Một cơn gió lạnh buốt từ trên núi thổi xuống. Bụi đất và những viên đá nhỏ bay tung trong không khí và phần lớn chúng dường như cứ trực tiếp nhằm vào những thân hình co ro của chúng tôi. Những con vật già khôn ngoan đứng cúi đầu trước gió để bộ lông của chúng không bị bới tung lên khiến chúng mất thân nhiệt. Chúng tôi đi vào góc đường từ phố Kundu Ling rẽ sang phố Mani Lhakhang. Một cơn gió bất chợt, thậm chí mạnh hơn những cơn gió khác thốc từ dưới tấm áo cà sa của một người bạn đồng hành, và với tiếng rú sợ hãi, cậu ta bị bay lên không trung như một cánh diều. Chúng tôi nhìn lên, há hốc mồm kinh sợ. Cậu ta trông như đang bay trên phố – đôi tay dang ra – áo choàng phồng lên khiến cậu ta trông như người khổng lồ. Thời gian khi ấy như dừng lại, thế rồi cậu ta rơi như một hòn đá xuống sông Kaling Chu! Chúng tôi chạy như điên đến nơi, sợ cậu ta bị chết đuối. Khi chúng tôi chạy đến bờ sông, Yulhye – tên cậu ta – dường như đang đứng dưới nước đến đầu gối. Lại một cơn gió nổi lên với một sức mạnh mới, quấn quanh Yulgye và đẩy cậu ta về phía sau vào vòng tay chúng tôi. Thật là kỳ diệu, cậu ta hầu như không bị ướt ngoài phần từ gối trở xuống. Chúng tôi vội vã đi ngay, quấn chặt cà sa vào người đề phòng cũng bị thổi bay lên không trung.
A cold cold wind was blowing down off the mountains. Dust and small stones whipped through the air and most of them seemed to aim directly for our shrinking bodies. Wise old animals stood with bowed head to wind that their fur should not be disturbed and cause them to lose body heat. We rounded the corner from the Kundu Ling and turned into the Mani Lhakhang. A sudden blast of air, even fiercer than the others, swept under the robes of one of my companions, and with a howl of fright he was blown up into the air like a kite. We looked up, awestruck, with our mouths open. He appeared to be flying to the City—arms outstretched, robes billowing and making him into giant size. Then there came a lull, and he dropped like a stone into the Kaling Chu! We rushed madly to the scene, fearing he would drown. As we reached the bank he—Yulgye—seemed to be standing knee deep in the water. The gale shrieked with renewed force, swirling Yulgye around and sweeping him backwards to our arms. Wonder of wonders, he was hardly wet, except from the knees down. We hastened away, holding our robes tightly to us lest we too be blown into the air.
Chúng tôi đi bộ dọc theo phố Mani Lhakhang. Thật dễ dàng đi làm sao! Tiếng gió rít thổi phía sau chúng tôi; cố gắng duy nhất của chúng tôi là làm sao giữ cho người được thẳng! Chỗ làng Sho có một nhóm các quý bà đang tìm chỗ trú; Tôi luôn có sở thích đoán nhân thân của một người ẩn phía sau tấm mặt nạ bằng da. Người nào vẽ lên mặt nạ một khuôn mặt càng trẻ thì người đó càng già. Tây tạng là một đất nước khắc nghiệt và tàn khốc với những cơn lốc đá và cát thổi từ trên núi. Những người đàn ông và đàn bà phải đeo mặt nạ bằng da để bảo vệ khỏi những cơn bão. Mặt nạ này có khoét lỗ ở mắt và ở chỗ khác để người ta có thể thở, được tô vẽ khác nhau thể hiện cái tôi của người đeo!
Along the Mani Lhakhang we marched. And an easy march it was! The howling gale blew us along; our only effort was to maintain a vertical position! In the Village of Shö a party of high ranking ladies were seeking shelter; I always liked to guess at the identity of the person behind the leather face mask. The “younger” the face painted on the leather the older the woman who wore it. Tibet is a cruel and harsh country, with screaming winds blowing torrents of stones and sand from the mountains. Men and women often wore masks made of leather as protection from the storms. These masks, with slits for eyes and another slit through which one breathed, were invariably painted with a representation of the wearer’s opinion of herself!
“Chúng ta hãy đi qua dãy phố buôn bán đi!” Timon hét lên, cố gắng át tiếng gió để mọi người nghe thấy. “Chỉ mất thời gian thôi,” Yulgye cũng hét lên, “họ đóng hết cửa khi có gió mạnh như thế này rồi, nếu không tất cả hàng hóa của họ sẽ bị bay đi hết.” Chúng tôi rảo bước, đi nhanh gấp đôi lần bình thường. Khi đi qua cầu Turquoise chúng tôi phải nắm chặt tay nhau, sức gió ở đây thật khủng khiếp. Nhìn lại đằng sau, chúng tôi thấy Potala và Núi Sắt đang bị che khuất bởi một đám mây đen u ám. Đám mây đó là một đám bụi lớn của những mảnh vỡ nhỏ xíu và những mẩu đá nhỏ bị mài mòn, vỡ ra từ dãy Himalaya vĩnh cửu. Chúng tôi rảo chân và biết rằng đám mây đen sẽ đuổi kịp nếu đi chậm, băng qua Ngôi nhà Doring ở ngay bên ngoài hàng rào bao quanh Jo Kang rộng lớn. Cơn bão gầm lên ở ngay phía trên, quất vào đầu và mặt để trần của chúng tôi. Timon bất giác đưa tay lên để che mắt. Gió níu chặt lấy cà sa của cậu ta và hất nó lên cao qua đầu, khiến cậu ta trơ ra như một quả chuối bóc vỏ, ngay trước Nhà thờ Lhasa.
“Let’s go by The Street of Shops!” yelled Timon, striving to make himself heard above the gale. “Waste of time,” screamed Yulgye, “they put up the shutters when there is a gale like this. All their stock would be blown away otherwise.” We hurried on, going at more than twice our normal pace. Crossing by the Turquoise Bridge we had to hold on to each other, the force of the wind was so great. Looking back, we saw that the Potala and Iron Mountain were obscured by a black sullen cloud. A cloud composed of dust particles and small stones worn and torn from the eternal Himalayas. Hurrying on, knowing that the black cloud would overtake us if we were laggardly, we passed the House of Doring just outside the Inner Circle around the immense Jo Kang. With a roar the storm was upon us, beating at our unprotected heads and faces. Timon instinctively raised his hands to protect his eyes. The wind gripped his robe and raised it high over his head, leaving him as bare as a peeled banana, just before the Cathedral of Lhasa.
Những viên đá và cành cây rơi xuống về phía chúng tôi khiến chân chúng tôi bị tím bầm, đôi khi chảy máu. Trời chuyển đen kịt, tối sẫm như màn đêm. Timon lật đật đi trước chúng tôi, vật lộn với chiếc cà sa tung bay quấn quanh đầu anh ta, chúng tôi lảo đảo đi vào Thánh đường của nhà thờ. Bên trong thật bình yên, một sự bình yên trầm mặc, bình yên êm dịu. Ở đây, trong khoảng 1300 năm, đã có những người sùng đạo đến thờ phụng. Ngay cả kết cấu của tòa nhà cũng toát lên vẻ tôn nghiêm. Nền đá có những đường gân và rãnh hình thành bởi rất nhiều thế hệ những người hành hương đã qua. Bầu không khí như sống động, rất nhiều hương đã được đốt ở đây trong suốt thời gian qua, điều đó dường như đã đem lại cho nơi này một cuộc sống có tri giác của riêng nó.
Stones and twigs came bowling down the street towards us bruising our legs and, at times, drawing blood. The sky became blacker, as dark as night. Hustling Timon before us, struggling with the flapping robe which swirled around his head, we staggered into the Sanctuary of the Holy Place. Inside was peace, profound peace, soothing peace. Here, for some thirteen hundred years, had come the devout to worship. Even the fabric of the building exuded sanctity. The stone floor was ribbed and grooved by the passage of generation after generation of pilgrims. The air felt alive, so much incense had been burned here throughout the ages that it seemed to have endowed the place with a sentient life of its own.
Những cây cột và dầm ngả sang màu đen vì thời gian, đứng sừng sững trong ánh hoàng hôn vĩnh cửu. Màu vàng lấp lánh đã xỉn màu, ánh sáng phản chiếu của đèn bơ và nến chẳng làm căn phòng âm u sáng lên được bao nhiêu. Những ngọn lửa nhỏ lập lòe khiến bóng các tượng Thần biến thành một vũ điệu kỳ dị trên các bức tường của nhà thờ. Đức Chúa Trời nhảy nhót với Nữ thần trong một cuộc chơi không bao giờ kết thúc của ánh sáng và những cái bóng khi đoàn rước vô tận của những người hành hương sùng đạo di chuyển qua những ngọn đèn.
Age-blackened pillars and beams loomed through the perpetual dusk. The dull glitter of gold, reflecting the light of butter lamps and candles did little to bring a lightening of the gloom. The little flickering flames turned the shadows of the Sacred Figures into a grotesque dance on the Temple walls. God cavorted with Goddess in a never ending play of light and shadow as the endless procession of devout pilgrims moved past the lamps.
Những đốm sáng các màu phát ra từ đống lớn đồ trang sức. Kim cương, hoàng ngọc, đá beryl, hồng ngọc và ngọc bích lấp lánh màu của riêng chúng, tạo nên một kết cấu không thay đổi, một ống kính vạn hoa. Những chiếc lưới sắt lớn với mắt quá nhỏ đủ để cho bàn tay không thể thò qua, bảo vệ cho những viên đá quý và vàng khỏi những kẻ mà lòng tham lớn hơn cả sự chính trực. Đây đó, trong ánh hoàng hôn rực rỡ phía sau tấm lưởi sắt, hàng loạt những con mắt đỏ nhấp nháy, bằng chứng cho thấy những con mèo trong nhà thờ lúc nào cũng cảnh giác. Không thể bị mua chuộc hay đút lót, cũng không sợ con người hay quái thú, chúng bước đi nhẹ nhàng lặng lẽ trên những bàn chân nhung. Nhưng những bàn chân mềm mại này lại giơ ra những chiếc vuốt sắc nhọn như dao cạo nếu sự tức giận của chúng trỗi dậy. Thông minh hơn, chúng biết nhìn vào một người để biết ý đồ của họ. Một sự di chuyển đáng ngờ về phía đống đồ trang sức mà chúng đang trông giữ, là chúng sẽ biến thành những con quỷ dữ; chúng làm việc theo cặp, một con sẽ nhảy vọt lên cắn cổ của kẻ có thể là kẻ trộm trong khi con kia sẽ đeo bám vào cánh tay phải. Chỉ có cái chết mới rời chúng ra được trừ khi có các vị sư chạy nhanh đến can thiệp…! Đối với tôi, hoặc đối với những người như tôi là người rất yêu chúng, những con mèo sẽ lăn đến và kêu gừ gừ, và cho phép chúng tôi chơi với những viên đá vô giá. Chỉ được chơi, nhưng không được mang đi. Chúng màu đen tuyền, với đôi mắt xanh sinh động rực sáng màu đỏ máu khi phản chiếu ánh sáng, chúng được biết đến ở các nước khác với cái tên là Mèo “Xiêm”. Ở đây trên Tây Tạng lạnh giá, chúng màu đen tuyền. Ở vùng nhiệt đới, tôi nghe nói, chúng màu trắng tuyền. Chúng tôi dạo quanh, thể hiện sự tôn kính với các bức tượng bằng vàng. Bên ngoài, cơn bão gầm rú tức giận, thổi bay tất cả những thứ không được chằng buộc và khiến cho việc di chuyển trở nên nguy hiểm cho những du khách vội vã vì việc gấp mà buộc phải đi trên những con đường đầy gió. Vậy mà, ở đây, bên trong nhà thờ, tất cả vẫn tĩnh lặng ngoại trừ tiếng bước chân nhẹ nhàng khi những người hành hương đi vòng quanh, và tiếng lách cách triền miên của các bánh xe cầu nguyện quay liên tục không ngừng nghỉ. Nhưng chúng tôi chẳng để ý đến những tiếng động đó. Liên tục ngày đêm các bánh xe quay tròn và quay tròn với những tiếng “lách cách, lách cách, lách cách” cho đến khi chúng trở thành một phần trong cuộc sống của ta; Ta nghe thấy chúng không nhiều hơn nghe thấy nhịp tim và hơi thở của mình.
Pin-points of light of all colours shot forth from the great heaps of jewels. Diamonds, topaz, beryl, rubies and jade flashed forth the light of their nature, forming an ever-changing pattern, a kaleidoscope of colour. Great open-work iron nets with links just too small to permit the passage of a hand, guarded the gems and gold from those whose cupidity overcame their rectitude. Here and there, in the brilliant dusk behind the iron curtain, pails of red eyes gleamed, proof that the Temple cats were ever on the alert. Incorruptible, unbribable without fear of Man or beast they padded silently on velvet paws. But those soft feet held sheathed claws of razor-sharpness should their ire be aroused. Of surpassing intelligence, they had but to look at one to know one’s intentions. A suspicious move toward the jewels they guarded, and they would become devils incarnate; working in pairs one would flash at the throat of the would-be thief while the other would cling to his right arm. Only death would loose their grip unless the attending monks came quickly . . . ! To me, or to others like me who loved them, the cats would roll and purr, and permit us to play with the priceless gems. Play, but not to take away. All black, with vivid blue eyes which glowed a blood red by reflected light, they were known in other countries as “Siamese” cats. Here, in cold Tibet, they were all black. In the tropics, I was told, they were all white. We wandered around, paying our respects to the Golden Images. Outside, the storm roared and fumed, blowing away all objects which were unsecured and making hazardous the passage of unwary travelers forced by urgent business to be upon the wind-swept roads. Here, though, in the Temple, all was quiet save for the muted “shush-shush” of many feet as pilgrims did their circuits, and the incessant “clack-chack” of the ever-turning Prayer Wheels. But we did not hear them. Day after day, night after night, the Wheels went round and round with their “clack-chack, clack-chack, clack-chack” until they had become a part of our existence; we heard them no more than we heard our heart-beats or our breath.
Nhưng có một âm thanh khác; tiếng gừ gừ gấp gáp vội vã và tiếng loảng xoảng của lưới sắt khi con mèo già Tom va đầu vào đó để nhắc tôi nhớ rằng nó và tôi là những người bạn cũ. Tôi vu vơ thò ngón tay qua lỗ lưới và gãi vào đầu nó. Nó dịu dàng cắn vào ngón tay tôi như để chào, và rồi nó dùng cái lưỡi già thô ráp nhiệt tình liếm liếm như muốn tróc cả da tay! Có một chuyển động đáng ngờ ở xa dưới đền thờ – nó liền biến mất như tia chớp lao đi để bảo vệ tài sản của nó.
“Ước gì chúng ta được vào xem các cửa hàng!” Timon thì thầm. “Ngốc ạ!” Yulgye nói nhỏ, “cậu phải biết rằng họ đã đóng cửa từ lúc có bão rồi.” “Trật tự đi nào, mấy thằng ranh!” một giám thị bước ra từ trong bóng tối nghiêm khắc nói và ra một đòn gió khiến Timon tội nghiệp mất thăng bằng ngã sóng soài trên sàn. Một nhà sư đứng cạnh tỏ ra bất bình với việc làm đó, và quay bánh xe cầu nguyện của mình một cách giận dữ. Vị giám thị hộ pháp, cao hơn hai mét, đứng trùm lên chúng tôi như một quả núi, và rít lên, “Nếu chúng mày còn gây ra một tiếng động nào nữa…thì ta sẽ xé xác chúng mày ra thành từng mảnh rồi ném cho những con chó ở bên ngoài đấy. Bây giờ thì trật tự đi!” Ném ánh mắt cáu kỉnh về phía chúng tôi, ông ta quay đi và biến mất trong bóng tối. Thận trọng, sợ cả tiếng sột soạt của áo choàng, Timon đứng dậy. Chúng tôi bỏ dép và rón rén đi ra cửa. Bên ngoài cơn bão vẫn đang dữ dội; tuyết ào ào đổ xuống từ đỉnh núi. Ở tầm thấp hơn, những dòng nước đen đầy bụi đá dội xuống từ Potala và Chakpori. Dọc theo con đường Thiêng những cột bụi khổng lồ đang chuyển động nhanh về thành phố. Tiếng gió hú và rít lên như thể những con quỷ đã phát điên đang chơi một bản giao hưởng điên dại vô nghĩa hoặc vô lý.
But there was another sound; a harsh, rasping purr-purr and the chink of the metal curtain as an old Tom butted his head against it to remind me that he and I were old friends. Idly I pushed my fingers through the links and scratched his head. Gently he “bit” my fingers in greeting, and then with his rough old tongue nearly scraped the skin off with the fervour of his licking! A suspicious movement further down the Temple—and he was off like a flash in order to protect “his” property.
“Wish we’d looked at the Shops!” whispered Timon. “Stupid!” whispered Yulgye, “you know they are shut during the storms.” “Be quiet you boys!” said a fierce Proctor, stepping out of the shadows and aiming a blow which caught poor Timon off balance, and sent him sprawling to the floor. A nearby monk looked disapprovingly at the scene, and twirled his Prayer Wheel furiously. The great Proctor, almost seven feet tall, stood over us like a human mountain and hissed, “If you boys make another squeak . . . I’ll tear you apart with my hands and toss the pieces to the dogs outside. Now, be quiet!” With a last scowl in our direction, he turned and vanished into the shadows. Carefully, afraid of even the rustle of his robes, Timon rose to his feet. We slipped off our sandals and tiptoed to the door. Outside the storm was still raging; from the mountain pinnacles pennants of dazzlingly white snow streamed out. From lower reaches, from the Potala and Chakpori black streams of dust and stones flowed. Along the Sacred Way great columns of dust raced into the City. The wind howled and screeched as if even the devils had gone crazy and were playing a mad cacophony without sense or reason.
Bám chặt lấy nhau, chúng tôi rón rén đi về phía nam vòng qua Jo Kang, đi tìm chỗ ẩn náu ở một hốc tường sau lưng Nhà Hội đồng. Một cơn lốc mạnh và hỗn loạn đe dọa nhấc bổng chúng tôi lên và ném chúng tôi qua tường vào bên trong Ni viện Tsang Kung. Chúng tôi rùng mình khi nghĩ đến điều đó, và cố nép vào bức tường. Đạt được mục đích, chúng tôi ngồi dựa lưng vào tường thở dốc vì những nỗ lực vừa làm được. “*****”, Timon nói, “ước gì tôi có thể niệm thần chú vào lão Giám thị! Lobsang, người Thầy đáng kính của cậu có thể làm được việc đó. Hay là cậu có thể thuyết phục Ngài biến lão đó thành con lợn được không,” cậu ta hy vọng nói thêm. Tôi lắc đầu, “ Tôi biết chắc là Ngài sẽ không làm đâu,” tôi đáp lại, “bởi vì Lạt ma Minh gia Đại đức không bao giờ làm hại đến con người hay con vật. Nhưng, kể ra cũng hay nếu biến được lão Giám thị thành một cái gì đó. Lão ta là một kẻ côn đồ!”
Holding on to each other, we crept southwards round the Jo Kang, seeking the shelter of an alcove at the back of the Council Hall. The torrent of turbulent air threatened to lift us from our feet and blow us over the wall into the Tsang Kung Nunnery. We shivered at the mere thought, and pressed on to shelter. Our objective attained, we leaned back, our breath coming in great sobs from the efforts we had made. “* * * * *”, said Timon, “I wish I could put a spell on that * * * * * Proctor! Your Honourable Guide could do it, Lobsang. Perhaps you could persuade him to turn that * * * * * into a pig,” he added hopefully. I shook my head, “I am sure he would not,” I replied, “for the Lama Mingyar Dondup never does ill to man or beast. Still, it would be nice to have the Proctor turn into something else. He was a bully!”
Cơn bão đã dịu đi. Những cơn gió lạnh giá thổi quanh các mái hiên không còn rít lên nữa. Những viên đá lúc trước được gió mang đến đang rơi xuống đường và va lách cách trên mái nhà. Bụi cũng không lùa vào cà sa của chúng tôi nhiều lắm. Tây Tạng là một vùng đất ở trên cao và không có gì che chắn. Những cơn gió bị dồn lại ở phía sau các dãy núi và thổi ào ào dữ dội qua các con đèo, thường xuyên hất văng những du khách đến chết trong các khe núi. Những luồng gió mạnh gào thét qua hành lang các tu viện, quét chúng sạch sẽ, thổi bay bụi đất trước khi nổi lên rú rít qua thung lũng và đến các khoảng đất trống trải bao la ở phía bên kia.
The storm was abating. Less shrill was the keening of the wind around the eaves. Pebbles previously wind-borne dropped to the roads and clattered against roof tops. Nor did the dust penetrate our robes so much. Tibet is a high and exposed country. Winds piled up behind the mountain ranges and rushed in a fury through the passes, frequently flinging travelers to their deaths in the ravines. Gusts of wind roared through lamasery corridors, sweeping them clean, blowing away dust and litter before emerging to scream through the valley, and on to the open stretches beyond.
Những tiếng ồn ào rú rít không còn nữa. Những đám mây giông cuối cùng vội vã bay qua bầu trời để lại vòm trời rộng lớn màu tím và trong sáng. Tia nắng mặt trời chói chang, lấp lánh sau sự u ám gây ra bởi cơn bão chiếu thẳng vào chúng tôi đến chói mắt. Có tiếng cọt kẹt, những cánh cửa được mở ra một cách thận trọng; những cái đầu xuất hiện để đánh giá sự thiệt hại sau cơn bão. Bà cụ già Raks tội nghiệp, chủ của ngôi nhà chúng tôi đang đứng gần, cửa sổ phía trước bị bay vào trong và cửa sổ bên sườn bị bay ra ngoài. Ở Tây Tạng, cánh cửa sổ được làm bằng giấy dầu rất dày, thấm dầu để người ta có thể nhìn ra ngoài ở một mức nhất định. Thực tế kính rất hiếm ở Lhasa, giấy được làm hoàn toàn bằng cây liễu và cói có giá rẻ. Chúng tôi lên đường về nhà – Chakpori – thỉnh thoảng dừng lại khi có bất cứ cái gì hấp dẫn sự chú ý.
The clamour and the tumult died. The last of the storm clouds raced across the sky leaving the vast vault of Heaven purple and pure. The harsh glare of the sun beat upon us, dazzling us with its brilliance after the murk and gloom of the storm. With grating creaks doors were cautiously opened; heads appeared and the damage of the day assessed. Poor old Mrs. Raks, near whose house we stood, had her front windows blown in and her rear windows blown out. In Tibet windows are of thick oiled paper, oiled so that one may, at some strain to the sight, see out. Glass is rare indeed in Lhasa, paper made from the plentiful willow and rushes is cheap. We set out for home—Chakpori—stopping whenever any item of interest attracted our gaze.
“Lobsang!” Timon nói, “này, các cửa hàng sẽ mở bây giờ đấy. Đi nào, không mất thời gian lắm đâu!” Nói vậy, cậu ta liền rẽ phải và đi nhanh hơn. Yulgye và tôi miễn cưỡng đi theo. Đến dãy phố buôn bán, chúng tôi háo hức nhìn xung quanh. Ở đây thật tuyệt! Chỗ nào cũng tràn ngập mùi trà, có nhiều loại hương xuất xứ từ Ấn Độ và Trung Quốc. Đồ trang sức, và những thứ từ nước Đức xa xôi, những thứ quá xa lạ đối với chúng tôi đến mức chẳng có ý nghĩa gì. Đi tiếp, chúng tôi vào một cửa hàng ở đó bán bánh kẹo, những thỏi kẹo dẻo, những chiếc bánh được phủ đường cô màu trắng hoặc nhiều màu. Chúng tôi nhìn và thèm khát; là những chủ tiểu nghèo, chúng tôi không có tiền và vì vậy không thể mua được cái gì, nhưng nhìn thì thoải mái.
“Lobsang!” said Timon, “say, the shops will be open now. Come on, it won’t take long!” So saying, he turned off to the right at a much faster pace. Yulgye and I followed with just the merest show of reluctance. Arrived at The Street of Shops we looked eagerly about us. What wonders there were! The all-pervading smell of tea, many types of incense from India and China. Jewelry, and things from far off Germany which were so strange to us as to have no meaning. Further along we came to a shop where sweets were sold, sticky things on sticks, cakes covered with white sugar or coloured icing. We looked and longed; as poor chelas we had no money and so could buy nothing, but to look was free.
Yugye huých nhẹ vào tay tôi và thì thầm, “Lobsang, cái lão to con kia có phải tên là Tzu, người mà trước đây đã chăm sóc cậu phải không?” Tôi quay lại và nhìn theo hướng cậu ta chỉ. Đúng! Đó chính là Tzu, người đã dạy tôi rất nhiều và cũng rất khắc nghiệt với tôi. Theo bản năng tôi bước tới gần và mỉm cười với ông ta. “Ông Tzu!” tôi nói, “Tôi là__” Ông ta quắc mắt nhìn tôi và gầm gừ, “Biến đi, thằng nhóc, đừng quấy rầy một người trung thực đang bận làm việc cho ông chủ. Mày không xin được gì từ tao đâu.” Ông ta đột ngột quay người và vội bỏ đi
Yulgye nudged my arm and whispered, “Lobsang, that big fellow, isn’t that Tzu who used to look after you?” I turned and stared in the direction where he pointed. Yes! It was Tzu all right, Tzu who had taught me so much and had been so very harsh with me. Instinctively I stepped forward and smiled up at him. “Tzu!” I said, “I am___” He scowled at me and snarled, “Get away, you boys, don’t pester an honest citizen about his Master’s business. You can’t beg from me.” He turned abruptly and strode away.
Tôi cảm thấy cay mắt và sợ rằng sẽ làm xấu mặt mình trước bạn bè. Không, tôi không thể nhỏ những giọt nước mắt xa xỉ, nhưng Tzu đã phớt lờ tôi, giả vờ như không biết tôi. Tzu, người đã dạy dỗ tôi từ khi tôi lọt lòng. Tôi nhớ đến việc ông ấy đã cố gắng dạy tôi cưỡi con ngựa Nakkim như thế nào, ông ấy đã dạy tôi đấu vật ra sao. Bây giờ ông ta đã từ chối tôi – hắt hủi tôi. Tôi cúi đầu, thất vọng, lấy chân vạch vạch lên đất. Hai người bạn đồng hành đứng bên cạnh, im lặng, lúng túng, và cũng có cảm giác như tôi, thấy rằng họ cũng bị coi thường. Có một sự việc đột ngột khiến tôi chú ý; một người Ấn Độ lớn tuổi để râu, đội khăn xếp, đi chậm rãi về phía tôi. “Thưa cậu!” ông ta nói lơ lớ giọng Tây Tạng, “tôi đã chứng kiến tất cả, nhưng không nghĩ xấu về người đàn ông đó đâu. Một số người trong chúng ta đã quên mất thời thơ ấu của mình. Tôi thì không: hãy đi với tôi.” Ông ta dẫn đến cửa hàng mà chúng tôi vừa ở đó. “Hãy để những cậu bé này lấy cái gì họ thích,” ông ta nói với người bán hàng. Ngượng ngùng mỗi người chúng tôi lấy một chiếc kẹo dẻo nhiều màu và cúi đầu cám ơn ông già Ấn Độ. “Không!Không!” ông kêu lên, “một cái không đủ, mỗi người lấy thêm cái nữa đi.” Chúng tôi lấy thêm, còn ông trả tiền cho người bán hàng. “Thưa ông!” tôi nói nhiệt thành, “Cầu Phật phù hộ, độ trì cho ông; chúc ông có nhiều niềm vui!” Ông mỉm cười nhân hậu với chúng tôi, hơi cúi đầu, và quay đi tiếp tục công việc của mình.
I felt my eyes grow hot and feared that I was going to disgrace myself in front of my friends. No, I could not afford the luxury of tears, but Tzu had ignored me, pretended not to know me. Tzu, who had taught me from birth. I thought how he had tried to teach me to ride my pony Nakkim, how he had taught me to wrestle. Now he had repudiated me—spurned me. I hung my head and disconsolately scratched the dust with my foot. By me, my two companions stood silent, awkward, feeling as I felt, finding that they too had been slighted. A sudden movement attracted my attention; an elderly bearded Indian, wearing a turban, walked slowly toward me. “Young sir!” he said in his queerly accented Tibetan, “I saw all, but think not ill of that man. Some of us have forgotten our childhood. I have not: Come with me.” He led the way to the shop at which we had so recently gazed. “Let these young men take their pick,” he said to the shopkeeper. Shyly each of us took one of those gorgeous sticky things and bowed gratefully to the Indian. “No! No!” he exclaimed, “one is not enough, take another each.” We did so, and he paid the smiling shopkeeper. “Sir!” I said fervently, “may the Blessing of Buddha be with you and protect you; may your joys be many!” He smiled benignly upon us, bowed slightly, and turned away to continue his business.
Chúng tôi chậm rãi đi về nhà, ăn kẹo thật chậm để giữ được lâu nhất có thể. Đã lâu rồi chúng tôi gần như đã quên mất mùi vị của những thứ này. Mùi vị của nó thơm ngon hơn hầu hết những cái khác bởi chúng đã đem lại cho chúng tôi cảm giác thật tuyệt vời. Vừa đi trên đường, tôi vừa nhớ đến lần đầu tiên cha đã phớt lờ tôi trên các bậc thềm của Potala, và bây giờ Tzu cũng từ chối tôi. Yugye phá vỡ sự im lặng; “Lobsang, thế giới này thật nực cười, bây giờ chúng ta là những đứa trẻ và chúng ta bị lạnh nhạt, hắt hủi. Khi chúng ta trở thành các lạt ma, những cái đầu đen này sẽ chạy đến xin chúng ta làm phúc!” Ở Tây Tạng, những người thế tục được gọi là “Đầu đen” bởi vì họ có tóc; còn sư, tất nhiên, bị cạo trọc đầu.
Slowly we made our way home, slowly eating our sweets in order to make them last as long as possible. We had almost forgotten what such things tasted like. These tasted better than most because they had been given with such good feeling. I reflected, as we walked along, that first my Father had ignored me upon the steps of the Potala, and now Tzu had ignored me. Yulgye broke the silence; “It’s a funny world, Lobsang, now we are boys we are ignored and snubbed. When we are lamas the Blackheads will come running for our favour!” In Tibet, the laity are referred to as “Blackheads” because they have hair on their heads; monks, of course, have shaven heads.
Tối hôm đó tại buổi lễ tôi rất chăm chú; tôi xác định sẽ làm việc chăm chỉ để có thể trở thành lạt ma càng sớm càng tốt, rồi tôi sẽ bước đi giữa những cái “Đầu đen” này và từ chối họ khi họ cầu xin giúp đỡ. Tôi đã thực sự tập trung đến mức khiến viên Giám thị phải chú ý. Ông ta nhìn tôi đầy nghi ngờ, nghĩ rằng sự tận tụy như vậy của tôi là hoàn toàn không tự nhiên! Ngay sau khi buổi lễ kết thúc, tôi vội chạy về phòng mình vì biết ngày mai sẽ là một ngày bận rộn với Lạt ma Minh gia Đại đức. Mãi mà tôi không thể ngủ được. Tôi trằn trọc và nghĩ về quá khứ, về những khó nhọc mà tôi đang trải qua.
Sáng thức dậy, tôi ăn sáng rồi chuẩn bị lên đường đến khu của các Lạt ma. Vừa ra khỏi phòng, một nhà sư to lớn nặng nề áo choàng xộc xệch giữ lấy tôi. “Này, thằng nhóc!” ông ta nói, “sáng nay mày phải làm việc ở trong bếp – phải rửa cả cối xay đá nữa!” “Nhưng thưa ông!” tôi trả lời, “ Thầy tôi là Lạt ma Minh gia Đại đức cho gọi tôi.” Tôi định len qua để đi. “ Không, mày phải đi với tao. Không cần biết ai cần mày, tao đã nói là mày phải đi làm ở nhà bếp.” Ông ta nắm lấy tay tôi và vặn nó khiến tôi không thể thoát được. Miến cưỡng tôi phải đi cùng với ông ta, không có lựa chọn nào khác.
That evening at the Service I was very attentive; I determined to work hard so that I should become a lama as soon as possible, then I would stride among those “Blackheads” and spurn them when they sought my services. I was indeed so attentive that I attracted the attention of a Proctor. He regarded me with high suspicion, thinking such devotion from me was wholly unnatural! As soon as the Service ended I hurried away to my quarters as I knew I would have a busy day with the Lama Mingyar Dondup on the morrow. For some time I could not sleep. I tossed and turned and thought of the past and of the hardships I had undergone.
In the morning I arose and had my breakfast and then was about to make my way to the Lamas’ Quarters. As I was leaving the room a hulking monk in a tattered robe grabbed me. “Hey, you!” he said, “you work in the kitchen this morning—cleaning millstones too!” “But Sir!” I replied, “my Guide the Lama Mingyar Dondup wants me.” I attempted to squeeze past. “No, you come with me. Doesn’t matter who wants you, I say you are going to work in the kitchen.” He grabbed my arm and twisted it so that I could not escape. Reluctantly I went with him, there was no choice.
Ở Tây Tạng, chúng tôi phải luân phiên đi làm việc chân tay, những công việc của đầy tớ theo nghĩa vụ. Có người nói, “Đó là những bài học về sự khiêm tốn!” Người khác nói, “Để cho những người trẻ tuổi tránh tự cao tự đại!” Người thứ ba nói, “Để xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp!” Những nam sinh – và các sư – phải làm bất cứ việc gì được phân công, đó là qui định. Tất nhiên, trong nội bộ cũng có một đội ngũ các tu sỹ cấp thấp hơn, nhưng nam sinh và sư ở tất cả các cấp đều phải luân phiên nhau làm những công việc mạt hạng và khó chịu nhất, coi như là để rèn luyện. Tất cả chúng tôi đều ghét điều đó vì cái “qui tắc” – tất cả mọi người đều thấp kém – đã đối xử với chúng tôi như nô lệ và biết rõ rằng chúng tôi không thể phàn nàn. Than phiền ư? Điều đó thật khó!
In Tibet we all took our turn at manual, at menial tasks. “Teaches humility!” said one. “Prevents a boy from getting above himself!” said another. “Knocks out class distinctions!” said a third. Boys—and monks—work at any task assigned purely as discipline. Of course, there was a domestic staff of lower-grade monks, but boys and monks of all grades had to take turns at the lowest and most unpleasant tasks as training. We all hated it as the “regulars”—inferior men all—treated us as slaves, well knowing that we could not possibly complain. Complain? It was meant to be hard!
Chúng tôi xuống một lối nhỏ lát đá, rồi qua các bậc thang làm bằng hai cây gỗ dựng thẳng đứng có các thanh gỗ khác cố định bắc qua để đi vào khu bếp nơi tôi đã từng bị bỏng nặng ở chân. “Đó!” ông sư đang giữ tôi nói, “hãy trèo lên và làm sạch các kẽ đá đi.” Cầm một chiếc que sắt nhọn, tôi leo lên một trong những chiếc cối xay lúa mạch to đùng và cần mẫn đào các mảnh vụn kẹt ở trong các rãnh. Phiến đá này đã bị bỏ quên, và bây giờ, thay cho việc xay lúa, nó chỉ làm hỏng lúa mà thôi. Nhiệm vụ của tôi là “làm đẹp” bề mặt của nó sao cho sắc bén và sạch sẽ trở lại. Ông sư đứng bên cạnh, nhẩn nha xỉa răng.
“Này!” một giọng nói hét lên từ cửa, “Tuesday Lobsang Rampa. Có Tuesday Lobsang Rampa ở đây không? Lạt ma Minh gia Đại đức đang cần gặp cậu ấy ngay.” Theo bản năng tôi đứng dậy và nhảy ra khỏi phiến đá. “Tôi đây!” tôi nói to. Ông sư đấm mạnh vào đầu tôi khiến tôi ngã xuống sàn. “Tao đã nói là mày phải ở đây và làm việc của mày đi.” Ông ta gầm lên. “Nếu có ai muốn mày thì ông ta phải tự thân đến đây.” Túm lấy gáy tôi, ông ta nhấc tôi lên và lẳng tôi lên phiến đá. Đầu tôi đập vào một góc, và tất cả sao trên trời bùng cháy trong tâm thức tôi trước khi mờ dần và để lại một thế giới trống không và đen tối.
Down the stone corridor we went. Down the steps made of two wooden uprights with bars fixed across. Into the great kitchens where I had been so badly burned on the leg. “There!” said the monk who was holding me, “get up and clean out the grooves in the stones.” Picking up a sharp metal spike, I climbed on to one of the great barley-grinding wheels and industriously dug into the crushed debris lodged in the grooves. This stone had been neglected, and now, instead of grinding, it had just spoiled the barley. My task was to “dress” the surface so that it was again sharp and clean. The monk stood by, idly picking his teeth.
“Hey!” yelled a voice from the entrance, “Tuesday Lobsang Rampa. Is Tuesday Lobsang Rampa here? The Honourable Lama Mingyar Dondup wants him immediately.” Instinctively I stood up and jumped off the stone. “Here I am!” I called. The monk brought his balled fist down hard on the top of my head, knocking me to the ground. “I say you will stay here and do your work,” he growled. “If anyone wants you, let him come in person.” Catching me by the neck, he lifted me and flung me on to the stone. My head struck a corner, and all the stars in the heavens flamed into my consciousness before fading and leaving the world blank and dark.
Thật kỳ lạ, tôi có cảm giác được nhấc lên – đặt nằm ngang – và rồi tôi đứng lên. Ở đâu đó có tiếng cồng âm vang dường như rung lên thông báo các giây phút của cuộc đời, nó kêu “bong-bong-bong” và với cú đánh cuối cùng tôi có cảm giác như bị sét đánh. Ngay lập tức thế giới trở nên bừng sáng với ánh sáng màu vàng nhạt, một thứ ánh sáng mà tôi có thể nhìn được rõ hơn bình thường. “Ồ,” tôi tự nhủ, “vậy là tôi đã thoát xác! Ôi! Trông tôi thật là lạ!”
Tôi đã có kinh nghiệm đáng kể về du hành thể vía, tôi cũng đã chu du vượt qua giới hạn của trái đất già nua của chúng ta, và tôi cũng đã đi đến nhiều thành phố lớn trên hành tinh này. Dù vậy nhưng giờ tôi mới có trải nghiệm đầu tiên về việc “bắn ra khỏi thể xác của mình”. Tôi đứng bên cạnh cối xay đá, chán chường nhìn xuống hình dáng nhỏ bé xộc xệch trong chiếc áo choàng rách rưới đang nằm vắt trên phiến đá. Tôi chăm chú nhìn xuống, và chỉ chú tâm quan sát thể vía của mình kết nối với cái hình hài te tua kia bằng một sợi chỉ màu trắng xanh, nó dập dờn và rung động, sáng lên rồi lại mờ đi, rồi lại sáng lên và mờ đi. Thế rồi tôi lại nhìn gần hơn vào thể xác của mình đang vắt trên phiến đá, kinh hoàng thấy một vết rách lớn trên thái dương bên trái, từ đó một dòng máu đỏ thẫm đang chảy ra, nhỏ xuống các rãnh đá và thấm vào những mảnh vỡ của lúa mạch chưa được cậy lên.
Strangely, I had a sensation of being lifted—lifted horizontally—and then stood on my feet. Somewhere a great deep-toiled gong seemed to be tolling out the seconds of life, it went “bong-bong-bong” and with a final stroke I felt that I had been struck by blue lightning. On the instant the world grew very bright, bright with a kind of yellowish light, a light in which I could see more clearly than normal. “Ooo,” I said to myself, “so I am outside of my body! Oh! I do look strange!”
I had had considerable experience of astral travelling, I had traveled far beyond the confines of this old earth of ours, and I had traveled also to many of the greatest cities upon this globe. Now, though, I had my first experience of being “jumped out of my body”. I stood beside the great mill-stone looking down with considerable distaste at the scruffy little figure in the very tattered robe lying on the stone. I gazed down, and it was only a matter of passing interest to observe how my astral body was joined to that battered figure by a bluish white cord which undulated and pulsed, which glowed brightly and faded, and glowed and faded again. Then I gazed more closely at my body upon this stone slab, and was appalled at the great gash over the left temple from whence oozed dark red blood, blood which seeped down into the stone grooves and mixed inextricably with the debris which so far had not been dug out.
Đột nhiên có tiếng ồn ào khiến tôi chú ý, tôi quay lại và thấy Thầy của tôi, Lạt ma Minh gia Đại đức, đang đi vào trong bếp, mặt ông trắng bệch vì tức giận. Ông sải bước về phía trước và dừng lại trước nhà sư bếp trưởng – người đã xử sự thô bạo với tôi. Không một lời nói nào, không ai nói câu gì, thật là một sự im lặng chết chóc. Đôi mắt sắc lạnh của Thầy như một tia chớp đánh vào sư bếp trưởng, với một tiếng xì như quả bóng bị chọc thủng, ông ta đổ quỵ xuống như một đống thịt trên sàn đá. Không thèm liếc nhìn lấy một giây, Thầy quay đi, đi đến chỗ cái xác của tôi đang nằm sõng xoài và thở khò khè trên cối xay đá.
Tôi nhìn quanh, tôi thực sự ngây ngất nghĩ rằng bây giờ mình có thể thoát xác ở khoảng cách gần. Đi “du hành xa” trong thể vía không là gì cả, tôi thường xuyên có thể làm được việc đó, nhưng cảm giác thoát xác lần này và nhìn xuống cái xác của chính mình là một trải nghiệm mới, hấp dẫn đối với tôi.
A sudden commotion attracted my attention, and as I turned I saw my Guide, the Lama Mingyar Dondup, entering the kitchen, his face white with anger. He strode forward and came to a halt right before the head monk of the kitchen—the monk who had treated me so badly. No word was spoken, no word at all, in fact there was a hushed and deathly silence. My Guide’s piercing eyes seemed to strike lightning into the kitchen monk, with a sigh like a punctured balloon he subsided into an inert mass on the stone floor. Without sparing a second glance at him my Guide turned away, turned to my earthly figure stretched out, breathing stertorously upon that stone circle.
I looked about me, I was really fascinated to think that I was now able to get out of my body for short distances. Going “far travels” in the astral was nothing, I always had been able to do that, but this sensation of getting out of myself and looking down upon my earthly suit of clay was a new, intriguing experience.
Bỏ qua những gì đang xảy ra quanh mình một lát, tôi tự thả trôi – trôi lên xuyên qua trần nhà bếp. “Ồ!” tôi chợt thốt lên khi đi xuyên qua trần nhà bằng đá để đi vào căn phòng phía trên. Ở đó đang có một nhóm các lạt ma đang ngồi trầm tư. Tôi thích thú khi thấy mỗi người có một mô hình thế giới để trước mặt, đó là một quả cầu hình tròn trên đó có vẽ hình các lục địa và các vùng đất, các đại dương và biển, và quả cầu đó được cố định ở một góc độ, tương ứng với độ nghiêng của chính trái đất trong không gian. Tôi không nấn ná ở đó một lát, hình như đối với tôi nó quá giống như đang học bài, tôi bay tiếp lên trên. Qua một cái trần khác, một cái nữa rồi lại một cái nữa, và rồi đứng trong một nhà mồ! Xung quanh tôi là những bức tường lớn dát vàng, trong đó là những ngôi mộ của các hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong nhiều thế kỷ qua. Tôi dừng lại ở đây trầm ngâm tôn kính một lát, rồi cho phép mình bay lên, bay lên nữa đến lúc cuối cùng nhìn thấy phía dưới là Potala lộng lẫy với toàn bộ màu vàng lấp lánh, màu đỏ tươi và những bức tường màu trắng kỳ diệu, dường như hòa tan vào đá núi sống động ở đó.
Ignoring the happenings about me for a moment, I let myself drift—drift up through the ceiling of the kitchen. “Ow!” I said involuntarily as I passed through the stone ceiling into the room above. Here were seated a group of lamas in deep contemplation. I saw with some interest that they had a sort of model of the world before them, it was a round ball upon which were indicated continents and lands and oceans and seas, and the round ball was fixed at an angle, the angle corresponding to the tilt of the earth itself in space. I did not tarry there, this seemed to me to be too much like lesson work, I journeyed upwards. Through another ceiling, through another, and yet another, and then I stood in the Room of the Tombs! About me were the great golden walls which supported the tombs of the Incarnations of the Dalai Lama for centuries past. I stood here in reverent contemplation for some moments, and then allowed myself to drift upwards, upwards, so that at last below me I saw that glorious Potala with all its gleaming gold, with all its scarlet and crimson and with the wondrous white walls which seemed to melt into the living rock of the mountain itself.
Nhìn sang phải một chút tôi có thể trông thấy làng Sho và tiếp theo đó là thành phố Lhasa trên nền những ngọn núi xanh ngắt. Khi bay lên, tôi có thể thấy không gian vô tận của vùng đất hiền hòa dễ chịu của chúng tôi, một nơi có thể khắc nghiệt và tàn khốc qua những biến động không thể biết trước của thời tiết, nhưng đối với tôi, đó là nhà!
Một cú giật rất mạnh khiến tôi chú ý và thấy mình bị cuốn tròn, như tôi thường cuộn dây diều khi diều nó bay vút lên trên trời. Tôi chìm dần xuống, xuống đến Potala, xuyên qua những sàn nhà đồng thời cũng là trần nhà, rồi lại xuyên qua các sàn nhà, đến cuối cùng tôi cũng tới đích và lại đứng bên cạnh cái xác của mình trong bếp.
Turning my gaze slightly to the right I could see the Village of Shö and beyond that the City of Lhasa with the blue mountains in the background. As I rose I could see the limitless spaces of our fair and pleasant land, a land which could be hard and cruel through the vagaries of unpredictable weather but which, to me, was home!
A remarkably severe tugging attracted my attention and I found myself being reeled in as I often reeled in a kite which was soaring in the sky. I sank down and down, down into the Potala, through floors which became ceilings, and through floors again, until at last I reached my destination and stood again beside my body in the kitchen.
Lạt ma Minh gia Đại đức nhẹ nhàng rửa thái dương bên trái của tôi – nhặt những mảnh vụn trong vết thương. “Chao ôi!” tôi vô cùng kinh ngạc tự thốt lên, “liệu có phải đầu tôi cứng đến nỗi làm nứt và mẻ cả đá không nhỉ?” Rồi tôi thấy rằng mình bị vỡ xương, tôi cũng thấy rất nhiều thứ được lôi ra từ trong đầu, đó là những mảnh vụn – rác – những mẩu đá nhỏ và những mảnh hạt đại mạch còn lại. Tôi quan sát một cách thích thú, và phải thú nhận rằng cũng khá thú vị khi đứng ở đây, bên cạnh cái xác của mình, trong thể vía, tôi không cảm thấy đau đớn, không khó chịu, chỉ thấy bình yên.
Cuối cùng Lạt ma kết thúc công việc của mình và Ngài đặt một miếng dán bằng thảo dược ép lên đầu tôi rồi băng vòng quanh bằng những dải lụa. Sau đó, ra hiệu cho hai nhà sư đang đứng với một chiếc cáng, Ngài hướng dẫn họ nhấc tôi lên thật cẩn thận.
Những người đàn ông – cũng là các vị sư cùng thứ bậc với tôi, nhẹ nhàng nhấc tôi lên và đặt vào cáng cùng với Lạt ma Minh gia Đại đức đi bên cạnh. Tôi được khênh đi.
The Lama Mingyar Dondup was gently bathing my left temple—picking pieces from it. “Good gracious!” I said to myself in profound astonishment, “is my head so thick that it cracked or chipped the stone?” Then I saw that I had a small fracture, I saw also a lot of the material being pulled from my head was debris—rubbish—the chippings of stone and the remnants of ground barley. I watched with interest, and—I confess—some amusement, for here standing beside my body in my astral body I felt no pain, no discomfort, only peace.
At last the Lama Mingyar Dondup finished his ministrations and he put a patch, a herbal compress, upon my head and bound it about with silken bonds. Then, motioning to two monks who stood by with a litter, he instructed them to lift me so carefully.
The men—monks of my own Order, gently lifted me and placed me upon that litter with the Lama Mingyar Dondup walking beside. I was carried off.
Tôi ngạc nhiên nhìn xung quanh mình, ánh sáng đã nhạt dần, tôi đã ở trạng thái này lâu đến mức hết ngày rồi à? Trước khi có câu trả lời, tôi thấy mình cũng đang mờ nhạt dần, màu vàng và xanh của ánh sáng tâm linh cũng giảm dần cường độ, và tôi có cảm giác khó cưỡng và thôi thúc là muốn nghỉ ngơi – ngủ một giấc và không bận tâm đến bất kỳ điều gì nữa. Tôi không còn biết gì nữa trong một thời gian và sau đó, đầu tôi phát ra những cơn đau dữ dội, cơn đau khiến tôi nhìn thấy màu đỏ và xanh lam, xanh lá cây và vàng, những cơn đau khiến tôi nghĩ chắc phát điên lên vì quá dữ dội. Một bàn tay mát lạnh đặt lên người tôi và một giọng nói dịu dàng cất lên, “Lobsang, ổn rồi đấy. Tốt rồi, hãy nghỉ đi, nghỉ đi, ngủ đi nhé!”Thế giới dường như biến thành chiếc gối lông mịn màng đen tối, mềm mại như lông vũ mà tôi đang đắm chìm vào một cách biết ơn, một cách yên bình, và chiếc gối này dường như đang bao bọc tôi đến nỗi tôi không còn biết gì nữa, và một lần nữa hồn tôi lại bay vút lên không trung, trong khi thân xác bầm dập vẫn đang nghỉ ngơi dưới đất.
I looked about me in considerable astonishment, the light was fading, had I been so long that the day was dying? Before I had an answer to that I found that I too was fading, the yellow and the blue of the spiritual light was diminishing in intensity, and I felt an absolutely overwhelming, absolutely overpowering urge to rest—to sleep and not to bother about anything. I knew no more for a time and then, through my head shot excruciating pains, pains which caused me to see reds and blues and greens and yellows, pains which made me think that I should go mad with the intense agony. A cool hand was placed upon me and a gentle voice said, “It is all right, Lobsang. It is all right, rest, rest, go to sleep!” The world seemed to become a dark fluffy pillow, the pillow was soft as swansdown into which I sank gratefully, peacefully, and the pillow seemed to envelop me so that I knew no more, and again my soul soared in space, while upon the earth my battered body remained at rest.
Phải mất nhiều giờ đồng hồ sau tôi mới tỉnh lại, tôi thức dậy và thấy Thầy đang ngồi bên cạnh, cầm lấy tay tôi trong tay Người. Khi tôi mở mắt, ánh sáng của buổi tối tràn vào, tôi mỉm cười yếu ớt, và Ngài cũng mỉm cười đáp lại, rồi thả tay tôi ra, Ngài lấy một chiếc cốc có mùi rượu ngọt ở trên cái bàn nhỏ bên cạnh. Nhẹ nhàng đặt nó vào môi tôi, Ngài nói,”Uống hết đi, nó sẽ làm con khỏe lên đấy!” Tôi uống, và sự sống lại chảy trong tôi một lần nữa, mạnh mẽ đến mức tôi thử ngồi dậy. Tôi phải cố gắng rất nhiều; cảm giác như là có một chiếc chày khủng kiếp đang giã xuống đầu mình lần nữa, tôi thấy những tia sáng sống động, những chùm sao phát sáng, và lập tức tôi không muốn gắng sức nữa.
It must have been many hours later when I again regained consciousness, I awakened to find my Guide sitting beside me, holding my hands in his. As my eyelids fluttered upwards and the light of the evening streamed in, I smiled weakly, and he smiled back at me then, disengaging his hands, he took from a little table beside him a cup with some sweet smelling brew. Gently pressing it to my lips he said, “Drink this up, it will do you good!” I drank, and life flooded through me once again, so much so that I tried to sit up. The effort was too much; I felt as if a great club had been bashed down once more upon my head, I saw vivid lights, constellations of lights, and I soon desisted in my efforts.
Bóng tối đổ dài, từ bên dưới có tiếng kèn ốc, và tôi biết rằng buổi lễ đang sắp bắt đầu. Thầy tôi, Lạt ma Minh gia Đại đức, nói, “Lobsang, ta phải đi mất khoảng nửa tiếng vì Đức Thái Tuế muốn gặp ta, nhưng các bạn của con, Timon và Yugye đang ở đây chăm sóc con khi ta vắng mặt và sẽ gọi ta nếu có chuyện gì xảy ra.” Ngài nắm chặt tay tôi, đứng dậy và đi ra khỏi phòng.
Hai khuôn mặt thân quen xuất hiện, hoàn toàn vui mừng nhưng vẫn có phần sợ hãi. Họ ngồi xuống bên cạnh tôi, rồi Timon nói, “Lobsang này! Bếp trưởng đã bị gọi lên để hỏi về tất cả việc này đấy!” “Đúng rồi,” cậu kia nói, “ông ta đã bị đuổi ra khỏi tu viện vì hành vi vô cùng thô bạo và quá đáng. Bây giờ ông ta đang bị dẫn giải ra ngoài rồi!” Họ thi nhau nói với vẻ phấn khích, rồi Timon nói tiếp, “Tôi tưởng cậu đã chết rồi, Lobsang ạ, cậu thực sự bị chảy máu nhiều như là một con bò bị giết vậy!” Tôi thực sự phải mỉm cười khi nhìn họ, giọng họ mới phấn khích làm sao để giải tỏa sự đơn điệu tẻ nhạt của cuộc sống trong tu viện. Tôi không có ác cảm với họ vì sự phấn khích đó, biết rằng mình cũng sẽ như họ nếu nạn nhân không phải là mình. Tôi mỉm cười với họ và rồi sau đó không cưỡng lại được sự mệt mỏi đang đè nặng, tôi nhắm mắt lại định cho nó nghỉ ngơi trong chốc lát, nhưng một lần nữa tôi lại chìm vào vô thức.
The evening shadows lengthened, from below me came the muted sound of the conches, and I knew that the Service was about to start. My Guide, the Lama Mingyar Dondup, said, “I have to go for half an hour, Lobsang, because the Inmost One wants me, but your friends Timon and Yulgye are here to look after you in my absence and to call me should the occasion arise.” He squeeze my hands, rose to his feet, and left the room.
Two familiar faces appeared, half frightened and wholly excited. They squatted down beside me, and Timon said, “Oh, Lobsang! Did the Kitchen Master get a telling off about all this!” “Yes,” said the other, “and he is being turned out of the Lamasery for extreme, unnecessary brutality. He is being escorted out now!” They were bubbling with excitement and then Timon said again, “I thought you were dead, Lobsang, you really did bleed like a stuffed yak!” I really had to smile as I looked at them, their voices showed how thrilled they were at any excitement to relieve the drab monotony of life in a lamasery. I held no grudge against them for their excitement, knowing that I too would have been excited if the victim had been other than I. I smiled upon them and was then over-powered by an oppressive tiredness. I closed my eyes, intending to rest them for a few moments, and once again I knew no more.
Trong vài ngày, có lẽ bảy hay tám ngày cả thảy, tôi nằm nghỉ còn Thầy tôi, Lạt ma Minh gia Đại đức đóng vai trò như y tá, nhưng đối với Ngài lẽ ra Ngài không cần phải cứu sống tôi, vì cuộc sống trong tu viện không nhất thiết phải dịu dàng hay tốt bụng, thực tế nó là sự sống còn của kẻ mạnh nhất. Lạt ma là một người tử tế, giàu lòng thương người, nhưng dù Ngài có là một người khác thì cũng sẽ có những lý do chính đáng nhất để giữ lại sự sống cho tôi. Như tôi đã nói trước đây, tôi phải thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt trong cuộc đời, và tôi đã cho rằng những vất vả mình phải trải qua khi còn nhỏ dù sao cũng là một cách để rèn luyện cho tôi trở nên bất chấp khó khăn và gian khổ, bởi vì những lời tiên tri mà tôi đã được nghe – cũng rất ít thôi! – đã nói rằng cuộc đời tôi sẽ là một cuộc đời đau buồn và khổ cực.
For several days, perhaps seven or eight in all, I rested upon my back and my Guide, the Lama Mingyar Dondup, acted as my nurse, but for him I should not have survived, for life in a lamasery is not necessarily gentle or kind, it is indeed survival of the fittest. The Lama was a kind man, a loving man, but even had he been otherwise there would have been the greatest reasons for keeping me alive. I, as I have said before, had a special task to do in life, and I supposed that the hardships which I was undergoing as a boy were meant in some way to toughen me, to make me become immured to hardship and suffering, for all the prophecies that I had heard—and I had heard quite a few!—had indicated that my life would be a life of sorrow, a life of suffering.
Nhưng không phải lúc nào cũng là đau khổ, khi sức khỏe tốt lên, tôi đã có nhiều cơ hội để nói chuyện với Thầy. Chúng tôi nói chuyện về nhiều thứ, cả về những chủ đề chung cũng như những chủ đề riêng tư nhất. Chúng tôi nói nhiều về những chủ đề huyền bí khác nhau, tôi nhớ có lần đã nói, “Thưa Lạt ma tôn kính, thật tuyệt diệu nếu trở thành một người thủ thư và như vậy sẽ được sở hữu tất cả kiến thức của thế giới. Con sẽ là thủ thư nếu không vì những lời tiên tri khủng khiếp cho tương lai của con.” Thầy mỉm cười với tôi. “Người Trung quốc đã có câu, ‘một bức hình đáng giá hơn ngàn lời nói’, Lobsang à, nhưng ta phải nói rằng dù có đọc hay xem hình nhiều bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không thể thay thế được trải nghiệm và kiến thức thực tế.” Tôi nhìn Ngài để xem Ngài có nghiêm túc không, và rồi tôi nghĩ về nhà sư người Nhật bản, Kenji Teekeuchi, người đã nghiên cứu các chữ in trong suốt gần 70 năm nhưng đã không thực hành hay tiếp thu bất kỳ cái gì ông ta đã đọc.
But it was not all suffering, as my condition improved there were more opportunities for talk with my Guide. We talked of many things, we covered common subjects and we covered subjects which were most uncommon. We dealt at length with various occult subjects, I remember on one occasion saying, “It must be a wonderful thing, Honourable Lama, to be a librarian and so possess all the knowledge in the world. I would be a librarian were it not for all these terrible prophecies as to my future.” My Guide smiled down upon me. “The Chinese have a saying, ‘a picture is worth a thousand words,’ Lobsang, but I say that no amount of reading nor looking at pictures will replace practical experience and knowledge.” I looked at him to see if he were serious and then I thought of the Japanese monk, Kenji Tekeuchi, who for almost seventy years had studied the printed word and had failed to practice or to absorb anything that he had read.
Thầy đã đọc được suy nghĩ của tôi. “Đúng thế!” Ngài nói, “Ông già ấy không phải là người mất trí. Ông ta đã tự mình chối bỏ trí tuệ khi đọc mọi thứ, đọc bất cứ cái gì và chẳng hấp thụ được chút nào từ chúng. Ông ta tưởng rằng mình là một người vĩ đại, một người có thể vượt qua cả tâm linh. Nhưng thực ra ông ta là một ông già ngớ ngẩn tội nghiệp, người đã không lừa dối ai nhiều như lừa dối chính mình.” Lạt ma thở dài buồn bã và nói, “Ông ta bị mất hết lý trí, tưởng là biết tất cả nhưng thực ra chẳng biết gì. Việc đọc một cách vô cảm, tùy tiện, thiếu phân biện và những lời khuyên bệnh hoạn trong đủ mọi loại sách sẽ làm cho con đường của người đó thật nguy hiểm. Người đàn ông này theo tất cả các tôn giáo lớn nhưng chẳng hiều gì về chúng, vậy mà ông ta vẫn tự xây dựng hình tượng như một con người tâm linh vĩ đại nhất.”
My Guide read my thoughts “Yes!” he said, “the old man is not mental. He gave himself mental indigestion by reading everything and anything and not absorbing any of it. He imagines that he is a great man, a man of surpassing spirituality. Instead he is a poor old blunderer who deceives no one so much as himself.” The Lama sighed sadly and said, “He is spiritually bankrupt, knowing all but knowing nothing. The insensate, indiscriminate and ill-advised reading of all that comes one’s way is dangerous. This man followed all the great religions and, understanding none of them, he yet set himself up as the greatest spiritual man of all.”
“Thưa Lạt ma tôn kính!” tôi nói, “nếu đọc sách là có hại như vậy thì tại sao lại sinh ra sách?” Thầy nhìn tôi với con mắt trống rỗng trong một lúc. (“Haha!” tôi nghĩ, “Ngài không biết câu trả lời cho câu hỏi đó rồi!”) Thế rồi Ngài lại mỉm cười và nói, “Nhưng Lobsang yêu quý, câu trả lời rất rõ ràng đấy thôi! Hãy đọc, đọc đi và đọc lại, nhưng đừng bao giờ để bất kỳ cuốn sách nào lấn át khả năng phân biện cũng như sự sáng suốt của con. Sách là để dạy, để hướng dẫn hay thậm chí để giải trí. Sách không phải là một ông thầy để theo một cách mù quáng và không lý do. Chẳng ai khôn ngoan mà lại trở thành nô lệ của sách vở hay lời nói của người khác cả.” Tôi ngồi xuống và gật đầu. Đúng vậy, điều đó nghe có lý. Nhưng rồi, tại sao phải buồn phiền vì sách?
“Honourable Lama!” I said, “if it be so harmful to have books, why are there books?” My Guide looked blankly at me for a moment. (“Ha!” I thought, “he does not know the answer to that one!”) Then he smiled again and said, “But my dear Lobsang, the answer is so obvious! Read, read, and read again, but never let any book over-power your discrimination nor your discernment. A book is meant to teach, to instruct or even to amuse. A book is not a master to be followed blindly and without reason. No person possessed of intelligence should ever be enslaved by a book or by the words of another.” I sat back and nodded my head. Yes, that made sense. But then, why bother with books?
“Lobsang, sách à?” Thầy nói để trả lời băn khoăn của tôi. “Tất nhiên, phải có sách! Những thư viện trên thế giới chứa đựng phần lớn những kiến thức của nhân loại, nhưng chẳng ai, trừ kẻ ngốc mới nói rằng con người là nô lệ của sách vở. Sách tồn tại đơn thuần là để hướng dẫn cho con người, để họ tham khảo và sử dụng. Thực tế là khi một cuốn sách không được sử dụng đúng cách có thể trở thành tai họa, bởi nó khiến người ta tưởng rằng mình ghê gớm và điều đó làm họ cứ phải đi lòng vòng trong cuộc sống, trên con đường mà họ chẳng có tí hiểu biết cũng như sự khôn ngoan để đi đến cùng.” “Vâng, thưa Lạt ma đáng kính!” tôi hỏi lại, “vậy công dụng của sách là gì?” Thầy nghiêm nghị nhìn tôi và nói, “Con không thể đi đến khắp nơi trên thế giới và được học từ những người thầy giỏi nhất trên thế giới, nhưng những câu từ được in ra-đó là sách-có thể mang những bài học đến cho con. Con không buộc phải tin vào tất cả những gì con đã đọc, hoặc làm theo những gì mà thậm chí các tác giả vĩ đại bảo con phải làm, con nên tự mình đánh giá và biến những lời thông thái của họ thành trí tuệ của mình. Ta có thể đảm bảo với con rằng khi một người chưa sẵn sàng để học một chủ đề, thì có thể tự hại mình một cách vô lường ở chỗ bám lấy một cuốn sách – như đã từng xảy ra – cố tự nâng mình lên trên mức nghiệp quả của bản thân, học vẹt và lặp lại những câu từ của người khác. Rất có thể người đọc là một người ở trình độ phát triển thấp, và trong trường hợp này, khi cố học những thứ mà hiện tại chưa thích hợp với anh ta, thì có thể bị tổn hại hơn là phát triển linh hồn của mình. Ta đã biết nhiều trường hợp như vậy và người bạn Nhật của chúng ta là một ví dụ.”
“Books, Lobsang?” said my Guide in answer to my query. “Of course there must be books! The libraries of the world contain most of the knowledge of the world, but no one but an idiot would say that mankind is the slave of books. Books exist merely to be a guide unto mankind, to be there for his reference, for his use. It is indeed a fact that books misused can be a curse, for they lead a man to feel that he is greater than he is and thus to lead him to devious paths in life, paths which he has not the knowledge nor the wit to follow to the end.” “Well, Honourable Lama,” I asked again, “what are the uses of books?” My Guide looked hard at me and said, “You cannot go to all the places in the world and study under the greatest Masters of the world, but the printed word—books—can bring their teachings to you. You do not have to believe everything you read, nor do the great masters of writing ever tell you that you should, you should use your own judgement and use their words of wisdom as a pointer to what should be your words of wisdom. I can assure you that a person who is not ready to study a subject can harm himself immeasurably by getting hold of a book and—as it were—trying to raise himself above his kharmic station by studying the words and the works of others. It may well be that the reader is a man of low evolutionary development, and in that case, in studying the things which at the present are not for him, he may stunt rather than enhance his spiritual development. I have known many such cases and our Japanese friend is just one.”
Thầy rung chuông gọi trà, một thứ phụ gia cần thiết nhất cho các cuộc thảo luận của chúng tôi! Khi trà được một sư hầu cận mang đến, chúng tôi lại tiếp tục cuộc trao đổi, Thầy nói, “Lobsang! Con sắp phải trải qua một cuộc sống không bình thường và con buộc phải tự phát triển bản thân cho đến cuối đời, khả năng thần giao cách cảm của con phải được tăng lên bằng mọi cách mà chúng ta có. Bây giờ ta đang sắp nói với con rằng chỉ trong vài tháng thôi con phải nghiên cứu bằng thần giao cách cảm cùng với thấu thị một số cuốn sách vĩ đại nhất thế giới – những kiệt tác văn học của thế giới, và con sẽ nghiên cứu chúng bất kể con còn thiếu kiến thức về ngôn ngữ dùng để viết ra chúng.” Tôi e rằng tôi đã há hốc mồm kinh ngạc nhìn Ngài, làm sao tôi có thể nghiên cứu một cuốn sách viết bằng một thứ ngôn ngữ mà tôi không biết? Điều đó làm tôi bối rối, nhưng ngay lập tức tôi đã nhận được câu trả lời. “Khi khả năng thần giao cách cảm và thấu thị của con trở nên nhạy bén hơn một chút – vì nó sẽ là như thế – thì con sẽ có thể nắm bắt được toàn bộ suy nghĩ về cuốn sách của những người chỉ vừa đọc nó hoặc những người hiện đang đọc nó. Đây là một trong những ứng dụng ít được biết đến của thần giao cách cảm, tất nhiên, trong những trường hợp như vậy, phải kết hợp với khả năng thấu thị. Người dân ở những nơi khác nhau trên thế giới không phải lúc nào cũng có thể đến được thư viện công cộng hoặc đến một trong những trung tâm thư viện hàng đầu của một quốc gia, họ có thể qua được cửa nhưng họ sẽ không được chấp nhận trừ khi chứng minh được rằng họ đúng là một sinh viên đang đi tìm kiếm kiến thức. Con sẽ không gặp những trở ngại như vậy, con sẽ có thể du hành thể vía để học tập và điều đó sẽ giúp con trong suốt cuộc đời, tới khi con đi hết cuộc đời này.”
My Guide rang for tea, a most necessary adjunct to all our discussions! When tea had been brought by the monk-servant we again resumed our discussion, My Guide said, “Lobsang! You are going to have a most unusual life and to that end your development is being forced, your telepathic powers are being increased by any method at our disposal. I am going to tell you now that in just a few months you are going to study by telepathy allied to clairvoyance some of the greatest books of the world—some of the literary masterpieces of the world, and you are going to study them irrespective of lack of knowledge of the language in which they are written.” I am afraid that I gaped at him in real astonishment, how could I study a book written in a language which I did not know? That was a matter which puzzled me, but I soon received an answer. “When your powers of telepathy and clairvoyance are a little more acute—as they will be—you will be able to pick up the whole thoughts of a book from people who have just recently read the book or are at present engaged upon such reading. This is one of the lesser known uses of telepathy which, of course, must in such cases be allied to clairvoyance. People in other parts of the world cannot always get to a public library or to one of the leading library centres of a country, they may pass the door but unless they can prove that they are a genuine student in search of knowledge, they are not admitted. Such a bar will not be placed on you, you will be able to travel in the astral and study and that will help you all the days of your life, and to the time when you pass beyond this life.”
Ngài nói với tôi về việc sử dụng quyền năng. Lạm dụng sức mạnh huyền bí hoặc dùng nó để thống trị người khác nghĩa là sẽ phải chịu sự trừng phạt thật khủng khiếp. Những quyền năng bí ẩn, siêu hình và khả năng ngoại cảm chỉ được dùng cho việc thiện, chỉ để phục vụ người khác, chỉ để làm tăng toàn bộ khối lượng kiến thức của nhân loại. “Nhưng, thưa Lạt ma tôn kính!” tôi vội nói, “thế còn những người thoát xác bằng sự phấn khích hoặc chủ ý thì sao, khi họ bị kéo ra ngoài thân xác và rồi gần như chết vì sợ hãi thì sao, không có cách nào để cảnh báo cho họ ư?” Thầy mỉm cười buồn bã và nói, “Lobsang, đúng là có rất rất nhiều người đọc sách và cố gắng thể nghiệm mà không có vị thầy thích hợp bên cạnh. Nhiều người thoát xác hoặc bằng cách uống, hoặc bằng cách quá phấn khích hoặc quá say mê một cái gì đó đều không tốt cho tinh thần của họ, và rồi họ sẽ rơi vào hoảng loạn. Có một cách mà con có thể giúp, trong suốt cuộc đời mình, con nên cảnh báo cho những ai quan tâm rằng điều duy nhất phải sợ trong các vấn đề huyền bí, đó là nỗi sợ. Nỗi sợ cho phép những suy nghĩ không mong muốn, những thực thể không mong muốn xâm nhập và thậm chí kiểm soát anh ta, sở hữu anh ta, còn con, Lobsang, con nên nhắc đi nhắc lại rằng không có gì đáng sợ hơn chính nỗi sợ. Trong khi loại bỏ nỗi sợ, con sẽ làm cho nhân cách mạnh lên và khiến cho nhân cách trở nên thuần khiết hơn. Chính nỗi sợ đã gây ra chiến tranh, gây ra sự chia rẽ trên thế giới, khiến cho con người quay sang chống lại con người. Nỗi sợ, và chỉ riêng nỗi sợ, chính là kẻ thù, và nếu chúng ta vứt bỏ được nỗi sợ một lần và mãi mãi, thì khi đó – tin ta đi – sẽ không còn gì để phải sợ nữa.”
He told me of the uses of occultism. Misuse of occult power or the domination of another person by occult means brought a truly terrible punishment. Esoteric powers, metaphysical powers, and extrasensory perceptions were to be used only for good, only in the service of others, only to increase the sum total of knowledge contained in the world. “But, Honourable Lama!” I said, urgently, “how about people who get out of their bodies with excitement or with interest, how about when they fall out of their bodies and then nearly die of fright, can nothing be done to warn them?” My Guide smiled rather sadly at this as he said, “It is true, Lobsang, that many many people read books and try experiments without having a suitable Master at hand. Many people get out of themselves, either through drink or through over-excitement or through over-indulgence in something which is not good for the spirit, and then they panic. There is one way in which you can help, throughout your life you should warn those who enquire that the only thing to fear in occult matters is fear. Fear allows undesirable thoughts, undesirable entities to enter and even to take control of one, to take possession of one, and you, Lobsang, should repeat again and again that there is naught ever to fear other than fear itself. In casting out fear, then you strengthen humanity and make humanity purer. It is fear which causes wars, fear which makes dissension in the world, fear which turns man’s hand against man. Fear, and fear alone, is the enemy, and if we throw out fear once and for all then—believe me—there is nothing more that need be feared.”
Nỗi sợ, tất cả câu chuyện về nỗi sợ này là gì vậy? Tôi nhìn lên Thầy và cảm thấy như Ngài đã nhìn thấu câu hỏi chưa thành lời trong mắt tôi. Cũng có thể Ngài đọc được suy nghĩ của tôi bằng thần giao cách cảm, cho dù bằng cách nào, Ngài đột nhiên nói, “ Vậy là con đang thắc mắc về nỗi sợ hãi? Phải, con còn trẻ và ngây thơ quá!” Tôi nghĩ trong đầu, “Ồ! Mình không thật ngây thơ như Thầy nghĩ đâu!” Latma mỉm cười như thể Ngài thích thú với câu nói đùa riêng tư đó với tôi – cho dù, tất nhiên, tôi không thốt ra thành lời – và rồi Ngài nói, “ Sợ hãi là một điều rất thật, hiển nhiên, con sẽ được nghe những câu chuyện về những người nghiện tâm linh – họ trở thành kẻ say. Họ là những người nhìn thấy những sinh vật đặc biệt. Một số kẻ say này tuyên bố rằng họ nhìn thấy những con voi màu xanh có sọc màu hồng, hay thậm chí những sinh vật còn kỳ lạ hơn nữa. Lobsang, ta phải nói với con rằng những sinh vật mà họ nhìn thấy – được gọi là những hình ảnh do họ tưởng tượng ra – là những sinh vật có thật.”
Fear, what was all this talk about fear? I looked up at my Guide, and I suppose he saw the unspoken question in my eyes. Perhaps instead he read my thoughts telepathically, whatever it was he suddenly said, “So you are wondering about fear? Well, you are young and innocent!” I thought to myself, “Oh! Not so innocent as he thinks!” The Lama smiled as if he enjoyed that private joke with me—although of course I had not uttered a word—and then he said, “Fear is a very real thing, a tangible thing, you will have heard tales of those who are addicted to spirits—who become intoxicated. They are men who see remarkable creatures. Some of these drunkards claim to see green elephants with pink stripes, or even more bizarre creatures. I tell you, Lobsang, that the creatures which they see—so-called figments of their imagination—are real creatures indeed.”
Tôi vẫn chưa sáng tỏ về vấn đề nỗi sợ. Tất nhiên tôi biết nỗi sợ là gì về góc độ vật lý, tôi nghĩ đến khoảng thời gian khi mình phải đứng bất động bên ngoài tu viện Chakpori, để rồi tôi đã có thể qua được bài test về sự bền bỉ trước khi được phép bước vào và được chấp nhận là một chú tiểu hạng quèn nhất. Tôi quay lại phía Thầy và nói, “Thưa Lạt ma tôn kính, tất cả nỗi sợ này là gì? Trong cuộc nói chuyện, con có nghe nói đến những tạo vật ở cảnh thấp trong cõi trung giới, bản thân con trong tất cả các chuyến du hành thể vía chưa bao giờ chạm trán với cái gì khiến mình có một giây phút nào sợ hãi. Vậy rốt cục nỗi sợ này là gì?”
I was still not clear about this matter of fear. Of course I knew what fear was in the physical sense, I thought of the time when I had had to stay motionless outside the Chakpori Lamasery so that I could undergo the test of endurance before being permitted to enter and be accepted as the humblest of humble chelas. I turned to my Guide and said, “Honourable Lama, what is all this fear? In conversation I have heard of the creatures of the lower astral, yet I myself in all my astral travels have never encountered aught which caused me even a moment’s fear. What is all this fear?”
Thầy ngồi im một lát, rồi, dường như đi đến một quyết định bất ngờ, Ngài lập tức đứng dậy và nói, “Đi nào!” Tôi cũng đứng lên và chúng tôi đi dọc theo hành lang đá và rẽ phải, rẽ trái rồi lại rẽ phải. Chúng tôi đi tiếp và cuối cùng rẽ vào một căn phòng không có ánh sáng. Nó giống như là bước vào một cái hồ nước tối om, Thầy đi trước và thắp sáng một ngọn đèn bơ đã để sẵn ở bên cửa, rồi sau đó, ra hiệu cho tôi nằm xuống, Ngài nói, “Con đã đủ lớn để trải nghiệm sự tồn tại của cảnh giới thấp trong trung giới. Ta sẵn sàng hỗ trợ để con nhìn thấy những thực thể này và đảm bảo rằng con sẽ không bị hại, bởi vì chúng ta sẽ không bắt gặp chúng trừ khi chúng ta đã được chuẩn bị và phòng vệ đầy đủ. Ta sẽ tắt đèn và con hãy nghỉ ngơi trong bình yên và để mình thoát ra khỏi thể xác – hãy để mình trôi đi đến đâu thì đến một cách vô định, không chủ ý – chỉ trôi đi lang thang như một làn gió nhẹ.” Nói vậy rồi Ngài thổi tắt đèn và không còn một tia sáng nào ở trong phòng khi Ngài đóng cửa. Tôi thậm chí không thể nhận ra hơi thở của Ngài nhưng tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện một cách ấm áp và dễ chịu của Ngài đang ở gần tôi.
My Guide sat still for a moment, then, as if reaching a sudden decision, he rose swiftly to his feet and said, “Come!” I rose also and we went along a stone corridor and turned to the right and to the left and to the right again. Continuing our journey we at last turned into a room where there was no light. It was like stepping into a pool of blackness, my Guide went first and lit a butter lamp which was standing ready beside the door, then, motioning to me to lie down, he said, “You are old enough to experience the entities of the lower astral. I am prepared to assist you to see these creatures and to make sure that you come to no harm, for they should not be encountered unless one is adequately prepared and protected. I will extinguish this light, and do you rest in peace and let yourself drift away from your body—let yourself drift whither you will, regardless of destination, regardless of intention—just drift and wander as the breeze.” So saying he extinguished the lamp and there was no glimmer of light in that place when he had shut the door. I could not even detect his breathing but I could feel his warm, comforting presence near me.
Du hành thể vía không phải là trải nghiệm mới đối với tôi, Tôi sinh ra đã có khả năng đi du hành như thế này và luôn luôn nhớ, mọi thứ. Bây giờ, nằm duỗi thẳng trên sàn nhà, đầu tôi nghỉ ngơi gối lên một phần cà sa được cuộn lên, tôi khoanh tay và đặt bàn chân lên nhau và tập trung vào quá trình thoát xác, qui trình này thật đơn giản đối với những ai đã biết. Chẳng bao lâu tôi cảm thấy bị giật nhẹ nhàng, điều đó cho thấy sự tách ra của thể vía với thể xác, và cùng với cái giật đó là ánh sáng chan hòa ùa đến. Tôi dường như trôi đi đến cuối của sợi chỉ Bạc. Bên dưới tôi là bóng đen dày đặc, bóng đen của căn phòng mà tôi vừa rời đi, ở đó không có một tia sáng nào. Tôi nhìn xung quanh, nhưng không có gì khác so với những lần du hành thông thường mà tôi đã thực hiện trước đây. Tôi nghĩ đến việc vượt lên trên Núi sắt, và bằng ý thức tôi đã không còn ở trong căn phòng nữa mà vút lên cao phía trên ngọn núi, có lẽ cao sáu nghìn đến chín nghìn mét. Đột nhiên tôi không còn nhìn thấy Potala, Núi Sắt, vùng đất Tây tạng và cả thung lung Lhasa nữa. Tôi cảm thấy nôn nao vì lo sợ, sợi chỉ bạc của tôi rung rất mạnh và tôi hoảng sợ khi thấy làn khói màu “xanh-bạc” luôn luôn phát ra từ sợi dây nay chuyển sang màu xanh-vàng yếu ớt.
Astral travelling was no new experience to me, I was born with the ability to travel thus and to remember always, everything. Now, stretched upon the ground, with my head resting upon part of my rolled-up robe, I folded my hands and put my feet together and dwelt upon the process of leaving the body, the process which is so simple to those who know. Soon I felt the gentle jerk which indicates a separation of the astral vehicle from the physical, and with that jerk there came a flooding of light. I seemed to be floating at the end of my Silver Cord. Beneath me was utter blackness, the blackness of the room which I had just left, and in which there was no glimmer of light. I looked about me, but this was in no way different from the normal travels that I had undertaken before. I thought of elevating myself above the Iron Mountain, and with the thought I was no longer in that room but hovering above the Mountain, hovering two perhaps three hundred feet. Suddenly I was no longer aware of the Potala, no longer aware of the Iron Mountain, no longer aware of the land of Tibet nor of the Valley of Lhasa. I felt sick with apprehension, my Silver Cord trembled violently and I was appalled to see that some of the “silver-blue” haze which always emanated from the Cord had turned into a sickly yellow-green.
Không hề báo trước, một cơn co khủng khiếp xuất hiện, một cú giật cực mạnh, tôi cảm giác như thể những tên yêu quái điên cuồng đang cố gắng cuốn tôi vào trong. Theo bản năng, tôi nhìn xuống và gần như ngất đi trước những gì nhìn thấy.
Xung quanh tôi, đúng hơn là phía dưới tôi là những sinh vật kỳ lạ và gớm ghiếc hết sức, giống như cái mà người ta nhìn thấy khi bị say. Cái thứ khủng khiếp nhất mà tôi từng thấy trong đời đang nhấp nhô đi về phía tôi, nó trông giống như một con sên khổng lồ với khuôn mặt xấu xí của con người nhưng lại có màu sắc chưa ai có. Khuôn mặt màu đỏ nhưng mũi và tai màu xanh lá, và những con mắt dường như đảo tròn trong hốc mắt. Còn có những sinh vật khác nữa, con này có vẻ kinh khủng và buồn nôn hơn con trước. Tôi đã nhìn thấy những sinh vật mà không từ nào tả xiết được, nhưng dường như chúng đều mang đặc điểm chung của kẻ độc ác. Chúng tiến lại gần và cố gắng chụp lấy tôi – chúng cố gắng giằng tôi ra khỏi sợi chỉ bạc. Những con khác lao xuống và cố gắng tách tôi ra khỏi sợi chỉ bằng cách ra sức kéo nó. Tôi nhìn và run bắn lên, rồi tôi lại nghĩ, “Sợ à! Vậy đây chính là nỗi sợ! Được rồi, những con vật này không thể làm tôi đau được. Tôi miễn nhiễm với sự hiện diện cũng như các cuộc tấn công của chúng!” Và vì tôi nghĩ như vậy nên các thực thể này đã biến mất và không còn xuất hiện nữa. Sợi dây vô hình kết nối tôi với thể xác lại sáng lên và chuyển về màu sắc bình thường; tôi cảm thấy vui vẻ, tự do, và tôi biết rằng khi thực hiện và vượt qua bài test này, một lần nữa tôi không nên lo sợ bất cứ điều gì có thể xảy ra trong thể vía. Tôi đã được dạy một cách thuyết phục rằng những thứ làm ta sợ hãi không thể làm hại ta trừ khi ta cho phép chúng làm điều đó vì nỗi sợ của mình.
Without warning there was a terrible twitching, a terrible tugging, a sensation as if insane fiends were trying to reel me in. Instinctively I looked down and nearly fainted away at what I saw.
About me, rather, below me, were the strangest and most hideous creatures such as were seen by drunks. The most horrible thing I had ever seen in my life came undulating toward me, it looked like an immense slug with an ugly human face but of such colours as no human ever wore. The face was red but the nose and ears were green, and the eyes seemed to revolve within their sockets. There were other creatures too, each seemed to be more horrible and more nauseating than the one before. I saw creatures which no words could describe yet they all seemed to have a common human trait of cruelty about them. They reached, they tried to pluck at me—they tried to tear me away from my Cord. Others reached down and tried to separate the Cord by pulling at it. I looked, and shuddered, and then I thought, “Fear! So this is fear! Well, these things cannot hurt me. I am immune from their manifestations, I am immune from their attacks!” And as I thought thus, the entities disappeared and were no more. The ethereal Cord joining me to my physical body brightened and reverted to its normal colours; I felt exhilarated, free, and I knew that in undergoing and surmounting this test I should not again be afraid of anything which could happen in the astral. It taught me conclusively that the things of what we are afraid cannot hurt us unless we permit them to hurt us through our fear.
Một cái giật bất ngờ vào Sợi chỉ bạc khiến tôi tập trung trở lại và nhìn xuống không chút ngần ngại, không mảy may sợ hãi. Tôi thấy một tia sáng nhỏ, và thấy Thầy tôi, Lạt ma Minh gia Đại đức, đã thắp sáng lung linh ngọn đèn bơ, và thể xác tôi đang kéo thể vía xuống. Nhẹ nhàng, tôi trôi xuống qua mái của Chakpori, hạ xuống nữa để mình nằm ngang song song với thể xác, sau đó, nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng, tôi trượt xuống và hai thể, thể vía và thể xác hòa nhập vào nhau làm một. Cái cơ thể mà là “Tôi” bây giờ co giật nhẹ, và ngồi dậy. Thầy nhìn xuống tôi với một nụ cười yêu thương hiện trên nét mặt. “Lobsang, con làm tốt lắm!” Ngài nói. “Để bước vào một bí mật rất rất quan trọng này, lần thử nghiệm đầu tiên của con tốt hơn ta. Ta tự hào về con!”
A sudden tugging at my Silver Cord attracted my attention again and I looked down without the slightest hesitation, without the slightest sensation or feeling of fear. I saw a little glimmer of light, I saw that my Guide, the Lama Mingyar Dondup, had lighted that little flickering butter lamp, and my body was drawing down my astral body. Gently I floated down through the roof of the Chakpori, floated down so that I was horizontal above my physical body, then, gently, so very gently, I drifted down and the astral and the physical merged and were as one. The body which was now “I” twitched slightly, and I sat up. My Guide looked down at me with a loving smile upon his face. “Well done, Lobsang!” he said. “To let you in to a very very great secret, you did better on your first attempt than I did on mine. I am proud of you!”
Vẫn còn hoàn toàn bối rối về phi vụ nỗi sợ này, nên tôi nói, “Thưa Lạt ma tôn kính, thực sự thì có gì phải sợ ở đây?”. Ngài nhìn tôi nghiêm túc – thậm chí buồn rầu – khi Ngài nói, “ Lobsang, con đang có một cuộc sống tốt, và không có gì để sợ, nên con không sợ. Nhưng vẫn có những kẻ gây ra tội ác, những kẻ xử tệ với người khác, và khi cô độc, lương tâm sẽ giày vò họ thậm tệ. Những kẻ ở dưới địa ngục nuôi dưỡng nỗi sợ, chúng được nuôi dưỡng bới những người có lương tâm bị quấy phá. Con người tạo ra các hình tư tưởng của quỷ dữ. Có lẽ khi nào đó trong tương lai, con sẽ có thể đi vào một nhà thờ hoặc một ngôi đền rất rất cổ xưa đã tồn tại trong nhiều năm dài đằng đẵng. Từ trên các bức tường của nhà thờ (giống như Jo Kang của chúng ta) con sẽ cảm nhận được những điều tốt đã diễn ra trong đó. Nhưng rồi nếu con đột nhiên đi vào một nhà tù rất rất xưa cũ, nơi mà rất nhiều đau khổ, rất nhiều bạo lực đã diễn ra ở đây, thì khi đó thực sự con sẽ có ấn tượng ngược lại. Từ đó thấy rằng cư dân đã sống trong các tòa nhà đã tạo nên các hình tư tưởng ẩn bên trong các bức tường của tòa nhà, vì vậy rõ ràng là một ngôi nhà tử tế sẽ có những hình tư tưởng tốt, tự tỏa ra hương thơm, còn những nơi xấu xa thì luôn có những tư tưởng xấu trong đó, vì thế lại cũng rõ ràng là những tư tưởng xấu chỉ có thể đến từ những nơi xấu xa; và những người có khả năng thấu thị khi đang ở trạng thái thể vía có thể nhìn thấy và chạm vào những tư tưởng hay các hình tư tưởng này.”
I was still quite puzzled about this fear business, so I said, “Honourable Lama, what is there to be afraid of really?” My Guide looked quite serious—even somber—as he said, “You have led a good life, Lobsang, and have nothing to fear, therefore you do not fear. But there are those who have committed crimes, who have done wrongs against others, and when they are alone their conscience troubles them sorely. The creatures of the lower astral feed on fear, they are nourished by those of troubled conscience. People make thought forms of evil. Perhaps at some time in the future you will be able to go into an old old cathedral or temple that has stood for countless years. From the walls of that building (such as our own Jo Kang) you will sense the good that has occurred within that building. But then if you can suddenly go to an old old prison where much suffering, much persecution has taken place then you will have indeed the opposite effect. It follows from this that the inhabitants of buildings make thought forms which inhabit the walls of the buildings, wherefore it is apparent that a good building has good thought forms which give out good emanations, and places of evil have evil thoughts within them, wherefore it is again clear that only evil thoughts can come from an evil building, and those thoughts and thought forms can be seen and touched by those who are clairvoyant while in the astral state.”
Thầy nghĩ một lát rồi nói, “Có những trường hợp, rồi con sẽ biết, khi các nhà sư và những người khác tưởng tượng rằng họ vĩ đại hơn con người thực của họ, họ xây dựng một hình tư tưởng và rồi hình tư tưởng này sẽ tô vẽ cái nhìn của họ. Ta nhớ có một trường hợp, đó là một nhà sư già người Miến điện – cũng là một người cực kỳ dốt nát, ta phải nói như vậy – một nhà sư hèn mọn, không hiểu biết gì, bởi vì ông ta là người anh em của chúng ta và cùng Dòng tu, nên chúng ta phải chấp nhận mọi thứ. Nhà sư này sống một cuộc sống cô độc giống như rất nhiều người trong chúng ta, nhưng thay vì dành thời gian cho thiền định, chiêm nghiệm và những việc tốt đẹp khác thì ông ta lại tưởng tượng rằng mình là một người phi thường của vùng đất Miến điện. Ông ta nghĩ rằng mình không phải là hạng sư thấp hèn phải khó nhọc lê bước trên con đường khai sáng. Thay vào đó, một mình trong căn phòng, ông ta hình dung mình là một Hoàng tử vĩ đại, Lãnh chúa của các vùng đất hùng mạnh và giàu có. Lúc đầu thì nó cũng không có hại gì, nó không có hại nếu sự chệch hướng đó không phát huy tác dụng. Chắc chắn là chẳng ai lên án ông ta chỉ vì những sự tưởng tượng và khao khát vu vơ đó, bởi vì, như ta đã nói, ông ta không có trí tuệ cũng như không được học hành đầy đủ để cống hiến hết mình cho các nhiệm vụ về tôn giáo đã được giao phó.
My Guide thought for a moment, and then said, “There are cases, as you will be aware, when monks and others imagine that they are greater than their own reality, they build a thought form and in time the thought form colours their whole outlook. There is a case which I recall at this moment where an old Burmese monk—a remarkably ignorant man too, I have to say—he was a lowly monk, a monk of no understanding, yet because he was our brother, and of our Order, we had to make every allowance. This monk lived a solitary life as do so many of us, but instead of devoting his time to meditation and contemplation and other things of good, he imagined instead that he was a mighty man in the land of Burma. He imagined that he was not a lowly monk who had hardly set foot upon the Path of Enlightenment. Instead, in the solitude of his cell, he imagined that he was a great Prince, a Prince of mighty estates and great wealth. At the start it was harmless, it was a harmless if useless diversion. Certainly no one would have condemned him for a few idle imaginings and yearnings, for, as I say, he had neither the wit nor the learning to really devote himself to the spiritual tasks at hand.
Con người này trong nhiều năm bất cứ lúc nào ở một mình, ông ta lại biến mình thành Hoàng tử rất rất vĩ đại. Việc đó làm thay đổi tính cách của ông ta, ảnh hưởng đến cách hành xử của ông ta, và thời gian trôi đi, một ông sư tầm thường dường như đã biến mất và thay vào đó là một Hoàng tử kiêu ngạo. Cuối cùng cái con người tội nghiệp khốn khổ này thực sự tin tưởng chắc chắn rằng ông ta là Hoàng tử của vùng đất Miến điện. Một hôm ông ta nói với một vị Trụ trì như thể vị Trụ trì này là nông nô trên lãnh địa của ông ta. Vị Trụ trì này không phải là một người hiền lành như một số người trong chúng ta, và ta rất tiếc phải nói rằng sự hoang tưởng quá lâu của một nhà sư nghèo hèn nghĩ mình là một ông vua con đã khiến ông ta mất cân bằng, và làm cho ông ta rơi vào trạng thái tâm thần bất ổn. Nhưng con, Lobsang à, con không cần phải lo lắng về điều đó; Tinh thần con ổn định, rất cân bằng và không sợ hãi. Chỉ cần nhớ những câu này như một lời cảnh báo: Nỗi sợ hãi ăn mòn linh hồn. Những tưởng tượng viển vông và vô ích đã đưa người ta vào con đường sai lầm để rồi theo năm tháng, những tưởng tượng đó trở thành hiện thực, và những hiện thực đó phải mất vài kiếp sau đó mới phai mờ. Con hãy vững bước trên Đướng Đạo, đừng để những khao khát hoang dã cũng như trí tưởng tượng tô vẽ hay làm méo mó con người con. Đây là Thế giới của Ảo tưởng, nhưng đối với những người như chúng ta, những người có thể đối diện với kiến thức đó, thì ảo tưởng có thể biến thành thực tại khi chúng ta rời khỏi thế giới này.”
This man throughout the years whenever he was alone, became the great great Prince. It coloured his outlook, it affected his manner, and with the passage of time the humble monk seemed to disappear and the arrogant Prince came to the fore. At last the poor unfortunate man really believed most firmly that he was a Prince of the land of Burma. He spoke to an Abbot one day as if the Abbot was a serf upon the princely estate. The Abbot was not such a peaceful Abbot as some of us, and I am sorry to say that the shock which the poor monk-turned-princeling sustained put him off balance, and reduced him to a state of mental instability. But you, Lobsang, have no need to worry about such things; you are stable and well balanced and without fear. Remember only these words by way of warning: Fear corrodes the soul. Vain and useless imaginings put one on the wrong path so that with the passage of years the imaginings become reality, and the realities fade from sight and do not come to light again for several incarnations. Keep your foot upon the Path, let no wild yearnings nor imaginings colour or distort your outlook. This is the World of Illusion, but to those of us who can face that knowledge, then the illusion can be turned into reality when we are off this world.”
Tôi ngẫm về tất cả những điều đó, và phải thú nhận rằng tôi đã được nghe về nhà sư tâm thần biến thành hoàng tử, vì đã đọc được câu chuyện này từ một cuốn sách trong thư viện của tu viện. “Thưa Thầy tôn kính!” tôi nói, “vậy sức mạnh huyền bí có tác dụng gì vậy ạ?” Lạt ma khoanh tay và nhìn thẳng vào tôi. “Công dụng của kiến thức huyền bí à? Được, Lobsang, câu đó quá dễ! Chúng ta được quyền giúp đỡ những người đáng được giúp đỡ. Chúng ta không được phép giúp đỡ những kẻ không cần đến chúng ta và không sẵn sàng để được giúp đỡ. Chúng ta không dùng sức mạnh hay khả năng huyền bí để tư lợi, cũng không để mua bán hay để giành phần thưởng. Toàn bộ mục đích của sức mạnh huyền bí là: đẩy nhanh tiến trình phát triển đi lên của một con người, thúc đẩy sự tiến hóa của con người và cho cả thế giới, không chỉ thế giới loài người mà cả thế giới thiên nhiên, động vật – tất cả mọi thứ.”
Chúng tôi lại bị gián đoạn bởi buổi lễ bắt đầu ở ngôi đền xây cạnh chỗ chúng tôi, và vì sẽ là bất kính với các vị thần nếu cứ tiếp tục thảo luận trong khi người ta đang làm lễ, nên chúng tôi kết thúc buổi nói chuyện và ngồi im lặng trong ánh sáng rung rinh của ngọn đèn bơ giờ đang leo lét.
I thought of all that, and I must confess that I had already heard of that monk-turned-mental-prince, because I had read about it in some book in the Lamas’ Library. “Honourable Guide!” I said, “what are the uses of occult power, then?” The Lama folded his hands and looked straight at me. “The uses of occult knowledge? Well, that is easy enough, Lobsang! We are entitled to help those who are worthy of help. We are not entitled to help those who do not want our help, and are not yet ready for help. We do not use occult power or ability for self-gain, nor for hire or reward. The whole purpose of occult power is: to speed one’s development upwards, to speed one’s evolution and to help the world as a whole, not just the world of humans, but the world of nature, of animals—everything.”
We were again interrupted by the Service starting in the Temple building near us, and as it would have been disrespectful to the Gods to continue a discussion while they were being worshipped, we ended our talk and sat in silence by the flickering flame of the butter lamp, now burning low.