Vị chủ tịch thả mình trên chiếc ghế xoay sang trọng, ôm chặt lấy ngực. Lại là cơn đau đó, cơn đau dai dẳng, cồn cào gặm nhấm khiến anh nghĩ rằng lồng ngực mình đang bị bóp nghẹt. Anh ta ngồi dậy, thở hổn hển, tự hỏi mình nên làm gì. Anh ta nên gọi bác sĩ và đến bệnh viện, hay nên chịu đựng thêm một chút nữa?
The great President slumped back in his luxurious swivel chair clutching grimly at his chest. There was that pain again, that awful nagging, gnawing pain that made him think that his chest was being squeezed in a vice. He sat back gasping, wondering what he should do. Should he call the doctor and go to the hospital, or should he stick it out for a little longer?
Hogy MacOgwascher, chủ tịch của Glittering Gizmos, là một người đang gặp những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng – một căn bệnh rất giống với căn bệnh đã kết thúc cuộc đời của cha anh. Công ty do cha anh sáng lập đang phát triển thịnh vượng đến mức Hogy ước rằng cha anh có thể ở bên anh để chứng kiến sự thành công này. Hogy ngả người ra ghế và bắt đầu mò tìm những viên thuốc amyl nitrate. Bẻ chúng bằng một chiếc khăn giấy, anh cảm thấy hơi thuốc đang đi vào trong lồng ngực khiến anh nhẹ nhõm hơn, thoải mái trong một thời gian. Với căn bệnh của Hogy, sẽ không thực sự thuyên giảm cho đến khi cuộc sống tự nó kết thúc nỗi đau đớn, nhưng amyl nitrate đã giúp anh ta tiếp tục sống và anh rất biết ơn về điều đó. Anh cảm thấy công việc của mình vẫn chưa xong, anh nghĩ đến người cha đã mất từ lâu, nghĩ đến việc họ từng nói chuyện với nhau giống như hai anh em hơn là hai cha con. Anh liếc nhìn khung cửa sổ lớn với tấm kính màu ở bên trên, anh nghĩ đến những khi cha đứng bên cạnh và choàng tay qua vai anh. Họ cùng nhau nhìn vào khu nhà máy và cha đã nói, ‘Hogy, con trai của ta, một ngày nào đó, tất cả những thứ này sẽ là của con. Hãy giữ gìn nó, phát triển nó thật tốt, nó là đứa con tinh thần của ta, Hogy à, nó sẽ giúp con sống thoải mái và sung túc trong suốt cuộc đời.” Sau đó cha anh nặng nhọc ngồi xuống ghế và giống như Hogy lúc này, ông ôm chặt ngực bằng hai tay và rên rỉ vì đau đớn.
Mr. Hogy MacOgwascher, the president of Glittering Gizmos, was a man in deep, deep trouble, trouble very similar to that which had terminated the life of his father. The firm, founded by his father, was prospering so much that Hogy wished that his father could be with him to witness the success. But Hogy leaned back in his chair and started groping for his amyl nitrate capsules. Breaking it in a paper handkerchief he felt the fumes going into his chest giving him relief, relief for a time. With Hogy’s ailment there would be no real relief until life itself terminated the pain, but amyl nitrate kept him going for the time and he was grateful for it. He felt that his work was not finished yet, he thought of his father long dead, thought of how they used to talk together more like two brothers than father and son. He glanced at his wide picture window with the tinted glass across the top, he thought of the time when his father had stood beside him and put his arm around his shoulder. Together they had looked at the factory building and the father had said, ‘Hogy, m’boy, one day all this will be yours. Look after it, look after it well, it’s my brainchild, Hogy, it will keep you in comfort and prosperity for all the days of your life.’ Then his father had sat down heavily in his chair and like Hogy now had clasped his chest with his two hands and groaned with the pain.
Hogy thực sự yêu quý cha mình. Anh nhớ lại một ngày nọ anh đã ngồi đối diện với cha trên chiếc bàn mà người ta gọi là rộng hàng mẫu[1], được đánh bóng kỹ – một chiếc bàn thật đẹp được chạm khắc bằng tay bởi một người thợ thủ công già ở châu Âu. Hogy đã nói, “Thưa cha, tại sao chúng ta có cái tên kỳ lạ như vậy? Con không thể hiểu nổi. Nhiều người đã hỏi con mà con chưa bao giờ trả lời họ được. Thưa cha, chiều nay cha có chút thời gian, cuộc họp của Hội đồng quản trị đã diễn ra tốt đẹp, vậy hãy kể cho con nghe những gì đã xảy ra trước khi cha đến Canada.”
Hogy had really loved his father. He remembered how he had sat across from his father one day on the desk which seemed to callers to be acres in extent, highly polished, a wonderful desk indeed, hand-carved by an old craftsman in Europe. Hogy had said, ‘Father, how do we get such a peculiar name? I can’t understand it. Many people have asked me and I have never been able to tell them. You’ve got some time this afternoon, Father, the Board meeting went off well, tell me what happened before you came to Canada.’
Người cha MacOgwascher dựa lưng vào ghế của mình, chiếc ghế mà Hogy hiện đang ngồi và châm một điếu xì gà Havana cỡ lớn. Rồi ông thở ra một cách khoan khoái, vung chân đặt lên bàn, khoanh tay trước cái bụng tròn của mình và nói, ‘Thôi được, thôi được, con trai, chúng ta đến từ vùng Thượng Silesia ở Châu Âu. Chúng ta là người Do Thái nhưng mẹ con và ta được biết rằng ngay cả ở Canada cũng có sự phân biệt đối xử chống lại người Do Thái chúng ta vì vậy mẹ con và ta bảo nhau phải lưu ý ngay đến thực tế đó và chúng ta sẽ thành người Công Giáo, những người mà trông như có vẻ rất nhiều tiền và luôn được các Thánh bảo vệ. Cha mẹ đã tìm hiểu xung quanh và bàn về những cái tên khác nhau mà chúng ta nên có, rồi sau đó ta nghĩ đến người anh họ của ông chú bên đằng mẹ con. Là một người đàn ông tốt, ông ấy kiếm sống cũng tốt, ông ấy là người Do Thái giống như chúng ta nhưng ông ấy kiếm sống bằng việc rửa xe phân khối lớn. Ông ấy nhận những chiếc xe, lau rửa và chỉnh sửa toàn bộ, ông ấy lau chùi dầu mỡ ở những chỗ khuất và chúng trở nên sạch sẽ như mông của một đứa trẻ, chúng sáng bóng lên như mông một đứa trẻ được vỗ về, và những người am hiểu đều luôn nói rằng, chà, một chiếc xe dù đến từ ai thì nó cũng được tân trang và trở nên rất tốt.” Cha của Hogy lại vung chân xuống sàn trong khi ung dung với lấy con dao đặc biệt của mình có gắn kèm một mũi giáo. Sau đó, ông chọc vào một đầu điếu xì gà vốn không quá cứng, để khói bay ra theo ý mình, ông tiếp tục cuộc trò chuyện:
Father MacOgwascher leaned back in his chair the chair upon which Hogy now sat and lit an immense Havana cigar. Then puffing comfortably he swung his feet up onto the desk, folded his hands across his ample stomach and said, ‘Vell, vell m’boy, ve comes from Upper Silesia in Europe. Ve vas de Juden but your mutter and I ve vas told that even in Canada there was the discrimination against us Judes so your mutter and I ve said vell ve vill take care of that real fast, ve vill become Katholics, dey seem to have the most money and dey has the most saints to look after them. Your mutter and I, ve looked around and ve talked of different names vat ve should have, and then I thought of your uncle’s cousin on your mutter’s side. Good man vas he, he make good living too, he vas Jude just like you and me but he made good living vashing hogs. He gots hogs all vashed up real good and clean and proper, he scrubbed de petrol in dey hides and they comed clean just like a baby’s backside, they had a rosy glow on them just like a slapped baby’s backside, and de judges dey always said, vell, vell, de hog him must from a certain man have comed, dey vast so good and prettified.’ Hogy’s father had swung his feet down to the floor again while he leisurely reached out for his special knife which had a spear point attached to it. With that he jabbed the butt end of his cigar which was not drawing any too well, then having got the smoke flowing as he wanted, he resumed his talk:
“Ta nói với mẹ con rằng cứ vậy đi, chúng ta sẽ lấy tên là Hogswascher, có vẻ là một cái tên gốc Châu Mỹ khá hay, nơi xuất phát của những cái tên khá hài hước.” Ông dừng lại một lát và xoay xoay điếu xì gà trên môi trước khi tiếp tục, ‘Vợ ta, bà ấy nói với ta rằng nên làm gì đó cho cái tên giống với người Công giáo hơn, nên bà nói rằng chúng ta nên thêm chữ “Mac” giống như người Ireland, người ta nói người Ireland phải đặt chữ Mac trước tên của họ để giúp họ thoát khỏi các cơn bão tố. Thế là ta tự nói với mình và với mẹ con rằng chúng ta cũng làm vậy, sẽ tự đặt tên là MacOgwascher, và từ bây giờ trở đi chúng ta là người Công giáo.”
I said to mine frau dat is vat ve vill do, ve vill call ourselves Hogswascher, dat seems to be a good name American continentwise, de has dey funny names there.’ He had stopped a while and rolled his cigar about between his lips before continuing, ‘Mine frau she say to me ve should do something to make prettified up more Katholic, so she say ve got have a “Mac” like dey do with the Irishers, de Irishers dey had the Mac on dey name which sort of keeps them out of storms people say mit that Irish must be. So I said to mineself and I said to mine frau at the same time dat is vat ve vill do, ve vill call mineself MacOgwascher, and from now on ve have to be the Katholics.’
Một lần nữa người cha dừng lại và suy ngẫm thêm một chút. Hogy luôn biết khi nào cha anh có tâm trạng suy tư vì điếu xì gà không thể thiếu luôn bị xoay tròn giữa đôi môi của ông. Rồi một đám khói lớn lại bùng lên và cha anh nói, ‘Ta đã kể cho bạn bè ta nghe về điều này và họ nói với ta về những vị Thánh mà ta nên có, đặc biệt là vị Thần hộ mệnh giống như những người Công giáo ở Ireland. Ta không biết cần phải có Thánh nào, ta chưa bao giờ nói chuyện với các thánh thần, vì vậy một người bạn đã nói với ta rằng anh muốn một vị thánh tốt ư? Vậy một vị Thánh tốt hộ mệnh của anh phải là Thánh Lucre. ‘
Again the old man had stopped while he ruminated a bit more. Hogy always knew when his father was in a contemplative mood because the inevitable cigar was rolled backwards and forwards between his parent’s lips. And then there came a great burst of smoke again and his father said, ‘Mine friends I told of this and dey said to me saints in plenty you should have, special patron saint you should have like dey do with the Katholics in Ireland. So I did not know vat to have for saints, I’d never spoke nohow to no saints, so my friend he say to me, you vant a good saint? Then a good saint for you your patron saint should be St. Lucre.’
Hogy ngạc nhiên nhìn cha mình và nói: “Thưa cha, con chưa bao giờ nghe nói về Thánh Lucre. Khi con đến Tu viện, các Sư huynh ở đó thường dạy về các vị thánh nhưng họ không bao giờ kể con nghe bất cứ điều gì về Thánh Lucre. ‘. “ Ôi, con của ta”, MacOgwascher cha nói. “rồi ta sẽ kể con nghe vì sao vị Thánh đó lại có tên như vậy. Một người bạn của ta, ông ấy nói với ta rằng, Moses, ông ấy nói, anh luôn là một người chạy theo đồng bạc bẩn thỉu, Moses, anh nói với tôi nhiều lần, rằng tiền không có mùi, nhưng những người khác lại nói anh ta chỉ lo kiếm tiền, vậy thì Moses, anh còn có vị thánh nào phù hợp ngoài Thánh Lucre không? ” Nhưng giờ Hogy bỗng rùng mình khi cơn đau thắt mới như bóp vụn lồng ngực của anh. Trong khoảnh khắc tưởng chừng sắp chết, anh cảm thấy lồng ngực mình như bị bóp nát, bị thắt lại, không khí bị ép ra khỏi phổi, nhưng một lần nữa anh lại hít amyl nitrat và dần dần cơn đau lại dịu đi. Rón rén và, kìa, rất thận trọng, anh nhẹ nhàng di chuyển và thấy rằng cơn đau chính đã kết thúc, nhưng anh quyết định nên dừng lại một chút, gác công việc sang một bên, nghỉ ngơi, nghĩ về quá khứ.
Hogy had looked at his father in amazement and said, ‘Well father, I’ve never heard of St. Lucre. When I went to the Seminary the Brothers there used to teach us all about saints but they never taught me anything about St. Lucre.’ ‘Ya, ya m’boy,’ said Father MacOgwascher, ‘then I vill tell you vhy the saint he got that name. Mine friend he say to me, Moses, he say, you alvays vas one for running after the filthy lucre, you say to me many times, Moses, money has no smell, but others say he is running after filthy lucre so vat better saint could you have, Moses, than St. Lucre?’ But now Hogy shuddered as a fresh spasm of pain wracked his chest. For the moment he thought he was going to die, he felt that his chest was being crushed, squeezed, the air being squeezed out of his lungs, but once again he sniffed at the amyl nitrate and gradually the pain eased. Gingerly and, oh, so cautiously he moved slightly and found that the main pain had ended, but he decided it would be a good idea to stop for a bit, put work aside for a bit, have a rest, think about the past.
Anh lại nghĩ về cha mình. Nhiều năm trước cha anh bắt đầu công việc kinh doanh từ một số tiền rất nhỏ. Cha mẹ anh đã rời Thượng Silesia sau một trong những cuộc tàn sát người Do thái hàng năm ở đó và đến Canada, nơi họ trở thành người nhập cư. Cha Moses nhận thấy không có việc làm cho mình nên ông đi làm ở nông trại một thời gian, làm công nhân nông trại thay vì thợ kim hoàn lành nghề mà ông đã được đào tạo. Một ngày nọ, ông nhìn thấy một người nông dân khác đang nghịch một hòn đá nhỏ có một cái lỗ trên đó. Người đàn ông đó, sau khi được hỏi, đã nói với ông rằng nó mang lại nhiều cảm giác yên tâm khi ông ta chơi với viên đá này và vì vậy ông ta đã giữ nó bên mình, rồi khi ông chủ cho ông ta nghỉ làm do quá chậm hay quá ngớ ngẩn, ông ta đã chơi với viên đá được đánh bóng này và rồi ông cảm thấy sự thanh thản bao trùm.
He thought again about his father. Years before his father had started the business on what he called a shoestring. The father and the mother had left Upper Silesia after one of the annual pogroms there and had come to Canada where they had become Landed Immigrants. Father Moses found there was no work for him so he went into farming for a time acting as a farm labourer instead of the skilled jeweller for which he had been trained. One day he saw another farm labourer playing about with a small stone which had a hole in it. The man, on being questioned, had told him that it brought much peace of mind when he played with this stone and so he kept it with him, and when the Boss farmer told him off for being too slow or too dumb he played about with this polished stone and then calmness swept over him.
Cha của Hogy đã suy nghĩ về viên đá đó trong nhiều ngày, và sau đó ông đã có một quyết định lớn. Ông gom góp tất cả số tiền mình có, ông vay thêm tiền, rồi ông chăm chỉ làm việc như nô lệ để kiếm thêm, và sau đó ông bắt đầu công việc kinh doanh nhỏ được gọi là Glittering Gizmos. Họ làm ra những thứ nhỏ bé không có công dụng gì cả nhưng hầu hết chúng đều được mạ vàng bằng quá trình hút chân không và mọi người nghĩ rằng khi có những đồ vật bằng vàng này trong túi, họ sẽ được bình yên. Một người bạn có lần đã hỏi ông, “Nó là gì vậy, Moses, nó tốt như thế nào?”
Hogy’s father had thought about that stone for days, and then he came to a great decision. He got together all the money he could, he borrowed money, and he worked like a slave to get more, and then he started a little business called Glittering Gizmos. They made little things which had no earthly use at all but most of them were gilded by the vacuum process and people thought when they had these golden objects in their pockets that they became tranquil. A friend once asked him, ‘What IS this thing; Moses, what good does it do?’
Moses trả lời: “À, anh bạn, câu hỏi hay đó. Phụ kiện lấp lánh là gì? Không ai biết, nhưng họ muốn biết nên họ bỏ tiền ra mua chúng để tìm hiểu. Không ai biết đó là gì. Nó chưa từng có công dụng gì nhưng nó được quảng cáo là “MỚI MỚI MỚI”, và giờ đây nó đã trở thành một vật biểu trưng cần sở hữu, thực tế nếu trả thêm một khoản phí đặc biệt thì chúng tôi sẽ khắc tên đầu người sở hữu lên đó. Anh phải nhớ rằng ở đây trên lục địa Châu Mỹ này, họ chỉ muốn những cái gì mới, cái gì đã cũ đều là đồ bỏ đi. Chà, chúng tôi đã lấy những thứ đã bị vứt đi và mạ vàng nó lên một chút để làm đẹp cho nó và chúng tôi quảng cáo nó là thứ mới nhất, cam đoan điều này, điều kia. Nhưng tất nhiên nó không có tác dụng gì, người mua cho rằng nó tốt theo cách họ nghĩ, và nếu họ nghĩ rằng nó chả có giá trị gì thì họ cũng không muốn thừa nhận rằng đã bị lừa, cho nên họ cố gắng bán những thứ đó đi để cho thấy rằng những người khác cũng đã bị lừa. Còn tôi cũng kiếm được cho mình một món tiền kha khá.”
“Giỏi quá, Moses,” người bạn của ông kêu lên, “Đừng nói với tôi rằng anh đang bán những thứ RÁC RƯỞI cho công chúng, những người không mảy may nghi ngờ đấy chứ?”
Moses replied, ‘Ah my friend that is a good question. Vat is a glittering gizmo? No one knows, but dey vant to know so dey spends good money buying them to find out. No one knows vat it is. No earthly use has ever been found for one but ve advertise it as “NEW NEW NEW,” and it has now become a status symbol to own one, in fact for a special charge ve vill have a person’s initials engraved on it. You must remember that here on this American continent anything new is that vat dey vant, anything old it is garbage. Vell, ve takes garbage and ve gild it up a bit to make it look prettified and ve advertise it as the latest thing, guaranteed to do this and guaranteed to do that. But of course it doesn’t do a thing, the buyer does the good by the way he or she is thinking, and if dey think there is nothing in it then they don’t like to admit they have been conned so they tries to sell the things to show others that have been conned also. I makes for mineself quite a packet.’
‘Good gracious, Moses,’ exclaimed his friend, ‘don’t tell me that you are selling RUBBISH to the unsuspecting public?’
Moses MacOgwascher nhướng đôi lông mày xám vẻ tinh quái và sau đó nói: “Lạy Chúa, bạn tôi ơi, anh không nghĩ tôi lừa đảo mọi người đấy chứ? Anh đang gọi tôi là kẻ bịp bợm đấy à?”
Anh bạn cười lớn và trả lời, “Bất cứ khi nào tôi gặp một người Công giáo có tên đầu tiên là Moses, tôi đều tự hỏi điều gì đã khiến anh ta thay đổi từ một người Do Thái thành một người Công giáo.”
Ông già Moses cười đắc ý và kể cho bạn mình nghe câu chuyện về cuộc đời ông, ông bắt đầu công việc kinh doanh ở Thượng Silesia, nổi tiếng vì chất lượng tốt, nổi tiếng về cách hành xử đẹp và bán giá thấp, và sau đó ông vui vẻ nói: “Mọi thứ đã “biến mất”. Người Nga đã đến và chúng lấy đi mọi thứ, biến tôi thành một kẻ bần cùng và đuổi tôi khỏi nhà mình trong khi tôi là một người đàn ông trung thực làm ăn lương thiện và bán hàng chính hãng. Thế là tôi tự thay đổi, tôi trở thành một kẻ bất lương bán những thứ vớ vẩn với giá cao và rồi mọi người lại tôn trọng tôi hơn! Hãy nhìn tôi bây giờ, tôi có công việc kinh doanh của riêng mình, nhà máy của riêng mình, chiếc Cadillac của riêng mình, và tôi có thần hộ mệnh của mình, Thánh Lucre!” Ông cười lớn khi đi đến một chiếc tủ nhỏ được đặt cố định ở một góc văn phòng. Ông từ từ mở khóa cửa, chậm rãi quay sang người bạn và nói, “Anh lại đây.”[2]
Moses MacOgwascher had raised his gray eyebrows in mock horror and then said, ‘Goodness me, mine friend, you don’t think I would be swindling the public, do you? Are you calling me a crook?’
The friend laughed at him and replied, ‘Whenever I meet a Catholic who has the first name of Moses I wonder what made him change from a Jew into a Catholic.’
Old Moses had laughed heartily and told his friend the story of his life, building up a business in Upper Silesia, being famed for good quality, being famed for fair dealing and low prices, and then he said jovially, ‘It all went “pffuft”. The Russians came along and they took everything, they makes me a pauper and they turned me from mine house and I vas an honest man giving good deals and selling genuine articles. So I turn mine self around, I becomes a dishonest man selling junk for high prices and people respect me more! Look at me now, I have mine own business, mine own factory, mine own Cadillac, and I have mine patron saint, St. Lucre!’ He laughed aloud as he went to a little cabinet fixed to one corner of his office. Slowly he unlocked the door, slowly he turned to his friend and said, ‘Kommen Sie hier.’
Người bạn của ông cười khoái chí vừa nhảy vừa kêu lên, ‘Moses. Anh nói sai ngôn ngữ rồi. Giờ anh không được nói tiếng Đức, anh đang được coi là công dân Canada đấy, anh nên nói, “Tới đây đi, anh bạn của tôi”.
His friend laughed with glee as he jumped to his feet crying out, ‘Moses. You’re speaking the wrong language. You don’t speak German now, you are supposed to be a Canadian citizen, you should say, “Get a load of this, bud”.’
Rồi anh ta bước tới chỗ ông già Moses đang giữ cánh tủ hé mở một cách trêu ngươi. Sau đó, đột nhiên cánh tủ được mở toang và người bạn nhìn thấy một cái bệ bằng gỗ mun và trên cái bệ đó có dựng một hình tượng của đồng đô la bằng vàng, và trên chóp của hình tượng đô la đó có một vầng hào quang. Anh ta nhìn ông già Moses mà không hiểu gì còn Moses cười vang trước vẻ mặt của anh ta. “Đó là vị thánh của tôi, Thánh Lucre,” ông nói. “Đồng tiền bẩn thỉu cũng là tiền, và vị thánh của tôi là những đồng đô la sạch.”
He walked over to where old Moses was tantalizingly holding the cupboard door barely ajar. Then suddenly the cupboard door was swung wide open and the friend saw an ebony plinth and upon the ebony plinth the dollar sign in gold stood up, and on the top of the dollar sign there was a halo. He looked at old Moses without comprehension and Moses laughed aloud at his expression. ‘That is mine saint, mine St. Lucre,’ he said. ‘Filthy lucre is money, mine saint is clean dollars.’
Nhưng bây giờ Hogy đã cảm thấy tốt hơn rất nhiều. Anh nhấn nút liên lạc nội bộ và gọi cho thư ký, “Mời vào, cô Williams, mời vào.” Một phụ nữ trẻ trông dáng vẻ doanh nhân bước vào và e dè ngồi bên cạnh bàn. ‘Tôi muốn cô gọi cho luật sư của tôi, tôi muốn anh ta đến đây gặp tôi, tôi nghĩ đã đến lúc tôi lập Di chúc của mình’
“Ồ, thưa ông Hogy,” cô thư ký hoảng hốt nói, “Trông ông có vẻ nhợt nhạt, ông có nghĩ tôi nên mời bác sĩ Johnson đi cùng để chăm sóc ông không?”
But now Hogy was feeling a lot better. He pressed his intercom button and called to his secretary, ‘Come in, Miss Williams, come in.’ A very businesslike young woman entered and sat demurely at the edge of the desk. ‘I want you to call my attorney, I want him to come here to see me, I think it is time I made my Will’
‘Oh, Mr. Hogy,’ said the secretary in alarm, ‘You do look pale, do you think I should get Dr. Johnson to come along to see you?’
“Không, không cần đâu,” Hogy nói, “Tôi nghĩ tôi đã làm việc quá nhiều và cô biết đấy, không ai có thể lúc nào cũng cẩn thận được. Vậy cô chỉ cần gọi cho luật sư và bảo anh ta đến gặp tôi vào mười giờ sáng mai ở đây, và tất cả việc chúng ta sẽ làm chiều nay chỉ có thế thôi.” Anh ta đưa tay ra hiệu và cô thư ký lại đi ra ngoài, băn khoăn liệu Hogy MacOgwascher có linh cảm rằng mình sắp chết hay gì đó không.
‘No, no, my dear,’ said Hogy, ‘I think I have been working too hard and one can’t be too careful, you know. So you just call the attorney and ask him to come and see me at ten o’clock tomorrow morning here, and that is all the business we will do this afternoon.’ He gestured with his hand and the secretary went out again, wondering if Hogy MacOgwascher had a premonition that he was going to die or something.
Hogy ngồi lại trên ghế suy nghĩ về quá khứ và cả tương lai, vì anh cho rằng cha mình đã ngồi như vậy rất nhiều lần. Anh nghĩ về những gì đã nghe từ cô Williams, và sau đó tâm trí anh lại hướng về cuộc sống của người cha MacOgwascher; Cô Williams đã kể cho Hogy nghe về việc cô đã bước vào văn phòng như thế nào và thấy MacOgwascher Cha đang ngồi im lặng và ủ rũ bên bàn làm việc. Khi cô bước vào, ông ấy đang nhìn lên bầu trời, nhìn những đám mây lưa thưa khi chúng bay qua nhà máy của ông. Sau đó ông cử động nhẹ và thốt ra một tiếng thở dài sâu thẳm. Cô Williams dừng lại và nhìn ông già, thực sự lo sợ rằng ông sắp chết trước mặt mình. “Cô Villiams,” ông nói, “lẽ ra xe của tôi phải đến rồi. Hãy bảo tài xế đỗ ở trước cửa ngay bây giờ, tôi cần phải về nhà.” Cô Williams đã hành động rất lịch sự và chuyên nghiệp và MacOgwascher Cha ngồi xuống, hai tay đan vào nhau đặt lên bụng. Ngay sau đó cửa văn phòng mở ra và cô Williams lại bước vào với vẻ mặt hết sức lo lắng khi thấy ông đang gục người trên bàn làm việc. “Xe đang ở cửa, thưa ông,” cô nói, “Tôi giúp ông mặc áo khoác nhé?”
Hogy sat back in the chair thinking of the past and the future as well, as he supposed his father had sat on numerous occasions. He thought of what he had heard from Miss Williams, and then his mind drifted to the life of Father MacOgwascher; Miss Williams told Hogy about how she had gone into the office and found Father MacOgwascher sitting silent and sombre at his desk. As she came in he was looking up at the sky watching wispy clouds as they sped over his factory buildings. Then he moved and uttered a deep, deep sigh. Miss Williams stopped and looked at the old man, seriously afraid that he was going to die in front of her. ‘Miss Villiams,’ he had said, ‘mine car I should have already. Tell the chauffeur to come to the front right now, home I should go.’ Miss Williams gave her urbane, businesslike acknowledgement and Father MacOgwascher sat back with his hands clasped against his ample paunch. Soon his office door opened and Miss Williams came in again looking with great concern as she saw him hunched up at his desk. ‘The car is at the door, sir,’ she said, ‘may I assist you with your coat?’
Ông già run rẩy đứng dậy và nói, “Ồ, ồ, cô Villiams, cô nghĩ tôi già quá rồi phải không?” Cô thư ký mỉm cười và mang chiếc áo khoác đến bên ông. Ông vụng về xỏ tay áo còn cô đi vòng ra phía trước, cẩn thận kéo chiếc áo khoác xuống rồi cài cúc cho ông. “Đây là cặp của ông, thưa ông,” cô nói. “Tôi chưa nhìn thấy chiếc Cadillac mới của ông, tôi sẽ tiễn ông xuống xe nếu ông không phiền.” Ông già càu nhàu tỏ vẻ hài lòng, họ cùng nhau di chuyển vào thang máy và xuống phố.
Người tài xế trong bộ đồng phục vội vàng ra chào và nhanh chóng mở cửa xe. “Không, không, anh bạn, không, không, để thay đổi tôi sẽ ngồi ghế trước với cậu,” ông già vừa nói vừa di chuyển và ngồi vào ghế trước của xe. Sau khi ngồi ổn định, ông vẫy tay với cô Williams và tài xế lái xe đi.
The old man stood up somewhat shakily and said, ‘Oy, oy, Miss Villiams, you think maybe too old I am getting, hey?’ The secretary smiled and walked across to him carrying his coat. Clumsily he put his arms into the sleeves and she moved around to the front and carefully pulled the coat down and then buttoned it for him. ‘Here is your briefcase, sir,’ she said. ‘I haven’t seen your new Cadillac, you know, I will see you down to your car if you don’t mind.’ The old man grunted acquiescence and together they moved into the elevator and down to the street.
The uniformed chauffeur had jumped to attention and quickly opened the car door. ‘No, no m’boy, no, no, I vill sit in front with you for a change,’ said the old man as he shuffled around and got into the front of the car. With a wave to Miss Williams he settled and the chauffeur drove off.
Ông MacOgwascher Cha sống ở vùng nông thôn, cách văn phòng của ông khoảng hai mươi lăm dặm, ông nhìn ra xung quanh khi chiếc xe tăng tốc xuyên qua dòng xe đang lưu thông và rẽ ra vùng ngoại ô, ông nhìn như thể ông chưa bao giờ nhìn thấy khung cảnh này trước đây hoặc như thể ông đang nhìn nó lần cuối cùng. Trong vòng chưa đầy một giờ đồng hồ vì đường quá đông, chiếc xe đã dừng lại trước tòa biệt thự nhà MacOgwascher. Bà MacOgwascher đang đứng đợi ở cửa vì cô Williams, như một người thư ký tận tình, đã gọi điện cho bà MacOgwascher để nói rằng Sếp của cô đang bị một cơn đau nào đó hành hạ.
Mr. MacOgwascher Senior lived away in the country, some twenty-five miles distant from his office, and he looked about him as the car sped through traffic and out into the suburbs beyond looked about him as though he had never seen the scenery before or as though he were seeing it for the last time. In somewhat less than an hour for the traffic was quite heavy, the car drew up in front of MacOgwascher Mansion. Mrs. MacOgwascher was at the door waiting because Miss Williams, like a good secretary, had telephoned Mrs. MacOgwascher to say that she thought the Boss was having an attack of something.
“Anh Moses, anh Moses, hôm nay em rất lo cho anh,” Bà MacOgwascher nói, “ Em nghĩ có thể anh đã làm việc quá nhiều, có lẽ chúng ta nên đi nghỉ dưỡng. Anh đang để tâm quá nhiều đến cái văn phòng đó rồi.”.
‘Ah Moses, ah Moses, I have been so worried about you this day,’ said Mrs. MacOgwascher, ‘I think you have been doing too much maybe, maybe we should have a vacation. You are seeing too much of that office.’
Ông già Moses tạm biệt người tài xế và mệt mỏi bước vào trong nhà. Đó là ngôi nhà của một người giàu có nhưng là một người giàu chẳng có gu. Có những món đồ cổ vô giá và những món đồ hiện đại lòe loẹt để bên cạnh nhau, bằng cách nào đó những đồ nội thất, cũ mới xen lẫn nhau theo cách gần như huyền bí kiểu của người Do Thái cổ gốc Châu Âu, đến nỗi thay vì trông như một cửa hàng tạp hóa lộn xộn thì bên trong lại khá hấp dẫn.
Old Moses had dismissed the chauffeur and walked somewhat wearily into his house. It was the house of a wealthy man but of a wealthy man who had not got too much taste. There were priceless antiques and garish modern things side by side, but somehow the furnishings and the furniture, old and new, blended together in that almost mystical way which old Jews from Europe had so that instead of a hodgepodge almost like a junk shop the interior was quite attractive.
Bà MacOgwascher nắm lấy tay chồng và nói: “Đến đây và ngồi xuống đi, Moses, trông anh có thể ngã bất cứ lúc nào. Em nghĩ em sẽ gọi cho bác sĩ Johnson.” “ Không, không, em yêu, đừng, đừng. Chúng ta có những điều cần phải nói trước khi gọi bác sĩ Johnson.” Ông Moses nói, rồi ông thả người xuống ghế và lấy tay ôm đầu suy nghĩ miên man.
Mrs. MacOgwascher took her husband’s arm and said, ‘Come and sit down Moses, you look as if you could fall at any moment. I think I will send for Dr. Johnson.’ ‘No, no, mamma, no, no. Ve have things vat ve got to talk of before Dr. Johnson ve vill call in,’ said Moses. Then he relapsed into his chair and put his head in his hands thinking deeply.
“Em yêu,” Moses nói, “em có nhớ Tôn giáo trước đây không? Đạo Do Thái là tôn giáo của gia đình chúng ta. Sao ta không gọi điện cho giáo trưởng và nói chuyện với ông ấy, có rất nhiều điều trong đầu anh cần phải sáng tỏ. ‘
Bà vợ vội vàng lấy đồ uống cho chồng, cẩn thận bỏ đá vào, rồi đem cốc nước cho ông. “Nhưng làm thế nào chúng ta có thể quay lại đạo Do Thái khi chúng ta là những người Công giáo ngoan đạo như vậy, Moses?” Bà hỏi. Ông già trầm ngâm suy nghĩ trong khi từ từ nhấm nháp đồ uống buổi tối của mình, rồi ông nói, “Em yêu, khi tất cả mọi bí mật đã được hé lộ thì chúng ta không cần phải đeo mặt nạ nữa. Chúng ta không thể trở về quê cha đất tổ, nhưng chúng ta có thể trở lại tôn giáo cũ. Anh nghĩ có lẽ nên gặp một giáo sĩ Do Thái.”
Trong một lúc khá lâu không ai nói thêm câu gì, nhưng trong bữa ăn tối, ông già đột nhiên buông rơi dao nĩa xuống kêu loảng xoảng và ngả lưng ra ghế thở hổn hển.
‘Mamma,’ said Moses, ‘do you remember the Old Religion? Judes is our family religion. How come I don’t call in a rabbi and have a talk with him, there are a lot of things in my mind I should clear.’
The wife busied herself getting a drink for the old man, carefully putting in ice, then bringing the glass over to him. ‘But how can we go back to the Jewish religion when we are such good Catholics, Moses?’ she asked. The old man mused upon it as he slowly sipped his evening drink, and then he said, ‘Vell, vell, mamma, when all the chips are down no more a false front should ve put up. Ve cannot return to the land of our fathers, ve can return to our old religion. I think maybe a rabbi I should see.’
Nothing more was said for quite a time, but at dinner the old man had suddenly dropped his knife and fork with a clatter and leaned back in his chair gasping.
“Không, không, Moses, em chịu đủ rồi,” vợ ông chạy đến bên điện thoại nói, “Bác sĩ Johnson, em gọi cho ông ấy bây giờ đây.”
Bà lướt nhanh ngón tay lên dãy số điện thoại tự động rồi nhấn một nút. Chiếc điện thoại điện tử đời mới nhất quay tít một hồi và kêu inh ỏi khi máy hiện số điện thoại nhà của bác sĩ Johnson. Sau một khoảng thời gian rất ngắn chờ đợi, có một giọng trả lời và bà MacOgwascher nói, “Bác sĩ Johnson, bác sĩ Johnson, ông đến đây khẩn cấp, chồng tôi đang bị đau nặng vì một cơn đau thắt ngực.” Vị bác sĩ, biết mình đang có một bệnh nhân thanh toán rất hậu, không chần chừ chút nào, ông ta nói: “Được rồi, bà MacOgwascher, tôi sẽ đến trong vòng mười phút,’ Người phụ nữ đặt điện thoại xuống và quay lại chỗ ông chồng, ngồi lên tay ghế bên cạnh ông.
‘No, no, Moses, enough of this I have had already,’ said his wife running to the telephone, ‘Dr. Johnson, I call him now.’
Quickly she ran her finger down the automatic telephone number indicator and then pressed a button. The latest electronic marvel whirred and buzzed as the machine churned out the home number of Dr. Johnson. After a very short interval a voice had answered and Mrs. MacOgwascher said, ‘Dr. Johnson, Dr. Johnson, so quickly you should come, my husband so sick is with the chest squeezings.’ The doctor, knowing that he had a very good paying patient, hesitated not one moment: ‘All right, Mrs. MacOgwascher, I will be over within ten minutes,’ he said. The woman put down the telephone and returned to her husband, sitting on the arm of the chair beside him.
“Em yêu,” ông lão hai tay ôm ngực, nói, “em có nhớ chúng ta đã từ quê hương đến đây như thế nào không? Em có nhớ chúng ta đã đến đây bằng phương tiện rẻ tiền, bị nhồi nhét như gia súc trong chuồng như thế nào không? Chúng ta đã làm việc vất vả, em yêu, em và anh đã trải qua một cuộc sống khắc nghiệt và anh không dám chắc rằng chúng ta đã đúng khi trở thành người Công giáo. Chúng ta sinh ra là người Do Thái, chúng ta nên mãi mãi là người Do thái. Có thể chúng ta nên trở về tôn giáo gốc của chúng ta.”
‘Mamma, mamma,’ said the old man, holding his chest between his two hands, ‘do you remember how ve came from the Old Country? Do you remember how ve came by the cheapest vay possible, crammed together like cattle in pens? Ve’ve vorked hard, mamma, you and me, ve’ve had a harsh life and I am not sure that ve did the right thing to become Catholics. Ve vere born Judes, Judes ve should always be. Ve should return, maybe, to the Old Religion.’
“Nhưng chúng ta không thể làm điều đó, Moses, chúng ta chỉ là không thể. Những người xung quanh sẽ nói gì? Chúng ta sẽ không bao giờ dẹp được điều đó, anh biết đấy. Nhưng em đề xuất chúng ta nên đi nghỉ một chuyến và có lẽ lúc đó anh sẽ cảm thấy tốt hơn. Em hy vọng bác sĩ Johnson có thể đề nghị một y tá đi cùng chúng ta để chăm sóc anh.” Bà đứng bật dậy khi nghe thấy tiếng chuông.
‘But we cannot do that, Moses, we just cannot do it. Whatever would the neighbours say? We’d never live it down, you know. But I suggest we go away for vacation and perhaps you will feel better then. I expect Dr. Johnson can suggest a nurse to go with us to look after you.’ She jumped up quickly at the sound of the bell
Người giúp việc đã ra mở cửa và trong vài giây bác sĩ Johnson đã được dẫn vào phòng. “Chà, chà, ông MacOgwascher,” bác sĩ vui vẻ nói, “có chuyện gì vậy? Ông bị đau trong ngực à? À, tôi tin rằng đó là một cơn đau thắt ngực mới, ông biết đấy, một trong những triệu chứng rõ nét, nó rất đau, cảm giác vô cùng đau đớn của một người sắp chết.” Bà MacOgwascher nghiêm nghị gật đầu. “Vâng, thưa bác sĩ, ông ấy đã có cảm giác này một thời gian rồi, cảm giác mà ông ấy không thể tiếp tục chịu đựng được lâu hơn nữa, vì vậy tôi nghĩ tôi nên gọi cho ông gấp.”
“Rất đúng, thưa bà MacOgwascher, hoàn toàn đúng, đó là mục đích của việc chúng ta đang ở đây, bà biết đấy,” bác sĩ nói. “Nhưng chúng ta hãy cho ông ấy lên giường rồi tôi sẽ khám kỹ cho ông ấy. Tôi có mang theo một chiếc máy chụp tim cầm tay và chúng ta sẽ thử nó trên người ông ấy.
The maid was already on the way to the door and within seconds Dr. Johnson was ushered into the room. ‘Well, well, Mr. MacOgwascher,’ said the doctor jovially, ‘and what is the matter? You have a pain in your chest? Ah, I expect it is another attack of angina, one of the big symptoms, you know, is a strong, strong feeling that one is going to die.’ Mrs. MacOgwascher had nodded her head gravely. ‘Yes, doctor, he has had this feeling for some time, a feeling that he can’t go on much longer, so I thought I should call you urgently.’
‘Quite right, Mrs. MacOgwascher, quite right, that is what we are here for, you know,’ said the doctor. ‘But let us get him up to bed and then I will give him a thorough examination. I have with me a portable cardiograph and we will try it on him.’
Chẳng mấy chốc ông già Moses đã nằm gọn lỏn trong một chiếc giường đôi rộng được chần bông theo kiểu châu Âu cổ. Bác sĩ ngay sau đó đã khám cho ông, trong khi khám vẻ mặt ông ta càng ngày càng trở nên nghiêm trọng và rồi cuối cùng ông ta nói, ‘Chà, tôi e ông sẽ phải nằm trên giường một thời gian, ông đang rất ốm, ông biết đấy, ông như ngọn nến đang bị cháy ở hai đầu và cả ở giữa nữa, và ở tuổi của ông, ông không thể chịu đựng được đâu.” Ông ta đóng máy đo tim, bỏ ống nghe ra và rửa tay trong phòng tắm sang trọng liền kề. Sau đó, ông bắt tay bệnh nhân của mình và cùng với bà MacOgwascher bước xuống cầu thang. Ở tầng trệt, ông ra hiệu cho bà MacOgwascher và thì thầm, “Chúng ta có thể vào phòng riêng nói chuyện được không?” Bà dẫn đường vào phòng làm việc của ông già và đóng cửa lại.
Soon old Moses had been ensconced in an immense double bed with the padded quilt in the old European fashion. The doctor soon gave him an examination looking graver and graver as he did so, and then at last he said, ‘Well, I am afraid you will have to stay in bed for some time, you are a very sick man, you know, you have been burning the candle at both ends and in the middle as well, and at your age you cannot afford to do that.’ He closed the cardiograph machine, put away his stethoscope, and washed his hands in the luxurious adjoining bathroom. Then he shook hands with his patient and together with Mrs. MacOgwascher walked down the staircase. On the ground floor he beckoned to Mrs. MacOgwascher and whispered, ‘Can we go into a private room to talk about it?’ She led the way into the old man’s study and shut the door.
‘Bà MacOgwascher,” bác sĩ nói,” Tôi e rằng chồng bà bị bệnh rất nặng; Tôi sợ rằng nếu còn phải gắng sức chịu đựng một lần nào nữa thì chồng bà sẽ không trụ được. Thế còn con trai bà, Hogy, thưa bà MacOgwascher, cậu ta đang học Đại học phải không?”
“Vâng, thưa bác sĩ,” bà MacOgwascher trả lời, “nó đang học tại trường Bally Ole College. Nếu ông nghĩ tôi nên làm vậy thì tôi sẽ gọi cho nó ngay lập tức và bảo nó về. Nó là một đứa bé ngoan, thực sự rất ngoan.”
‘Mrs. MacOgwascher,’ the doctor said, ‘I am afraid that your husband is very seriously ill; I am afraid that if there is any more exertion your husband will not last. What about your son Hogy, Mrs. MacOgwascher, isn’t he at College?’
‘Yes, doctor,’ replied Mrs. MacOgwascher, ‘he is at Bally Ole College. If you think I should then I will telephone him immediately and ask him to return. He is a good boy, a very good boy indeed.’
“Vâng,” bác sĩ trả lời, “Tôi biết đó là một cậu bé ngoan, bà biết đấy tôi đã gặp cậu ấy khá nhiều lần. Nhưng bây giờ, theo tôi, cậu ấy nên quay về gặp cha. Tôi sợ rằng đó có thể là lần cuối cùng. Tôi muốn nhấn mạnh với bà rằng chồng bà thực sự cần được chăm sóc y tế cả ngày lẫn đêm, và tôi nghĩ bà có thể muốn để tôi chăm sóc ông ấy. Tôi có thể điều y tá tới đây. ”
“Ồ vâng, vâng, thưa bác sĩ, vâng, chắc chắn rồi, chúng tôi có thể chi trả cho việc đó. Chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông đề xuất.“
‘Yes,’ replied the doctor, ‘I know he is a good boy, I have met him on quite a number of occasions, you know. But now, in my opinion, he should come back to see his father. I fear that it may be for the last time. I must impress upon you that your husband really needs nursing care day and night, and I suggest you may like to have me take care of it. I can send nurses for you.’
‘Oh yes, yes, doctor, yes certainly, we can well afford it. We will have whatever you recommend.’
Ông bác sĩ mím môi và kẹp nó bằng ngón trỏ và ngón cái. Sau đó, ông nhìn xuống bên mũi của mình và nói, ‘Ồ, tất nhiên, tôi muốn ông ấy ở trong khu điều dưỡng của tôi, chúng tôi có thể chăm sóc ông rất kỹ lưỡng trong khu điều dưỡng, nhưng hiện tại tôi đang sợ rằng chuyển ông ấy đi có thể là sai lầm. Chúng ta sẽ phải điều trị cho ông ấy ở đây. Tôi sẽ cử một y tá đến đây và cô ấy sẽ ở lại trong tám giờ, và sau đó một y tá khác sẽ thay ca trong tám tiếng, còn tôi sẽ đến thăm khám ông ấy đầu tiên vào buổi sáng. Bây giờ, tôi sẽ viết một đơn thuốc và tôi sẽ nhờ cửa hàng thuốc gửi thuốc cùng với những hướng dẫn chi tiết và bà phải rất cẩn thận làm theo hướng dẫn. Tạm biệt, bà MacOgwascher,” ông bác sĩ điềm tĩnh đi ra cửa và đi qua phòng ăn để ra xe của mình.
The doctor pursed his lips and pinched them sideways between finger and thumb. Then he looked down the sides of his nose and said, ‘Well, of course, I would have liked him in my nursing home, we could have cared for him very thoroughly in my nursing home, but for the moment I rather fear that such a move might be ill-advised. We shall have to treat him here. I will send a nurse and she will stay for eight hours, and then another nurse will take over for eight hours, and I will come to see him first thing in the morning. Now, I will write a prescription and I will have the drug store send along the medicine by special messenger and you follow the instructions very carefully. Goodbye, Mrs. MacOgwascher,’ and the doctor walked sedately to the door and out through the dining room to his car.
Mất một lúc, bà MacOgwascher ngồi ôm đầu tự hỏi mình nên làm gì. Nhưng sau đó sự xuất hiện của cô hầu gái khiến bà thức tỉnh khỏi sự suy tư: “Ông chủ đang gọi bà, thưa bà,” cô nói. Bà MacOgwascher vội vàng lao lên cầu thang.
For some time Mrs. MacOgwascher had sat with her head in her hands wondering what she should do. But then she was roused from her soliloquy by the arrival of the maid: ‘The Master is calling for you, madam,’ she said. Quickly Mrs. MacOgwascher rushed up the stairs.
“Em yêu, không có giáo sĩ nào đến sao?” ông hỏi. “Anh rất cần gặp một giáo sĩ Do Thái. Anh có rất nhiều điều cần nói, và nếu có thể hãy thu xếp cho con trai anh hoặc một người bạn cũ đọc kinh Do Thái.”
‘Mamma, mamma vyfore ve don’t have no rabbi come?’ he asked. ‘A rabbi I should have fast. I have a lot that I should talk of, and maybe arrangements could be made for mine son or an old friend to recite the Kaddish.’
“Ôi Moses của em!” Vợ ông kêu lên. ‘Anh có thực sự nghĩ rằng anh cần gặp một giáo sĩ Do Thái không? Đừng quên rằng anh đã tự nhận là người Công Giáo. Chúng ta sẽ giải thích thế nào với những người xung quanh rằng chúng ta đột nhiên trở thành người Do Thái giáo? ”
‘My, my, Moses!’ exclaimed his wife. ‘Do you really think you should have a rabbi? Don’t forget that you are a professed Catholic. How will we explain to the neighbours that we have suddenly become Jews?’
“Nhưng em yêu, làm sao anh có thể ra đi trong thanh thản mà không biết có ai sẽ đọc kinh Do Thái cho mình?”
‘But mamma, mamma, how can I die in peace vithout knowing that I have someone to recite the Kadish for me?’
Bà MacOgwascher đứng trầm ngâm suy nghĩ và sau đó bà nói: “Em biết, em biết, em có một cách. Chúng ta sẽ gọi một giáo sĩ Do Thái đến như một người bạn, và sau khi giáo sĩ rời đi, chúng ta sẽ gọi cho Cha xứ tới và theo cách đó chúng ta vẫn sẽ không bị cả hai tôn giáo và những người xung quanh nghi ngờ.”
Mrs. MacOgwascher stood in deep, deep thought and then she said, ‘I know, I know, I have the solution. We will call in a rabbi as a friend, and after the rabbi has gone we will call in our Catholic Father and in that way we shall be well covered with the two religions and our neighbours.’
Ông già cười mãi cho đến khi nước mắt lưng tròng và cơn đau lại bắt đầu. Nhưng khi hết đau, ông nói, “Ôi,em yêu, vậy là em nghĩ tình hình của anh nói chung là rất xấu và anh cần phải có một sự bảo đảm để một trong hai tôn giáo có thể thắng thầu để đưa anh lên Thiên đàng phải không? Chà, em yêu, vậy thì sẽ như thế này, vị giáo sĩ Do Thái gọi cho anh, anh sẽ gặp thật nhanh và sau khi ông ấy đi khỏi, chúng ta có thể gọi Cha xứ đến, và bằng cách đó, chúng ta có thể đảm bảo rằng chúng ta sẽ giấu được việc mình cùng một lúc có quan hệ với cả hai bên.’
The old man laughed and laughed until the tears came to his eyes and the pain started again. But when he recovered he said, ‘Oy, oy mamma, so you think so bad have I been altogether that I need to have an insurance so one of the two can make the best bid to get me up to Heaven? Well, well, mamma, so it shall be but for mineself the rabbi I should have real fast, and then ven he has gone ve can have the Catholic Father, and in that way ve can be sure ve have covered mine passing from two sides at once.’
“ Moses à, em đã gọi điện thoại cho Hogy,” Bà MacOgwascher nói, “Em đã nói với nó rằng anh đã có một chút không ổn về sức khỏe và rằng em nghĩ đó sẽ là niềm an ủi cho cha nó nếu nó trở về trong một hoặc hai ngày. Nó sẽ về ngay đấy.’
‘I have telephoned, Hogy, Moses,’ said Mrs. MacOgwascher, ‘I have told him that you have had a little setback and that I thought it would be a comfort to his father if he returned for a day or two. He is coming immediately.’
Hogy ngồi và nghĩ lại tất cả, anh hồi tưởng lại, trong khoảnh khắc nỗi đau của anh dịu đi anh nghĩ về những tháng ngày đã qua, nghĩ về việc chiếc xe đã lao nhanh qua màn đêm giá lạnh, băng qua những xóm nhỏ và thị trấn lớn như thế nào. Anh nhớ lại vẻ hoảng hốt trên khuôn mặt của một viên cảnh sát khi anh ta nhảy ra khỏi chỗ nấp ở đâu đó và cố gắng ra hiệu dừng xe Hogy đang chạy quá tốc độ lại, và rồi khi chiếc xe không dừng lại thì viên cảnh sát đã đuổi theo bằng xe Mô-tô và cố gắng bắt kịp, nhưng thất bại, Hogy có một chiếc xe tốt và Hogy là một lái xe giỏi. Viên cảnh sát chắc hẳn là một tân binh vì anh ta đã sớm bỏ cuộc.
Hogy sat back and thought of it all again, he relived it, for the moment his pain was forgotten thinking of those bygone days, thinking of how the big car had raced through the chilly night roaring through small hamlets and big towns. He remembered the startled expression on the face of a policeman as he jumped out of hiding somewhere and tried to flag down the speeding Hogy, and then as the car did not stop the policeman raced for his motorcycle and tried to catch up, but to no avail, Hogy had a good car and Hogy was a good driver. The policeman must have been a rookie because he soon retired from the race.
Hogy nhớ lại lúc về tới nhà cha mình. Bình minh vừa ló dạng khi ở đằng Đông xuất hiện những tia sáng màu đỏ, xanh lam và vàng rực của bình minh đang lan tỏa khắp bầu trời. Sáng hôm đó, sau khi đã nghỉ ngơi một chút để cha không thấy anh đã mệt mỏi như thế nào, anh mới đến gặp ông cụ.
Hogy remembered reaching his father’s home. Dawn was just breaking as away in the East there were the reds and blues and yellows of dawn flaring across the sky. Later that morning, after he had had a little rest so that his father would not see how tired he had been, he went to see the old man.
MacOgwascher Cha nằm trên giường đội mũ yarmelke, chiếc mũ nhỏ sát vào đầu mà người gốc Do Thái hay đội trong một số dịp nhất định. Quanh vai ông choàng chiếc khăn nguyện. ‘Hogy, con ta, ta rất vui vì con đã kịp trở về. Cha là một người Do Thái và con là một người Công giáo ngoan đạo. Con tin vào những việc làm tốt, con trai, vậy ta muốn con làm điều gì đó cho ta; Ta muốn con đọc bài kinh Do Thái, như con biết đấy, đó là Lời cầu nguyện cho người chết. Ta muốn con đọc theo cách cổ xưa mà gần như đã bị lãng quên. Điều đó không ảnh hưởng gì đến niềm tin Công giáo của con đâu, con trai à.’
Father MacOgwascher was in bed wearing his yarmelke, the little skull cap which orthodox Jews wear on certain occasions. About his shoulders he had his prayer shawl. ‘Hogy m’boy, I’m glad you’ve returned in time. I am a Jew and you are a good Christian Catholic. You believe in doing good turns, my boy, so I vant you do something for me; I vant you recite the Kaddish which, as you know, is the Prayer for the Dead. I vant you recite in the old, old vay which is almost forgotten. That should not interfere with your Christian Catholic belief, m’boy.’
Hogy do dự. Anh đã thực sự tin vào Công giáo, anh tuyệt đối tin vào Kinh thánh, vào các vị thánh và tất cả những điều khác. Anh tin rằng Giáo hoàng và những người khác trong hệ thống Giáo hội Công giáo có Quyền năng Thần thánh, vậy làm sao anh, một người Công giáo ngoan đạo, lại có thể đột ngột quay trở lại dù chỉ là tạm thời với tôn giáo của tổ tiên mình, đó là Do Thái giáo? Ông cụ đã theo dõi biểu hiện của anh, bí mật quan sát anh. Rồi ông thở dài thườn thượt và hạ mình xuống giường:
Hogy hesitated. He had really taken to the Catholic belief, he absolutely believed the Bible and in the saints and all the rest of it. He believed that the Pope and others of the hierarchy of the Catholic Church had Divine Powers so how could he, a good Catholic, suddenly revert even temporarily to the religion of his fathers, the Jewish religion? The old man had been watching his expression, watching him closely. Then he sighed deeply and sank lower in his bed:
“Thôi được, con trai,” ông lão nói, “Ta sẽ không làm phiền con thêm nữa, nhưng ta tin rằng tất cả chúng ta đều cùng lên thiên đường theo một cách nào đó, chẳng quan trọng chút nào nếu ta là người Do Thái còn con là một người Công giáo, tất cả đều cùng lên thiên đường như nhau. Nếu chúng ta sống tốt, chúng ta sẽ nhận được phần thưởng tốt đẹp. Nhưng hãy nói cho ta biết đi, con trai”, ông nói với một nụ cười yếu ớt, “tại sao người Công giáo lại sợ chết hơn bất kỳ tôn giáo nào khác? Tại sao người Công giáo luôn quá đối lập với tất cả các tôn giáo khác và cứ khư khư giữ lấy niềm tin rằng chỉ khi là một người Công giáo La Mã thì mới có chỗ cho họ trên thiên đường? Chắc họ đã mua hết vé trước rồi, ta cho là vậy, ” ông già cười nói.
‘All right, m’boy,’ said the old man, ‘I vill not trouble you further, but I believe that ve all goes the same vay Home, it doesn’t matter at all if I’m a Jew and you’re a Catholic, ve all go the same vay Home. If ve live a good life ve gets the good reward that’s coming to us. But tell me m’boy,’ he said with a faint smile, ‘why do Catholics fear death more than any other religion fears it? Vyfor are Catholics so opposed to all other religions and firmly hold to the belief that unless one is a Roman Catholic no place in heaven there is for them? They must have bought all the tickets in advance, I suppose,’ said the old man with a laugh.
Hogy rên rỉ thành tiếng, “Cha ơi, cha ơi, bây giờ hãy để con đưa một trong những Cha xứ đến đây. Nếu bây giờ cha cải đạo thì con chắc chắn rằng cha sẽ được xem xét có một chỗ ở trên Thiên đường. Đúng như vậy đó, vì là một người Do Thái, cha sẽ không có cơ hội nào đâu, thưa cha, cha sẽ thấy mình bị giam giữ trong địa ngục giống như một tiểu thuyết gia già sắp bị như vậy. Gần đây, con đã đọc một số cuốn sách của ông ấy cho đến khi một trong những linh mục bắt gặp con với những cuốn sách và, than ôi, con đã phải xưng tội vì đã đọc sách của gã Rampa đó. Cách đây một thời gian trong bệnh viện, một Nữ tu Công giáo ngoan đạo đã khóc thương cho ông ta và nói rằng ông ta sẽ phải xuống địa ngục vì ông ta là một Phật tử, thế đấy, cha có thể tưởng tượng được không? ”
Hogy groaned aloud as he said, ‘Father, father, let me get one of the Holy Fathers here ông tanow. If you would be converted now then I am sure you would be considered for a place in Heaven. As it is, as a Jew, you have no chance at all father, you will find yourself lodged in hell just like an old author is going to be. I have been reading, some of his books lately until one of the priests caught me with them and, oh dear, I had to do a penance because I had been reading a book by that fellow Rampa. In the hospital some time ago a very good Catholic Sister wept over him and said that he would go to hell as he was a Buddhist a Buddhist, mind, can you imagine it?’
MacOgwascher Cha nhìn con trai mình với lòng trắc ẩn kèm theo sự thương hại, và nói, “Con trai, từ khi con rời xa nơi này và kể từ khi con gắn bó chặt chẽ hơn với đức tin Công giáo, con thực sự đã trở nên cố chấp. Đừng bận tâm, con trai, cha sẽ gọi một người bạn cũ của ta – người được xem như con trai ta, sẽ đọc kinh Do Thái cho ta để không làm hỏng đức tin của con”
Vị giáo sĩ già đã đến gặp MacOgwascher Cha và họ đã nói chuyện với nhau khá lâu. Ông lão nói với giáo sĩ Do Thái, “Con trai tôi đã thay đổi đến nỗi có thể nó không còn là con tôi nữa, nó không thể đọc kinh Do Thái cho tôi, nó thậm chí không thể chấp nhận cuộc nói chuyện về tôn giáo của chúng tôi. Tôi sẽ nhờ anh, người bạn của tôi, nhờ anh đọc kinh Do Thái cho tôi. ”
Father MacOgwascher looked at his son with compassion, with pity, and said, ‘M’boy, since you’ve been away and since you embraced the Catholic faith more closely you are indeed becoming bigoted. Never mind, m’boy, I vill get one of my old friends, one who has been as a son to me, and I vill have him recite the Kaddish so as not to upset your faith.’
The old rabbi came to see Father MacOgwascher and they talked together for quite some time. The old man said to the rabbi, ‘My son is changed so that possibly he is no longer my son, he vould not read the Kadesh for me, he vould not even tolerate talk of our religion. I am going to ask you, mine friend, if you vill recite the Kaddish for me.’
Vị giáo sĩ Do Thái đặt tay lên vai người bạn cũ của mình và nói: ‘Tất nhiên là tôi sẽ làm, Moses, tất nhiên tôi sẽ làm, nhưng con trai tôi quả thực cũng là một người đàn ông tốt và tôi nghĩ sẽ thích hợp hơn nếu nó làm điều đó thay tôi, nó cùng tuổi với con trai anh mà. Nhưng tôi cũng được thôi, tôi là một người cùng thời với anh mà, phải không? ‘
The rabbi placed his hands on his old friend’s shoulders and said, ‘Of course I will, Moses, of course I will, but my own son is a very good man indeed and I think it would be more meet if he did it instead, he is a young man of the same age group as that of your son. But I well, I am one of your contemporaries, aren’t I?’
Ông già Moses nghĩ về điều đó và sau đó mỉm cười gật đầu chấp nhận, nói, ‘Vâng, vâng, đó là một ý hay, giáo sĩ à, tôi sẽ chấp nhận lời khuyên của anh và con trai anh, nếu nó đồng ý, nó sẽ đọc kinh Do Thái như thể nó là con trai tôi. ” Ông già dừng lại và căn phòng trở nên im lặng trong vài phút cho đến khi ông nói tiếp. “Thưa Giáo sĩ”, ông nói, “vị tác giả Rampa này, anh có biết về ông ta không? Anh đã đọc cuốn sách nào của ông ấy chưa? Con trai tôi nói rằng nhiều người Công giáo đã bị cấm đọc sách của ông ấy, chúng nói về cái gì vậy? ‘
Old Moses thought about it and then smiled as he nodded acceptance, saying, ‘Yes, yes, that is a good suggestion, rabbi, I vill accept your advice and your son, if he vill, shall recite the Kaddish as if he vere mine own son.’ The old man stopped and there was silence in the room for a few moments until he spoke again ‘Rabbi,’ he said, ‘this author, Rampa, do you know about him? Have you read any of his books? Mine son say that many Catholics have been forbidden to read his books, what are they about?’
Vị giáo sĩ cười và trả lời, “Tôi đã mang một cuốn cho anh đây, anh bạn của tôi. Nó nói nhiều về cái chết, nó mang lại một sự khích lệ lớn. Tôi muốn anh đọc nó, nó sẽ giúp anh bình tâm. Tôi đã giới thiệu nó cho rất nhiều người và đúng, tôi biết về ông ấy. Ông ấy là một tác giả viết về sự thật, ông ấy là một người đã bị quấy rầy bởi giới báo chí, hay chính xác hơn là bởi các phương tiện truyền thông. Có một chút tin đồn cách đây vài năm; một số tờ báo cho rằng ông ta là con trai của một người thợ sửa ống nước, nhưng theo hiểu biết của riêng tôi, tôi biết chắc chắn điều đó là không đúng. Nhưng tôi không hiểu quan điểm của họ, kể cả nếu đúng là như vậy thì có gì phải xấu hổ khi là con trai của một người thợ sửa ống nước cơ chứ? Đấng Cứu Rỗi hay Đức Chúa của họ, nghe nói là con trai của một người thợ mộc, và rồi nhiều vị Thánh của người Công giáo đã xuất thân từ những khởi đầu rất khiêm tốn. Một trong những vị thánh của họ, Thánh Anthony, là con của một người chăn lợn. Một số vị Thánh đã từng là kẻ trộm cướp được cải đạo. Ồ không, người đàn ông đó đang nói sự thật. Là giáo sĩ Do Thái, tôi được nghe nhiều, tôi nhận được nhiều lá thư, và vâng, người đàn ông đó nói đúng nhưng ông ấy đã bị một nhóm người bôi nhọ và đã bị quấy rầy kể từ đó, và không một phương tiện truyền thông nào cho ông ấy cơ hội để giải thích vấn đề theo góc độ của mình.”
The rabbi laughed and replied, ‘I have brought one of them for you, my friend. It tells much about death, it gives one great encouragement. I will ask you to read it, it will give you peace of mind. I have recommended it to many, many people and yes I know about him. He is a man who writes the truth, he is a man who has been persecuted by the press, or more accurately by the media. There was quite a little plot about it some years ago; some of the newspapers claimed that he was the son of a plumber, but to my own knowledge to my own definite knowledge I know that to be untrue. But I do not understand their point of view, what is there to be ashamed of in being the son of a plumber if he had been, that is? Their Saviour, Christ, was the son of a carpenter we are told, and then many of the saints of the Catholics came from very humble beginnings. One of their saints, St. Anthony, was the son of a swineherd. Some of the saints have been robbers who have been converted. Oh no, the man tells the truth. As rabbi I get to hear a lot, I get many letters, and yes, the man is true but he got into bad odour with a group of people and has been persecuted ever since, and none of the media has ever offered him an opportunity of explaining his own side of the question.’
“Nhưng tại sao ông ấy không giải thích gì cả?” ông già Moses hỏi. “Nếu ông ấy bị vu khống, như thường lệ, sao ông ấy không làm gì vào thời điểm đó, mà để phiền tới tận bây giờ?”
Vị giáo sĩ buồn bã nói, ” Khi báo chí kéo rất đông tới nơi ở của ông ấy thì người này đang bị nằm bẹp trên giường với chứng huyết khối động mạch vành. Người ta cho rằng ông ấy sắp chết còn báo chí thậm chí trở nên ác độc hơn vì không có ai tranh cãi với họ nữa. Nhưng bây giờ thế là đủ rồi, quay lại chuyện của anh, tôi sẽ đi nói chuyện với con trai tôi.’
‘But vy does he have to explain anything?’ asked old Moses. ‘If he has been framed, as is so often the case, vy couldn’t he do anything about it at the time, vy bother now?’
The rabbi looked sad and said, ‘The man was in bed with coronary thrombosis when the press people descended in quantities on his place of abode. It was thought he was going to die and the press became even more virulent as there was no one to dispute their story. But enough of that now, we have to deal with you, I will go and talk to my son.’
Ngày qua ngày. Ba ngày, bốn ngày, năm ngày, và đến ngày thứ năm, Hogy vào phòng cha mình. Cha anh đang dựa lưng vào gối, mắt hé mở, miệng há hốc, hàm xệ xuống ngực. Hogy chạy đến chỗ cha rồi vội vàng lao ra cửa gọi mẹ.
The days went on. Three days, four days, five days, and on the fifth day Hogy went into his father’s room. His father was leaning back against the pillows, his eyes were half open, his mouth was gaping wide, his jaw sagging upon his chest. Hogy rushed to his father and then hastily went to the door and called his mother.
Tang lễ của Moses MacOgwascher diễn ra giản dị, lặng lẽ, thanh bình. Cuối cùng, sau ba tuần, Hogy quay lại trường Đại học và hoàn thành khóa học để có thể tiếp quản công việc kinh doanh của cha mình.
The funeral of Moses MacOgwascher was modest, quiet, peaceful. Eventually, after three weeks Hogy went back to College and finished his instruction so that he could take over his father’s business.
Người dịch: Lê Minh Trang
Biên tập: Phạm Thị Liễu
Tổng biên tập: Trung tâm VMC
[1] Mẫu: đơn vị đo lường của Anh, 1 mẫu bằng hơn 4000 mét vuông
[2] ‘Kommen Sie hier.’ Tiếng Đức là “Cậu lại đây”