Chương 8: Hang Động Người Xưa – Lobsang Rampa

Thật thoải mái khi nằm trên thảm cỏ rộng lớn và mát mẻ ở chân Pargo Kaling. Phía trên đầu, sau lưng tôi những phiến đá cổ kính vút cao tận trời, và tầm nhìn từ chỗ tôi trên mặt đất phẳng, cảm giác cao tới mức chạm vào những đám mây. Vừa vặn một chỗ thích hợp là hình “Búp Sen” tượng trưng cho Linh hồn, trong khi “những chiếc lá” nâng đỡ “Búp Sen” tượng trưng cho khí. Còn tôi, đang ở trên mặt đất nằm thư giãn nghỉ ngơi trước biểu tượng của “Sự sống trên Trái Đất”. Ngay chỗ tầm với của tôi – nếu đứng dậy – là “Những nấc thang của Tri thức”. Vâng, tôi vẫn đang cố gắng “lĩnh hội” vào lúc này!

It was pleasant indeed lying in the cool, long grass at the base of the Pargo Kaling. Above me, at my back, the ancient stones soared heavenwards and, from my viewpoint flat on the ground, the point so high above seemed to scrape the clouds. Appropriately enough, the “Bud of the Lotus” forming the point symbolised Spirit, while the “leaves” which supported the “Bud” represented Air. I, at the base, rested comfortably against the representation of “Life on Earth”. Just beyond my reach—unless I stood—were the “Steps of Attainment”. Well, I was trying to “attain” now!

Thật dễ chịu khi nằm đây và quan sát dân lái buôn từ Ấn Độ, Trung Quốc và Myanmar di chuyển qua lại. Một số họ đi bộ và kéo theo đoàn gia súc rất dài, chở vật phẩm kì lạ từ các vùng xa xôi đến. Một số khác có thể là người quan trọng hơn, hoặc cũng có thể chỉ đang quá mệt mỏi, cưỡi ngựa và nhìn xung quanh. Tôi lơ đãng quan sát xem những chiếc sọt chứa đồ gì, rồi chợt giật mình; đó là lí do tôi có mặt ở đây sao! Tôi ở đây để quan sát hào quang của nhiều người khác nhau nhất có thể. Tôi ở đây để “đọc” từ hào quang của họ và bằng thần giao cách cảm xem những người này đang làm gì, họ đang nghĩ gì và ý đồ của họ ra sao.

It was pleasant lying here and watching the traders from India, China and Burma come trudging by. Some of them were afoot while leading long trains of animals carrying exotic goods from far far places. Others, more grand maybe, or possibly just plain tired, rode and gazed about. I speculated idly on what their pannier bags contained, then pulled myself together with a jerk; that was why I was here! I was here to watch the aura of as many different people as I could. I was here to “divine” from the aura and from telepathy what these men were doing, what they were thinking, and what were their intentions.

Ngay phía bên kia đường, một người ăn xin mù tội nghiệp đang ngồi. Ông ấy mặc bộ đồ bẩn thỉu, tả tơi và rên rỉ trước hành khách qua lại. Rất nhiều người ném tiền xu cho ông ấy, họ khoái chí quan sát một kẻ mù quờ quạng, tìm kiếm đồng xu mới rơi xuống và dò dẫm theo âm thanh chúng rơi xuống đất và có khi kêu loảng xoảng trên đá. Đôi khi, thực tế có rất nhiều lần ông ấy không biết đồng xu nằm ở đâu, người lữ hành liền nhặt lên và tung đồng xu lại lần nữa. Nghĩ đến ông ấy, tôi quay cái đầu lười biếng của mình về phía đó và ngồi sững người kinh ngạc. Hào quang của ông ấy! Lúc trước tôi không hề bận tâm quan sát nó. Giờ nhìn lại một cách kĩ càng, tôi nhận ra rằng ông ấy không mù, tôi thấy rằng ông ấy rất giàu, có rất nhiều tiền của đang cất giữ ở đâu đó và rằng ông ta giả vờ là một người ăn xin nghèo mù lòa bởi vì đó  là cách dễ nhất để kiếm sống mà ông ấy biết. Không! Không thể nào, tôi đã nhầm, tôi đã quá tự tin hay còn điều gì khác chưa biết. Có lẽ năng lực của tôi đang bị giảm sút. Trăn trở với suy nghĩ đó, tôi loạng choạng đứng dậy và đi tìm kiếm câu trả lời từ người Thẩy, Lạt ma Minh gia Đại đức đang  ở phía đối diện với Kundu Ling.

Just off to the opposite side of the road a poor blind beggar sat. He was covered with dirt. Ragged and commonplace he sat and whined at passing travelers. A surprising number threw coins to him, delighting in watching him, blind, scrabble for the falling coins and finally locating them by the sound they made as they struck the earth and perhaps chinked against a stone. Occasionally, very occasionally indeed, he would miss a small coin, and the traveler would lift it and drop it again. Thinking of him, I turned my lazy head in his direction and sat upright in sheer dazed astonishment. His aura! I had never bothered to observe it before. Now, looking carefully, I saw that he was not blind, I saw that he was rich, had money and goods stored away and that he was pretending to be a poor blind beggar as it was the easiest way of making a living that he knew. No! It could not be, I was mistaken, I was overconfident or something. Perhaps my powers were failing. Troubled at such a thought, I stumbled to my reluctant feet and went in search of enlightenment from my Guide the Lama Mingyar Dondup who was at the Kundu Ling opposite.

Vài tuần trước, tôi đã thực hiện phẩu thuật để mở thêm “Con mắt thứ Ba”. Ngay từ khi sinh ra, tôi đã sở hữu khả năng đặc biệt về thấu thị, cùng với năng lực nhìn thấy “hào quang” xung quanh cơ thể người, động vật và cây cối. Ca phẫu thuật đau đớn đã thành công trong việc gia tăng năng lực của tôi lên rất nhiều so với dự đoán của Lạt ma Minh gia Đại đức. Giờ đây, tiến trình học tập của tôi đang rất dồn dập; quá trình huấn luyện về các đề tài huyền bí được dồn hết vào các giờ trong ngày. Tôi cảm giác bị vắt kiệt sức bởi những thế lực tối cao khi hết lạt ma này đến lạt ma khác “bơm” tri thức vào tôi qua thần giao cách cảm rồi bởi những thế lực kì lạ khác mà tôi hiện giờ đang tập trung nghiên cứu các tác phẩm của họ. Tại sao phải học ở trên lớp khi người ta có thể được dạy thông qua thần giao cách cảm? Tại sao phải phán đoán ý đồ của một người  khi ta có thể biết được từ hào quang của người đó? Nhưng tôi đang thắc mắc về người đàn ông mù đó!

Some weeks before I had undergone an operation in order that my “Third Eye” might be the more widely opened. From birth I had been possessed of unusual powers of clairvoyance, with the ability to see the “aura” around the bodies of humans, animals and plants. The painful operation had succeeded in increasing my powers far more than had been anticipated even by the Lama Mingyar Dondup. Now my development was being rushed; my training in all occult matters occupied my waking hours. I felt squeezed by mighty forces as this lama and that lama “pumped” knowledge into me by telepathy and by other strange forces whose workings I was now so intensively studying. Why do classwork when one can be taught by telepathy? Why wonder at a man’s intentions when one can see from his aura? But I was wondering about that blind man!

“Ôi! Lạt ma tôn kính ! Người đang ở đâu?” Tôi khóc lóc, băng qua đường để tìm Thầy. Vào đến khu vườn hoa nhỏ tôi bị trượt chân, đôi chân vội vã suýt nữa thì trượt ngã. “Thế đấy!” Thầy mỉm cười, ngồi bình thản trên một thân cây đổ, “Sao nào! Con trông thật phấn khích, con vừa khám phá ra rằng người đàn ông ‘mù’ cũng nhìn thấy rõ như con.” Tôi đứng thở hổn hà hổn hển vì hụt hơi và phẫn nộ. «Vâng!» Tôi kêu lên, «ông ta là một kẻ lừa đảo, một tên trộm vì đã ăn cắp của những người có tấm lòng nhân ái. Ông ta đáng bị cho vào tù!» Lạt ma bật cười lớn trước khuôn mặt đỏ ửng vì phẫn nộ của tôi. «Nhưng Lobsang à, » Ngài dịu dàng nói, “tại sao lại có tất cả những việc như thế này? Người đàn ông này bán dịch vụ cũng y như người bán những chiếc bánh xe cầu nguyện. Mọi người cho ông ta một vài đồng xu không đáng giá và họ có thể nghĩ rằng họ là người rộng lượng; điều đó khiến họ cảm thấy thoải mái. Trong một thời gian, nó làm tăng sự rung động phân tử trong họ –  nâng cao tâm linh của họ – mang họ đến gần Chúa hơn. Điều này giúp họ tốt đẹp hơn. Còn những đồng xu họ cho đi? Chẳng đáng giá gì cả! Họ không nhớ đến chúng đâu.” “Nhưng ông ta không bị mù!” Tôi tức giận nói, “ông ta là một kẻ trộm.” « Lobsang, » Thầy tôi nói, « ông ấy vô hại, ông ấy chỉ bán dịch vụ thôi. Sau này ở phương Tây, con sẽ thấy, người làm quảng cáo sẽ đưa ra những tuyên bố sai sự thật làm tổn thương đến sức khỏe con người, làm hại đến những đứa trẻ chưa được sinh ra và biến những con người bình thường thành những kẻ điên cuồng.»

“Ow! Honourable Lama! Where are you?” I cried, running across the road in search of my Guide. Into the little park I stumbled, almost tripping over my own eager feet. “So!” smiled my Guide, sitting peacefully on a fallen bole, “So! You are excited, you have just discovered that the ‘blind’ man sees as well as you.” I stood panting, panting from lack of breath and from indignation. “Yes!” I exclaimed, “the man is a fraud, a robber, for he steals from those of good heart. He should be put in prison!” The Lama burst out laughing at my red, indignant face. ” But Lobsang,” he said mildly, “why all the commotion? That man is selling service as much as the man who sells prayer-wheels. People give insignificant coins to him that they may be thought generous; it makes them feel good. For a time it increases their rate of molecular vibration—raises their spirituality—places them nearer the Gods. It does them good. The coins they give? Nothing! They do not miss them.” “But he is not blind!” I said in exasperation, “he is a robber.” “Lobsang,” said my Guide, “he is harmless, he is selling service. Later, in the Western world, you will find that advertising people will make claims the falsity of which will injure one’s health, will deform babies yet unborn, and will transform the passably sane into raving maniacs.”

Ngài vỗ nhẹ vào thân cây và ra hiệu cho tôi ngồi bên cạnh. Tôi ngồi xuống và gõ gót chân vào vỏ cây. “Con phải thực hành kết hợp nhìn hào quang cùng với thần giao cách cảm,” Thầy tôi nói. “Nếu chỉ dùng một phương pháp mà không dùng thứ còn lại, kết luận của con có thể bị sai lệch – như trường hợp này. Cần phải sử dụng tất cả kĩ năng của mình và gom toàn bộ quyền năng mình có để giải quyết mỗi một cũng như mọi vấn đề. Còn bây giờ, chiều nay ta phải đi rồi, và Lạt ma Đại Danh Y của Y viện Menzekang, Lạt ma Chinrobnobo sẽ nói chuyện với con. Rồi con sẽ trao đổi với ông ấy”. “Ôi!” Tôi rầu rĩ nói, “nhưng ông ấy chẳng bao giờ nói chuyện với con, thậm chí chưa bao giờ để ý đến con nữa!” “Tất cả sẽ thay đổi – bằng cách này hay cách khác – vào chiều nay”, Thầy tôi nói. “Cách này hoặc cách khác!” Tôi nghĩ. Nghe có vẻ đáng lo ngại.

He patted the fallen tree and motioned for me to sit beside him. I sat and drummed my heels on the bark. “You must practice using the aura and telepathy together,” said my Guide. “By using one and not the other your conclusions may be warped—as in this case. It is essential to use all one’s faculties, bring all one’s powers to bear, on each and every problem. Now, this afternoon I have to go away, and the great Medical Lama, the Reverend Chinrobnobo, of the Menzekang Hospital, will talk to you. And you will talk to him” “Ow!” I said, ruefully, “but he never speaks to me, never even notices me!” “All that will be changed—one way or another—this afternoon,” said my Guide. “One way or another!” I thought. That looked very ominous.

Ngài cùng tôi đi bộ về Núi Sắt, nghỉ ngơi chốc lát để chiêm ngưỡng lại sự chạm khắc đầy màu sắc trên đá dù cổ xưa mà vẫn luôn tươi mới. Sau đó, chúng tôi đi lên một đoạn đường dốc đứng bằng đá. “Lobsang, con đường này cũng giống như cuộc đời vậy,” Lạt ma nói. “Cuộc sống đi theo một chặng đường đầy khó khăn và vất vả, với thật nhiều cạm bẫy và nguy hiểm, nhưng nếu ta kiên trì bền bỉ, ta sẽ đi được đến đích.” Khi chúng tôi lên đến đỉnh dốc, tiếng chuông của buổi lễ vang lên, và chúng tôi tách ra đi theo đường của mình, Ngài đi với các cao tăng, còn tôi đi với các bạn khác trong lớp. Ngay khi buổi lễ kết thúc, tôi đi ăn, một chú tiểu thậm chí còn nhỏ hơn tôi lại gần với vẻ lo lắng. “Tuesday Lobsang,” cậu rụt rè nói, “  Danh y Latma Chinrobnobo muốn gặp cậu ngay lập tức ở  Y viện.”

Together my Guide and I walked back to the Iron Mountain, pausing momentarily to gaze anew at the old yet always fresh rock coloured carvings. Then we ascended the steep and stony path. “Like Life, this path, Lobsang,” said the Lama. “Life follows a hard and stony path, with many traps and pitfalls, yet if one perseveres the top is attained.” As we reached the top of the path the call to Temple Service was made, and we each went our own way, he to his associates, and I to others of my class. As soon as the Service had ended, and I had partaken of food, a chela even smaller than I came somewhat nervously to me. “Tuesday Lobsang,” he said diffidently, “the Holy Medical Lama Chinrobnobo wants to see you immediately in the Medical School.”

Tôi vuốt thẳng cà sa, hít thở sâu vài cái để đám dây thần kinh đang căng như dây đàn của mình được thư giãn, và bước đi với quả quyết rằng mình chẳng thấy lo lắng gì khi đến Y viện. “A!” Một giọng nói rền vang, âm thanh này làm tôi nhớ đến tiếng tù và ở Đền thờ. Tôi đứng trước ông ấy và cúi chào thể hiện sự tôn kính. Lạt ma là một người đàn ông cao to, lực lưỡng, vai rộng, dáng vẻ hoàn toàn gây  kinh hoàng cho một thằng bé. Tôi cảm tưởng rằng chỉ một cú bạt tai từ bàn tay to lớn của ông cũng có thể khiến đầu tôi bay khỏi vai và lăn xuống dốc núi. Tuy nhiên, ông ra lệnh cho tôi ngồi trước mặt, nói với tôi một cách ân cần khiến tôi gần như ngã nhào vào chỗ ngồi!

I straightened my robe, took a few deep breaths that my twanging nerves might be calmed, and walked with assurance that I did not feel over to the Medical School. “Ah!” boomed a great voice, a voice that reminded me of the sound of a deep Temple conch. I stood before him and paid my respects in the time-honoured way. The Lama was a big man, tall, bulky, broad-shouldered, and a wholly awe-inspiring figure for a small boy. I felt that a swipe from one of his mighty hands would knock my head straight off my shoulders and send it tumbling down the mountainside. However, he bade me be seated before him, bade me in such a genial manner that I almost fell into a sitting position!

“Nào, cậu bé!” giọng nói trầm vang lên như tiếng sấm vang rền vẳng vào giữa những ngọn núi xa xa. “Ta đã nghe nhiều về con. Người thầy nổi tiếng của con, Lạt ma Minh Gia Đại Đức cho rằng, con là một thần đồng bởi khả năng đặc biệt của con rất lớn. Chúng ta hãy thử xem sao!” Tôi ngồi đó và run rẩy. “Con nhìn thấy ta không? Con nhìn thấy những gì?” ông hỏi. Tôi càng run hơn khi nói ra ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu; “Con thấy một người đàn ông hộ pháp, thưa Đức Lạt ma Danh Y đáng kính, con cứ tưởng là một ngọn núi khi lần đầu đến đây.” Ông cười phá lên như thể một cơn gió mạnh ập đến khiến tôi e rằng nó sẽ cuốn phăng chiếc áo choàng của mình. “Cậu bé, hãy nhìn ta, hãy nhìn vào hào quang của ta và nói cho ta biết con đã thấy gì!” ông đề nghị. “Rồi nói cho ta biết con thấy gì từ hào quang của ta và chúng có ý nghĩa gì đối với con.” Tôi nhìn ông, nhưng không nhìn trực tiếp hay chằm chằm vào ông ấy bởi nó thường làm hào quang bị mờ đi bởi dáng quần áo; tôi nhìn về phía ông, nhưng không nhìn thẳng vào người.

“Now, boy!” said the great deep voice, like rolling thunder among the distant mountains. “I have heard much of you. Your Illustrious Guide, the Lama Mingyar Dondup claims that you are a prodigy, that your para-normal abilities are immense. We shall see!” I sat and quaked. “You see me? What do you see?” he asked. I quaked even more as I said the first thing that entered my mind; “I see, such a big man, Holy Medical Lama, that I thought it was a mountain when I came here first.” His boisterous laugh caused such a gale of wind that I half feared that it would blow my robe off. “Look at me, boy, look at my aura and tell me what you see!” he commanded. Then, “Tell me what you see of the aura and what it means to you.” I looked at him, not directly, not staring, for that often dims the aura of a clothed figure; I looked toward him, but not exactly “at” him.

“Thưa Ngài!” tôi nói, “Con nhìn thấy đầu tiên là đường bao vật lý cơ thể Ngài, lờ mờ bởi cái áo choàng che phủ. Rồi khi lại gần hơn, con thấy ánh sáng hơi xanh mờ giống màu của lớp khói gỗ tươi. Điều này cho thấy Ngài đã làm việc quá sức; rằng Ngài thiếu ngủ vì ngủ muộn và năng lượng dĩ thái của Ngài yếu.” Ông nhìn tôi với đôi mắt mở to hơn bình thường và gật đầu hài lòng. “Tiếp tục đi! Ông nói.

“Sir!” I said, “I see first the physical outline of your body, dimly as it would be without a robe. Then, very close to you I see a faint bluish light the colour of fresh wood smoke. It tells me that you have been working too hard; that you have had sleepless nights of late and your etheric energy is low.” He looked at me with eyes somewhat wider than normal, and nodded in satisfaction. “Go on!” he said.

“Thưa Ngài!” Tôi tiếp tục, hào quang của Ngài mở rộng gần ba mét quanh cơ thể. Có các lớp màu sắc theo cả chiều dọc và ngang. Ngài có màu vàng thể hiện một tâm hồn cao cả. Hiện giờ Ngài đang lấy làm lạ rằng một đứa trẻ ở tuổi con có thể nói với Ngài nhiều thứ như thế và Ngài đang nghĩ rằng, sau tất cả, Thầy của con, Lạt ma Minh Gia Đại Đức biết điều gì đó. Ngài đang nghĩ rằng sẽ phải xin lỗi Thầy con vì đã bày tỏ sự nghi ngờ vào khả năng của con.” Tôi bị ngắt lời bởi một tiếng cười lớn. “Đúng rồi, cậu bé, con nói đúng !” Ông vui mừng nói, “ Tiếp tục đi !”

“Sir!” I continued, “your aura extends from you a distance of about nine feet on either side. The colours are in layers both vertical and horizontal. You have the yellow of high spirituality. At present you are marveling that one of my age can tell you so much and you are thinking that my Guide the Lama Mingyar Dondup knows something after all. You are thinking that you will have to apologize to him for your expressed doubts as to my capabilities.” I was interrupted by a great shout of laughter. “You are right, boy, you are right!” he said delightedly, “Go on!”

“Thưa Ngài!” (đây là trò trẻ con đối với tôi!) “Gần đây Ngài gặp phải chuyện không hay và đang chống đỡ với bệnh gan. Nó đau khi Ngài cười quá nhiều và thầy đang băn khoăn có nên dùng thảo dược tatura và cần xoa bóp sâu trong trạng thái gây tê không. Ngài đang nghĩ đây là Định Mệnh đã quyết định thứ thảo dược ấy trong hơn sáu nghìn loại thảo mộc, tatura chắc hẳn còn rất ít.” Bây giờ Ông không cười nữa, Ông nhìn tôi với vẻ kính trọng thực sự. Tôi nói thêm, “Thưa Ngài, còn có điều này nữa được thể hiện qua hào quang của Ngài, đó là chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, Ngài sẽ trở thành vị Y sư quan trọng nhất của Tây Tạng.”

“Sir!” (this was child’s play to me!) “You recently had some mishap and sustained a blow over your liver. It hurts when you laugh too hard and you wonder if you should take some tatura herb and have deep massage while under its anaesthetic influence. You are thinking that it is Fate which decided that of more than six thousand herbs, tatura should be in short supply.” He was not laughing now, he was looking at me with undisguised respect. I added, “It is further indicated in your aura, Sir, that in a short time you will be the most important Medical Abbot of Tibet.”

Ông nhìn chằm chằm vào tôi tỏ ra am hiểu. “Con của ta,” Ông nói, “Con có được quyền năng rất lớn – con sẽ còn tiến xa. Hãy đừng bao giờ lạm dụng quyền năng này trong con. Nó có thể rất nguy hiểm. Còn giờ chúng ta cùng bình đẳng thảo luận về hào quang. Nhưng chúng ta cần uống trà trước đã.” Ông giơ một cái chuông bạc nhỏ và lắc nó mạnh đến nỗi mà tôi sợ nó sẽ bay khỏi tay của Ông. Chỉ vài giây sau, một nhà sư trẻ vội vã mang trà đến và – ôi niềm vui vô bờ bến! – một số vật phẩm quý giá của Mẹ Ấn Độ! Khi chúng tôi ngồi đây, tôi nhận thấy rằng tất cả những lạt ma cấp cao đều ở trong những khu vực tiện nghi. Nhìn xuống dưới, tôi có thể thấy nhiều công viên rộng lớn của Lhasa, Dodpal và Khati cũng thấp thoáng trong tầm tay với của tôi. Bên trái xa xa phía Chorten trong khu của chúng tôi, Kesar Lhakhang đứng sừng sững như một người lính gác, trong khi bên kia đường hướng về phía bắc, là nơi yêu thích của tôi,  Pargo Kaling (cửa Tây) vươn cao chót vót.

He gazed at me with some apprehension. “My boy,” he said, “You have great power—you will go far. Never never abuse the power within you. It can be dangerous. Now let us discuss the aura as equals. But let us discuss over tea.” He raised the small silver bell and shook it so violently that I feared it would fly from his hand. Within seconds a young monk hastened in with tea and—oh, joy of joys!—some of the luxuries of Mother India! As we sat there I reflected that all these high lamas had comfortable quarters. Below us I could see the great parks of Lhasa, the Dodpal and the Khati were—so it appeared—within reach of my extended arm. More to the left the Chorten of our area, the Kesar Lhakhang, stood like a sentinel, while across the road, further north, my favourite spot, the Pargo Kaling (Western Gate) towered aloft.

“Thưa Ngài, cái gì tạo nên hào quang?” Tôi hỏi. “Như vị thầy tôn kính của con, Lạt ma Minh Gia Đại Đức đã nói với con,” Ông mở lời, “ bộ não tiếp nhận tín hiệu từ Chân Ngã. Dòng điện được phát ra trong bộ não. Toàn bộ Sự sống là điện từ. Hào quang là biểu hiện của dòng diện. Như con biết đấy, chúng ta có vầng hào quang quanh đầu. Nhiều bức tranh cổ xưa luôn vẽ các vị Thánh hoặc Chúa với một cái như là ‘Bát Vàng’ quanh phía sau đầu họ.” “Tại sao chỉ có rất ít người nhìn thấy hào quang và quầng ánh sáng, thưa Ngài?” Tôi hỏi. “Một số người không tin vào sự tồn tại của hào quang bởi họ không thể nhìn thấy nó. Họ quên rằng họ cũng không thể nhìn thấy không khí, và không có không khí, chúng ta sẽ không thể sống được! Một vài – rất ít người có thể nhìn thấy hào quang. Số còn lại thì không thể thấy được. Một số người có thể nghe được âm thanh tần số cao hơn hoặc thấp hơn những người khác. Điều này không liên quan gì đến mức độ tâm linh của người quan sát, cũng như bảo rằng người có khả năng tâm linh là phải biết đi trên cà kheo vậy.” Ông cười với tôi và nói thêm, “Ta đã từng đi cà kheo cũng gần giỏi như con. Nhưng hiện giờ thân hình của ta không còn phù hợp với nó nữa.” Tôi cũng cười và nghĩ rằng Ông chắc phải cần một cặp thân cây để làm cà kheo.

“What causes the aura, Sir?” I asked. “As your respected Guide, the Lama Mingyar Dondup has told you,” he commenced, “the brain receives messages from the Overself. Electric currents are generated in the brain. The whole of Life is electric. The aura is a manifestation of electric power. About one’s head, as you so well know, there is a halo or nimbus. Old paintings always show a Saint or God with such a ‘Golden Bowl’ around the back of the head.” “Why do so few people see the aura and the halo, Sir?” I asked. “Some people disbelieve the existence of the aura because they can not see it. They forget that they can not see air either, and without air they would not manage very well! Some—a very very few—people see auras. Others do not. Some people can hear higher frequencies, or lower frequencies than others. It has nothing to do with the degree of spirituality of the observer, any more than the ability to walk on stilts indicates a necessarily spiritual person.” He smiled at me and added, “I used to walk on stilts almost as well as you. Now my figure is not suited for it.” I smiled too, thinking that he would need a pair of tree trunks as stilts.

“Khi chúng ta phẫu thuật mở con mắt thứ Ba cho con,” Lạt ma Đại Danh Y nói, “chúng ta có thể thấy vài khu vực ở phần phát triển thùy trán của con trông khác so với người bình thường và chúng ta cho rằng con được sinh ra đã có khả năng thấu thị và ngoại cảm. Điều này là một trong những lí do con đã và sẽ tiếp nhận nhiều đợt huấn luyện sớm và tập trung cao độ như vậy.” Ông nhìn tôi đầy hài lòng và nói, “Con cần ở lại Y viện một vài ngày. Chúng ta sẽ tìm hiểu về con nhiều hơn và cân nhắc xem chúng ta có thể nâng cao khả năng của con và dạy con nhiều hơn.” Một tiếng ho dè dặt ở cửa và Thầy của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức bước vào phòng. Tôi đứng dậy và cúi đầu chào Ngài – giống như Lat ma Đại Danh Y Chinrobnobo. Thầy tôi mỉm cười. “Tôi đã nhận được lời nhắn của Ngài qua thần giao cách cảm,” Thầy nói với Lạt ma Đại Danh Y, “vì vậy tôi đến đây nhanh nhất có thể, có lẽ Ngài sẽ vui lòng cho tôi nghe xác nhận của Ngài về những phát hiện của tôi với trường hợp anh bạn trẻ này.” Ngài dừng lại, mìm cười với tôi rồi ngồi xuống.

“When we operated upon you for the Opening of the Third Eye,” said the Great Medical Lama, “we were able to observe that portions of your frontal-lobe developments were very different from the average and so we assume that physically you were born to be clairvoyant and telepathic. That is one of the reasons you have received and will receive such intensive and advanced training.” He looked at me with immense satisfaction and continued, “You are going to have to remain here at the Medical School for a few days. We are going to investigate you thoroughly and see how we can even increase your abilities and teach you much.” There was a discreet cough at the door, and my Guide the Lama Mingyar Dondup walked into the room. I jumped to my feet and bowed to him—as did the Great Chinrobnobo. My Guide was smiling. “I received your telepathic message,” he said to the Great Medical Lama, “so I came to you as speedily as I was able so that perhaps you would give me the pleasure of hearing your confirmation of my findings in the case of my young friend.” He stopped, and smiled at me and sat down.

Đức Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo cũng mỉm cười và nói, “Đồng nghiệp tôn kính! Tôi xin đảnh lễ trước những tri thức siêu việt của Ngài khi chấp nhận anh bạn trẻ này cho cuộc nghiên cứu. Đồng nghiệp tôn kính, tài năng của Ngài thật vô tận, Ngài tài trí đáng kinh ngạc, nhưng Ngài sẽ chẳng thể tìm được một cậu bé như thế này nữa.” Thế rồi, họ cùng cười và Lạt ma Chinrobnobo với ra sau và đem ra – ba lọ quả óc chó ngâm! Tôi chắc trông rất ngố vì họ quay ra nhìn tôi rồi bắt đầu cười. “Lobsang, con đang không dùng khả năng ngoại cảm của mình. Nếu con dùng, chắc con sẽ thấy Lạt ma đáng kính này và ta đã mang tội cá cược với nhau. Giữa hai chúng ta thỏa thuận rằng nếu con đúng như những gì ta nhận định thì Lạt ma Đại Danh Y đáng kính sẽ phải cho con ba lọ quả óc chó ngâm, còn nếu con không đạt tiêu chuẩn như ta đã tuyên bố, thì ta sẽ phải đi một chuyến dài và làm một số công việc y tế cho bạn của ta.”

The Great Lama Chinrobnobo also smiled and said, “Respected Colleague! I gladly bow to your superior knowledge in accepting this young man for investigation. Respected Colleague, your own talents are numerous, you are startlingly versatile, but never have you found such a boy as this.” Then, of all things, they both laughed, and the Lama Chinrobnobo reached down somewhere behind him and took out—three jars of pickled walnuts! I must have looked stupid for they both turned toward me and started laughing. “Lobsang, you are not using your telepathic ability. If you were you would be aware that the Reverend Lama and I were so sinful as to have a bet. It was agreed between us that if you came up to my statements, then the Reverend Medical Lama would give you three jars of pickled walnuts, whereas if you were not up to the standard claimed by me I would do a long journey and undertake certain medical work for my friend.”

Thầy lại mỉm cười với tôi và nói, “Tất nhiên ta vẫn sẽ đi chuyến đi đó dù thế nào đi nữa, và con sẽ đi cùng với ta, nhưng chúng ta phải giải quyết vấn đề rõ ràng và phải giữ danh dự.” Ngài chỉ vào ba cái lọ và nói, “Lobsang, con hãy mang chúng đi khi con rời khỏi đây, rời khỏi căn phòng này, con hãy nhận lấy vì chúng là chiến lợi phẩm của người chiến thắng, và trong trường hợp này thì con là người thắng cuộc.” Tôi thực sự cảm thấy vô cùng bối rối, rõ ràng tôi không thể dùng khả năng ngoại cảm đối với hai vị Lạt ma cấp cao này được. Ý nghĩ này khiến tôi có chút rùng mình ớn lạnh xương sống. Tôi yêu quý Lạt ma Minh Gia Đại Đức, và tôi cũng rất kính trọng những tri thức và sự thông thái của Đại đức Lạt ma Chinrobnobo. Hành vi nghe trộm dù qua thần giao cách cảm có thể bị coi là xúc phạm, là hành động xấu xa. Lạt ma Chinrobnobo quay sang tôi và nói, “Đúng thế, cậu bé của ta, những suy nghĩ của con làm con thêm đáng tin. Ta thực sự rất vui được chào đón con và có con ở đây với chúng ta. Chúng ta sẽ giúp con phát triển bản thân.”

My Guide smiled at me again and said, “Of course I am going to do the journey for him in any case, and you will be going with me, but we had to get matters straight and now honour is satisfied.” He pointed to the three jars and said, “Put them by you, Lobsang, when you leave here—when you leave this room—take them with you for they are the spoils of the victor, and in this case you are the victor.” I really felt remarkably foolish, obviously I could not use telepathic powers on these two High Lamas. The very thought of such a thing sent chill shivers along my spine. I loved my Guide the Lama Mingyar Dondup, and I greatly respected the knowledge and wisdom of the Great Lama Chinrobnobo. It would have been an insult, it would have been bad manners indeed to have eavesdropped even telepathically. The Lama Chinrobnobo turned to me and said, “Yes, my boy, your sentiments do you credit. I am pleased indeed to greet you and to have you here among us. We will help you with your development.”

Thầy tôi nói, “Nào, Lobsang, con sẽ phải ở lại tòa nhà đặc biệt này trong, có lẽ, khoảng một tuần bởi con sẽ được dạy khá nhiều về hào quang. Phải rồi đấy!”, Ngài nói, giải thích cái nhìn của tôi, “Ta thấy là con cho rằng đã hiểu hết về hào quang rồi. Con có thể nhìn thấy hào quang, và con có thể đọc được ý nghĩa của nó, nhưng giờ con phải học về nguồn gốc tại sao và từ đâu mà có nó và con phải hiểu tại sao những người khác không thể thấy được chúng. Ta sẽ đi bây giờ, nhưng ta sẽ gặp lại con vào ngày mai.” Ngài đứng lên và, đương nhiên, chúng tôi đứng lên theo. Thầy chào tạm biệt và rời khỏi căn phòng rất tiện nghi này. Lạt ma Chinrobnobo quay về phía tôi rồi nói, “Đừng quá lo lắng, Lobsang, không sao đâu – chúng ta chỉ đơn giản là cố gắng giúp con và nâng cao khả năng của con thôi.”

My Guide said, “Now Lobsang, you are going to have to stay in this particular building for, perhaps, a week, because you are going to be taught quite a lot about the aura. Oh yes!” he said, interpreting my glance, “I am aware that you think you know all about the aura. You can see the aura, and you can read the aura, but now you have to learn the whys and wherefores of it and you have to learn how much the other fellow does not see. I am going to leave you now, but I shall see you tomorrow.” He rose to his feet and, of course, we rose as well. My Guide made his farewells and then withdrew from that quite comfortable chamber. The Lama Chinrobnobo turned to me and said, “Do not be so nervous, Lobsang, nothing is going to happen to you—we are merely going to try to help you and to expedite your own development.”

“Trước hết thì chúng ta cần thảo luận một chút về hào quang của con người. Tất nhiên con nhìn thấy hào quang một cách rõ ràng và con có thể hiểu về nó, nhưng hãy hình dung rằng con không có chút tài năng thiên bẩm nào, đặt con vào vị trí của 99,9%, hoặc thậm chí cao hơn thế, của dân số thế giới.” Ông một lần nữa rung mạnh chiếc chuông bạc nhỏ và người phục vụ lại vội vàng bước vào cùng với trà và, tất nhiên, thêm một số “món đồ khác” cần thiết rất yêu thích của tôi mỗi khi dùng trà! Ở đây có thể khá thú vị khi nói rằng chúng tôi ở Tây Tạng đôi khi uống hơn sáu mươi tách trà mỗi ngày. Tất nhiên rồi, Tây Tạng là một xứ lạnh và trà nóng làm ấm chúng tôi, chúng tôi không thể ra ngoài và mua đồ uống như những người phương Tây, chúng tôi chỉ dùng trà và tsampa, trừ khi vài người bạn thực sự thân thiết đem tặng chút quà từ vùng đất khác như Ấn Độ, những thứ không có sẵn ở Tây Tạng.

First of all, let us have a little discussion about the human aura. You of course see the aura vividly and you can understand about the aura, but imagine that you were not so favoured—not so gifted, put yourself in the position of ninety nine and nine tenths, or even more, of the world’s population.” He violently rang that little silver bell again and once again the attendant came bustling in with tea and of course the necessary “other things” which most pleased me when I was having tea! It might be of interest here to say that we in Tibet sometimes drank in excess of sixty cups of tea in a day. Of course, Tibet is a cold country and the hot tea warmed us, we were not able to get out and buy drinks such as people of the Western world had, we were limited to tea and tsampa unless some really kind-hearted person brought from a land such as India those things which were not available in Tibet.

Chúng tôi ngồi xuống và Lạt ma Chinrobnobo nói, “Chúng ta đã thảo luận về nguồn gốc của hào quang. Nó là sinh lực của cơ thể con người. Lobsang, bây giờ ta sẽ giả định, con không thể nhìn thấy hào quang và con không biết gì về nó cả, bởi chỉ nhờ thế, ta mới có thể cho con thấy người bình thường nhìn thấy hay không nhìn thấy được cái gì.” Tôi gật đầu ngụ ý đã hiểu. Tất nhiên tôi có khả năng thiên bẩm là nhìn thấy hào quang và những thứ tương tự, và những khả năng này được cải thiện rất nhiều sau ca phẫu thuật mở “Con mắt Thứ Ba”. Mấy lần trước đây tôi suýt bị cuốn vào những cuộc nói chuyện về những thứ mà người khác không nhìn thấy. Tôi nhớ có lần đã bảo rằng một người vẫn còn sống – người mà lão Tzu và tôi nhìn thấy nằm bên lề đường – và lão Tzu nói tôi hoàn toàn nhầm, người ấy đã chết rồi. Tôi bảo, “Nhưng lão Tzu à, người đàn ông ấy vẫn còn phát sáng!” May mà khi tôi vừa kịp nhận ra thì tiếng gió vù vù thổi qua chúng tôi khiến lão Tzu chẳng nghe rõ. Tuy nhiên, nghĩ thế nào ông ấy đã đến kiểm tra người đàn ông đang nằm bên đường và phát hiện ra ông ta vẫn còn sống thật! Nhưng đó là câu chuyện ngoài lề!

We settled down, and the Lama Chinrobnobo said, “We have already discussed the origin of the aura. It is the life force of a human body. I am going to assume for the moment, Lobsang, that you cannot see the aura and that you know nothing about the aura, because only in assuming that can I tell you what the average person sees and does not see.” I nodded my head to indicate that I understood. Of course I had been born with the ability to see the aura and things like that, and those abilities had been increased by the operation of “the Third Eye”, and on many occasions in the past I had been almost trapped into saying what I saw without it dawning upon me that others did not see the same as I. I remembered an occasion some time previously when I had said that a person was still alive—a person that old Tzu and I had seen lying beside the road—and Tzu had said that I was quite wrong, the man was dead. I had said, “But Tzu, the man still has his lights on!” Fortunately, as I realised after, the gale of wind which was blowing past us had distorted my words so that Tzu had not comprehended the meaning. On some pulse however, he had examined the man lying beside the road and found he was alive! But this is a digression.

“Lobsang à, đàn ông và đàn bà bình thường không thể thấy hào quang của con người. Một số người thậm chí còn bám vào niềm tin rằng chẳng có thứ gì gọi là hào quang cả. Cũng như họ có thể nói rằng không thứ gì gọi là không khí cả bởi họ đâu nhìn thấy nó!” Vị Lạt ma Đại Danh Y nhìn tôi để xem có đang nghe Ngài nói không hay đang mơ màng nghĩ đến hạt óc chó. Hài lòng vì thấy tôi vẫn đang chăm chú lắng nghe, Ngài gật đầu rồi tiếp tục, “Chừng nào cơ thể còn sự sống thì chừng đó còn hào quang, cái mà chỉ có thể được nhìn thấy bởi những người có quyền năng hoặc món quà hay khả năng – gọi là gì thì tùy con. Lobsang, ta muốn giải thích cho con rằng, hào quang được cảm nhận rõ nhất khi người đó hoàn toàn khỏa thân. Chúng ta sẽ bàn đến lí do tại sao sau”.

“The average man and woman, Lobsang, cannot see the human aura. Some, indeed, hold to the belief that there is no such thing as a human aura. They might just as well say that there is no such thing as air because they cannot see it!” The Medical Lama looked at me to see if I was following him or if my thoughts were straying walnut-wise. Satisfied with my appearance of attention, he nodded sagely and continued, “So long as there is life in a body, then there is an aura which can be seen by those with the power or gift or ability—call it what you will. I must explain to you, Lobsang, that for the clearest perception of the aura the subject who is being seen must be absolutely nude. We will discuss why later.

‘Thực ra nhìn vào một người khi họ mặc quần áo cũng đủ để đọc được vài điều cơ bản, nhưng nếu con khám cho một người để tìm gì đó thì người ấy phải hoàn toàn ở trần. Bao quanh cơ thể và mở rộng ra, trong khoảng từ ba milimet đến khoảng bảy tới mười phân là lớp vỏ dĩ thái. Nó là một lớp sương mù màu xanh xám, cũng khó có thể gọi nó là sương mù, bởi dù nó trông khá mờ ảo nhưng người ta vẫn có thể nhìn xuyên qua nó một cách dễ dàng. Lớp dĩ thái bao phủ này là phát xạ thuần khiết từ sinh vật, đặc biệt là từ cơ thể sống, nên một người rất khỏe mạnh sẽ có lớp dĩ thái bao phủ khá rộng, nó có thể dày thậm chí từ bảy tới mười phân từ thể xác. Lobsang, chỉ có những người có thiên bẩm, mới thấy được lớp vỏ tiếp theo, bởi vì nằm giữa thể dĩ thái và hào quang còn có một dải nữa, rộng khoảng bảy phân, và chỉ người nào được ban tặng món quà thiên bẩm, tài năng thực sự mới nhìn thấy màu sắc trong dải băng ấy. Ta phải thú nhận là ta chẳng thể nhìn thấy cái gì ngoài khoảng trống ở đó.”

‘It is sufficient for just ordinary readings to look at a person while they have some clothing on, but if you are going to look for anything whatever connected with a medical reason, then the person must be completely and absolutely nude. Well, completely enveloping the body and extending from the body for a distance of an eighth of an inch to three or four inches is the etheric sheath. This is a blue-grey mist, one can hardly call it a mist, for although it appears misty one can see clearly through it. This etheric covering is the purely animal emanation, it derives particularly from the animal vitality of the body so that a very healthy person will have a quite wide etheric, it may even be three or four inches from the body. Only the most gifted, Lobsang, perceive the next layer, for between the etheric and the aura proper there is another band, perhaps three inches across, and one has to be gifted and talented indeed to see any colours in that band. I confess that I can see nothing but empty space there.”

Tôi cảm thấy thực sự vui mừng bởi có thể nhìn thấy được tất cả màu sắc ở vùng này và sốt sắng nói ra điều đó. “Đúng thế, đúng thế, Lobsang! Ta biết con có thể nhìn thấy vùng đó, bởi con là một trong những người tài năng nhất trong lĩnh vực này, nhưng ta đang giả định rằng con không thể nhìn thấy chút gì về hào quang bởi ta đang phải giải thích tất cả những điều này cho con.” Lạt ma Đại Danh Y nhìn tôi có chút quở trách – rõ ràng là quở trách – vì đã làm đứt dòng suy nghĩ của Ngài. Khi Ngài nghĩ rằng tôi đã đủ kiềm chế để không cắt ngang nữa, Ngài tiếp tục, “Đầu tiên là lớp dĩ thái. Tiếp sau lớp dĩ thái là một vùng mà rất ít người trong chúng ta có thể nhận biết được, mà chỉ thấy là một khoảng không. Lớp ngoài như khoảng không đó chính là hào quang. Hào quang không phụ thuộc quá nhiều vào sức sống sinh vật mà phụ thuộc vào sức sống tinh thần. Hào quang bao gồm các dải xoáy và các vân của tất cả các màu của quang phổ có thể nhìn thấy và điều này nghĩa là có nhiều màu ta không có thể nhìn thấy bằng mắt thường, bởi hào quang được nhìn bởi những giác quan khác chứ không phải bằng mắt thường. Mỗi cơ quan trong cơ thể con người phát ra ánh sáng của riêng nó, những tia sáng này biến đổi và rung động theo những rung động của tư tưởng người đó. Rất nhiều điều được thể hiện rõ trong lớp dĩ thái và khoảng không kế tiếp nó, và quan sát hào quang trên cơ thể trần trụi sẽ cho thấy nhiều điều về sức khỏe và bệnh tật, như vậy những người có khả năng thấu thị có thể đọc được tình trạng sức khỏe hay các vấn đề khác nữa của một người.”

Tôi đã biết tất cả về điều này, đó chỉ là trò trẻ con đối với tôi, và tôi đã thực hành những việc tương tự này từ sau ca phẫu thuật mở “Con mắt thứ Ba”. Tôi biết có những nhóm Lạt ma Y khoa ngồi kế bên người bệnh kiểm tra cơ thể trần trụi của họ xem nên chữa thế nào. Tôi nghĩ có lẽ cũng sẽ được huấn luyện những công việc đại loại như thế.

I felt really gleeful about that because I could see all the colours in that space and I hastened to say so. “Yes, yes, Lobsang! I know you can see in that space, for you are one of our most talented in this direction, but I was pretending that you could not see the aura at all because I have to explain all this to you.” The Medical Lama looked at me reprovingly—reprovingly no doubt, for interrupting the trend of his thoughts. When he thought that I was sufficiently subdued to refrain from further interruption he continued, “First then, there is the etheric layer. Following the etheric layer there is that zone which so few of us can distinguish except as an empty space. Outside of that is the aura itself. The aura does not so much depend upon the animal vitality as upon the spiritual vitality. The aura is composed of swirling bands, and striations of all the colours of the visible spectrum and that means more colours than can be seen with the physical eyes, for the aura is seen by other senses than by the physical sight. Every organ in the human body sends out its own shaft of light, its shaft of rays, which alter and fluctuate as the thoughts of a person fluctuate. Many of these indications are present to a very marked degree in the etheric and in the space beyond, and when the nude body is seen the aura appears to magnify the indications of health or disease, from which it is clear that those of us who are sufficiently clairvoyant can tell of a person’s health or otherwise.”

I knew all about that, this was all child’s play to me, and I had been practicing things like this ever since the operation for “the Third Eye”. I knew of the groups of Medical Lamas who sat beside suffering people and examined the nude body to see how they could be helped. I had thought perhaps that I was going to be trained for work such as that.

“Bây giờ” Lạt ma Đại Danh Y nói, “ con đang được huấn luyện đặc biệt, đào tạo nâng cao, và khi con đi đến thế giới phương Tây rộng lớn vượt ra bên ngoài biên giới của chúng ta, hy vọng rằng con có thể phát minh ra một loại công cụ để thậm chí những người không có quyền năng huyền bí nào cũng sẽ có thể nhìn thấy hào quang của con người. Các bác sỹ khi quan sát hào quang của bệnh nhân sẽ thấy được cái gì không ổn với họ để có thể điều trị. Làm thế nào, chúng ta sẽ bàn về việc này sau. Ta biết tất cả những cái này khá mệt mỏi, nhiều thứ mà ta đã nói với con thực sự con đã biết rõ, nhưng nó có thể gây mệt mỏi ở khía cạnh này; con có khả năng thấu thị bẩm sinh, con có thể chưa bao giờ nghĩ  về cơ chế hoạt động của món quà thiên bẩm của mình, và đó là điều cần phải khắc phục, bởi người mà chỉ biết một nửa vấn đề thì sẽ chỉ học nửa vời và vận dụng cũng nửa vời. Con, anh bạn của ta, sẽ phải trở thành người thực sự hữu ích! Nhưng chúng ta hãy kết thúc buổi học tại đây, Lobsang, chúng ta sẽ tu sửa lại những căn phòng ở đây để dành một phòng cho con, rồi chúng ta có thể nghỉ ngơi và suy ngẫm về những vấn đề mà chúng ta mới đề cập đến. Trong tuần này, con sẽ không cần phải tham gia buổi lễ nào, đây là yêu cầu của Đấng Thái Tuế, tất cả năng lực và sự tận tâm của con sẽ chỉ tập trung vào việc làm chủ được các kiến thức mà mà ta và các thầy sắp truyền đạt lại cho con.”

“Now!” said the Medical Lama, “you are being specially trained, highly trained, and when you go to that great Western world beyond our borders it is hoped and thought that you may be able to devise an instrument whereby even those with no occult power at all will be able to see the human aura. Doctors, seeing the human aura, and actually seeing what is wrong with a person, will be able to cure that person’s illnesses. How, we shall discuss later. I know that all this is quite tiring, much of that which I have told you is very well known indeed to you but it may be tiring from this aspect; you are a natural clairvoyant, you may possibly never have thought of the mechanics of the operation of your gift, and that is a matter which must be remedied because a man who knows only half a subject is only half trained and half useful. You, my friend, are going to be very useful indeed! But let us end this session now, Lobsang, we will repair to our own apartments—for one has been set aside for you—and then we can rest and think on those matters upon which we have so briefly touched. For this week you will not be required to attend any Service, that is by order of the Inmost One Himself, all your energies, all your devotions, are to be directed solely to mastering the subjects which I and my colleagues are going to put before you.”

Ngài đứng dậy và tôi cũng đứng lên theo. Một lần nữa, chiếc chuông bạc lại nằm trong bàn tay hộ pháp của Ngài và nó được lắc mạnh đến nỗi tôi thực sự có cảm giác là cái vật tội nghiệp này chắc sẽ bị văng ra vỡ vụn. Nhà sư phục vụ chạy đến và Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo nói, “Con sẽ tiếp đón Tuesday Lobsang Rampa nhé, vì cậu ta là vị khách danh dự ở đây như con đã được thông báo. Hãy đối xử với cậu ấy như đối xử với một vị tu sĩ khách mời cấp cao.” Anh ta quay lại phía tôi đảnh lễ, và tất nhiên tôi cũng vội vàng cúi đầu chào lại, rồi vị sư phục vụ ra hiệu cho tôi đi theo anh ấy. “Dừng lại đã!” Lạt ma Chinrobnobo la lên. “Con quên mất hộp óc chó này !” Tôi vội quay lại và nhanh tay ôm lấy mấy cái lọ quý giá, cười ngượng nghịu vì hành vi của mình, rồi tôi hấp tấp chạy đến chỗ người phục vụ đang đứng chờ.

He rose to his feet and I rose to mine. Once again that silver bell was seized in a mighty hand and shaken so vigorously that I really felt that the poor thing would fall to pieces. The attendant monk came running in and the Medical Lama Chinrobnobo said, “You will attend upon Tuesday Lobsang Rampa, for he is an honoured guest here as you are aware. Treat him as you would treat a visiting monk of high degree.” He turned to me and bowed, and of course I hastily bowed back, and then the attendant beckoned for me to follow him. “Stop!” bawled the Lama Chinrobnobo. “You have forgotten your walnuts!” I rushed back and hastily grabbed up those precious jars smiling somewhat in embarrassment as I did so, then I hastened on to the waiting attendant.

Chúng tôi đi qua một hành lang ngắn và nhà sư phục vụ dẫn tôi vào một căn phòng xinh xắn có cửa sổ nhìn ra bến đò bên sông Hạnh phúc. “Thưa Thầy, tôi sẽ chăm sóc Thầy” nhà sư nói. “Chiếc chuông ở kia để cho Thầy dùng khi cần.” Anh ta quay gót rời khỏi phòng. Tôi lại chỗ cửa sổ. Khung cảnh qua thung lũng linh thiêng thu hút tôi, bởi con thuyền bọc da bò yak căng phồng vừa rời bến và người lái đò đang chống sào đẩy thuyền bơi qua dòng sông chảy xiết. Bên kia bờ, tôi thấy, có ba bốn người mà qua cách ăn mặc của họ, chắc họ là những người quan trọng  – cảm nhận này được xác nhận bởi thái độ khúm núm của người lái đò. Tôi quan sát thêm vài phút rồi đột nhiên cảm thấy mệt mỏi  hơn mình tưởng. Tôi ngồi phệt luôn xuống sàn nhà mà thậm chí chẳng thèm để ý đến tấm đệm ngồi, và chẳng kịp cảm nhận  gì về điều đó, tôi lăn ra ngủ.

We went along a short corridor and the attendant ushered me into a very nice room which had a window overlooking the ferry across The Happy River. “I am to look after you, Master,” said the attendant. “The bell is there for your convenience, use it as you will.” He turned and went out. I turned to that window. The view across the Holy Valley entranced me, for the ferry of inflated yak hides was just putting out from the shore and the boatman was poling along across the swift river. On the other side, I saw, there were three or four men who, by their dress, must have bean of some importance—an impression which was confirmed by the obsequious manner of the ferryman. I watched for some minutes, and then, suddenly, I felt more tired than I could imagine possible. I sat down upon the ground without even bothering about a seat cushion, and before I knew anything about it I had toppled over backwards, asleep.

Vài tiếng đồng hồ trôi qua cùng tiếng lách cách của Bánh xe cầu nguyện. Bỗng nhiên tôi ngồi dậy, giật mình run rẩy sợ hãi. Buổi lễ! Tôi đã bị trễ buổi lễ. Tôi nghiêng đầu cẩn thận lắng nghe. Đâu đó có tiếng đọc kinh cầu nguyện. Thế là đủ – tôi nhảy dựng lên và lao tới cánh cửa quen thuộc. Nhưng nó không có ở đó! Bằng  một cú huỵch chối xương, tôi va vào bức tường đá và ngã bật ngửa ra. Trong một khoảnh khắc, có một tia sáng trắng xanh bên trong đầu tôi khi nó đập mạnh vào đá, sau đó tôi hồi phục và bật dậy một lần nữa. Hoảng sợ vì sự muộn màng của mình, tôi chạy quanh phòng và ở đó dường như không có cửa. Tệ hơn nữa – cũng không có cả cửa sổ!

The hours droned away to the accompaniment of clacking Prayer Wheels. Suddenly I sat up, bolt upright, quaking with fear. The Service! I was late for the Service. With my head on one side I listened carefully. Somewhere a voice was chanting a Litany. It was enough—I jumped to my feet and raced for the familiar door. It was not there! With a bone-jarring thud I collided with the stone wall and fell bouncily onto my back. For a moment, there was a blue-white flash inside my head as it too struck the stone, then I recovered and sprang to my feet once more. Panicked at my lateness, I raced around the room and there seemed to be no door. Worse—there was no window either!

“Lobsang!” một giọng nói phát ra từ bóng tối, “Thầy bị ốm à?” Tiếng nhà sư phục vụ như dội một gáo nước lạnh đem tôi trở về với thực tại. “Ôi!” Tôi ngượng ngùng nói, “Tôi quên mất, tôi nghĩ bị trễ buổi lễ. Tôi quên là đã được miễn tham gia!” Có tiếng cười khúc khích và sư phục vụ nói, “Tôi sẽ thắp đèn vì hôm nay trời rất tối.” Một tia sáng le lói xuất hiện qua khung cửa – đó là một chỗ không ngờ tới nhất! – và nhà sư tiến về phía tôi. “Một khoảnh khắc thật thú vị,” anh ta nói, “Lúc đầu tôi cứ tưởng có một đàn bò yak bị tuột dây chui vào đây.” Nụ cười của anh ấy đã xóa tan những lời lẽ xúc phạm. Tôi lại ngồi xuống, nhà sư và ánh đèn của anh ta cũng đi khỏi. Bên kia bóng tối lờ mờ là khung cửa sổ với một ngôi sao băng bùng cháy trong bóng đêm, và hành trình của nó đi qua không gian vô tận rồi cũng phải kết thúc. Tôi cuộn  mình và ngủ thiếp đi.

 “Lobsang!” said a voice from the darkness, “are you ill?” The voice of the attendant brought me back to my senses like a dash of ice water. “Oh!” I said sheepishly, “I forgot, I thought I was late for Service. I forgot I was excused!” There was a subdued chuckle, and the voice said, “I will light the lamp, for it is very dark this night.” A little glimmer came from the doorway—it was in a most unexpected place!—and the attendant advanced towards me. “A most amusing interlude,” he said, “I thought at first that a herd of yaks had broken loose and were in here.” His smile robbed the words of all offence. I settled down again, and the attendant and his light withdrew. Across the lighter darkness that was the window a shooting star flamed into incandescence, and its journey across the countless miles of space was at an end. I rolled over and slept.

Bữa sáng vẫn những món tsampa và trà cũ kỹ và nhàm chán. Bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe, nhưng nhạt nhẽo. Lúc sau, nhà sư phục vụ đến và nói, “Nếu Thầy đã sẵn sàng thì tôi sẽ đưa đến một nơi nữa.” Tôi đứng dậy và đi theo anh ta ra khỏi phòng. Lần này chúng tôi đi theo một hướng khác và vào một khu của Chakpori nơi mà tôi không nghĩ là có tồn tại. Chúng tôi đi xuống sâu đến nỗi tưởng như đang đi vào lòng Núi Sắt. Giờ không còn một tia sáng nào ngoài ánh sáng từ ngọn đèn mang theo. Cuối cùng, nhà sư dừng lại và chỉ về phía trước. “Thầy hãy đi thẳng về phía trước và rẽ vào căn phòng ở bên trái.” Anh ta gật đầu rồi quay người thoái lui.

Breakfast was the same old dull and dreary tsampa and tea. Nourishing, sustaining, but uninspiring. Then the attendant came and said, “If you are ready, I have to take you elsewhere.” I rose to my feet and walked with him out of the room. We went a different way this time, into a part of the Chakpori which I did not know existed. Downwards, a long way downwards until I thought we were descending into the bowels of the Iron Mountain itself. Now there was no glimmer of light except from the lamps we carried. At last the attendant stopped, and pointed ahead. “Go on—straight along and turn into the room on the left.” With a nod, he turned and retraced his steps.

Tôi bước đi chậm chạp và tự hỏi “Phải làm gì bây giờ?” Căn phòng bên trái ngay trước mắt, tôi bước vào và sững sờ vì ngạc nhiên. Điều đầu tiên thu hút tôi là Bánh xe cầu nguyện được đặt ở ngay giữa phòng. Tôi chỉ kịp nhìn liếc qua nó, nhưng thậm chí chỉ có vậy nó cũng cho thấy đó thực sự là một chiếc bánh xe cầu nguyện rất kỳ lạ , thế rồi có ai đó gọi tên tôi, “Tốt rồi, Lobsang! Chúng ta rất mừng vì con đã đến đây.” Tôi nhìn thấy Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, ngồi bên cạnh Ngài là Đại đức Lạt mạ Đại Danh Y Chinrobnobo, còn bên kia là vị Lạt ma người Ấn Độ trông rất đạo mạo, tên là Marfata. Ông ấy đã từng học Tây y và thực tế đã nghiên cứu tại một trường Đại học Đức nơi tôi tin rằng đó là trường Heidelberg. Hiện giờ Ông là một tu sĩ Phật giáo, một lạt ma, tất nhiên, nhưng “tu sĩ” chỉ là một cách gọi chung.

I trudged on, wondering “What now?” The Room on the Left was before me, I turned into it and paused in amazement. The first thing to attract my attention was a Prayer Wheel standing in the middle of the room. I had time for only a brief glance at it, but even so it appeared to be a very strange Prayer Wheel indeed, then my name was spoken, “Well, Lobsang! We are glad you are here.” I looked and there was my Guide, the Lama Mingyar Dondup, by his side sat the Great Medical Lama Chinrobnobo, and on the other side of my Guide there sat a very distinguished-looking Indian Lama named Marfata. He had once studied Western medicine, and had indeed studied at some German University which I believe was called Heidelberg. Now he was a Buddhist monk, a lama, of course, but “monk” is the generic term.

Vị Lạt ma Ấn Độ nhìn tôi đầy dò xét, soi mói đến nỗi tôi nghĩ Ông chắc đang soi chất liệu cấu tạo lưng áo choàng của tôi – Ông ấy như thể đang nhìn xuyên thấu tôi. Tuy nhiên, vào những lúc đặc biệt như thế tôi chẳng nghĩ gì xấu cả và quay lại nhìn thẳng vào Ông. Rốt cục thì tại sao tôi không lại không dám nhìn thẳng vào Ông ấy cơ chứ? Tôi cũng giỏi như Ông, bởi vì tôi được Lạt ma Minh Gia Đại Đức và Đại đức Lạt ma Danh Y Chinrobnobo đào tạo. Đôi môi khô cằn của ông nở một nụ cười gượng ép như thể việc đó khiến Ông đau đớn lắm. Ông gật đầu và quay sang nói với Thầy tôi, “Vâng, tôi hài lòng rằng cậu bé này đúng như những gì Ngài đã nói.” Thầy mỉm cười – nhưng nụ cười không chút gượng gạo, nó tự nhiên, thoải mái và thực sự ấm lòng.

The Indian looked at me so searchingly, so piercingly, that I thought he must be looking at the material comprising the back of my robe—he seemed to look right through me. However, on this particular occasion I had nothing bad on my conscience, and I returned his gaze. After all, why should I not gaze at him? I was as good as he, for I was being trained by the Lama Mingyar Dondup and by the Great Medical Lama Chinrobnobo. A smile forced its way across his rigid lips as if its execution caused him intense pain. He nodded, and turned to my Guide, “Yes, I am satisfied that the boy is as you say.” My Guide smiled—but there was no forcing of his smile, it was natural, spontaneous, and indeed warming to the heart.

 

Đại đức Lạt ma Danh Y nói, “ Lobsang, chúng ta đưa con xuống căn phòng bí mật này bởi muốn cho con thấy và thảo luận một số điều với con. Thầy con và ta đã kiểm tra khả năng của con, chúng ta thực sự hài lòng với quyền năng của con, quyền năng này sẽ sớm được phát triển và gia tăng. Vị đồng tu Ấn Độ của chúng ta, Ngài Marfata không nghĩ có một thần đồng như vậy tồn tại ở Tây Tạng. Chúng ta hi vọng con có thể chứng minh những gì chúng ta thấy ở con.” Tôi nhìn Lạt ma Ấn Độ và nghĩ, “Phải, ông ấy là một người tự cao tự đại.” Tôi quay sang Lạt ma Chinrobnobo và nói, “Đức Ngài tôn kính, Đức Thái Tuế, người đã có lòng tốt cho con được diện kiến trong một số dịp, đã cảnh báo con rất rõ ràng về việc cố chứng minh, Người đã nói rằng bằng chứng chỉ là liệu pháp tạm thời cho những cái đầu lười biếng. Kẻ muốn có bằng chứng là những kẻ không có khả năng chấp nhận sự thật của bằng chứng đó bất kể nó hiển nhiên thế nào.”

The Great Medical Lama said, “Lobsang, we have brought you down here to this secret room because we want to show you things and discuss things with you. Your Guide and I have examined you and we are indeed satisfied with your powers, powers that are going to be increased in intensity. Our Indian colleague, Marfata, did not think that such a prodigy existed in Tibet. We hope that you will prove all our statements.” I looked at that Indian and I thought, “Well, he is a man who has an exalted opinion of himself.” I turned to the Lama Chinrobnobo and said “Respected Sir, the Inmost One who has been good enough to give me an audience on a number of occasions has expressly cautioned me against giving proof, saying that proof was merely a palliative to the idle mind. Those who wanted proof were not capable of accepting the truth of a proof no matter how well proven.”

Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo cười lớn khiến tôi gần như sợ rằng mình sẽ bị thổi bay đi bởi một cơn gió lớn, Thầy tôi cũng cười, rồi cả hai nhìn sang Lạt ma Ấn Độ Marfata, người đang ngồi và nhìn tôi một cách cáu kỉnh. “Cậu bé!” Lạt ma Ấn Độ nói, “cậu nói nghe hay đấy, nhưng nói không chứng minh được những gì mà chính con người cậu thể hiện. Giờ hãy nói cho ta biết, cậu bé, cậu nhìn thấy gì ở ta?” Tôi cảm thấy khá e dè về điều này bởi nhiều thứ tôi thấy nhưng không hề thích. “Thưa Ngài đáng kính!” Tôi nói, “Con sợ nếu nói ra những gì con thấy thì Ngài có thể sẽ hiểu lầm và cho rằng con đơn thuần chỉ là láo xược, thay vì muốn trả lời câu hỏi của Ngài.” Thầy tôi Lạt ma Minh Gia Đại Đức gật đầu đồng tình, và ở bên kia, khuôn mặt của Đức Lạt ma Danh Y Chinrobnobo cũng đang nở một nụ cười toe toét hết cỡ như trăng rằm đang lên. “Cậu bé, cứ nói những gì con muốn, bởi chúng ta không có thời gian để nói luyên thuyên ở đây đâu,” Lạt ma Ấn Độ nói.

The Medical Lama Chinrobnobo laughed so that I almost feared I would be blown away by the gale of wind, my Guide also laughed, and they both looked at the Indian Marfata who sat looking sourly at me. “Boy!” said the Indian, “you talk well, but talk proves nothing as you yourself say. Now, tell me, boy, what do you see in me?” I felt rather apprehensive about this, because much of what I saw I did not like. “Illustrious Sir!” I said, “I fear that if I say what I see then you might indeed take it amiss and consider that I am being merely insolent instead of replying to your question.” My Guide the Lama Mingyar Dondup nodded in agreement, and across the face of the Great Medical Lama Chinrobnobo a huge, beaming smile expanded like the rising of the full moon. “Say what you will, boy, for we have no time for fancy talk here,” said the Indian.

Tôi đứng nhìn Đại Đức Lạt ma Ấn Độ một lúc, cứ đứng quan sát cho đến khi Ông phải cựa quậy một chút trước cái nhìn chăm chú của tôi, thế rồi tôi nói, “Thưa Ngài đáng kính! Ngài đã yêu cầu con nói ra những gì con thấy, và con hiểu Thầy của con Lạt ma Minh Gia Đại Đức và Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo cũng muốn con nói một cách thẳng thắn. Vậy đây là những gì con thấy, con chưa bao giờ gặp Ngài trước đây nhưng từ hào quang và những suy nghĩ của Ngài, con nhận thấy rằng: Ngài là một người đã đi khắp nơi, và Ngài đã vượt qua các đại dương lớn trên thế giới. Ngài đã đến một hòn đảo nhỏ mà con không biết tên, nhưng ở đây tất cả đều là người da trắng và có một hòn đảo nhỏ khác nằm bên cạnh như thể nó được tách ra từ hòn đảo mẹ. Ngài rất đối lập với những người dân ở đây và họ thực sự muốn hành động chống lại Ngài bởi vì có một cái gì đó liên quan đến…” – Đến đây tôi ngập ngừng một chút bởi hình ảnh rất mơ hồ, nó phản ánh những thứ mà tôi không có một chút am hiểu. Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục đào xới– “Có một cái gì đó liên quan đến một thành phố của Ấn độ mà con đọc được trong đầu Ngài là Calcutta, và có một thứ gì đó liên quan đến một hố đen nơi người dân trên đảo này thấy vô cùng bất tiện và trở ngại. Theo một cách nào đó, họ đã nghĩ Ngài nhẽ ra có thể tránh được rắc rối thay vì gây ra nó.” Đại đức Lạt ma Chinrobnobo lại cười và tai tôi nghe rõ là tiếng cười bởi nó ngụ ý rằng tôi đang nói đúng. Thầy tôi không thể hiện bất cứ điều gì, còn Latma người Ấn độ khịt khịt mũi.

For some moments I stood looking at the Great Indian Lama, stood looking until even he stirred a little at the intensity of my gaze, then I said, “Illustrious Sir! You have commanded me to speak as I see, and I understand that my Guide the Lama Mingyar Dondup and the Great Medical Lama Chinrobnobo also want me to speak frankly. Now, this is what I see, I have never seen you before but from your aura and from your thoughts I detect this: You are a man who has traveled extensively, and you have traveled across the great oceans of the world. You have gone to that small island whose name I do not know, but here the people are all white and where there is another small island lying nearby as if it were a foal to the greater land which was the mare. You were very antagonistic toward those people and they were indeed anxious to take some action against you for something connected with . . .”—I hesitated here, for the picture was particularly obscure, it was referring to things of which I had not the slightest knowledge. However, I ploughed on—“There was something connected with an Indian city which I assume from your mind was Calcutta, and there was something connected with a black hole where the people of that island were gravely inconvenienced or embarrassed. In some way they thought that you could have saved trouble instead of causing it.” The Great Lama Chinrobnobo laughed again, and it did my ears good to hear that laugh because it indicated that I was on the right track. My Guide gave no indication whatever, but the Indian snorted.

Tôi tiếp tục, “Ngài đã đi đến một vùng đất khác và con có thể thấy cái tên Heidelberg một cách rõ ràng trong tâm trí Ngài. Ở đây Ngài đã theo học ngành y theo nhiều nghi thức man rợ, mà trong đó Ngài đã phải cắt, chặt và cưa nhiều, và không sử dụng các hệ thống giống như chúng ta đang làm ở Tây Tạng. Cuối cùng, Ngài được cấp một loại giấy tờ quan trọng với nhiều con dấu ở trên đó. Con cũng nhìn thấy từ hào quang của Ngài rằng Ngài đang có bệnh.” Tôi hít một hơi thật sâu bởi tôi không biết những lời nói của tôi được tiếp nhận như thế nào.“Căn bệnh mà Ngài đang chịu đựng là một bệnh vô phương cứu chữa, trong đó các tế bào của cơ thể chạy lung tung và phát triển nhanh như cỏ dại, không theo một chuẩn mực nào, và nó lan rộng, cản trở và bám chặt vào các cơ quan còn đang hoạt động. Thưa Ngài! Ngài đang dần kết thúc cuộc đời mình trên trái đất này bởi bản chất tự nhiên trong tư tưởng của Ngài là cho rằng tâm trí kẻ khác chả có gì hay ho.” Chỉ vài phút mà dài tựa mấy năm đối với tôi! – không một tiếng động, và rồi Đại Đức Lạt ma Danh Y Chinrobnobo nói, “Hoàn toàn chính xác, Lobsang, con nói hoàn toàn đúng!” Vị Lạt ma Ấn độ nói, “Cậu ta có lẽ đã được biết trước về tất cả những điều này. ”

I continued, “You went to another land and I can see the name Heidelberg clearly in your mind. In that land you studied medicine according to many barbarous rites wherein you did much cutting and chopping and sawing, and did not use systems which we here in Tibet use. Eventually you were given some sort of big paper with a lot of seals upon it. I see also from your aura that you are a man with an illness.” I took a deep breath here because I did not know how my next words would be received. “The illness from which you suffer is one which has no cure, it is one in which the cells of the body run wild and grow as weeds grow, not according to pattern, not according to the ordained way, but spread and obstruct and clutch at vital organs. Sir! You are ending your own span upon this earth by the nature of your thoughts which admit of no goodness in the minds of others.” For several moments—they may have been years to me!—there was not a sound, and then the Great Medical Lama Chinrobnobo said, “That is perfectly correct, Lobsang, that is perfectly correct!” The Indian said, “The boy was probably primed about all this in advance.”

Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức nói, “Chưa ai từng trao đổi về ông, ngược lại nhiều điều mà  cậu bé nói ra đều rất mới mẻ với chúng tôi, do chúng tôi không được kiểm tra hào quang cũng như suy nghĩ của ông, vì ông không yêu cầu chúng tôi làm việc đó. Nhưng vấn đề chính rút ra ở đây là, cậu bé Tuesday Lobsang Rampa có những năng lực này, và những khả năng đặc biệt này sẽ còn được phát triển hơn nữa. Chúng ta không có thời gian và không có chỗ để tranh cãi, thay vào đó chúng ta có nhiều việc quan trọng để làm. Đi nào!” Ngài đứng dậy và dẫn tôi đến chỗ chiếc Bánh xe cầu nguyện to lớn đó.

My Guide, the Lama Mingyar Dondup said, “No one has discussed you, on the contrary much of what he has told us is news to us, for we have not investigated your aura nor your mind for you did not so invite us. But the main point at issue is, the boy Tuesday Lobsang Rampa has these powers, and the powers are going to be developed even further. We have no time for quarrels, no place for quarrels, instead we have serious work to do. Come!” He rose to his feet and led me to that big Prayer Wheel.

Tôi nhìn vào đồ vật kì lạ đó và tôi nhận ra nó chẳng phải là Bánh xe cầu nguyện gì cả, mà đó là một thiết bị cao khoảng một mét hai tính từ sàn nhà, và rộng khoảng một mét rưỡi. Hai cửa sổ nhỏ ở một bên và tôi có thể thấy hệ thống kính bên trong qua những chiếc cửa sổ này. Ở mặt khác của cỗ máy, nằm lệch giữa là hai cửa sổ rộng hơn nhiều. Mặt đối diện có một tay nắm dài thò ra, nhưng toàn bộ cái này thật bí hiểm đối với tôi, tôi không hề có một chút ý niệm rằng nó có thể là cái gì. Lạt ma Đại Danh Y nói, “Lobsang, đây là một thiết bị để những người không có khả năng thấu thị có thể nhìn thấy được hào quang của con người. Đức Lạt ma người Ấn Marfata đến đây để hỏi chúng ta và sẽ không nói với chúng ta về bản chất căn bệnh của ông, ông nói rằng nếu chúng ta biết quá nhiều về y học thần bí thì chúng ta cũng sẽ biết bệnh của ông ấy mà không cần ông ấy nói ra. Chúng ta đưa Ông đến đây để ông ấy có thể được kiểm tra bằng thiết bị này. Ông ấy đang cho phép mình cởi bỏ áo choàng, và con sẽ nhìn ông ấy trước, rồi con sẽ nói cho chúng ta biết bệnh của ông ấy là gì. Sau đó, chúng ta sẽ dùng thiết bị này và xem những gì con nói và những gì thiết bị này phát hiện ra trùng khớp nhau đến đâu.”

I looked at that strange thing, and I saw that it was not a Prayer Wheel after all, but instead was a device standing about four feet high, four feet from the ground, and it was about five feet across. There were two little windows at one side and I could see what appeared to be glass set in those windows. At the other side of the machine, and set off-centre, were two very much larger windows. At an opposite side a long handle protruded, but the whole thing was a mystery to me, I had not the slightest idea of what it could be. The Great Medical Lama said, “This is a device, Lobsang, with which those who are not clairvoyant can see the human aura. The Great Indian Lama Marfata came here to consult us and would not tell us the nature of his complaint, saying that if we knew so much about esoteric medicine we would know his complaint without his telling us. We brought him here that he could be examined with this machine. With his permission he is going to remove his robe, and you are going to look at him first, and you are going to tell us just what his trouble is. Then we shall use this machine and see how far your findings and the findings of the machine coincide.”

Thầy tôi chỉ vào một điểm trên bức tường tối và Lạt ma Ấn Độ lại chỗ đó và cởi bỏ áo choàng cùng những quần áo khác, Ông đứng dựa vào tường, trần trụi một màu da nâu. “Lobsang! Hãy nhìn thật kĩ ông ấy và nói cho chúng ta biết con thấy những gì,” Thầy nói. Tôi không nhìn thẳng vào vị Lạt ma Ấn Độ mà nhìn nghiêng, không để mắt tập trung vào một điểm mà chỉ nhìn lờ mờ vì đó là cách dễ nhất để nhìn thấy hào quang. Cụ thể là, tôi không nhìn bằng hai mắt như bình thường mà mỗi mắt nhìn riêng tách biệt. Thực ra rất khó giải thích, nhưng nó là một mắt nhìn sang bên trái, một mắt nhìn sang bên phải, và đó là một kỹ năng – một cái mẹo – mà hầu hết bất kỳ ai cũng học làm được.

My Guide indicated a spot against a dark wall and the Indian walked to it and removed his robe and other garments so that he stood brown and bare against the wall. “Lobsang! Take a very good look at him and tell us what you see,” said my Guide. I looked not at the Indian, but some way to one side, I put my eyes out of focus as that is the easiest way of seeing the aura. That is, I did not use normal binocular vision, but instead saw with each eye separately. It is a difficult thing indeed to explain, but it consisted in looking with one eye to the left and one eye to the right, and that is just a knack—a trick—which can be learned by almost anyone.

Tôi nhìn vào Lạt ma người Ấn, hào quang của Ông  rực sáng và rung động. Tôi thấy  rằng Ông thực sự là một người vĩ đại có trí lực cao nhưng, thật không may vẻ ngoài bị hoen ố bởi căn bệnh kì lạ bên trong. Tôi nhìn vào Ông và nói ra những dòng tư tưởng đang tuôn đổ vào tâm trí mình. Tôi hoàn toàn không biết Thầy và Đại Đức Lạt ma Danh Y  đang tập trung lắng nghe những lời mình nói. “Rõ ràng là căn bệnh này đã gây ra nhiều áo lực cho cơ thể. Vị Lạt ma Ấn Độ đây luôn cảm thấy khó chịu và thất vọng, và điều đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của Ngài, càng khiến những tế bào trong cơ thể chạy lung tung nhằm chạy trốn khỏi sự chỉ huy của Bản ngã. Do vậy, Ngài đang có bệnh ở đây” (tôi chỉ vào gan của Ông) “và bởi vì Ngài là người khá nóng tính nên căn bệnh càng trở nên trầm trọng mỗi khi Ngài gặp bức xúc. Từ hào quang của Ngài có thể thấy rõ là nếu Ngài bình tâm hơn, điềm tĩnh hơn như thầy con là Lạt ma Minh Gia Đại Đức thì Ngài sẽ có thể ở lại thế giới này lâu hơn và như vậy sẽ hoàn thành tốt hơn sứ mệnh của Ngài mà không cần thiết phải quay trở lại đây nữa.”

I looked at the Indian, and his aura glowed and fluctuated. I saw that he was a great man indeed and of high intellectual power but, unfortunately, his whole outlook had been soured by the mysterious illness within him. As I looked at him I spoke my thoughts, spoke them just as they came into my mind. I was not at all aware of how intently my Guide and the Great Medical Lama were listening to my words. “It is clear that the illness has been brought on by many tensions within the body. The Great Indian Lama has been dissatisfied and frustrated, and that has acted against his health, causing the cells of his body to run wild, to escape from the direction of the Overself. Thus he has this complaint here” (I pointed to his liver) “and because he is a rather sharp tempered man his complaint is aggravated every time he gets cross. It is clear from his aura that if he would become more tranquil, more placid like my Guide the Lama Mingyar Dondup, he would stay upon this earth longer and so would accomplish more of his task without the necessity of having to come again.”

Lại một lần nữa im lặng bao trùm, tôi cảm thấy vui khi thấy Lạt ma người Ấn gật đầu dường như hoàn toàn đồng ý với các chẩn đoán của tôi. Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo quay ra chiếc máy kỳ lạ và nhìn qua những ô cửa sổ nhỏ. Thầy tôi di chuyển đến chỗ tay cầm và quay với một lực mạnh dần cho đến khi Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo nói dừng tăng tốc và duy trì tốc độ quay ổn định. Latma Đại Danh Y  Chinrobnobo nhìn qua chiếc máy một lát rồi đứng lên, và không nói câu nào Lạt ma Minh Gia Đại Đức đổi chỗ cho Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo quay cái tay cầm như Thầy tôi đã làm. Cuối cùng họ kết thúc việc kiểm tra và đứng trao đổi với nhau qua thần giao cách cảm. Tôi không có ý định can thiệp vào dòng suy nghĩ của họ bởi làm thế sẽ là thiếu tôn trọng và là “tự cao tự đại”. Cuối cùng, họ quay sang phía Lạt ma người Ấn và nói, “Tất cả những gì Tuesday Lobsang Rampa nói đều chính xác. Chúng tôi đã kiểm tra hào quang của Ngài vô cùng cẩn thận, và chúng tôi tin rằng Ngài đã bị ung thư gan. Chúng tôi cũng tin là căn bệnh này phát sinh bởi những cơn nóng giận của Ngài. Chúng tôi tin nếu Ngài hướng đến cuộc sống bình lặng thì Ngài sẽ còn sống được nhiều năm nữa để hoàn thành sứ mệnh của chính mình. Chúng tôi xin báo rằng nếu Ngài đồng ý với kế hoạch của chúng tôi thì Ngài sẽ được phép ở lại đây, tại Chakpori này.

Once again there was a silence, and I was pleased to see that the Indian Lama nodded as if in complete agreement with my diagnosis. The Medical Lama Chinrobnobo turned to that strange machine and looked through the little windows. My Guide moved to the handle and turned with increasing force until a word from the Medical Lama Chinrobnobo caused him to maintain the rate of rotation at a constant speed. For some time the Lama Chinrobnobo gazed through that device, then he straightened up and without a word the Lama Mingyar Dondup took his place, while the Medical Lama Chinrobnobo turned the handle as had previously my Guide. Eventually they finished their examination, and stood together obviously conversing by telepathy. I made no attempt whatever to intercept their thoughts because to do so would have been a gross slight and would have put me “above my station”. At last, they turned to the Indian and said, “All that Tuesday Lobsang Rampa has told you is correct. We have examined your aura most thoroughly, and we believe that you have cancer of the liver. We believe also that this has been caused by certain shortness of temper. We believe that if you will lead a quiet life you still have a number of years left to you, years in which you can accomplish your task. We are prepared to make representations so that if you agree to our plan you will be permitted to remain here at Chakpori.”

Lạt ma người Ấn thảo luận chốc lát rồi ra hiệu cho Lạt ma Chinrobnobo, sau đó cả hai cùng nhau rời khỏi phòng. Thầy Lạt ma Minh Gia Đại Đức vỗ vai tôi và nói, “Giỏi lắm, Lobsang à, làm tốt lắm! Giờ ta muốn cho con xem cái máy này.”

The Indian discussed matters for a time, and then motioned to Chinrobnobo, together they left the room. My Guide the Lama Mingyar Dondup patted me on the shoulder and said, “Well done, Lobsang, well done! Now I want to show this machine to you.”

He walked across to that very strange device and lifted up one side of the top. The whole thing moved, and inside I saw a series of arms radiating from a central shaft. At the extreme end of the arms there were prisms of glass in ruby red, blue, yellow and white. As the handle was turned belts connected from it to the shaft caused the arms to rotate and I observed that each prism in turn was brought to the line which was seen by looking through the two eyepieces. My Guide showed me how the thing worked and then said, “Of course this is a very crude and clumsy affair. We use it here for experiment, and in the hope of one day producing a smaller version. You would never need to use it, Lobsang, but there are not many who have the power of seeing the aura as clearly as you. At some time I shall explain the working in more detail, but briefly, it deals with a heterodyne principle wherein rapidly rotating coloured prisms interrupt the line of sight and thus destroy the normal image of the human body and intensify the much weaker rays of the aura.”

Thầy đậy nắp về chỗ cũ và đến chỗ một thiết bị khác đặt trên bàn góc phía xa. Thầy vừa tới chiếc bàn thì Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo quay vào phòng và đi cùng. “À ha!” Ngài đi ngang qua chúng tôi và nói, “vậy là mọi người sẽ thử nghiệm sức mạnh tư tưởng à? Hay đấy! Tôi phải tham gia mới được!” Thầy tôi chỉ vào một ống hình trụ kỳ lạ trông như làm bằng  giấy thô ráp. “Lobsang, đây là một tờ giấy dày và xù xì. Con thấy đấy, nó có vô số lỗ được tạo ra trên đó, những lỗ này được tạo ra bằng một dụng cụ rất cùn đến nỗi giấy bị rách và các xơ giấy lồi lên. Sau đó, thay vì để phẳng chúng ta cuộn tờ giấy đó lại sao cho tất cả các hình lồi lên ở bên ngoài, tạo thành một hình trụ. Chúng ta dán một ống hút cứng  ngang qua  đỉnh của hình trụ, và trên một cái bệ nhỏ, chúng ta cố định một chiếc kim nhọn. Như vậy, chúng ta có ống hình trụ được đặt trên một giá đỡ gần như không ma sát. Bây giờ hãy quan sát ta nhé!” Ngài ngồi xuống, đặt tay lên mỗi bên của ống hình trụ mà không chạm vào nó, nhưng để cách 1 inch hoặc 1 inch rưỡi giữa tay Ngài với vật thể. Chẳng mấy chốc ống hình trụ bắt đầu xoay, và tôi kinh ngạc  khi nó tăng tốc và rồi quay với tốc độ rất nhanh. Thầy chạm vào để dừng nó lại, và đặt tay của mình vào hướng ngược lại để các ngón tay thay vì chỉ ra phía ngoài cơ thể như bình thường – thì bây giờ lại vào người thầy. Ống hình trụ lại bắt đầu xoay nhưng theo chiều ngược lại! “Thầy đang thổi cho nó quay!” Tôi nói. “Tất cả mọi người đều nói vậy!” Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo nói, “nhưng họ hoàn toàn nhầm.”

He replaced the lid and turned away to another device standing on a table at a far corner. He was just leading the way to that table when the Medical Lama Chinrobnobo came into the room again and joined us. “Ah!” he said, coming over to us, “so you are going to test his thought power? Good! I must be in on this!” My Guide pointed to a queer cylinder of what appeared to be rough paper. “This, Lobsang, is thick, rough paper. You will see that it has innumerable holes made in it, holes made with a very blunt instrument so that the paper is torn and leaves projections. We then folded that paper so that all the projections were on the outside and the sheet, instead of being flat, formed a cylinder. Across the top of the cylinder we affixed a rigid straw, and upon a small pedestal we fixed a sharp needle. Thus we have the cylinder supported on an almost frictionless bearing. Now watch me!” He sat down, and put his hands on either side of the cylinder, not touching the cylinder, but leaving about an inch or an inch and a half space between his hands and the projections. Soon the cylinder started to spin, and I was astounded as the thing picked up speed and was soon rotating at quite a merry rate. My Guide stopped it with a touch, and placed his hands in the opposite direction so that the fingers—instead of pointing away from his body as had been the case—now pointed toward his body. The cylinder started to spin but in the opposite direction! “You are blowing upon it!” I said. “Everyone says that!” said the Medical Lama Chinrobnobo, “but they are completely wrong.”

Đức Lạt ma Danh Y đi đến hốc tường phía xa, rồi trở lại với một tấm kính, trông khá dày. Ngài cẩn thận mang đến chỗ Thầy Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Thầy dừng ống trụ cho không quay nữa và ngồi yên lặng trong khi Đức Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo đặt tấm kính vào giữa Thầy và ống trụ giấy. “Hãy phát tư tưởng cho nó xoay đi,” Lạt ma Đại Danh Y nói. Có vẻ như Thầy tôi làm theo, vì ống xy lanh lại bắt đầu quay. Hoàn toàn không thể có chuyện Thầy hay ai đó thổi vào ống trụ làm cho nó quay bởi đã có tấm kính chắn. Ngài lại dừng ống trụ rồi quay về phía tôi nói, “Lobsang, con thử đi!”. Thầy đứng dậy và tôi vào thế chỗ. Tôi ngồi xuống và đặt tay giống như Thầy đã làm. Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo giữ tấm kính trước mặt tôi để hơi thở của tôi không ảnh hưởng đến sự chuyển động của ống trụ. Tôi ngồi đó cảm giác như một thằng hề. Có vẻ như cái ống trụ cũng nghĩ như vậy, bởi vì chẳng có gì xảy ra. “Hãy nghĩ đến việc làm nó quay đi, Lobsang!” Thầy tôi nói. Tôi làm theo và ngay lập tức nó bắt đầu quay tròn. Trong khoảnh khắc, tôi có cảm giác muốn buông bỏ mọi thứ và bỏ chạy – tôi nghĩ cái này như bị ma ám, thế rồi lý trí (đại loại như thế!) đã thắng thế và tôi chỉ ngồi im.

The Great Medical Lama went to a recess in the far wall, and returned bearing a sheet of glass, it was quite a thick sheet, and he carried it carefully to my Guide the Lama Mingyar Dondup. My Guide stopped the cylinder from rotating and sat quiet while the Great Medical Lama Chinrobnobo placed the sheet of glass between my Guide and the paper cylinder. “Think about rotation,” said the Medical Lama. My Guide apparently did so, for the cylinder started to rotate again. It was quite impossible for my Guide or for anyone else to have blown on the cylinder and made it rotate because of the glass. He stopped the cylinder again and then turned to me and said, “You try it, Lobsang!” He rose from his seat and I took his place. I sat down and placed my hands just as had my Guide. The Medical Lama Chinrobnobo held the sheet of glass in front of me so that my breath would not influence the rotation of the cylinder. I sat there feeling like a fool. Apparently the cylinder thought I was one too, for nothing happened. “Think of making it rotate, Lobsang!” said my Guide. I did so, and immediately the thing started to go round. For a moment I felt like dropping everything and running—I thought the thing was bewitched, then reason (of a sort!) prevailed and I just sat still.

“Thiết bị này ấy Lobsang” Thầy nói, “hoạt động bằng sức mạnh của hào quang con người. Con nghĩ đến việc quay nó và hào quang của con đã tác động lên vật thể khiến nó chuyển động. Con có thể tò mò muốn biết thiết bị này có được thí nghiệm trên tất cả các cường quốc trên thế giới hay không. Tất cả các nhà khoa học vĩ đại nhất đã cố gắng giải thích cách vận hành của thiết bị này, nhưng tất nhiên người phương Tây không tin vào lực dĩ thái nên họ nghĩ ra những lời giải thích thậm chí còn kỳ quặc hơn bản chất thực sự của lực dĩ thái!”

“That device, Lobsang “ said my Guide, “runs by the force of the human aura. You think of rotating it and your aura puts a swirl on the thing which causes it to turn. You may be interested to know that a device such as this has been experimented with in all the greater countries of the world. All the greatest scientists have tried to explain away the workings of this thing, but Western people, of course, cannot believe in etheric force and so they invent explanations which are even stranger than the actual force of the etheric!“

Đức Lạt ma Danh Y nói, “ Tôi thấy hơi đói rồi, Ngài Minh Gia Đại Đức ạ, tôi nghĩ chúng ta cần về phòng ăn và nghỉ. Chúng ta không nên đòi hỏi năng lực cũng như sự chịu đựng của chàng trai trẻ này vì cậu ta sẽ có đủ trong tương lai.” Chúng tôi quay ra và ánh sáng trong căn phòng cũng tắt, chúng tôi đi lên hành lang đá vào tòa nhà chính của Chakpori. Chẳng mấy chốc tôi đã ở trong phòng cùng Thầy Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Và cũng ngay lập tức – một ý nghĩ vui vẻ –  mình lại được ăn và cảm thấy dễ chịu hơn. “Ăn nhiều vào, Lobsang,” Thầy nói “vì lát nữa chúng ta sẽ gặp lại con và thảo luận một vài vấn đề khác.”

The Great Medical Lama said, “I am feeling quite hungry, Mingyar Dondup, I feel that it is time we repaired to our rooms for a rest and for sustenance. We must not tax the young man’s abilities nor his endurance, for he will get enough of that in the future.” We turned, and the lights were extinguished in that room, and we made our way up the stone corridor and into the main building of the Chakpori. Soon I was in a room with my Guide the Lama Mingyar Dondup. Soon—happy thought—I was consuming food and feeling the better for it. “Eat well, Lobsang,” said my Guide “for later in the day we shall see you again and discuss with you other matters.”

Trong khoảng một giờ hoặc đại loại như vậy tôi nghỉ ngơi trong phòng, nhìn ra ngoài cửa sổ bởi tôi có sở thích đặc biệt, đó là thích ngắm nhìn từ trên cao và quan sát thế giới chuyển động ở bên dưới. Tôi thích ngắm những dân buôn bước chậm chạp qua Cửa Tây, mỗi bước lại thể hiện sự vui mừng khi gần đến đích sau một chuyến đi dài gian khổ qua những con đèo trên núi cao. Dân buôn ngày xưa đã kể tôi nghe về khung cảnh tuyệt đẹp nhìn từ một số vị trí trên cao, là nơi khi người ta đến từ biên giới Ấn độ, người ta có thể nhìn xuống khe núi và ngắm Thành phố Linh thiêng với những chóp mái lấp lánh màu vàng, còn bên sườn núi, những bức tường trắng của “Đống gạo”, trông y hệt những bao gạo trải đầy ra khắp các sườn núi. Tôi thích quan sát người lái đò băng qua Con Sông Hạnh phúc và tôi luôn hy vọng được nhìn thấy cảnh con thuyền căng da bò của anh ta bị thủng, muốn coi lúc anh ta dần dần chìm xuống cho đến khi chỉ còn cái đầu nổi lên  mặt nước. Nhưng tôi không bao giờ có được cái may mắn đó, người lái đò luôn qua được bên kia sống, lấy được hàng và trở về.

For an hour or so I rested in my room, looking out of the window, because I had a weakness; I always liked to look from high places and watch the world moving beneath. I loved to watch the traders wending their slow way through the Western Gate, their every step indicating their delight at having reached the end of a long and arduous journey through the high mountain passes. Traders in the past had told me of the wonderful view there was from a certain spot on a high pass where, as one came from the Indian border, one could look down between a cleft in the mountains and gaze upon the Sacred City with its roof tops agleam with gold and, off by the side of the mountains, the white walls of “The Rice Heap”, looking indeed like a heap of rice as it sprawled in bounteous profusion down the side of the mountainous slopes. I loved to watch the ferryman crossing the Happy River, and I hoped always for the sight of a puncture in his inflated hide boat, I longed to watch him gradually sink from sight until only his head protruded above the water. But I was never that fortunate, the ferryman always reached the other side, took on his load, and returned again.

Ngay sau đó, một lần nữa tôi lại vào căn phòng dưới hầm với Thầy Lạt ma Minh Gia Đại Đức và Đức Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo. “Lobsang!” Đức Lạt ma Đại Danh Y nói, “con phải đảm bảo chắc chắn rằng khi khám cho một bệnh nhân để giúp họ, thì họ phải cởi bỏ hết quần áo.” “ Thưa Lạt ma Đại Danh Y đáng kính! Tôi nói, có chút bối rối, “ Con không thể nghĩ ra lí do tại sao phải bắt một ai đó phải cởi bỏ hết quần áo trong thời tiết giá lạnh này, bởi con có thể nhìn thấy hào quang của họ một cách rõ nét mà không cần cởi bỏ một món đồ nào, và ôi! thưa  Lạt ma Đại Danh Y đáng kính ! Làm sao con có thể yêu cầu một người phụ nữ cởi đồ của cô ấy cơ chứ?” Chỉ nghĩ đến điều đó thôi mắt tôi đã trợn ngược lên vì sợ hãi. Chắc hẳn trông tôi rất hài hước, bởi Thầy và Lạt ma Đại Danh Y bỗng cười lớn. Họ ngồi xuống, thích thú và cười vui vẻ. Tôi đứng trước mặt họ, và cảm giác thật ngốc ngếch, nhưng thực sự tôi rất bối rối về điều này. Tôi có thể nhìn thấy hào quang một cách hoàn hảo mà không khó khăn gì và tôi chẳng thấy có lí do nào để phải từ bỏ việc mà mình vẫn làm bình thường.

Soon, once more I was in that deep room with my Guide, the Lama Mingyar Dondup and the Great Medical Lama Chinrobnobo. “Lobsang!” said the great Medical Lama, “you must be sure that if you are going to examine a patient in order that you may assist him or her the clothes be entirely removed.” “Honourable Medical Lama!” I said, in some confusion, “I can think of no reason why I should deprive a person of their clothing in this cold weather, for I can see their aura perfectly without there being any need whatsoever to remove a single garment, and oh! Respected Medical Lama! How could I possibly ask a woman to remove her clothing?” My eyes rolled upwards in horror at the mere thought. I must have presented quite a comical figure, for both my Guide and the Medical Lama burst out laughing. They sat down, and really enjoyed themselves with their laughter. I stood in front of them feeling remarkably foolish, but really, I was quite puzzled about these things. I could see an aura perfectly—with no trouble at all—and I saw no reason why I should depart from what was my own normal practice.

“Lobsang à!” Lạt ma Đại Danh Y nói, “con là người có khả năng thấu thị thiên bẩm, nhưng có một số thứ con chưa chắc đã nhìn thấy. Chúng ta đã chứng minh rõ ràng khả năng nhìn thấy hào quang của con, nhưng con không thể nhìn thấy vấn đề về gan của Lạt ma người Ấn Marfata nếu ông ấy không cởi bỏ quần áo.” Tôi nhìn lại vấn đề này và phải thừa nhận rằng đúng là như vậy; tôi đã nhìn vào Lạt ma người Ấn khi ông ấy mặc cà sa, và dù thấy rõ về tính cách, phẩm chất cơ bản của ông ấy, nhưng tôi vẫn không hề nhận thấy vấn đề của gan. “Thầy nói đúng, thưa Lạt ma Đại Danh Y đáng kính “, tôi nói, “nên con muốn được Thầy đào tạo thêm về lĩnh vực này.”

“Lobsang!” said the Medical Lama, “you are a very gifted clairvoyant, but there are some things which you do not yet see. We have had a remarkable demonstration from you of your ability in seeing the human aura, but you would not have seen the liver complaint of the Indian Lama Marfata if he had not removed his clothing.” I reflected upon this, and when I thought about it I had to admit that it was correct; I had looked at the Indian Lama while he had been robed, and while I had seen much about his character and basic traits, I still had not noticed the liver complaint. “You are perfectly correct, Honourable Medical Lama,” I said, “but I should like some further training from you in this matter.”

Thầy Lạt ma Minh Gia Đại Đức nhìn tôi rồi nói, “Khi con nhìn vào hào quang của một người, con chỉ muốn thấy hào quang của người đó, con chưa kết nối với suy nghĩ của người đó, giống như con cừu đã tạo ra những sợ len để làm nên chiếc áo. Mỗi hào quang đều chịu ảnh hưởng bởi  những gì can thiệp vào những tia trực tiếp của nó. Ở đây chúng ta có một tấm kính, và nếu ta thở lên tấm kính đó, nó sẽ ảnh hưởng đến những gì con nhìn thấy qua tấm kính. Tương tự như vậy, mặc dù tấm kính là trong suốt, nó thực tế đã làm thay đổi ánh sáng hoặc đúng hơn là thay đổi màu sắc của ánh sáng, là cái mà con sẽ nhìn thấy khi con nhìn xuyên qua nó. Cũng bằng cách này, nếu con nhìn qua một tấm kính nhiều màu, tất cả những rung động mà con nhận được từ vật thể ấy bị biến đổi rất nhiều bởi tác động của tấm kính màu đó. Do vậy, nếu một người mặc quần áo hay bất kì phụ kiện nào khác lên người, thì hào quang của người ấy đã bị biến đổi tùy theo chất liệu của món đồ đó.” Tôi suy nghĩ về điều đó và tôi đồng ý rằng có rất nhiều điều trong những lời Ngài nói, Ngài tiếp tục, “Còn nữa, mỗi bộ phận của cơ thể đều chiếu hình ảnh riêng của nó – tình trạng sức khỏe hay bệnh tật –  lên (khí) etheric, và hào quang, khi không còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố quần áo, sẽ khuếch đại và làm tăng cảm nhận của người đọc. Do vậy, phải khẳng định rằng nếu con định giúp kiểm tra tình trạng sức khỏe hay bệnh tật của một người nào đó, con cần phải kiểm tra khi họ không mặc quần áo.” Ngài cười với tôi rồi nói tiếp, “Nếu thời tiết quá lạnh, Lobsang à, thì đương nhiên con sẽ phải đưa người ấy đến một nơi ấm áp hơn!”

My Guide, the Lama Mingyar Dondup, looked at me and said, “When you look at a person’s aura you want to see the person’s aura, you are not concerned with the thoughts of the sheep whence came the wool which was made into a robe. Every aura is influenced by that which interferes with its direct rays. We have here a sheet of glass, and if I breathe upon that glass, it will effect what you see through the glass. Similarly, although this glass is transparent, it actually does alter the light or rather the colour of the light, which you would see when looking through it. In the same way, if you look through a piece of coloured glass all the vibrations which you receive from an object are altered in intensity by the action of the coloured glass. Thus it is that a person whose body has upon it clothing, or ornaments of any kind, has his aura modified according to the etheric content of the clothing or ornament.” I thought about it, and I had to agree that there was quite a lot in what he said, he continued, “A further point is this, every organ of the body projects its own picture—its own state of health or sickness—onto the etheric, and the aura, when uncovered and free from the influence of clothes, magnifies and intensifies the impression which one receives. Thus it is quite definite that if you are going to help a person in health or in sickness, then you will have to examine him without his clothing.” He smiled at me and said, “And if the weather be cold, why then, Lobsang, you will have to take him to a warmer place!”

“Thưa Lạt ma tôn kính,” tôi nói, “hồi trước Thầy đã kể cho con rằng  thầy đang nghiên cứu một  loại thiết bị mà có thể chữa lành bệnh tật qua hào quang.” “Đúng đấy, Lobsang,” Thầy tôi nói, “bệnh tật chỉ là sự rối loạn rung động trong cơ thể. Một cơ quan trong cơ thể mà có tốc độ rung động phân tử bị rối loạn thì cơ quan đó được coi là bị bệnh. Nếu chúng ta có thể thấy rung động của cơ quan đó khác thế nào so với bình thường thì khi đó, bằng việc khôi phục lại nhịp độ nguyên thủy, chúng ta đã chữa khỏi bệnh rồi đấy. Trong trường hợp bệnh về tinh thần, não bộ thường nhận được những thông điệp từ Chân ngã mà nó không thể diễn dịch ra một cách chính xác, và do đó hành động phát sinh từ đó không giống người thường. Khi một người không thể suy luận hoặc hành động một cách bình thường, anh ta được cho là mắc một số vấn đề tâm thần. Bằng cách đo lường sự khác biệt — sự kích thích thấp— chúng ta có thể giúp một người khôi phục trạng thái cân bằng bình thường. Các rung động có thể thấp hơn bình thường dẫn đến sự kích thích thấp hoặc cao hơn bình thường gây ra tác động tương tự như sốt não. Khá là chắc chắn rằng bệnh có thể được chữa khỏi bằng cách can thiệp thông qua hào quang.”

“Honourable Lama,” I said “some time ago you told me that you were working on a device which would enable one to cure illness through the aura.” “That is perfectly correct, Lobsang,” said my Guide, “illness is merely a dissonance in the body vibrations. An organ has its rate of molecular vibration disturbed and so it is considered to be a sick organ. If we could actually see how much the vibration of an organ departs from the normal, then, by restoring the rate of vibration to what it should be we have effected a cure. In the case of a mental affliction, the brain usually receives messages from the Overself which it cannot correctly interpret, and so the actions resulting are those which depart from that which is accepted as normal actions for a human. Thus, if the human is not able to reason or act in a normal manner, he is said to have some mental ailment. By measuring the discrepancy—the under-stimulation—we can assist a person to recover normal balance. The vibrations may be lower than normal resulting in under-stimulation, or they may be higher than normal which would give an effect similar to that of a brain fever. Quite definitely illness can be cured by intervention through the aura.”

Đức Lạt ma Đại Danh Y ngắt lời, và nói, “Nhân tiện, Đồng môn đáng kính, Lạt ma Marfata có thảo luận vấn đề này với tôi, và ông ấy nói rằng ở một số nơi trên đất Ấn Độ –  ở một vài tu viện hẻo lánh –  họ đang thử nghiệm một thiết bị với điện áp cao được gọi là…” Ông ngập ngừng rồi nói, “đó là máy phát điện deGraaf”. Ngài có chút không chắc chắn về những gì mình nói, nhưng đã cố gắng dũng cảm cung cấp cho chúng tôi những thông tin chính xác. “Máy phát điện này hình như tạo ra một điện áp cực rất cao ở một dòng điện cực thấp, khi truyền vào cơ thể, nó làm cho độ đậm đặc của hào quang tăng lên rất rất nhiều lần đến mức mà một người thậm chí không có khả năng thấu thị vẫn có thể nhìn thấy một cách rõ ràng. Tôi nghe nói rằng trong trường hợp này có thể chụp ảnh được hào quang của con người.” Thầy tôi nghiêm nghị gật đầu, và nói, “Đúng vậy, cũng có thể xem hào quang của con người bằng cách sử dụng một loại thuốc nhuộm đặc biệt, đó là một chất lỏng được kẹp giữa hai tấm thủy tinh. Bằng cách bố trí ánh sáng và phông nền thích hợp, và xem cơ thể người khỏa thân qua màn hình này, nhiều người thực sự có thể nhìn thấy hào quang. ”

The Great Medical Lama interrupted here, and said, “By the way, Respected Colleague, the Lama Marfata was discussing this matter with me, and he said that at certain places in India—at certain secluded lamaseries—they were experimenting with a very high voltage device known as a—” he hesitated and said, “it is a deGraaf generator.” He was a bit uncertain about his terms, but he was making a truly manful effort to give us the exact information. “This generator apparently developed an extraordinarily high voltage at an extraordinarily low current, applied in a certain way to the body it caused the intensity of the aura to increase many many times so that even the non-clairvoyant could clearly observe it. I am told also that photographs have been taken of a human aura under these conditions.” My Guide nodded solemnly, and said, “Yes, it is also possible to view the human aura by means of a special dye, a liquid which is sandwiched between two plates of glass. By arranging appropriate lighting and background, and viewing the nude human body through this screen many people can indeed see the aura.”

Tôi bột phát nói, “Nhưng thưa các Ngài đáng kính! Tại sao con người phải dùng những quái chiêu này? Con có thể nhìn thấy hào quang- tại sao họ lại không thể?” Hai ông thầy thông thái của tôi lại cười, lần này họ thấy không cần thiết phải giải thích về sự khác biệt giữa việc huấn luyện cho một người như tôi với một người đàn ông hoặc đàn bà bình thường trên phố.

I burst in and said, “But, Honourable Sirs! Why do people have to use all these tricks? I can see the aura—why cannot they?” My two mentors laughed again, this time they did not feel it necessary to explain the difference between training such as I had had and the training of the average man or woman in the street.

Lạt ma Đại Danh Y nói, “ Bây giờ chúng ta mò mẫm trong bóng tối, chúng ta cố gắng chữa bệnh cho bệnh nhân của mình theo nguyên tắc ngón tay cái, bằng các loại thảo mộc, thuốc viên và thuốc sắc. Chúng ta giống như những người mù đang cố gắng tìm một chiếc ghim đánh rơi trên mặt đất. Tôi muốn nhìn thấy một thiết bị nhỏ để bất kỳ người không có khả năng thấu thị nào cũng có thể nhìn qua thiết bị này và thấy hào quang con người, thấy tất cả các lỗi của hào quang, và khi đã thấy chúng ta sẽ có thể khắc phục được sự sai lệch hoặc sự thiếu hụt, là nguyên nhân thực sự của căn bệnh. ”

The Medical Lama said, “Now we probe in the dark, we try to cure our patients by rule of thumb, by herbs and pills and potions. We are like blind men trying to find a pin dropped on the ground. I would like to see a small device so that any non-clairvoyant person could look through this device and see the human aura, see all the faults of the human aura, and, in seeing would be able to cure the discrepancy or the deficiency which truly was the cause of the illness.”

Những ngày còn lại trong tuần, tôi được chỉ dẫn về thuật thôi miên và thần giao cách cảm, khả năng của tôi đã tăng lên mạnh mẽ hơn, chúng tôi bàn luận rất nhiều về những cách tốt nhất để nhìn thấy hào quang và phát triển một loại thiết bị giúp nhìn thấy hào quang, và rồi đêm cuối cùng của tuần đó, tôi đến căn phòng nhỏ dành cho mình ở Tu viện Chakpori, nhìn ra ngoài cửa sổ, nghĩ đến việc ngày mai sẽ quay trở về căn phòng rộng hơn trong ký túc xá, nơi sẽ ngủ chung với rất nhiều người khác.

For the rest of that week I was shown things by hypnotism and by telepathy, and my powers were increased and intensified, and we had talk after talk on the best ways to see the aura and to develop a machine which would also see the aura, and then, upon the last night of that week, I went to my little room in the Chakpori Lamasery and looked out of the window thinking that on the morrow I would return again to that bigger dormitory where I slept in company with so many others.

Ánh sáng trong Thung lũng lấp lánh. Những tia sáng cuối cùng ló dạng trên bờ đá của Thung lũng chiếu xuống, chạm nhẹ trên những nóc nhà màu vàng trông giống như những ngón tay lấp lánh, phát ra những cơn mưa ánh sáng vàng, khiến ánh sáng vỡ ra thành những dải màu vàng kim óng ánh. Màu xanh lam và vàng và đỏ, và thậm chí xanh lá cây đua nhau đập vào mắt rồi dần dần mờ đi khi ánh sáng phai nhạt. Chẳng mấy chốc, cả Thung lũng như được bao bọc trong một bóng tối như nhung, một màu nhung xanh tím hoặc tím thẫm mà gần như có thể cảm nhận được. Qua khung cửa sổ đang mở, tôi có thể ngửi thấy mùi hương liễu, và mùi thơm của cây cỏ trong vườn ở rất xa phía dưới, một làn gió thoảng qua mang lại mùi hương nồng nàn của phấn hoa và của những bông hoa đang chớm nở.

The lights in the Valley were atwinkle. The last dying rays peering over the rocky rim of our Valley glanced down, flicking the golden roofs as if with sparkling fingers, sending up showers of golden light, and in doing so breaking the light into iridescent colours which were of the spectrum of the gold itself. Blues and yellows and reds, and even some green struggled to attract the eye, growing dimmer and dimmer as the light faded. Soon the Valley itself was as encased in dark velvet, a dark blue-violet or purple velvet which could almost be felt. Through my open window I could smell the scent of the willows, and the scent of plants in the garden so far below me, a vagrant breeze wafted stronger scents to my nostrils, pollen, and budding flowers.

Những tia nắng mặt trời cuối cùng khuất hẳn khỏi tầm mắt, không còn làm thành những ngón tay ánh sáng chiếu qua sườn Thung lũng đá của chúng tôi nữa, thay vào đó nó hắt lên bầu trời đang dần tối đen, và phản chiếu trên những đám mây thấp tạo nên những áng màu đỏ và xanh da trời. Dần dần màn đêm trở nên tối hơn khi mặt trời lặn ngày càng xa thế giới của chúng ta. Ngay sau đó xuất hiện những đốm sáng rực rỡ trên bầu trời tím sẫm, ánh sáng của sao Thổ, sao Kim, sao Hỏa. Và rồi ánh trăng xuất hiện, treo lơ lửng trên bầu trời, nhìn rõ tất cả các vết rỗ trên bề mặt, và một đám mây xốp nhẹ đang bồng bềnh bay qua mặt trăng. Nó khiến tôi liên tưởng đến một người phụ nữ đang kéo chiếc áo qua người sau khi vừa được khám bệnh bằng việc đọc hào quang. Tôi quay đi, quyết tâm trong từng thớ thịt của mình rằng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để nâng cao hiểu biết về hào quang của con người, và giúp những người bước ra thế giới rộng lớn để mang lại sự hỗ trợ và xoa dịu nỗi đau cho hàng triệu người. Tôi nằm xuống sàn đá, và gần như ngay khi đầu vừa chạm vào chiếc cà sa được gấp lại, tôi đã ngủ thiếp đi và không còn biết gì nữa.

The last dying rays of the sun sank completely out of sight, no more did those probing fingers of light come over the edge of our rock-bound Valley, instead they shot off into the darkening sky, and reflected on low lying clouds showing red and blue. Gradually the night became darker as the sun sank further and further beyond our world. Soon there were bright specks of light in the dark purple sky, the light of Saturn, of Venus, of Mars. And then came the light of the Moon, hanging gibbous in the sky with all the pock marks showing plain and clear, and across the face of the Moon drifted a light fleecy cloud. It reminded me of a woman drawing a garment across herself after having been examined through her aura. I turned away, resolved in every fiber of my being that I would do all I could to increase the knowledge of the human aura, and to help those who went out into the great world and brought help and ease to suffering millions. I lay down upon the stone floor, and almost as soon as my head touched my folded robe I fell asleep and knew no more.

Dịch giả : Nguyễn Thị Kiều Khanh

Biên tập : Cộng đồng VMC Việt Nam