. Tôi bay vòng vòng thấp hơn, chăm chú tìm kiếm những vách đá trắng với những bậc thang dốc đứng, tìm kiếm những thửa ruộng bậc thang. Chúng thật khó tìm. Cuối cùng tôi nhận ra rằng tất cả những đốm li ti trên sông là những chiếc thuyền đang hướng về Trùng Khánh. Những chiếc tàu hơi nước nhỏ, những con thuyền buồn, những chiếc bè. Vì vậy tôi vẫn tiếp tục xuống thấp hơn. Sau đó tôi nhận ra doi cát lấp lánh. Tôi liệng xuống như con chim ưng liệng vòng để kiếm mồi. Mũi cát trở nên lớn dần, lớn dần.

Ba người đàn ông đang nhìn lên thất thần, ba người đàn ông đó là Po Ku và viên phi công đồng nghiệp, cùng với Huang, về sau họ nói với tôi là lúc đó họ gần như chắc chắn đã mất chiếc máy bay. Nhưng giờ đây tôi đã khá tự tin, rất tự tin. Tôi đã bay lên không trung, tôi đã bay lộn ngược, tôi đã tìm thấy Trùng Khánh. Giờ đây, tôi nghĩ mình là phi công giỏi nhất thế giới. Đúng lúc đó, tôi thấy ngứa ở chân trái nơi có một vết sẹo từ lần tôi bị bỏng ở tu viện lạt ma. Bất giác, tôi cho là mình đã co chân; chiếc máy bay rung chuyển mạnh, cơn gió xoáy đập mạnh lên má bên trái của tôi, mũi máy bay dốc xuống và cánh thì nghiêng ngả, ngay sau đó tôi đã bị lật nghiêng. Một lần nữa tôi nhấn ga và cẩn thận kéo lùi cần điều khiển.

Chiếc máy bay rùng mình và hai cánh rung lên. Tôi cứ ngỡ chúng sắp sửa bật tung ra! Nhờ một phép màu nào đó, chúng vẫn nguyên vẹn. Chiếc máy bay lao vun vút như con ngựa bất kham, rồi sau đó bay là là trở lại. Tim tôi đập dữ dội vì nỗ lực và cũng vì sợ hãi. Tôi bay vòng tròn một lần nữa trên doi cát nhỏ. “Được rồi, bây giờ,” tôi tự nghĩ, “mình phải hạ cánh thôi. Mình sẽ làm thế nào đây?” Con sông ở đây rộng hơn một dặm. Đối với tôi, nó trông như chỉ vài inch và doi cát mà tôi sẽ hạ cánh thì bé xíu. Tôi lượn vòng trong khi tự hỏi phải làm gì. Thế rồi tôi nhớ lại những gì họ đã nói với tôi, cách họ giải thích về việc bay. Vì thế tôi cố tìm một đám khói nào đó để xem gió đang thổi theo hướng nào, bởi vì họ bảo rằng tôi cần phải hạ cánh thuận chiều gió. Từ một đống lửa được đốt lên bên bờ sông, tôi biết rằng gió đang thổi ngược dòng sông.

Tôi vòng lại và bay ngược dòng nhiều dặm, và sau đó quay ngược lại, tôi đang chạm mặt với dòng sông và bay theo chiều gió. Khi bay về hướng Trùng Khánh tôi giảm ga để máy bay chậm dần, chậm dần, và hạ xuống thấp dần. Ngay khi tôi vừa nới lỏng quá nhiều, động cơ chết máy và rung mạnh, rơi xuống như một hòn đá, khiến tim gan tôi lộn tùng phèo, cảm thấy như đang treo trên một đám mây. Rất nhanh tôi nhấn ga và kéo cần điều khiển về phía sau, tôi lại phải vòng lại và bay ngược dòng sông một lần nữa, rồi bắt đầu lại từ đầu. Đến lúc này tôi đã khá chán bay rồi, và ước gì mình chưa bao giờ bắt đầu chuyến bay. Tôi nghĩ, bay lên trên không trung là một việc, nhưng bay xuống nguyên vẹn lại là chuyện khác.

When I was right over it, I turned again, and flew along that river, seeking the cliffs of Chungking. It was most bewildering. I could not find the place. Then I decided to come lower. Lower I circled, and circled, peering over the side looking for those white cliffs with the gashes which were the steep steps, looking for the terraced fields. They were hard to find. At last it dawned upon me that all those little specks on the river were the ships about Chungking. A little paddle steamer, the sampans, and the junks. So I went lower still. Then I saw a mere sliver of sand. Down I went spiraling down like a hawk spiraling down in search of prey. The sandy spit became larger, and larger. Three men were looking up, petrified with horror, three men, Po Ku and his fellow pilot and Huang, feeling quite certain, as they later told me, that they had lost a plane. But now I was fairly confident, too confident. I had got up in the air, I had flown upside down, I had found Chungking. Now, I thought I am the world’s best pilot. Just then I had an itch in my left leg where there was a bad scar from the time when I was burned in the lamasery. Unconsciously I suppose I twitched my leg; the plane rocked, a tornado of wind struck my left cheek, the nose went down as the wing tilted, and soon I was in a screaming sideslip. Once again I pushed forward the throttle and gingerly pulled back on the control column. The plane shuddered and the wings vibrated. I thought they were going to fall off! By a miracle they held. The plane bucked like an angry horse, and then slid into level flight. My heart was fairly pounding at the effort and with the fright. I flew again in a circle over the little patch of sand. “Well, now,” I thought to myself, “I’ve got to land the thing. How am I going to do that?” The river here was a mile wide. To me it looked as if it was inches and the little patch on which I had to land was diminutive. I circled wondering what to do. Then I remembered what they had told me, how they had explained flying. So I looked for some smoke to see which way the wind was blowing, because they had told me I had to land into wind. It was blowing up-river, I saw by a bonfire which had been lit on the bank of the river. I turned and flew up-stream, up many miles, and then I reversed my course, so that I was facing down-river and into wind. As I flew towards Chungking I gradually eased back the throttle so that I was going slower and slower, and so that the plane would sink and sink. Once I eased it back too much, and the machine stalled and rocked, and dropped like a stone, leaving my heart and stomach, or so it felt, hanging on a cloud. Very quickly indeed I pushed forward the throttle and pulled back the control column, but I had to turn round again and make my way up-river once more, and start all over again. I was getting tired of this flying business, and wishing that I had never started it at all. It was one thing, I thought, to get it up in the air, but a very different thing to get down—in one piece.

Tiếng gầm của động cơ đang dần trở nên đơn điệu. Tôi cảm thật biết ơn khi thấy Trùng Khánh xuất hiện trong tầm mắt lần nữa. Tôi đang bay khá thấp và chậm rãi, ngay phía trên dòng sông, giữa những núi đá khổng lồ thường ngày vẫn có màu trắng, nhưng bây giờ, qua tia nắng chéo của mặt trời, khoác một màu xanh đen. Khi tôi đến gần dải cát hẹp ở giữa dòng sông – giá mà nó rộng khoảng vài dặm! – Tôi nhìn thấy ba bóng người đang thấp thỏm vì phấn khích. Tôi mải nhìn họ đến nỗi quên cả hạ cánh. Đúng lúc đó, tôi mới chợt nhớ ra rằng đây là nơi tôi phải hạ cánh. Nó đã lướt qua bên dưới bánh xe, bên dưới đuôi máy bay. Vì vậy, với một tiếng thở dài ngao ngán, tôi nhấn ga về phía trước để tăng tốc một lần nữa. Tôi kéo cần điều khiển về phía sau để tăng độ cao, và rẽ ngoặt về bên trái. Lúc này tôi lại đối mặt với dòng sông một lần nữa, ngán ngẩm phong cảnh, ngán ngẩm cả Trùng Khánh, ngán ngẩm tất cả mọi thứ.

The roaring of the engine was becoming monotonous. I was thankful to see Chungking coming in sight again. I was low now, going slowly, just above the river, between huge rocks which often looked white, but now, through the oblique rays of the sun, looked a greenish black. As I approached the sandy spit in the middle of the too narrow river—I could have done with several miles of width!—I saw three figures hopping up and down with excitement. I was so interested watching them that I just forgot all about landing. By the time it had occurred to me that this was the place I had to alight, it had passed beneath my wheels, beneath the tail skid. So, with a sigh of weary resignation, I pushed that hated throttle forward to gain speed. I pulled back on the control to gain height, and went over in a sharp left swing. Now I was facing up-river again, sick of the scenery, sick of Chungking, sick of everything.

Tôi vòng lại một lần nữa xuống phía dòng sông, và theo chiều gió. Phía bên phải là một cảnh tượng rất đẹp. Mặt trời đang lặn, đỏ rực và rất lớn. Nó đang đi xuống. Điều này nhắc nhở tôi rằng mình cũng phải đi xuống, và tôi nghĩ tôi sẽ hạ cánh, đâm sầm và chết, và tôi tự cảm thấy mình vẫn chưa sẵn sang để đến với các vị Thần, còn quá nhiều việc phải làm. Rồi tôi nhớ lại lời Tiên tri, và tôi biết rằng tôi không có gì phải lo lắng nhiều về điều đó. Lời Tiên tri! Tất nhiên rồi, tôi sẽ hạ cánh an toàn và mọi việc sẽ tốt đẹp.

I turned once more down-river, and into wind. Across to the right I saw a beautiful sight. The sun was going down and it was red, red and huge. Going down. It reminded me that I had to go down too, and I thought I would go down and crash and die, and I felt to myself that I was not yet ready to join the Gods, there was so much to be done. This reminded me of the Prophecy and I knew that I had nothing more to worry about. The Prophecy! Of course I would land safely and all would be well.

Suy nghĩ về điều đó làm cho tôi gần như quên mất về Trùng Khánh. Từ đây, nó nằm gần như trọn vẹn bên dưới cánh trái của máy bay. Tôi nhẹ nhàng nới lỏng bánh lái để đảm bảo rằng doi cát vàng nằm thẳng ngay trước động cơ. Tôi giảm tốc chậm dần, chậm dần. Máy bay nhẹ nhàng hạ xuống. Tôi giảm ga về phía sau để khi tôi ở khoảng 10 feet phía trên mặt nước thì ga sẽ tắt. Để đảm bảo rằng không có lửa nếu tôi đâm sầm xuống, tôi tắt động cơ. Sau đó, rất, rất nhẹ nhàng, tôi đẩy cần điều khiển về phía trước để giảm độ cao. Thẳng phía trước động cơ tôi nhìn thấy cát và nước cứ như là tôi đang lao thẳng vào nó vậy. Vì vậy, rất nhẹ nhàng tôi kéo cần điều khiển lại phía sau.

Có một cú giật, một tiếng kêu và sau đó là xóc nảy. Lại một tiếng rít, một cú giật, một tiếng kêu chói tai, và sau đó là một tiếng va ầm ĩ như thể mọi thứ đang rơi ra từng mảnh. Tôi đã ở trên mặt đất. Chiếc máy bay vừa tự hạ cánh. Trong khoảnh khắc, tôi vẫn ngồi yên, thật khó tin rằng tất cả đã qua, rằng tiếng ồn của động cơ không thực sự ở đó, mà chỉ là sự tưởng tượng vẳng đến tai tôi. Thế rồi tôi nhìn xung quanh. Po Ku, người đồng nghiệp của anh và Huang đang chạy tới, mặt đỏ tía vì chạy và thở gấp. Họ dừng lại ngay bên dưới tôi. Po Ku nhìn tôi, nhìn chiếc máy bay, rồi lại nhìn tôi lần nữa. Mặt anh tái nhợt vì bàng hoàng và cũng vì hoàn toàn nhẹ nhõm. Anh ta nhẹ nhõm tới mức không còn có thể tức giận được nữa. Sau một lúc lâu, Po Ku nói:

– Thế là đã rõ. Anh phải tham gia Không quân không thì tôi sẽ gặp rắc rối nghiêm trọng.

– Đồng ý, tôi nói, khá phù hợp với tôi. Việc lái máy bay này cũng chẳng có gì mấy. Nhưng tôi muốn học theo phương pháp bài bản!

Po Ku lại đỏ mặt một lần nữa, sau đó anh phá lên cười.

– Anh sinh ra để làm một phi công, Lobsang Rampa. Anh sẽ có cơ hội học bay.

Vậy là, đây là bước đầu tiên trong việc rời khỏi Trùng Khánh. Là một bác sĩ phẫu thuật kiêm phi công, những đóng góp của tôi sẽ hữu ích ở nhiều nơi khác.

Thinking of that almost made me forget Chungking. Here, it was nearly beneath the left wing. I gently eased on the rudder-bar to make sure that the sandy spit of yellow sand was dead in front of the engine. I slowed down more, and more. The plane gradually sank. I pulled back the throttle so that I was about ten feet above the water as the engine note died. To be sure that there was no fire if I crashed I switched off the engine. Then, very, very gently, I pushed forward the control column to lose more height. Straight in front of the engine I saw sand and water as if I was aiming directly at it. So gently I pulled back the control column. There was a tug, and a jar, then a bounce. Once again a scraping noise, a tug, and a jar, and then a rumbling creak as if everything was falling to pieces. I was on the ground. The plane had just about landed itself. For a moment I sat quite still, hardly believing that it was all over, that the noise of the engine was not really there, but that it was just imagination in my ears. Then I looked around. Po Ku and his companion and Huang came racing up, red in the face with the effort, breathless. They skidded to a stop just beneath me. Po Ku looked at me, looked at the plane, looked at me again. Then he went really pale-faced with shock and utter relief. He was so relieved that he was quite unable to be angry. After a long, long interval Po Ku said, “That settles it. You will have to join the Force or I shall get into very serious trouble.” “All right,” I said, “suits me fine. There’s nothing in this flying business. But I would like to learn the approved method!” Po Ku turned red in the face again, and then laughed. “You’re a born pilot, Lobsang Rampa,” he said. “You’ll get your chance to learn to fly.” So that was the first step toward leaving Chungking. As a surgeon and as a pilot my services would be of use elsewhere.

Cuối ngày hôm đó, khi chúng tôi nói chuyện về toàn bộ sự việc, tôi hỏi Po Ku, nếu anh lo lắng như vậy, tại sao anh lại không bay lên trên chiếc máy bay kia để chỉ cho tôi cách bay về. Anh nói:

– Tôi muốn lắm chứ, nhưng anh đã bay đi cùng với bộ khởi động, vậy nên tôi không thể.

Later in the day, when we were talking over the whole matter, I asked Po Ku why, if he had been so worried, he did not come up in the other plane to show me the way back. He said, “I wanted to, but you had flown off with the starter and all, so I could not.”

Huang, tất nhiên rồi, loan tin về câu chuyện, Po Ku và người bạn đồng hành của anh ta cũng vậy, và trong vài ngày tôi là chủ đề chính của những cuộc trò chuyện ở trường đại học và bệnh viện, mặc dù tôi chẳng thích vậy tẹo này. Tiến sĩ Lee chính thức cho gọi tôi để khiển trách nghiêm khắc, nhưng cũng để chính thức chúc mừng tôi. Ông nói rằng ông cũng rất thích được làm như vậy trong những năm tuổi trẻ của mình, nhưng mà:

– Không có máy bay thời tôi còn trẻ, Rampa. Chúng tôi phải đi ngựa hoặc đi bộ.

Ông nói rằng thật không ngờ một anh chàng Tây Tạng hoang dã lại mang đến cho ông sự thích thú tuyệt vời nhất mà ông có được trong nhiều năm. Ông nói thêm:

– Rampa, hào quang của họ trông thế nào khi cậu bay phía trên họ và họ nghĩ rằng cậu sắp sửa rơi xuống và đâm thẳng vào họ?

Ông phá lên cười khi tôi nói rằng trông họ vô cùng sợ hãi và hào quang của họ co rút lại thành một đám màu xanh lợt, với những vệt nâu đỏ. Tôi nói:

– Tôi rất mừng là không có ai ở đó để nhìn thấy hào quang của tôi. Nó chắc hẳn phải rất khủng khiếp. Tôi cảm thấy như vậy.

Huang, of course, spread the story, as did Po Ku and his companion, and for several days I was the talk of the college and of the hospital, much to my disgust. Dr. Lee sent for me officially to administer a severe reprimand, but officially to congratulate me. He said that he would have liked to have done a thing like that himself in his younger years, but “There were no aircraft in my young days, Rampa. We had to go by horse or by foot.” He said that now it fell to the lot of a wild Tibetan to give him the best thrill that he had had for years. He added, “Rampa, what did their auras look like as you flew over them and they thought that you were going to crash on them?” He had to laugh as I said that they looked completely terrified and their auras had contracted to a pale blue blot, shot through with maroon red streaks. I said, “I am glad there was no one there to see what my aura was like. It must have been terrible. Certainly it felt so.”

Không lâu sau đó, người đại diện cho Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch tiếp cận tôi và đề nghị tôi học bay một cách bài bản, đồng thời bổ nhiệm tôi vào lực lượng không quân Trung Quốc. Viên sĩ quan đến gặp tôi nói:

– Nếu chúng tôi có thời gian trước khi Nhật Bản xâm lấn nghiêm trọng, chúng tôi muốn thành lập một đội ngũ đặc biệt để những người bị thương và không thể di chuyển được có thể nhận được sự giúp đỡ từ những người phi công kiêm bác sĩ phẫu thuật.

Thế là tôi có những thứ khác để học bên cạnh việc nghiên cứu cơ thể con người. Tôi phải học sự lưu thông của dầu cũng như sự lưu thông của máu. Tôi phải nghiên cứu cấu trúc của máy bay cũng như của bộ xương con người. Chúng thú vị như nhau và có khá nhiều điểm chung.

Not so long after this I was approached by a representative of Generalissimo Chiang Kai-Shek and offered the opportunity to learn to fly properly and be commissioned in the Chinese Forces. The officer who came to me said, “If we have time before the Japanese invade seriously, we would like to establish a special corps so that those people who are injured and cannot be moved can receive help from men of the air who are also surgeons.” So it came about that I had other things to study beside human bodies. I had to study oil circulation as well as the circulation of the blood. I had to study the framework of aircraft as well as the skeletons of humans. They were of equal interest and they had many points in common.

Vậy là năm tháng trôi qua, tôi đã trở thành một bác sĩ chuyên nghiệp và một phi công chuyên nghiệp, được đào tạo trong cả hai chuyên ngành, làm việc trong bệnh viện và tập bay vào những lúc rảnh rỗi. Huang đã từ bỏ ngay. Cậu ấy không quan tâm đến bay và chỉ cần nghĩ đến máy bay thôi đã đủ làm cậu phát ốm. Po Ku, thay vào đó, ở bên tôi bởi vì chúng tôi khá hòa hợp và chúng tôi thực sự là một đội ăn ý.

So the years went on, and I became a qualified doctor and a qualified pilot, trained in both, working in a hospital and flying in my spare time. Huang dropped out of it. He was not interested in flying and the mere thought of a plane made him turn pale. Po Ku, instead, stayed with me because it had been seen how well we got on together and we made indeed a satisfactory team.

Bay là một cảm giác tuyệt vời. Thật thú vị biết bao khi được bay vút lên cao trong chiếc máy bay, tắt động cơ để lướt và bay lượn giống như những chú chim. Việc này cũng khá giống với những chuyến du hành thể vía mà tôi đã thực hiện và bất cứ ai có đủ can đảm và nhẫn nại cũng có thể làm.

Flying was a wonderful sensation. It was glorious to be high up in an aeroplane, and to switch off the engine an to glide and to soar in the way that the birds did. It was so much like astral travelling which I do and which anyone else can do provided their heart is reasonably healthy an they will have the patience to persevere.

BẠN có biết du hành thể vía là gì không? Liệu BẠN có nhớ được niềm vui của việc bay lượn lên cao, trôi nổi phía trên các nóc nhà, băng qua đại dương, hay tới các miền đất xa xôi nào đó? Tất cả chúng ta đều có thể làm được điều đó. Nó là khi phần tâm linh cao hơn của cơ thể thoát ra khỏi lớp vỏ vật lý, và đi chu du ở cuối “sợi chỉ bạc” của nó. Không có gì là thần kỳ cả, cũng không có gì là sai trái. Nó hoàn toàn tự nhiên và lành mạnh, và sẽ đến lúc tất cả mọi người đều có thể du hành thể vía mà không có khó khăn hay trở ngại nào. Các bậc Đại Sư của Tây Tạng và Ấn độ đi lại bằng thể vía từ nơi này đến nơi khác, và chẳng có gì lạ về điều này. Trong những kinh sách trên khắp trên thế giới, các Kinh Thánh của tất cả các tôn giáo đều đề cập đến những thứ giống như “sợi chỉ bạc” và “chiếc bát vàng”. Cái được gọi là sợi chỉ bạc chỉ đơn thuần là một trục năng lượng, năng lượng phát sáng, có thể mở rộng đến vô tận. Nó không phải là một sợi dây vật chất giống như cơ bắp, hay huyết mạch, hay một đoạn dây, mà chính nó là sự sống, là năng lượng kết nối thể vật lý với thể vía.

Do YOU know what astral travelling is? Can YOU recall the pleasures of soaring, of drifting over the house top going across the oceans, perhaps, to some far distant land? We can all do it. It is merely when the more spiritual part of the body casts aside its physical covering, and world at the end of its “silver cord.” There is nothing magical about it, nothing wrong. It is natural and wholesome, and in days gone by all men could travel astrally without let or hindrance. The Adepts of Tibet and many of India travel in their astral from place to place, and there is nothing strange in it. In religious books the world over, the Bibles of all religions, there is mention of such things as “the silver cord” and the “golden bowl.” This so-called silver cord is merely a shaft of energy, radiant energy, which is capable of infinite extension. It is not a material cord like a muscle, or artery, or piece of string, but it is life itself, is the energy which connects the physical body and the astral body.

 

Con người có nhiều cơ thể. Hiện tại chúng ta chỉ mới quan tâm đến cơ thể vật lý và ở giai đoạn tiếp theo là thể vía. Bạn có thể nghĩ rằng khi chúng ta ở trong một trạng thái khác chúng ta có thể đi xuyên qua những bức tường, hoặc rơi xuyên qua sàn. Chúng ta có thể, nhưng chúng ta chỉ có thể đi hoặc rơi xuyên qua sàn ở những mức độ đậm đặc khác nhau. Trong trung giới, những đồ vật của thế giới hàng ngày không còn là rào chắn đối với sự di chuyển của chúng ta. Cửa ra vào không còn có thể giữ một người ở bên ngoài hay nhốt một người ở bên trong. Nhưng trong thế giới của thể vía cũng có các cửa hoặc tường mà đối với những người ở thể vía vẫn là chất rắn, chúng cũng có khả năng giới hạn như các cửa và tường của trái đất này đối với cơ thể vật lý.

Man has many bodies. For the moment we are interested only in the physical and in the next stage, the astral. We may think that when we are in a different state we can walk through walls, or fall through floors. We can, but we can only walk or fall through floors of a different density. In the astral stage things of this everyday world are no barrier to our passage. Doors of a house would not keep one in or keep one out. But in the astral world there are also doors and walls which to us in the astral are as solid, as containing, as the doors and walls of this earth are to the physical body.

BẠN đã bao giờ nhìn thấy ma chưa? Nếu có thì nó rất có thể là một thực thể trong thể vía, có lẽ là một sự hiện hình thể vía của một người nào đó mà bạn biết, hoặc một ai đó tới thăm bạn từ một nơi khác trên thế giới. Có lẽ, bạn cũng đã từng có một giấc mơ đặc biệt sống động. Bạn có thể mơ rằng bạn đang bay lên như một quả bóng trên bầu trời, được giữ bởi một sợi dây, hay một sợi chỉ. Bạn cũng có thể đã nhìn xuống từ trên trời, từ đầu bên kia của sợi chỉ, và phát hiện ra cơ thể của bạn nằm đó cứng đờ, xanh xao, bất động. Nếu bạn tiếp tục nhìn vào cảnh tượng dễ gây bối rối đó bạn có thể thấy là mình đang lượn lờ, đang trôi dạt, đang bị cuốn đi giống như sợi bông trong làn gió nhẹ.  Một lúc sau, bạn có thể thấy mình đang ở vùng đất xa xôi nào đó, hoặc một nơi nào đó mà bạn đã biết đến. Nếu bạn nhớ được bất cứ điều gì về nó vào buổi sáng bạn có thể coi nó chỉ như một giấc mơ. Đó chính là du hành thể vía.

Have YOU seen a ghost? If so it was probably an astral entity, perhaps an astral projection of someone you know, or someone visiting you from another part of the world. You may, at some time, have had a particularly vivid dream. You may have dreamed that you were floating like a balloon, up into the sky, held by a string, a cord. You may have been able to look down from the sky, from the other end of this cord, and have found that your body was rigid, pallid, immovable. If you kept at that disconcerting sight you may have found yourself floating, floating off, drifting like a piece of thistledown on a breeze. A little later you may have found yourself in some distant land, or some remote district known to you. If you thought anything about it in the morning you would probably put it down as a dream. It was astral travelling.

Hãy thử điều này: khi bạn đi ngủ vào ban đêm, hãy tưởng tượng thật chi tiết rằng bạn sẽ đến thăm một người mà bạn quen thân. Hãy suy nghĩ bạn sẽ đến thăm người đó như thế nào. Đó có thể là một người sống trong cùng một thành phố. Khi bạn nằm xuống hãy nằm thật yên, thư giãn, thoải mái. Nhắm mắt lại và tưởng tượng mình trôi ra khỏi giường, ra ngoài qua cửa sổ, và trôi đi phía trên các đường phố và biết rằng không điều gì có thể làm tổn thương bạn, biết rằng bạn không thể rơi. Trong trí tưởng tượng của mình, bạn hãy theo chính xác con đường mà bạn sẽ đi, lần lượt đi qua các con phố, cho tới khi đến được ngôi nhà mà bạn muốn đến. Sau đó hình dung bạn đang đi vào nhà như thế nào. Lúc này cửa không làm cản trở bạn, hãy nhớ, bạn cũng không cần phải gõ cửa. Bạn sẽ có thể nhìn thấy người bạn của mình, người mà bạn đang đến thăm. Với điều kiện là bạn có động cơ trong sáng. Không có gì khó khăn, cũng không có gì nguy hiểm, không có gì hại. Chỉ có một nguyên tắc: động cơ của bạn phải trong sáng.

Try this: when you go to sleep at night think vividly that you are going to visit someone you know well. Think of how you are going to visit that person. It may be someone in the same town. Well, as you are lying down keep quite still, relaxed, at ease. Shut your eyes and imagine yourself floating off the bed, out through the window, and floating over the street—knowing that nothing can hurt you—knowing that you cannot fall. In your imagination follow the exact line that you will take, street by street, until you get to the house that you want. Then imagine how you are going to enter the house. Doors do not bother you now, remember, nor do you have to knock. You will be able to see your friend, the person whom you have come to visit. That is, you will be able to if your motives are pure. There is no difficulty at all, nothing dangerous, nothing harmful. There is only one law: your motives must be pure.

Bạn có thể lặp lại nếu bạn muốn, nhưng sẽ là tốt hơn nhiều khi tiếp cận nó từ những góc nhìn khác nhau để bạn có thể thấy việc này thật sự đơn giản đến thế nào. Bạn hãy nằm trên giường, nằm một mình và không có ai làm phiền, cửa phòng ngủ của bạn đã được khóa để không ai có thể đi vào. Hãy thư giãn. Hãy tưởng tượng rằng bạn đang nhẹ nhàng tách rời khỏi cơ thể của mình. Không có gì nguy hiểm, không gì có thể làm tổn thương bạn. Hãy tưởng tượng là bạn nghe thấy nhiều tiếng cọt kẹt nhỏ và vài cú đẩy nhẹ khi thể tâm linh của bạn rời khỏi thể vật lý và đang định hình ở bên trên.

Here it is again, repetition if you like, but it is much better to approach it from one or two view-points so that you can see how utterly simple this is. As you lie upon your bed, alone with no one to disturb you, with your bedroom door locked so that no one can come in, keep calm. Imagine that you are gently disengaging from your body. There is no harm, nothing can hurt you. Imagine that you hear various little creaks and that there are numerous jolts, small jolts, as your spiritual force leaves the physical and solidifies above.

Hãy tưởng tượng rằng bạn đang hình thành một cơ thể đối lập hoàn toàn với cơ thể vật lý của bạn, và nó đang trôi phía trên cơ thể vật lý, không trọng lượng. Bạn sẽ cảm thấy một sự lắc lư nhẹ nhàng, một chút nổi lên và chìm xuống. Không có gì phải sợ, không có gì phải lo. Điều này là tự nhiên, vô hại. Khi bạn giữ được sự thanh thản bạn sẽ thấy linh hồn giờ đã được tự do của mình chậm rãi buông trôi cho đến khi bạn ở trên cơ thể khoảng vài feet[2]. Sau đó bạn có thể nhìn xuống chính mình, nhìn vào cơ thể vật lý của chính mình. Bạn sẽ thấy rằng cơ thể vật lý của bạn và thể vía của bạn được kết nối với nhau bằng một sợi dây bạc sáng ngời, một sợi dây xanh mà bạc, nó rung động cùng với sự sống, với những tư tưởng đi từ thể vật lý đến thể vía và từ thể vía đến thể vật lý. Không gì có thể làm tổn thương bạn miễn là tư tưởng của bạn trong sáng.

Imagine that you are forming a body the exact counterpart of your physical body, and that it is floating above the physical, weightlessly. You will experience a slight swaying, a minute rise and fall. There is nothing to be afraid of, there is nothing to worry about. This is natural, harmless. As you keep calm you will find that gradually your now-freed spirit will drift until you float a few feet off. Then you can look down at yourself, at your physical body. You will see that your physical and your astral bodies are connected by a shining silver cord, a bluish silver cord, which pulsates with life, with the thoughts that go from physical to astral, and from astral to physical. Nothing can hurt you so long as your thoughts are pure.

Hầu như tất cả mọi người đều có trải nghiệm về du hành thể vía. Hãy hồi tưởng lại ký ức của bạn và thử nghĩ xem liệu bạn có thể nhớ lại điều này: bạn đã bao giờ ngủ thiếp đi và có ấn tượng rằng bạn đang lắc lư, rơi xuống, rơi xuống và rồi đột nhiên bạn giật mình thức giấc ngay trước khi bạn đâm sầm xuống đất? Đó là cách du hành thể vía không đúng và thường gây khó chịu. Bạn không cần phải chịu đựng sự bất tiện và khó chịu như vậy. Điều này xảy ra bởi vì có sự khác nhau về rung động giữa thể vật lý và thể vía. Rất có thể khi bạn đang trôi xuống và đi vào cơ thể vật lý sau chuyến du hành thì một tiếng động nào đó, một chút gió lùa, hoặc một sự ngắt quãng đã gây ra sự khác biệt nhỏ về vị trí và thể vía đi xuống cơ thể vật lý không khớp với vị trí của nó, vì thế gây ra giật mình.

Bạn có thể ví việc này với việc bước ra khỏi chiếc xe buýt đang chạy. Chiếc xe buýt, ví như thể vía, đang chuyển động gần hai mươi cây số một giờ. Mặt đất, giống như cơ thể vật lý, không di chuyển. Dù khoảng cách giữa bậc thềm xe buýt và mặt đất rất ngắn, bạn vẫn cần phải đi chậm lại không thì sẽ bước hụt. Vì vậy, nếu bạn có cảm giác rơi xuống này; thì tức là bạn đã du hành thể vía cho dù bạn hề không biết về việc đó, bởi vì cú giật mình khi trở lại thể xác, còn được gọi là “cú hạ cánh xóc”, sẽ xóa sạch trí nhớ về những gì bạn đã làm và những gì bạn đã nhìn thấy.

Trong mọi trường hợp, nếu không được huấn luyện, bạn có thể đã ngủ trong khi đi lại bằng thể vía. Vì thế bạn chỉ đơn thuần nghĩ là mình đã mơ, “Đêm qua tôi mơ về việc đi thăm một nơi như thế này thế nọ, và thấy cái này cái nọ.” Đã bao nhiêu lần bạn nói như vậy? Tất cả chỉ là giấc mơ! Nhưng có đúng vậy không? Với một chút luyện tập bạn có thể di chuyển trong thể vía trong khi hoàn toàn tỉnh thức và bạn có thể lưu lại trong trí nhớ những gì bạn đã nhìn thấy và những gì bạn đã làm. Một bất lợi lớn của việc di chuyển bằng thể vía là: khi bạn di chuyển trong thể vía bạn không thể mang theo thứ gì, cũng không thể mang bất cứ thứ gì trở lại, vì thế thật phí thời gian khi nghĩ rằng bạn có thể chuyển đến đâu đó bằng cách di chuyển thể vía, bởi vì bạn không thể mang theo tiền bạc, hay ngay cả một chiếc khăn tay, bạn chỉ có thể mang theo linh hồn của mình thôi.

Nearly everyone has had an experience of astral travelling. Cast your mind back and think if you can remember this: have you ever been asleep and had the impression that you were swaying, falling, falling, and then you awoke with a jolt just before you crashed into the ground? That was astral travelling done the wrong way, the unpleasant way. There is no need for you to suffer that inconvenience or unpleasantness. It was caused by the difference in vibration between the physical and the astral bodies. It may have been that when you were floating down to enter the physical body after making a journey, some noise, some draught, or some interruption, caused a slight discrepancy in position and the astral body came down to the physical body not exactly in the right position, so there was a jolt, a jar. You can liken it to stepping off a moving bus. The bus, which is, let us say, the astral body, is doing ten miles an hour. The ground, which we will call the physical body, does not move. In the short space between leaving the bus platform and hitting the ground you have to slow down or experience a jerk. So, if you have had this falling sensation, then you have had astral travelling even if you did not know it, because the jerk of coming back to what one would call a “bad landing” would erase the memory of what you did, of what you saw. In any event, without training you could have been asleep when you were astral travelling. So you would have merely thought that you had dreamed. “I dreamed last night that I visited such-and-such a place, and saw so-and-so.” How many times have you said that? All a dream! But was it? With a little practice you can do astral travelling when you are fully awake and you can retain the memory of what you saw, and what you did. The big disadvantage of course with astral travelling is just this: when you travel in the astral you can take nothing with you, nor can you take anything back, so it is a waste of time to think that you will go somewhere by astral travelling, because you cannot even take money, not even a handkerchief, but only your spirit.

Những người có tâm địa không tốt không nên tập luyện du hành thể vía. Đối với họ điều đó có thể sẽ nguy hiểm. Nhưng không có bất cứ điều gì nguy hiểm đối với những ai có trái tim nhân ái, bởi vì chừng nào mà động cơ của chúng ta trong sáng, chừng nào bạn không suy tính những điều xấu xa hoặc muốn thu lợi cho mình, thì không có bất cứ điều gì có thể làm hại bạn.

Bạn có muốn du hành thể vía không? Đây là cách dễ nhất để thực hiện nó. Trước hết hãy nhớ điều này: nguyên tắc đầu tiên của tâm lý là trong bất kỳ trận chiến nào giữa ý chí và trí tưởng tượng, thì trí tưởng tượng luôn luôn thắng. Vì thế hãy luôn hình dung rằng bạn có thể làm một việc; và nếu bạn đủ tin tưởng vào điều đó thì bạn sẽ làm được. Bạn có thể làm được bất cứ điều gì. Đây là một ví dụ để làm rõ điều đó.

People with bad hearts should not practice astral travelling. For them it could be dangerous. But there is no danger whatever for those with sound hearts, because so long as our motives are pure, so long as you do not contemplate evil or gain over another, no harm whatever can happen.

Do you want to travel astrally? This is the easiest way to set about it. First of all remember this: it is the first law of psychology, and it stipulates that in any battle between the will and the imagination, the imagination always wins. So always imagine that you can do a thing, and if you imagine it strongly enough you can do it. You can do anything. Here is an example to make it clear.

Bất cứ điều gì bạn tưởng tượng mình làm được, thì bạn có thể làm, bất chấp việc ấy khó khăn và không tưởng đến đâu đối với những người đứng nhìn. Bất cứ điều gì trí tưởng tượng cho rằng bạn không thể làm, thì điều đó là bất khả thi đối với bạn, cho dù bạn có cố gắng bao nhiêu đi chăng nữa. Hãy nghĩ về nó theo cách này; có hai ngôi nhà cao hơn mười mét, và cách xa nhau ba mét. Một tấm ván có độ rộng vừa hai bàn chân bắc ngang giữa hai mái nhà. Nếu bạn muốn đi qua tấm ván đó để sang bên kia, trí tưởng tượng của bạn sẽ cho bạn hình ảnh về các mối nguy hiểm, gió sẽ làm cho bạn đu đưa, hoặc có lẽ một thứ gì đó trên tấm gỗ sẽ làm bạn vấp chân. Trí tưởng tượng của bạn nói rằng bạn có thể bị chóng mặt, nhưng bất luận nguyên nhân là gì, trí tưởng tượng muốn nói với bạn rằng hành trình là bất khả thi đối với bạn, bạn sẽ rơi và chết.

Thế đấy, cho dù bạn có cố gắng thế nào đi chăng nữa, nếu bạn từng tưởng tượng rằng bạn không thể làm điều đó, thì bạn không thể làm điều đó, và việc đi một quãng nhỏ sang bên kia qua tấm ván dù rất đơn giản sẽ là một quãng đường không tưởng đối với bạn. Ý chí có mạnh đến đâu cũng không thể giúp bạn vượt qua một cách an toàn. Tuy nhiên, nếu tấm ván đó được đặt trên mặt đất bạn có thể đi hết chiều dài của nó không một chút lưỡng lự. Điều gì sẽ thắng trong những trường hợp như thế này? Ý chí?  Hay trí tưởng tượng? Một lần nữa, nếu như bạn tin rằng bạn có thể đi qua tấm ván giữa hai tòa nhà, thì bạn có thể làm được điều đó một cách dễ dàng, cũng chẳng có vấn đề gì nếu có gió hay thậm chí tấm ván rung rinh, miễn là bạn tin rằng mình có thể vượt qua nó an toàn. Những người đi trên dây, thậm chí đi bằng xe đạp, không có ý chí nào giúp họ làm được điều đó. Chí có trí tưởng tượng.

Anything that you really imagine you can do, that you can do, no matter how difficult or impossible it is to the onlooker. Anything which your imagination tells you is impossible, then, to you it is impossible no matter how much your will tries to force you on. Think of it in this way; there are two houses thirty-five feet high, and ten feet apart. A plank is stretched between them at roof level. The plank is, perhaps, two feet wide. If you want to walk across that plank your imagination would cause you to picture all the hazards, the wind causing you to sway, or perhaps something in the wood causing you to stumble. You might, your imagination says, become giddy, but no matter the cause, your imagination tells you that the journey would be impossible for you, you would fall and be killed. Well, no matter how hard you try, if you once imagine that you cannot do it, then do it you cannot, and that simple little walk across the plank would be an impossible journey for you. No amount of will power at all would enable you to cross safely. Yet, if that plank was on the ground you could walk its length without the slightest hesitation. Which wins in a case like this? Will power? Or imagination? Again, if you imagine that you can walk the plank between the two houses, then you can do it easily, it does not matter at all if the wind is blowing or even if the plank shakes, so long as you imagine that you can cross safely. People walk tight ropes, perhaps they even cross on a cycle, but no will power would make them do it. It is just imagination.

Có gì đó không đúng khi chúng ta phải gọi nó là “trí tưởng tượng”, bởi vì, đặc biệt ở phương Tây, từ này ngụ ý điều gì đó không thực tế, không thể tin được, tuy nhiên trí tưởng tượng lại là sức mạnh lớn nhất trên trái đất này. Trí tưởng tượng có thể làm cho một người nghĩ rằng anh ta đang yêu, và thế là tình yêu trở thành sức mạnh lớn thứ hai. Chúng ta nên gọi nó là trí tưởng tượng có kiểm soát. Nhưng dù là tên gọi gì, chúng ta phải luôn nhớ rằng: trong bất kỳ trận chiến nào giữa ý chí và trí tưởng tượng, thì trí tưởng tượng LUÔN CHIẾN THẮNG. Ở phương Đông chúng tôi chẳng hề bận tâm đến ý chí, bởi vì ý chí là sự cám dỗ, là một cái bẫy, nó trói buộc con người vào với trái đất. Chúng ta chỉ cần dựa vào trí tưởng tượng có kiểm soát, và chúng ta sẽ thu được kết quả.

It is an unfortunate thing that we have to call this “imagination,” because, particularly in the west, that indicates something fanciful, something unbelievable, and yet imagination is the strongest force on earth. Imagination can make a person think he is in love, and love thus becomes the second strongest force. We should call it controlled imagination. Whatever we call it we must always remember: in any battle between the will and the imagination, the imagination ALWAYS WINS. In the east we do not bother about will power, because will power is a snare, a trap, which chains men to earth. We rely on controlled imagination, and we get results.

Nếu bạn phải đến nha sĩ để nhổ răng, và bạn hình dung về nỗi kinh hoàng đang chờ đợi bạn ở đó, vô cùng đau đớn, bạn hình dung từng bước của quá trình nhổ răng. Có lẽ sẽ có một mũi tiêm, một cái giật bắn người khi thuốc tê được tiêm vào, và sau đó là sự khám xét của nha sĩ. Bạn hình dung rằng mình ngất xỉu, hoặc la hét, hoặc chảy máu đến chết, hoặc điều gì khác. Tất nhiên tất cả những điều đó thật vô lý, nhưng lại vô cùng thực tế đối với bạn, và khi bạn ngồi vào ghế, bạn phải chịu đựng rất nhiều đau đớn không cần thiết. Đây là một ví dụ về trí tưởng tượng được sử dụng một cách sai lầm. Đó là loại trí tưởng tượng không được kiểm soát, loại trí tưởng tượng chạy nhông, nên được ngăn chặn.

If you have to go to the dentist for an extraction, you imagine the horrors that await you there, the absolute agony, you imagine every step of the extraction. Perhaps the insertion of the needle, and the jerking as the anaesthetic is pumped in, and then the probing about of the dentist. You imagine yourself fainting, or screaming, or bleeding to death, or something. All nonsense, of course, but very, very real to you, and when you get into the chair you suffer a lot of pain which is quite unnecessary. This is an example of imagination wrongly used. That is not controlled imagination, it is imagination run wild, and no one should permit that.

Phụ nữ hay nghe những câu chuyện đáng sợ về nỗi đau đớn và nguy hiểm của việc sinh con. Tại thời điểm sinh nở, khi nghĩ về những cơn đau sẽ đến, người mẹ đã tự làm cho mình căng thẳng, tự làm cho mình cứng đờ, vì thế mà sản phụ có những cơn đau thắt. Điều đó thuyết phục cô ấy rằng điều mà cô đã hình dung hoàn toàn là sự thật, rằng sinh con rất đau đớn, vì thế cô ấy càng trở nên căng thẳng hơn, và càng đau thêm, và cuối cùng cô ấy sẽ trải qua một thời gian hoàn toàn khủng khiếp. Ở phương Đông thì không như vậy. Người ta tin rằng sinh nở là một việc dễ dàng, không đau đớn, và vì vậy điều đó đúng như thế. Phụ nữ phương Đông sinh con, và vẫn tiếp tục công việc nhà của họ sau đó vài giờ, bởi vì họ biết làm thế nào để kiểm soát trí tưởng tượng.

Women will have been told shocking tales about the pains, the dangers, of having children. At the time of the birth the mother-to-be, thinking of all these pains to come, tenses herself, makes herself rigid, so that she gets a twinge of pain. That convinces her that what she imagined is perfectly true, that having a baby is a very painful affair, so she tenses some more, and gets another pain, and in the end she has a perfectly horrible time. Not so in the east. People imagine that having a baby is easy, and painless, and so it is. Women in the east have their babies, and perhaps go on with their housework a few hours after, because they know how to control imagination.

Bạn đã bao giờ nghe nói về việc “tẩy não” mà người Nhật và người Nga đã thực hiện chưa? Đó là quá trình giày vò tư tưởng một người, và làm cho người đó hình dung những điều mà họ muốn người đó hình dung.  Đây là phương pháp cai ngục kiểm soát tư tưởng của tù nhân, để người tù thừa nhận bất cứ điều gì kể cả khi điều đó khiến anh ta phải trả giá bằng mạng sống của mình. Trí tưởng tượng được kiểm soát sẽ giúp tránh tất cả những điều này bởi vì nạn nhân, những người bị tẩy não, hoặc thậm chí bị tra tấn, có thể hình dung về những điều khác, và khi đó thử thách có thể sẽ không quá nặng nề, và nạn nhân chắc chắn sẽ không bị khuất phục.

You have heard of “brain-washing” as practiced by the Japanese, and by the Russians? That is a process of preying upon one’s imagination, and of causing one to imagine things which the captor wants one to imagine. This is the captor’s method of controlling the prisoner’s imagination, so that the prisoner will admit anything at all even if such admission costs the prisoner’s life. Controlled imagination avoids all this because the victim who is being brainwashed, or even tortured, can imagine something else, and then the ordeal is perhaps not so great, certainly the victim does not succumb to it.

Bạn biết quá trình của việc cảm thấy đau không? Chúng ta hãy chọc một cây kim vào ngón tay. Vâng, chúng ta chọc đầu kim vào thịt, và chúng ta chờ đợi trong lo sợ thời điểm đầu mũi kim xuyên qua da, và máu trào ra. Chúng ta tập trung toàn bộ năng lượng của mình để xem xét kỹ càng vết đâm. Nếu như chúng ta có chỗ đau ở chân, chúng ta cũng sẽ quên hết, mà chỉ tập trung vào quá trình chọc kim vào ngón tay. Chúng ta tập trung toàn bộ tư tưởng của mình vào ngón tay đó, vào mũi kim đó. Chúng ta chỉ tưởng tượng rằng sẽ bị đau mà quên đi tất cả các vấn đề khác.

Một người phương Đông đã được rèn luyện thì không như vậy. Anh ta sẽ không chăm chú vào ngón tay hay vết thương sẽ xảy đến, anh ta sẽ phân tán trí tưởng tượng của mình, trí tưởng tượng được kiểm soát, lên khắp cơ thể, để sự đau đớn thực chất chỉ ở ngón tay được trải đều trên toàn bộ cơ thể, và như vậy vật nhỏ như chiếc kim hoàn toàn không còn cảm thấy được nữa. Đó chính là trí tưởng tượng được kiểm soát. Tôi đã nhìn thấy những người bị lưỡi lê đâm vào thân. Họ không ngất hay la hét, bởi vì họ biết rằng lưỡi lê đang đi tới, và họ nghĩ đến điều khác – vẫn là trí tưởng tượng được kiểm soát thôi – và thế là cơn đau lan rộng khắp toàn bộ bề mặt cơ thể, thay vì bị giới hạn vào một chỗ, vậy nên nạn nhân có thể vượt qua được sự đau đớn của việc bị lưỡi lê đâm.

Do you know the process of feeling a pain? Let us stick a pin into a finger. Well, we put the point of the pin against the flesh, and we wait with acute apprehension the moment when the point of the pin will penetrate the skin and a spurt of blood will follow. We concentrate all our energies on examining the spot. If we had a pain in our foot we would forget all about it in the process of sticking a pin in a finger. We concentrate the whole of our imagination upon that finger, upon the point of that pin. We imagine the pain it will cause to the exclusion of all else. Not so the Easterner who has been trained. He does not dwell upon the finger or the perforation to follow, he dissipates his imagination—controlled imagination—all over the body, so that the pain which is actually caused to the finger is spread out over the whole of the body and so in such a small thing as a pinprick it is not felt at all. That is controlled imagination. I have seen people with a bayonet stuck in them. They have not fainted, or screamed, because they knew the bayonet thrust was coming, and they imagined something else—controlled imagination again—and the pain was spread throughout the whole body area, instead of being localized, so the victim was able to survive the pain of the bayonet thrust.

Thôi miên là một ví dụ khác về trí tưởng tượng. Trong trường hợp này, người bị thôi miên để tâm tưởng của mình cho người thôi miên chi phối. Người bị thôi miên tin rằng anh ta đang bị khuất phục bởi sức ảnh hưởng của người kia. Anh ta tưởng tượng rằng mình đang trở nên buồn ngủ, rằng anh ta đang rơi vào sự chi phối của nhà thôi miên. Vì vậy, nếu người thôi miên có khả năng thuyết phục tốt, và thuyết phục tâm tưởng của người bệnh, người bệnh sẽ không chống đối, và ngoan ngoãn nghe theo lệnh của nhà thôi miên, và đó là tất cả để thực hiện thôi miên. Theo cùng một cách, nếu một người đi vào trạng thái tự thôi miên, anh ta chỉ đơn thuần tin rằng mình đang rơi vào sự chi phối của CHÍNH MÌNH! Và vì vậy anh ta được kiểm soát bởi Chân Ngã của anh ta. Trí tưởng tượng, tất nhiên, là cơ sở của phương pháp chữa bệnh bằng niềm tin; người ta xây dựng niềm tin, và tin rằng nếu họ đến thăm một nơi nào đó, hay được một người nào đó điều trị, họ sẽ được chữa khỏi bệnh ngay lập tức. Niềm tin của họ, trong trường hợp như vậy, thực sự đã ra lệnh cho cơ thể, và vì vậy việc chữa bệnh có hiệu quả, và việc khỏi bệnh là vĩnh viễn miễn là trí tưởng tượng vẫn duy trì mệnh lệnh, và không có sự nghi ngờ nào xâm nhập.

Hypnotism is another good example of imagination. In this the person who is being hypnotized surrenders his imagination to the person who is hypnotizing. The person being hypnotized imagines that he is succumbing to the influence of the other. He imagines that he is becoming drowsy, that he is falling under the influence of the hypnotist. So, if the hypnotist is sufficiently persuasive, and convinces the imagination of the patient, the patient succumbs, and becomes pliable to the commands of the hypnotist, and that is all there is to it. In the same way, if a person goes in for auto-hypnosis, he merely imagines that he is falling under the influence of—HIMSELF! And so he does become controlled by his Greater Self. This imagination, of course, is the basis of faith cures; people build up, and build up, and imagine that if they visit such-and-such a place, or are treated by such-and-such a person, they will get cured on the instant. Their imagination, in such a case, really does issue commands to the body, and so a cure is effected, and that cure is permanent so long as the imagination retains command, so long as no doubt of the imagination creeps in.

Thêm một ví dụ nhỏ đơn giản nữa, bởi vì trí tưởng tượng được kiểm soát là điều quan trọng nhất mà bạn cần hiểu. Trí tưởng tượng được kiểm soát có thể mang đến sự khác biệt giữa thành công và thất bại, sức khỏe và bệnh tật.

Nhưng đây là ví dụ; có bao giờ bạn đi xe đạp trên con đường rộng mở, thẳng tắp, và rồi bạn nhìn thấy phía trước một hòn đá lớn, có lẽ chỉ cách bánh xe trước của bạn một vài mét? Bạn có thể sẽ nghĩ, “Ôi, mình không thể tránh được!” và thể là bạn chắc chắn không thể tránh được. Bánh xe trước của bạn lảo đảo, và cho dù bạn có cố gắng tránh thế nào thì chắc chắn bạn sẽ chạy thẳng vào hòn đá giống như một mẩu sắt bị hút vào nam châm. Không ý chí nào có thể làm cho bạn tránh được hòn đá đó. Tuy nhiên, nếu bạn tưởng tượng rằng bạn có thể tránh được nó, thì bạn sẽ tránh được nó. Chẳng cần một chút ý chí nào để giúp bạn tránh được hòn đá.

Hãy nhớ quy tắc quan trọng nhất này, bởi vì nó mang lại tất cả những sự khác biệt trên to lớn đối với bạn. Nếu bạn bắt mình làm một điều mà trí tưởng tượng không cho phép, bạn sẽ gây ra sự suy nhược thần kinh. Điều đó thực sự là nguyên nhân của nhiều căn bệnh tâm thần. Điều kiện ngày nay khá khó khăn, và người ta cố gắng gạt đi trí tưởng tưởng của mình (thay vì thuần hóa nó) bằng cách rèn luyện ý chí. Xung đột nội tâm xảy ra, bên trong tâm trí, và cuối cùng gây nên chứng suy nhược thần kinh. Người ta có thể bị tâm thần, hoặc thậm chí bị điên.

Bệnh viện tâm thần có đầy rẫy các bệnh nhân, những người tự mình muốn làm điều trái ngược với trí tưởng tượng của họ. Trong khi đó, việc kiểm soát trí tưởng tượng là vấn đề thực sự đơn giản, và hiệu quả. Chính trí tưởng tượng – trí tưởng tượng được kiểm soát – cho phép một người trèo lên một ngọn núi cao, hoặc lái máy bay rất nhanh và phá vỡ kỷ lục, và làm bất cứ kỳ tích nào mà chúng ta từng nghe nói về. Tâm tưởng được kiểm soát. Người nào tưởng tượng rằng mình có thể làm điều này, hoặc điều khác thì anh ta có thể. Anh ta được trí tưởng tượng nói với anh ta rằng anh ta có thể, và anh ta có ý chí giúp anh ta làm điều đó. Điều đó có nghĩa là thành công hoàn toàn. Vì vậy, nếu bạn muốn làm cho con đường của bạn trở nên dễ dàng và cuộc sống của bạn êm ái như cách người phương Đông vẫn làm, thì hãy quên ý chí đi, nó chỉ là cạm bẫy, và ảo tưởng. Chỉ cần nhớ kỹ trí tưởng tượng có kiểm soát. Bạn tin vào thứ gì thì bạn có thể làm được thứ ấy. Trí tưởng tượng, niềm tin, không phải chúng chỉ là một hay sao?

Just one more homely little example, because this matter of controlled imagination is the most important thing that you can ever understand. Controlled imagination can mean difference between success and failure, health and illness. But here it is; have you ever been riding a cycle on an absolutely straight, open road, and then ahead of you seen a big stone, perhaps a few feet from your front wheel? You might have thought, “Oh, I can’t avoid that!” And sure enough you could not. Your front wheel would wobble, and no matter how you tried you would quite definitely run into that stone just like a piece of iron being drawn to a magnet. No amount of will power at all would enable you to avoid that stone. Yet if you imagined that you could avoid it, then avoid it you would. No amount of will power enables you to avoid that stone. Remember that most important rule, because it can mean all the difference in the world to you. If you go on willing yourself to do a thing when the imagination opposes it, you will cause a nervous breakdown. That actually is the cause of many of these mental illnesses. Present-day conditions are quite difficult, and a person tries to subdue his imagination (instead of controlling it) by the exercise of will power. There is an inner conflict, inside the mind, and eventually a nervous breakdown occurs. The person can become neurotic, or even insane. The mental homes are absolutely filled with patients who have willed themselves to do a thing when their imagination thought otherwise. And yet, it is a very simple matter indeed to control the imagination, and to make it work for one. It is imagination—controlled imagination—which enables a man to climb a high mountain, or to fly a very fast plane and break a record, and do any of those feats which we read about. Controlled imagination. The person imagines that he can do this, or can do that, and so he can. He has the imagination telling him that he can, and he has the will “willing” him to do it. That means complete success. So, if you want to make your path an easy one and your life pleasant in the same way as the Easterner does, forget about will power, it is just a snare, and a delusion. Remember only controlled imagination. What you imagine, that you can do. Imagination, faith, are they not one?

 

[1] 1 pound tương đương với 0,37 kg.

[2]1 foot tương đương 0,3 mét.

Dịch và biên tập : VMC