Màn tối bị xé toang; bóng đêm bao quanh Molygruber được vén ra nham nhở ngay trước mắt của lão, mắt lão lòa đi. Lão lấy tay che mắt một cách tuyệt vọng, nhờ “giời” mà bây giờ lão lại có cánh tay. Ánh sáng chói lòa lão chưa từng bao giờ thấy, lão nghĩ vậy, mà thực ra trước kia đã bao giờ lão từng thấy không nhỉ? Phải rồi, lão nhớ lại những ngày còn sống khi còn là một trật tự viên hay là một công nhân quét rác, lão nghĩ đến những tòa nhà bằng thép to lớn mà lão đã thấy chúng được dựng lên, và thiết bị hàn, thứ ánh sáng chói lòa của lửa hàn, chói lóa, chói lóa, thiêu đốt đôi mắt đến nỗi những người thợ hàn lúc nào cũng phải sử dụng kính đen. Molygruber khép chặt mi mắt, bịt tay vào mắt, vậy mà vẫn tưởng như ánh sáng đó có thể xuyên qua. Thế rồi lão phần nào đã làm chủ được bản thân, rồi rất cẩn thận và rất nhẹ nhàng, lão bỏ tay ra. Trời rất sáng, không còn nghi ngờ gì nữa, ánh sáng xuyên qua mi mắt nhắm nghiền của lão. Ồ, đúng vậy, đúng là rất sáng, vậy là lão hé mắt chỉ để một khe hở nhỏ và nhìn ra ngoài.
The veil rent; the black surrounding Molygruber split with a jagged tear right in front of him, then he was blinded. Desperately he pushed his hands over his eyes thanking ‘goodness’ that now once again he had hands. The light was searing, never before had he seen such light, he thought, but then had he? Well, he thought back to his days as a street orderly or garbage collector, he thought of the big steel buildings he had seen erected and the welding equipment, the vivid light which the act of welding produced, vivid, vivid, searing to the eyes so that the operators had to use dark glasses all the time. Molygruber pressed his eyelids shut, pressed his hands over the eyes, and still he imagined he could see that light beating in through. Then he got control of himself somewhat and very carefully and very slightly uncovered his eyes. It was bright, there was no doubt about that, the light beat in through his closed eyelids. Oh yes, it was bright all right, so he half opened his eyes making them mere slits and peered out.
Chao ôi! Lão đã thấy một cảnh tượng thật tuyệt với. Đêm đen đã bị cuốn đi, biến mất, biến đi vĩnh viễn, lão hy vọng thế, và lão đang đứng gần những cái cây. Khi nhìn xuống, lão thấy đám cỏ xanh tươi đầy sức sống, lão chưa từng nhìn thấy cỏ như vậy bao giờ. Thế rồi trên đám cỏ lão nhìn thấy những thứ nhỏ màu trắng với nhụy vàng. Lão cố vắt óc, nó có thể là cái gì nhỉ? Lão nhớ ra rồi, tất nhiên, đó là hoa cúc, những bông hoa cúc nhỏ bé trên cánh đồng. Trước đây lão chưa bao giờ nhìn thấy chúng thật mà chỉ nhìn qua tranh ảnh hoặc vài lần trên chương trình TV mà lão liếc qua ô cửa sổ của cửa hàng. Nhưng có nhiều thứ khác ngoài những bông hoa cúc. Lão ngước mắt nhìn sang bên cạnh, có hai người ở đó, mỗi người một bên, và họ đang cúi xuống mỉm cười với lão, cúi xuống bởi vì Molygruber rất nhỏ bé, như một con chồn tầm thường, quắt lại, teo tóp với bàn tay xương xẩu và thân hình dãi dầu mưa nắng. Vậy là lão nhìn lên hai người này, lão chưa từng gặp họ bao giờ, nhưng họ đang mỉm cười với lão một cách nhân hậu.
My! What a wonderful scene he saw. The black had rolled away, disappeared, vanished forever he hoped, and he was standing near trees. As he looked down he saw vivid lush green grass, he had never seen grass like that before. Then on the grass he saw little white things with yellow centres. He wracked his brain, whatever could it be? It came back to him, of course, daisies, little daisies in the fields. He had never seen them in reality before but only in pictures, and at some time or other on a T.V. program which he had watched through a shop window. But there were more things to see than daisies. He raised his eyes and looked sideways, there were two people there, one each side, and they were smiling down at him smiling down because Molygruber was quite a small man, one of those insignificant little weasel people, shrunken, shrivelled with gnarled hands and weather-beaten features. So he looked up at these two people, he had never seen them before but they were smiling at him in a very kind manner indeed.
“Chà, Molygruber đấy à?” Một người nói, “Ông thấy ở đây thế nào?” Molygruber đứng câm lặng, làm sao lão biết lão đang cảm thấy như thế nào, làm sao lão biết mình đang nghĩ về nơi này như thế nào, lão đã từng nhìn thấy nó đâu. Lão nhìn xuống bàn chân và vui mừng thấy rằng lão đã có chân. Rồi lão để mắt nhìn khắp cơ thể. Ngay lúc đó lão bật nhảy lên không trung và lão ngượng đỏ mặt từ chân tóc đến móng chân. “ Xấu hổ quá!” lão tự nhủ, “mình đứng đây trước mặt những người này mà chẳng có một mảnh vải che cái thân thể trần trụi!” Rất nhanh tay lão quờ xuống làm động tác từ ngàn xưa của con người là túm lấy quần khi bị tụt. Hai người đứng bên cạnh lão cười ồ. Một người nói, “Molygruber, Molygruber, ông bị làm sao với của quý của ông vậy? Chẳng phải ông sinh ra đã không có quần áo trên người sao? Nếu khi sinh ra ông đã mặc quần áo thì ông là người duy nhất đấy. Nếu ông muốn có quần áo, ông hãy nghĩ đến nó!”
‘Well, Molygruber?’ said one, ‘And what do you think of it here?’ Molygruber stood mute, how did he know how he felt, how did he know what he thought of the place, he had hardly seen it yet. He looked at his feet and was happy to see that he had feet. Then he let his eyes travel up his body. On that instant he jumped about a foot in the air and he blushed from the roots of his hair to the nails on his toes. ‘Jumping bejeepers!’ he said to himself, ‘and here’s me standing in front of these people with nary a stitch on me to cover my nakedness!’ Quickly his hands went down to the immemorial gesture of people caught with their pants off. The two men beside him roared with laughter. One said, ‘Molygruber, Molygruber, what is wrong with you lad, you weren’t born with clothes on, were you? If you were then you are about the only person who ever has been. If you want some clothes think them up!’
Molygruber thực sự hoang mang, nhất thời lão không thể nghĩ ra bộ quần áo nào trong tình trạng bối rối như vậy. Sau đó lão nghĩ đến cái gọi là “bộ áo liền quần” hay “bộ đồ nồi hơi”, đó là cái thứ quần áo kết hợp, là bộ đồ kéo dài từ mắt cá chân lên đến cổ, có tay áo và người ta mặc bằng cách chui qua một chỗ mở ở đằng trước. Vừa nghĩ về nó thì lão thấy ngay lập tức đã mặc một bộ đồ áo liền quần tự lúc nào. Lão nhìn xuống và lại rùng mình, đó là một bộ đỏ tươi, một màu đỏ hoàn hảo. Hai người đàn ông lại cười và một người phụ nữ đang đi trên con đường nhỏ gần đó quay đầu về phía họ và mỉm cười. Cô ấy vừa đi về phía họ vừa nói, “Cái gì thế này, Boris, một người mới vẫn còn sợ da thịt của chính mình à?” Người được gọi là Boris cười và trả lời, “Đúng vậy, Maisie, chúng ta vẫn tiếp nhận họ mỗi ngày mà, phải không?”
Molygruber was in quite a panic, for a moment he could not think what clothes were like he was in such a state of confusion. Then he thought of what was called a ‘union suit’ or ‘boiler suit’, a thing which was a combination garment, a suit which went from the ankles up to the neck with sleeves to it, and you put it on through an opening in the front. No sooner had he thought about it than he found he was clad in a union suit. He looked down and shuddered anew, it was a bright red union suit, the colour of a perfect blush. The two men laughed again and a woman walking on a path nearby turned toward them and smiled. As she walked toward them she called out, ‘What is this Boris, a new one still afraid of his own skin?’ The one called Boris laughed and replied, ‘Yes, Maisie, we get them every day, don’t we?’
Molygruber rùng mình khi nhìn người phụ nữ, lão nghĩ, “Chà, chắc chắn cô ấy là người đứng đắn, hy vọng mình sẽ an toàn ở đây, mình chẳng biết gì về phụ nữ cả!” Tất cả họ đều cười ồ. Molygruber tội nghiệp đã không nhận ra rằng trên hành tinh đặc biệt này, mọi người đều có thần giao cách cảm!
“Hãy nhìn xung quanh đi, Molygruber,” người phụ nữ nói, “rồi chúng tôi sẽ đưa ông đi và cho ông biết sơ bộ về nơi ông đang đứng cũng như tất cả những gì về nơi này. Ông là một thử thách khó đối với chúng tôi, ông sẽ chưa thể thoát ra khỏi đám mây u ám của mình đâu cho dù chúng tôi có nói gì với ông.”
Molygruber shuddered as he looked at the woman, he thought, ‘Well, she’s been a right one for sure, hope I’m safe in this, I don’t know anything about women!’ They all laughed uproariously. Poor Molygruber did not realize that on this particular plane of existence everyone was telepathic!
‘Look about you, Molygruber,’ said the woman, ‘then we’ll take you off and give you a briefing on where you are and all the rest of it. You have been a sore trial to us, you wouldn’t come out of your black cloud no matter what we said to you.’
Molygruber lẩm bẩm một mình, và đó là tiếng lẩm bẩm mà qua thần giao cách cảm chỉ nghe được lõm bõm. Lão nhìn quanh mình. Lão đang ở trong một loại công viên mà trong đời lão chưa từng tưởng tượng ra được rằng sẽ có một công viên như vậy; cỏ thì xanh hơn bất kỳ loại cỏ nào mà lão đã từng thấy trước đây, hoa thì vô cùng nhiều với màu sắc rực rỡ hơn bất cứ cái gì mà lão từng thấy. Mặt trời đang chiếu rọi, trời ấm áp dễ chịu, có tiếng côn trùng vo ve và chim hót líu lo. Molygruber nhìn lên, bầu trời trong xanh, một màu xanh thăm thẳm, với những đám mây trắng bồng bềnh. Thế rồi Molygruber gần như ngã xuống vì kinh ngạc, lão cảm thấy chân mình yếu dần: “Ồ!” lão nói, “ Mặt trời quái quỷ đâu rồi?”
Molygruber muttered something to himself, and it was such a mutter that it even came out as a garbled mutter by telepathy. But he looked about him. He was in some sort of park, never in his life had he imagined that there would be such a park as this; the grass was greener than any grass he had ever seen before, the flowers and there were flowers in great profusion were of more vivid hues than anything he had ever seen. The sun was beating down, it was pleasantly warm, and there was the hum of insects and the chirping of birds. Molygruber looked up, the sky was blue, an intense deep blue, with white fleecy clouds. Then Molygruber almost fell with astonishment, he felt his legs grow weak: ‘Cor!’ he said, ‘Where’s the flippin’ sun?’
Một người đàn ông cười và nói, ‘Molygruber, ông biết đấy, ông đang không ở trên Trái đất, cũng không ở đâu gần Trái đất, ông đang ở một nơi xa, rất xa trong một hệ thời gian khác cùng với một hình thái tồn tại khác. Bạn của tôi ơi, ông còn phải học nhiều đấy!’
‘Ô!’ Molygruber nói, ‘ Thế quái nào mà lại có ánh nắng khi không có mặt trời vậy?’
Ba người bạn đồng hành của lão, hai nam và một nữ, chỉ mỉm cười với lão và người phụ nữ nhẹ nhàng nắm lấy cánh tay lão và nói: ‘Nào, chúng tôi sẽ đưa ông vào và sau đó chúng tôi sẽ giải thích rất nhiều điều cho ông.’ Bốn người trong số họ đi bộ băng qua bãi cỏ và đến một con đường lát đá đẹp đẽ. “Này!” Molygruber hét lên, “Con đường này không làm đau chân tôi nữa này, tôi còn chưa mang giày vào!”
Điều đó khiến mọi người vui vẻ bật cười. Boris nói, “Chà, Molygruber, tại sao ông không nghĩ ra một đôi giày hoặc một đôi ủng hoặc bất cứ thứ gì ông muốn? Ông đã làm được với quần áo của ông rồi, mặc dù tôi phải nói rằng tôi không quan tâm nhiều đến màu sắc, nhưng ông nên thay đổi đi”
One of the men smiled and said, ‘You are not on Earth, you know, Molygruber, you are not anywhere near Earth, you are a long, long way away in a different time, in a different plane of existence altogether. You have a lot to learn, my friend!’
‘Cor!’ said Molygruber, ‘How in the name of tarnation can you have sunlight when there ain’t no sun?’
His three companions, two men and a woman, just smiled at him and the woman took him gently by the arm saying, ‘Come on, we’ll take you in and then we will explain a lot of things to you.’ Together the four of them walked across the grass and on to a beautifully paved path. ‘Hey!’ shouted Molygruber, ‘This ‘ere path ain’t half stinging my feet, I haven’t got my shoes on!’
That caused a fresh outburst of merriment. Boris said, ‘Well, Molygruber, why don’t you think up a pair of shoes or a pair of boots or whatever you want? You managed it with your clothing, although I must say I don’t think much of the colour, you ought to change it’
Molygruber băn khoăn suy nghĩ, lão hình dung trông như thế nào trong bộ đồ liền quần màu đỏ và không mang giầy. Lão ước gì được thoát ra khỏi cái bộ đồ thảm hại đó, và ngay lập tức nó xảy ra. “Ối,” lão hét lên, “và bây giờ tôi lại còn trần truồng trước phụ nữ nữa. Ôi đáng buồn cho tôi, trước đây tôi chưa bao giờ trần trụi trước phụ nữ cả. Trời đất ơi, họ sẽ nghĩ thế nào về tôi?”
Người phụ nữ cười và hét toáng lên khiến một vài người đang đi trên đường quay đầu lại thích thú quan sát chuyện gì đang xảy ra. Người phụ nữ nói, “Chà, được rồi, được rồi, Molygruber, rốt cuộc thì ông không có nhiều thứ để thể hiện, phải không nào? Nhưng dù sao chỉ cần nghĩ đến việc mặc bộ lễ phục đẹp nhất của ông với một đôi giầy bóng lộn, và nếu ông nghĩ về những cái đó thì ông sẽ được mặc những đồ đó.” Lão làm theo và đúng như vậy.
Molygruber thought and thought; he thought what a sight he must have looked dressed up in the red union suit and with no shoes. He wished he was free of that wretched suit, and immediately he was! ‘Ow,’ he screamed, ‘and now I’m nekkid in front of a female. Oh sad is me, I’ve never been nekkid in front of a female before. Oh cor, whatever will she think of me?’
The woman absolutely shouted with laughter and several people on the path turned to watch with amusement what was going on. The woman said, ‘Well, well, well, it’s quite all right, Molygruber, you haven’t much to show after all, have you? But anyway just think of yourself dressed up in your Sunday best with a nice pair of shoes beautifully polished, and if you think about it you will be dressed in those things.’ He did, and he was.
Molygruber bước đi rất thận trọng, mỗi lần liếc nhìn người phụ nữ là lão lại đỏ mặt, lão cảm thấy cái nóng khó chịu ở dưới cổ, bởi lão Molygruber rụt rè đáng thương ở dưới trái đất là một trong những người không may mắn, là người chỉ thích ngắm chứ không hành động, và điều đó thậm chí còn tệ hơn khi họ không thể đi bất kỳ đâu để quan sát và không thể có ai để cùng làm điều đó! Hiểu biết của Molygruber về giới kia là khác thường mặc dù ở trong thời hiện đại, nó bị hạn chế bởi những gì mà lão nhìn thấy trong những cuốn tạp chí bày trên kệ sách cửa hàng và những bức tranh gớm ghiếc treo ở trước sảnh của các rạp chiếu phim địa phương để kích thích ham muốn của những khách hàng sắp tới.
Molygruber walked along very gingerly, every time he looked at the woman he blushed anew, he was getting un comfortably hot under the collar because poor gingerly old Moly gruber on Earth had been one of those unfortunate people who liked to watch and not do, and that is even worse when you cannot go anywhere to watch and you cannot have anyone with whom to do it! Molygruber’s knowledge of the opposite sex, incredible though it seems in this modern age, was confined to what he saw in magazines on the magazine racks of stores and the somewhat lurid pictures which were put out at the front of the local cinemas to titillate the appetites of prospective customers.
Lão nghĩ lại về quá khứ của mình, nghĩ lại việc lão biết về phụ nữ ít như thế nào. Lão nhớ lại đã từng cho rằng phụ nữ chỉ là một khối đặc từ cổ đến đầu gối, lão còn chưa bao giờ nghĩ xem họ đi lại như thế nào trong điều kiện như vậy. Nhưng rồi có lần lão đã nhìn thấy một số cô gái đang tắm ở trên sông và thấy rằng họ cũng có chân, tay…như lão. Lão bị đánh thức khỏi những suy nghĩ của lão bởi tiếng cười phá lên và lão thấy quanh lão là cả một đám đông, mọi người đã đọc được suy nghĩ của lão bởi vì ở thế giới này suy nghĩ và lời nói là như nhau. Lão nhìn quanh mình, lại ngượng đỏ mặt, xuống tận gót chân. Hai người đàn ông và người phụ nữ chạy đuổi theo lão, thở hổn hển cố gắng bắt kịp lão, và thường xuyên ngã ngửa ra vì họ cười quá nhiều. Molygruber cứ tiếp tục chạy cho đến khi cuối cùng kiệt sức lão ngã thụp xuống một chiếc ghế băng ở công viên. Những người chạy theo đã đuổi kịp lão và họ thực sự chảy nước mắt vì vui mừng.
He thought again about his past, thought again how little he knew of women. He called to mind how he had thought that women were just about solid from the neck down, all the way to their knees, he had never considered how they walked under such conditions. But then he had seen some girls bathing in the river and he saw that they had legs, arms, etc., just as he had. He was roused from his thoughts by screams of laughter and he found he had collected quite a crowd, people had got his thoughts because thought and speech were much the same on this world. He looked about him, blushed anew, and really took to his heels. The two men and the woman ran after him, absolutely gasping trying to keep up with him, and falling back every so often because they laughed so much. Molygruber ran on and on, until at last his energy was spent and he sank down with a thud on a park bench. His pursuers caught up with him and they were absolutely weeping with merriment.
“Molygruber, Molygruber, tốt hơn hết là ông đừng suy nghĩ gì cho đến khi chúng tôi đưa ông vào bên trong.” Họ chỉ ra một tòa nhà tuyệt đẹp ở ngay bên phải. ‘ Ông chỉ cần nghĩ về quần áo của mình cho đến khi chúng ta vào bên trong tòa nhà kia. Chúng tôi sẽ giải thích mọi thứ cho ông.’
Họ đứng dậy và hai người đàn ông đi bên cạnh Molygruber mỗi người một bên và nắm lấy tay lão. Họ cùng nhau đi và rẽ phải rồi bước vào một sảnh ốp bằng đá rất trang nhã. Bên trong mát mẻ và có một thứ ánh sáng dịu nhẹ dễ chịu dường như phát ra từ các bức tường. Có một quầy lễ tân giống hệt như Molygruber đã thấy khi nhìn qua cửa khách sạn. Một người đàn ông ở đó mỉm cười thân mật và nói, “Người mới à?” Maisie gật đầu và nói: “Đúng vậy, một người vẫn còn rất xanh non.” Molygruber kinh hãi nhìn lại mình trong giây lát với ý nghĩ khủng khiếp rằng mình đã chuyển từ đỏ sang xanh, rồi tiếng cười đã đưa lão trở lại thực tế.
‘Molygruber, Molygruber, you’d better keep from thinking until we get you inside.’ They indicated a beautiful building just off to the right. ‘Just keep your mind on keeping your clothes on until we get in that building. We will explain everything to you.’
They rose to their feet and the two men moved one each side of Molygruber and each grasped him by an arm. Together they marched on and turned off the path to the right and entered a very elegant marble entranceway. Inside it was cool and there was a pleasantly subdued light which seemed to be radiating from the walls. There was a reception desk much the same as Molygruber had seen when peering through hotel doors. A man there smiled pleasantly and said, ‘New one?’ Maisie nodded her head and said, ‘Yes, a very green one too.’ Molygruber looked down at himself in horror thinking for a moment that he had gone from red to green, and he was brought back to his senses by renewed laughter.
Họ đi qua căn phòng lớn và xuống một hành lang. Có một số người đang ở đó. Molygruber vẫn xấu hổ, một số nam nữ mặc quần áo đủ loại, một số mặc đồ khá kỳ dị, một số khác không mặc gì cả và dường như không một chút lo lắng nào cả.
Lúc họ đưa Molygruber vào một căn phòng được trang bị rất tiện nghi, người lão ướt đẫm mồ hôi, lão đổ mồ hôi nhiều như thể vừa bước ra từ một cái bể bơi mà lão chưa từng ở trong đó. Lão ngồi lọt thỏm vào chiếc ghế, thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu lau mặt bằng chiếc khăn tay mà lão tìm thấy trong túi. “Phù, phù!”lão nói. “Hãy cho tôi ra khỏi đây, để tôi trở về Trái đất, tôi không thể bám trụ ở một nơi như thế này!” Maisie cười với lão và nói, “Nhưng ông phải ở lại đây, Molygruber. Ông nhớ lại chưa? Ông là một người vô thần, ông không tin vào Chúa trời, ông không tin vào một tôn giáo nào, ông không tin vào cuộc sống sau khi chết. Chà, ông vẫn đang ở đây, vậy nên chắc chắn phải có một cuộc sống nào đó sau khi chết, phải không? ‘
They moved on across the hall and down a corridor. There were a number of people about there. Molygruber kept on blushing, some of the men and women were clad in clothes of various types, some wore quite outlandish clothes, others wore nothing at all and did not seem to be perturbed in the slightest.
By the time they got Molygruber into a very comfortably furnished room he was sweating profusely, he was sweating as much as if he had just come out of a swimming pool, not that he had ever been in one. He sank into a chair with a sigh of relief and started dabbing at his face with the handkerchief which he had found in his pocket. ‘Phew, phew!’ quoth he. ‘Let me get out of this, let me get back to Earth, I can’t stick a place like this!’ Maisie laughed down at him and said, ‘But you have to stay here, Molygruber. Remember? You are an atheist, you do not believe in a God, you do not believe in a religion, you do not believe in life after death. Well, you are still here so there must be some life after death, mustn’t there?’
Có những ô cửa sổ rất lớn trong căn phòng mà họ đã đưa Molygruber đến. Đôi mắt lão cứ vẩn vơ bên các ô cửa sổ, mê mẩn nhìn cảnh vật bên ngoài, khu vườn tuyệt đẹp và một hồ nước ở trung tâm với một dòng sông thơ mộng chảy vào hồ. Lão nhìn thấy những người đàn ông, phụ nữ và một vài đứa trẻ. Mọi người dường như đang đi bộ có chủ đích như thể họ biết mình sẽ đi đâu, như thể họ biết họ sắp làm gì. Lão nhìn tập trung cao độ khi một người đàn ông đột nhiên bước ra ngoài lối đi và ngồi xuống ghế đá công viên rồi lấy một gói bánh kẹp ra khỏi túi của mình! Anh ta nhanh chóng xé cái vỏ bọc và cẩn thận cho giấy vụn vào cái thùng đặt gần băng ghế công viên. Sau đó, anh ta bắt đầu ăn ngấu nghiến cái bánh kẹp. Khi quan sát Molygruber cảm thấy đói lả, lão nghe thấy những tiếng động kinh khủng phát ra từ trong bụng mình. Lão nhìn lên Maisie và nói, “Chao ôi, tôi cảm thấy đói, khi nào thì chúng ta sẽ đi ăn ở quanh đây?” Lão sờ tay vào trong túi xem liệu lão có tiền không, lão có thể mua được một cái hamburger hoặc một thứ nào đó tương tự hay không. Người phụ nữ nhìn xuống lão với vẻ thông cảm và nói: “Molygruber, ông có thể ăn bất cứ cái gì ông thích, đồ uống cũng vậy. Chỉ cần nghĩ những gì ông muốn là ông có thể có nó, nhưng hãy nhớ rằng ông phải nghĩ đến cái bàn trước, nếu không ông sẽ phải ăn dưới sàn đấy. ‘
There were very large windows in the room to which they had taken Molygruber. His eyes kept straying to the windows, looking in fascination to the scene outside, the beautiful, beautiful parkland and a lake in the centre with a pleasant river flowing into the lake. He saw men and women and a few children. Everyone seemed to be walking about purposefully as if they knew where they were going, as if they knew what they were going to do. He looked in utter fascination as a man suddenly swerved off a path and sat down on a park bench and took a packet of sandwiches out of his pocket! Quickly he tore off the wrappings and carefully deposited the wastepaper in a bin placed near the park bench. Then he set to demolish the sandwiches. As he watched Molygruber felt faint, he heard horrid rumblings coming from his abdomen. He looked up at Maisie and said, ‘By golly, I feel hungry, when do we eat round here?’ He felt about in his pocket wondering if he had any money on him, he could have done with a hamburger or something like that. The woman looked down at him with sympathetic understanding and said, ‘You can have whatever food you like, Molygruber, whatever you desire to drink also. Just think what you want and you can have it, but remember that you think up a table first or else you have to eat off the floor.’
Một trong những người đàn ông quay về phía lão và nói, ” Molygruber, chúng tôi sẽ để ông ở lại đây một lát. Ông cảm thấy muốn ăn à, được thôi, hãy nghĩ ra những gì ông muốn, nhưng như Maisie đã nói, ông hãy nghĩ đến cái bàn trước đã. Khi nào ông có đồ ăn rồi, mà thực sự ông không cần đến đâu, chúng tôi sẽ quay trở lại với ông.’ Nói xong họ đi đến bức tường ngăn; họ bước xuyên qua nó, và bức tường lại khép kín lại sau lưng họ.
Có vẻ như tất cả đều rất kỳ lạ với Molygruber, nghĩ về đồ ăn của bạn nghĩa là thế nào? Rồi không cần ăn là sao? Người đàn ông vừa rồi nói anh ta thực sự không cần ăn, nói vậy là có ý gì? Tuy nhiên cơn đói vẫn đang cồn cào, bức bách khủng khiếp. Molygruber đang đói đến nỗi tưởng rằng lão sắp lả đi: đó là cảm giác quen thuộc, trong những năm đầu đời, lão thường ngất xỉu vì quá đói và điều đó thực sự là khó chịu.
One of the men turned toward him and said, ‘We will leave you for a little time, Molygruber. You feel that you want food, well, think what you want but, as Maisie said, think of a table first. When you have had this food, which truly you don’t need, we will come back to you.’ With that they went to the wall, which parted; they stepped through, and the wall closed behind them.
It seemed all very peculiar to Molygruber, what was all this about thinking up your food? What was all this about not wanting food? The fellow had said he truly did not need it, what did he mean by that? However, the pangs of hunger were pressing, terribly pressing. Molygruber was so hungry that he thought he was going to faint: it was a familiar sensation, often in early years he had fainted through sheer hunger and such a thing is thoroughly unpleasant.
Lão tự hỏi mình phải nghĩ như thế nào. Thế nhưng trước hết, cái bàn này như thế nào? Được, lão biết cái bàn là như thế nào, kẻ ngốc nào chả biết điều đó, nhưng khi lão phải NGHĨ về nó, điều đó thật không dễ dàng. Lúc đầu lão định nghĩ đến một cái bàn thật là kỳ cục. Lão nghĩ đã thấy nó như thế nào trong cửa hàng nội thất khi đang quét vỉa hè, lão nghĩ đến một cái bàn xinh xinh hình tròn bằng kim loại có ô che nắng ở phía trên, và rồi lão lại chú ý đến một cái bàn khác được trang trí như bàn trang điểm của phụ nữ. Bây giờ, trước sự ngạc nhiên của lão, lão phát hiện ra rằng tác phẩm trước mặt lão là một cái bàn bằng kim loại màu trắng, hoặc một nửa là như thế, còn nửa kia là bàn trang điểm của phụ nữ, một thứ đồ tạm thời hoàn toàn không chắc chắn. Lão lấy tay đẩy vào nó và nói, ‘Phù! Biến đi, biến nhanh,’ giống như lão đã thấy trong một bộ phim nào đó những năm trước đây. Rồi lão nghĩ lại, lão nghĩ đến một cái bàn ở công viên mà lão đã từng đến đó, một cái bàn làm bằng những khúc gỗ và ván gỗ. Lão hình dung nó một cách rõ ràng nhất có thể và lệnh cho nó xuất hiện ở trước mặt lão. Chà, nó đây! Nó thực sự là một sản phẩm thô ráp. Những tấm ván hầu như vẫn còn thô như những khúc gỗ, và lão thấy rằng đã quên không nghĩ đến chiếc ghế, nhưng thế là được rồi, lão có thể dùng chiếc ghế dựa ở trong phòng. Lão kéo một cái ghế ra chỗ cái bàn và khi đó phát hiện ra rằng cái bàn mà lão vừa nghĩ ra không có gì liên quan đến kích thước thực tế, lão có thể ngồi trên ghế mà vẫn hoàn toàn ở bên dưới cái bàn.
He wondered how he had to think. First of all, though, what about this table? Well, he knew what a table was like, any fool would know that, but when he came to THINK about it, it was not so easy. His first attempt at thinking up a table was ridiculous in the extreme. He thought of how he had looked in furniture shops while he was sweeping the sidewalks, he thought of a nice round metal table with a sunshade over it, and then his attention had been drawn to another decorated table like a work table for women. Now, to his astonishment, he found that the creation in front of him was a white metal table, or half of it, and half of a ladies’ work table which was quite an unstable contraption. He pushed his hands at it and said, ‘Phew! Go away, go away fast,’ just as he had seen in some film years before. Then he thought again, and he thought of a table in the park that he used to visit, a thing made of planks and logs. He pictured it as clearly as he could and commanded it to be in front of him. Well, it was! It was a rough piece of work indeed, the planks were almost as crude as the logs themselves and he saw that he had forgotten to think up a seat, but that was all right, he could use the chair in the room. He pulled one up to the table and then found that the table he had thought into being had no relation to actual size, he could sit under it complete with the chair.
Cuối cùng thì lão đã làm đúng mọi thứ, và rồi lão nghĩ đến thức ăn. Molygruber tội nghiệp là một trong những người kém may mắn nhất trên thế giới, lão đã sống nghèo đói theo kiểu «vắt mũi bỏ miệng» suốt cả cuộc đời, sống bằng cà phê, nước ngọt và những thứ như hamburger, vì vậy lão nghĩ đến một đĩa hamburger và khi chúng hiện ra trước mặt, lão vội chụp lấy một cái và cắn một miếng rõ to. Tất cả vỡ vụn vì không có gì bên trong cả ! Sau nhiều lần thử lại và nhiều lần sai sót lão quyết định rằng lão phải suy nghĩ rõ ràng, thật rõ ràng từ đầu đến cuối, và nếu lão muốn một cái bánh hamburger thì lão phải nghĩ đến nhân bên trong và rồi đặt các miếng khác ra bên ngoài. Cuối cùng thì lão đã làm đúng như vậy, nhưng khi lão cắn vào cái thành phẩm này lão thấy rằng nó chẳng có mấy mùi vị gì. Tình hình thậm chí còn tệ hơn khi lão thử uống cà phê mà lão nghĩ ra, trông nó thì ổn nhưng hương vị thì chẳng có gì giống với hương vị mà lão đã thưởng thức trước đây và chẳng có gì để lão muốn uống lại. Lão đi đến kết luận rằng trí tưởng tượng của lão đã sai, nhưng lão vẫn tiếp tục thử, lão nghĩ ra hết cái này rồi đến cái khác nhưng không bao giờ đi đi quá xa với cà phê và hamburger và có lẽ là một mẩu bánh mì, nhưng bởi vì trong đời lão chưa bao giờ ăn bánh mì tươi, nó là thứ luôn ôi thiu và mốc meo.
At last, he got everything right, and then he thought of food. Poor Molygruber was one of the world’s unfortunates, he had lived ‘hand to mouth’ all his life, lived on coffee, soft drinks, and things like hamburgers, so he thought of a plate of hamburgers and when they materialized in front of him he grabbed one in a hurry and gave a hearty bite. The whole thing collapsed because there was nothing inside! After many trials and many errors he decided that he had to think clearly, clearly, clearly from the ground up, so to speak, and if he wanted a hamburger he had to think of the filling and then put the other pieces outside. At last he got it just right, but as he bit into the finished product he decided that there was not much taste to it. It was even worse when he tried the coffee he had thought up it looked all right but the taste was nothing that he had ever tasted before and nothing that he ever wanted to taste again. He came to the conclusion that his imagination was wrong, but he kept on trying, producing this and then that but never going far from coffee and hamburgers and perhaps a piece of bread, but because he had never in his life eaten fresh bread it was always stale mouldy stuff.
Trong một lúc có tiếng bộ hàm của Molygruber đang nhai ngấu nghiến chiếc Hamburger và sau đó là tiếng xì xụp khi lão uống cà phê. Rồi lão ra khỏi chiếc bàn và ngồi suy nghĩ về những điều kỳ lạ đang xảy ra với mình. Trước tiên lão nhớ là đã không tin vào cuộc sống sau khi chết, vậy bây giờ lão đang ở đâu vậy? Lão nghĩ đến thân xác đang phân hủy của mình và lão đã vô tình nhìn vào đó, rồi lão gần như nôn ọe ra khắp sàn. Sau đó lão nghĩ đến những trải nghiệm lạ lùng, trước tiên là lão có vẻ như bị mắc kẹt trong thùng hắc ín, hắc ín biến mất và thay vào đó là màn khói đen giống như lần lão cầm cây đèn dầu và vặn bấc nó quá cao trước khi rời khỏi phòng và khi quay lại lúc đầu lão tưởng mình bị mù, lão đã không thể nhìn thấy gì vì có những đám muội đen bay khắp nơi. Lão còn nhớ bà chủ nhà đã nói gì với lão!
For some time there was the sound of Molygruber’s champing jaws as he devoured hamburgers, and then there was the slurping as he drank his coffee. Then he just pushed away from the table and sat back to think of all the peculiar things that had happened to him. First of all he remembered that he did not believe in life after death, where was he now then? He thought of his decaying body and the involuntary look at it, and he was almost sick all over the floor. Then he thought of the strange experiences, first he appeared to be stuck in a barrel of tar, the tar had vanished and been replaced by black smoke like the time he had had a kerosene lamp and turned it too high before leaving his room and when he got back he thought at first he had gone blind, he could not see anything at all because there were black smuts flying all over the place. He remembered what his landlady had said to him!
Nhưng lão đột nhiên quay lại. Boris đang đứng bên cạnh lão và nói, “Chà, tôi thấy ông đã có một bữa ăn ngon đấy chứ, nhưng tại sao ông vẫn kiên trì với những chiếc bánh hamburger khủng khiếp này thế? Tôi nghĩ chúng là những thứ rẻ tiền. Ông biết đấy, ông có thể có bất cứ thứ gì ông muốn, miễn là ông nghĩ đến nó một cách cẩn thận, miễn là ông làm ra nó theo từng bước một, từ nguyên liệu cho đến khi miếng cuối cùng được nấu chín.” Molygruber nhìn anh ta và nói,“ Tôi sẽ rửa bát ở đâu? ”
Boris cười vui vẻ một cách chân thật và nói, “Bạn thân mến của tôi ơi, ở đây ông không phải rửa bát, ông nghĩ ra bát đĩa và ông nghĩ bỏ bát đĩa đi. Tất cả những gì ông phải làm khi ông ăn xong là nghĩ đến việc bát đĩa biến mất và các bộ phận cấu thành của chúng sẽ trở lại kho chứa của Thiên nhiên. Thật đơn giản, rồi ông sẽ quen thôi. Nhưng ông không cần phải ăn, ông biết đấy, ông nhận được tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết từ bầu không khí.”
But suddenly he turned around. There was Boris standing beside him saying, ‘Well, you’ve had a good meal I see, but why do you stick to these awful hamburgers? I think they are vile things. You can have whatever you want, you know, provided you think of it carefully, provided you build it up stage by stage from the ingredients up to tile fina1 cooked thing.’ Molygruber looked up at him and said, ‘Where do I wash up the dishes?’
Boris laughed at him in honest amusement and said, ‘My dear man, you don’t wash dishes here, you think up dishes and you think away dishes. All you have to do when you finish is to think of the dishes disappearing and their component parts going back into Nature’s reservoir. It’s simple, you’ll get used to it. But you don’t need to eat, you know, you get all the nourishment you need from the atmosphere.’
Molygruber cảm thấy thực sự chua chát về toàn bộ sự việc, thật nực cười làm sao khi nói rằng bạn được nuôi dưỡng từ bầu không khí xung quanh mình, thật quá vô lý để tin vào điều đó, gã Boris này đã nghĩ lão là loại người nào vậy? Lão, Molygruber, đã biết thế nào là chết đói, lão đã biết thế nào là ngã xuống vỉa hè ngất xỉu vì đói ăn, lão cũng biết nó giống như bị một viên cảnh sát đến đá vào mạng sườn và bắt lão đứng dậy, biến đi hoặc sẽ bị đánh nữa!
Người đàn ông nói: ‘Nào, chúng ta phải đi thôi, cứ ở đây mãi cũng không tốt đâu, tôi phải đưa ông đến gặp bác sĩ, ông ấy sẽ nói vớí ông vài điều và cố gắng giúp ông loại bỏ hết hoài nghi. Đi nào.” Nói xong anh ta nghĩ đến cái bàn với những tàn dư của bữa ăn và tất cả đã biến mất trong làn khí mong manh. Sau đó, anh ta dẫn Molygruber đi đến bức tường ngăn ở trước mặt và mở ra để đi vào một hành lang dài sáng chói. Mọi người đang đi lại khắp nơi nhưng dường như họ đều có mục đích, tất cả họ dường như đang đi đâu đó, tất cả dường như đang làm gì đó, vậy mà lão, Molygruber, lại hoàn toàn bối rối về mọi thứ.
Molygruber felt really sour about the whole affair, how ridiculous it was to say that you got nourishment from the atmosphere around one, it was too absurd to be believed, what sort of a man did this Boris think he was? He, Molygruber, knew what it was to starve, he knew what it was to fall on to the sidewalk in a faint from lack of food, he knew what it was like to have a policeman come and kick him in the ribs and tell him to get to his feet, get gone or else!
The man said, ‘Well, we’ve got to go, it’s no good sticking here all the time, I’ve got to take you down to see the doctor, he’s going to tell you a few things and try to help you straighten out. Come along.’ With that he thought at the table and the remnants of the meal and the whole lot disappeared into thin air. Then he led Molygruber up to the wall which parted before them and opened out into a long shining corridor. People were wandering about but they all seemed to have a purpose, they all seemed to be going somewhere, all seemed to be doing something, and yet he, Molygruber, was completely befuzzled about everything.
Lão và người đàn ông đi dọc hành lang, sau đó họ rẽ vào một góc và người đàn ông gõ vào một cánh cửa màu xanh lá cây: “Mời vào”, một giọng nói vang lên và người đàn ông đẩy Molygruber vào rồi quay gót rời đi.
Molygruber sợ hãi nhìn xung quanh. Một lần nữa đó lại là một căn phòng tiện nghi nhưng người đàn ông to lớn đang ngồi ở bàn làm việc thực sự làm lão sợ hãi, nó khiến lão liên tưởng đến một Nhân viên Y tế mà lão đã gặp trước đây, đúng vậy, đó chính là Nhân viên Y tế đã khám cho lão khi lão muốn xin việc quét dọn đường phố. Người đàn ông này đã rất thô lỗ đã chế nhạo vóc dáng tội nghiệp của Molygruber và nói rằng ông ta không nghĩ lão đủ sức để đẩy cây chổi. Nhưng, dù sao đi nữa, ông ta cũng đã đủ mủi lòng để nói, đúng thế, rằng Molygruber đủ sức khỏe để làm công việc quét dọn vỉa hè.
He and the man walked down the corridor, then they turned a corner and the man knocked at a green door: ‘Come in,’ said a voice and the man pushed Molygruber in and turned on his tracks leaving them.
Molygruber looked about him in fright. Again it was a comfortable room but the big man sitting at a desk really frightened him, it made him think of a Medical Officer of Health he had seen before yes, that was it, the Medical Officer of Health who had examined him when he wanted to get the job as street cleaner. The man had been very brusque and had sneered at Molygruber’s poor physique and said he didn’t think him strong enough to push a broom. But, anyway, he had relented enough to say that, yes, Molygruber was fit enough to do a job of cleaning the sidewalks.
Nhưng bây giờ người đàn ông đang ngồi ở bàn làm việc của ông ta, nhìn lên và cười vui vẻ nói, “Lại đây và ngồi xuống đây, Moly, tôi cần phải nói chuyện với ông.” Do dự, gần như sợ hãi khi bước lên, Molygruber tiến về phía trước và thực sự run rẩy khi ngồi xuống ghế. Người đàn ông to lớn nhìn lão từ trên xuống dưới và nói, “Lo lắng quá phải không? Ông bị sao vậy, ông bạn? ” Molygruber tội nghiệp không biết phải nói gì; cuộc sống đã từng là điều khủng khiếp đối với lão và giờ đây dường như với lão cái chết còn tồi tệ hơn nên câu chuyện của lão cứ thế tuôn ra.
Người đàn ông to lớn ngồi và lắng nghe. Sau đó ông ta nói, “Bây giờ ông nghe tôi nói một chút. Tôi biết ông đã có một quãng đời khó khăn nhưng ông đã tự làm cho nó trở nên khó khăn hơn, ông không chỉ có một mẩu gỗ nhỏ trên vai, mà ông mang cả một khúc gỗ hoặc có lẽ là cả khu rừng. Ông phải thay đổi quan niệm của mình về rất nhiều thứ.” Molygruber nhìn chằm chằm vào ông ta, một số từ chẳng có nghĩa gì đối với lão và cuối cùng người đàn ông to lớn hỏi, “Vậy, cái đó là gì? Cái gì sai ở đây? ” Molygruber trả lời, “Tôi chỉ không hiểu một số từ, tôi không được học hành gì cả, ông biết đấy, chỉ học được những gì mà tôi tự thu lượm được.”
But now this man sitting at his desk looked up and smiled cheerfully saying, ‘Come and sit here, Moly, I’ve got to talk to you.’ Hesitating, almost afraid to take a step, Molygruber moved forward and quite shakily sat on a chair. The big man looked him up and down and said, ‘More nervous than most, aren’t you? What’s wrong with you, lad?’ Poor Molygruber did not know what to say; life had been such a terrible thing to him and now it seemed to him that death was even worse, so his story poured out.
The big man sat back and listened. Then he said, ‘Now you listen to me for a bit. I know you have had a rough time but you have made it rougher for yourself, you haven’t got a mere chip on your shoulder, you’ve got a log or perhaps the whole forest. You’ve got to change your conceptions about a lot of things.’ Molygruber stared at him, some of the words meant nothing to him and the big man at last asked, ‘Well, what is it? What’s wrong now?’ Molygruber replied, ‘Some of the words, I just don’t understand them, I didn’t get any education, you know, only learned what I picked up by myself.’
Người đàn ông suy nghĩ một lúc, hình như xem xét lại trong đầu những gì mình vừa nói. Sau đó ông ta nói, “Ồ, tôi không nghĩ rằng tôi có nói từ nào bất thường, ông không hiểu điều gì?”
Molygruber nhìn xuống và nói một cách khiêm nhường, “Thụ thai, tôi luôn nghĩ thụ thai là những gì mọi người đã làm khi họ muốn có em bé, đó là nghĩa duy nhất mà tôi biết.”
Người đàn ông to lớn, vị bác sĩ, há hốc mồm kinh ngạc nhìn Molygruber, rồi ông ta cười ngất và nói: “Conception? Conception không phải chỉ có nghĩa như vậy, nó cũng còn có nghĩa là sự hiểu biết. Nếu ông không có ý niệm về một thứ thì ông không hiểu được nó, và tất cả điều đó có nghĩa là ông không có ý niệm về điều này, điều kia, hoặc điều gì khác. Vậy chúng ta hãy làm cho nó đơn giản hơn nhé, giả định rằng ông không biết tí gì về nó, nhưng ông cần phải hiểu.”
The man thought for a moment, apparently reviewing in his mind just what he had said. Then he said, ‘Oh, I don’t think I said any unusual words, what don’t you under stand?’
Molygruber looked down and said humbly, ‘Conception, I always thought conception was what people did when they were having babies starting up, that’s the only meaning I know.’
The big man, the doctor, gazed at Molygruber with open mouthed amazement, then he laughed and laughed and laughed and said, ‘Conception? Well, conception doesn’t mean just that, it also means understanding. If you have no conception of a thing you have no understanding of it, and that’s all it means you have no conception of this, that, or something else. Let’s make it simpler then, let’s say you don’t know a darn thing about it, but you’ve got to.’
Tất cả những điều này là một câu đố khó đối với Molygruber, tâm trí của lão vẫn còn đang suy nghĩ về từ conception và nếu người đàn ông kia có nói nó có nghĩa là hiểu biết hay hiểu nhầm hay không hiểu thì, thề với những cây chổi cũ, tại sao lão lại không thể nói như vậy? Nhưng rồi lão nhận thấy người đàn ông đang nói nên lão lại ngồi xuống và lắng nghe.
“Ông không tin vào cái chết, hay nói đúng hơn là không tin vào cuộc sống sau khi chết. Ông rời bỏ thể xác của mình và trôi nổi đâu đó, ông dường như không nhồi nhét được vào cái đầu ngu ngốc của mình rằng ông đã rời bỏ cái thể xác đang thối rữa của mình và vẫn đang sống, ông đang lúc nào cũng ở trong hư vô. Vì vậy, nếu ông không thể tưởng tượng được bất cứ nơi nào thì ông không thể đến được nơi đó, phải không? Nếu ông tự khẳng định rằng chẳng có cái gì thì đối với ông sẽ chẳng có gì cả, ông chỉ có được thứ mong đợi, chỉ có được thứ mà ông tin tưởng, thứ mà ông có thể nhận thức được, cái mà ông có thể hiểu được, vì vậy chúng tôi cố gắng gây sốc cho ông và đó là lý do vì sao chúng tôi đã đẩy ông quay trở lại nhà tang lễ để cho ông thấy một vài xác chết đang để ở đó và đang được chải chuốt, làm đẹp để trưng bày. Chúng tôi cố gắng để cho ông thấy rằng ông chỉ là một cái xác tội nghiệp không một ai thèm quan tâm đến, đó là lý do vì sao ông được vùi trong đống mùn cưa, nhưng ngay cả điều đó vẫn chưa đủ, chúng tôi phải cho ông thấy ngôi mộ của ông, phải cho ông thấy quan tài của ông và tiếp theo là cơ thể đang thối rữa của ông. Chúng tôi không thích điều đó nhưng còn cần thậm chí nhiều hơn thế để làm ông thức tỉnh một điều rằng ông không hề chết.”
All this was a great puzzle to Molygruber, his mind was still on conception and if the man had meant understanding or misunderstanding or not understanding then why in the name of old scrubbing brushes couldn’t he say so? But then he realized the man was talking so he sat back and listened.
‘You did not believe in death, or rather, you did not believe in life after death. You left your body and you floated around, you didn’t seem to get it into your thick head that you had left a decaying body and you were still alive, you were concentrating on nothingness all the time. So if you can’t imagine anywhere you can’t go there, can you? If you make yourself so darn sure that there is nothing then for you, there is nothing, you only get what you expect, you only get what you believe, what you can realize, what you can understand, so we tried to shock you and that is why we pushed you back to the Funeral Home to let you see a few stiffs being parked and polished and done up for show. We tried to let you see that you were just a poor stiff with nobody to care a donkey’s hoot about you, that’s why you got buried in a coat of sawdust, but even that wasn’t enough, we had to show you your grave, we had to show you your coffin, and then we showed you your rotting body. We didn’t like it but it took even more than that to wake you up to the fact that you weren’t dead.’
Molygruber ngồi đó như một kẻ mê sảng. Lão đang lờ mờ hiểu ra và cố gắng hết sức để hiểu thêm. Nhưng vị bác sĩ vẫn tiếp tục, “Vật chất không thể bị phá hủy, nó chỉ có thể thay đổi hình thái và bên trong cơ thể con người có một linh hồn sống bất tử, một linh hồn trường tồn mãi mãi và mãi mãi. Nó cần nhiều hơn một cơ thể bởi vì nó phải nhận được tất cả các cách thức trải nghiệm. Nếu đó phải là trải nghiệm về chiến đấu, thì nó cần có cơ thể của một chiến binh, v.v. Nhưng khi cơ thể bị giết, nó không khác gì một bộ quần áo sờn rách bị vứt vào thùng rác. Linh hồn, thể vía, gọi thế nào cũng được, vẫn đi tiếp, thoát ra và rời khỏi đống đổ nát bây giờ đã thành thứ bỏ đi và nó sẵn sàng bắt đầu lại. Nhưng nếu cái linh hồn đó đã mất đi rất nhiều sự hiểu biết hoặc thậm chí chẳng có hiểu biết gì thì khi đó chúng tôi phải làm công việc là dạy nó.’
Molygruber gật đầu và lão lờ mờ nghĩ đến vị tác giả già người đã viết một số thứ hoàn toàn nằm ngoài tầm hiểu biết của Molygruber vào thời điểm đó, nhưng giờ đây, những mảnh ghép nhỏ đã được lắp vào và ăn khớp với nhau giống như một trò chơi ghép hình sắp hoàn thành.
Molygruber sat there like a man in a trance. He was dimly understanding and trying hard to understand more. But the doctor went on, ‘Matter cannot be destroyed, it can only change its form and inside a human body there is a living immortal soul, a soul that lasts forever and ever and ever. It takes more than one body because it’s got to get all manner of experiences. If it has to be fighting experience it takes the body of a warrior, and so on. But when the body is killed it is no more than having a worn out suit of clothes tossed in the garbage bin. The soul, the astral body, call it whatever you like, moves on, moves out of the wreckage, moves away from the garbage and is ready to start again. But if that soul has lost a lot of comprehension or even did not have any comprehension then we’ve got quite a job teaching it.’
Molygruber nodded and he was dimly thinking of that old author who had written some things which were quite beyond Molygruber’s comprehension at the time, but now little bits were fitting in and fitting in and fitting in like a jigsaw puzzle nearing its completion.
Vị bác sĩ nói, “Nếu một người không tin vào thiên đường hoặc cuộc sống ở đây sau này, thì khi đến bên kia cửa tử, anh ta sẽ lang thang; không có nơi nào để đi, không có ai để chào đón anh ta bởi vì lúc nào anh ta cũng tin chắc rằng không có gì cả, anh ta như một người mù tự nhủ rằng mình không thể nhìn thấy thì mọi thứ không thể tồn tại.” Ông ta nhìn thẳng vào Molygruber để xem lão có đang theo dõi không, và khi ông ta thấy rằng lão vẫn đang lắng nghe ông ta lại tiếp tục, “Ông có thể tự hỏi mình đang ở đâu. Chà, ông không ở dưới địa ngục, ông chỉ vừa từ đó đến. Địa ngục duy nhất chính là nơi ông gọi là Trái đất, không có địa ngục nào khác, không có hỏa ngục và sự trừng phạt, không có sự tra tấn vĩnh viễn, không có những con quỷ với những thanh sắt nung đỏ lao đến và đốt cháy các bộ phận trên cơ thể ông. Ông đến Trái đất để học hỏi, trải nghiệm mọi thứ, để mở rộng những trải nghiệm thô thiển của mình, và khi đã học xong những điều mà ông cần phải học ở dưới Trái đất thì khi đó cơ thể của ông sẽ tan rã và ông sẽ đi lên cõi thiên giới. Có nhiều cõi giới tồn tại khác nhau; đây là cõi thấp nhất, gần nhất với cõi giới của Trái đất, và ông đang ở đây, ở cõi giới thấp nhất này bởi vì ông chưa đủ sự hiểu biết để đi lên cõi cao hơn, bởi vì ông không có khả năng để tin tưởng. Nếu bây giờ ông đến một cảnh giới cao hơn, ông sẽ bị mù ngay tại chỗ bởi bức xạ cường độ cao do rung động cao hơn nhiều.” Ông ta trông có vẻ hơi buồn bã khi nhìn thấy Molygruber đang bối rối một cách tuyệt vọng. Ông ta cân nhắc kỹ rồi nói: « Thôi được, tốt hơn hết là ông nên nghỉ ngơi một chút, tôi không muốn bắt não ông phải căng thẳng như vậy, nên tốt nhất là ông nên nghỉ ngơi rồi sau đó tôi sẽ nói thêm với ông.»
The doctor said, ‘If a person doesn’t believe in heaven or a life hereafter, then when that person gets to the other side of death he wanders about; there is nowhere for him to go, there is no one to greet him because all the time he is thoroughly convinced that there is nothing, he is in the position of a blind man who says to himself that as he cannot see then things cannot be.’ He looked shrewdly at Moly gruber to see if he was following, and when he saw that he was he went on, ‘You probably wonder where you are. Well, you are not in hell, you’ve just come from it. The only hell is that place you call Earth, there is no other hell, there is no hellfire and damnation, there is no everlasting torture, there are no devils with burning brands to come and singe you in various indelicate places. You go to Earth to learn, to experience things, to broaden your coarser experiences, and when you have learned that which you went down to Earth to learn then your body falls apart and you come up to astral realms. There are many different planes of existence; this is the lowest, the one nearest the Earth plane, and you are here on this lowest one because you haven’t the understanding to go higher, because you haven’t the capacity to believe. If you went to a higher realm now you would be blinded on the spot by the intense radiation of their much higher vibration.’ He looked a bit glum as he saw Molygruber was hopelessly lost. He thought it over and then said, ‘ell, you’d better have a rest for a bit, I don’t want to strain your brains such as they are so you’d better have a rest and then later I will tell you some more.’
Ông ta đứng dậy, mở cửa và nói: “Ông vào trong đó đi, hãy nghỉ ngơi rồi tôi sẽ gặp lại ông sau.”
Molygruber bước vào căn phòng có vẻ thực sự rất tiện nghi, nhưng khi lão đi qua nơi có thể coi là dấu hiệu nửa đường ở trên sàn, thì mọi thứ không còn nữa và Molygruber đã ngủ say mà không biết được điều đó, lão cần phải nạp thêm “năng lượng tâm linh” vì chúng đã bị cạn kiệt nghiêm trọng bởi tất cả những trải nghiệm kỳ lạ mà lão đã trải qua khi nghe những điều vượt quá tầm hiểu biết của mình.
He rose to his feet and opened the door saying, ‘In there with you, have a rest and I’ll see you later.’
Molygruber walked into the room which seemed to be very comfortable indeed, but as he passed what might be considered a halfway mark on the floor everything ceased to be and Molygruber, although he didn’t know it, was sound asleep, having his ‘astral batteries’ charged up as they had been seriously depleted by all the strange experiences he had undergone in hearing of things beyond his comprehension.
Người dịch: Nguyễn Văn Truyện
Biên tập: Phạm Thị Liễu
Tổng biên tập: Trung tâm VMC