Sự tĩnh lặng thật sâu. Bầu không khí đậm đặc. Rất lâu lại có một tiếng sột soạt nhỏ gần như không nghe được, rồi lại nhanh chóng chìm vào im lìm như không còn sự sống. Tôi nhìn xung quanh, hàng dài bóng các nhà sư trong chiếc cà sa ngồi bất động trên sàn. Đây là những con người đang rất tập trung vào những công việc của thế giới ngoài kia. Một số trong họ, thực ra còn quan tâm hơn đến những việc vượt ra ngoài thế giới này! Tôi đảo mắt nhìn quanh, trước tiên tập trung vào một nhân vật trông oai nghiêm, rồi đến một nhân vật khác. Đây là vị Trụ trì quan trọng đến từ một quận xa xôi. Một vị lạt ma ăn mặc nghèo nàn và xoàng xĩnh từ trên núi xuống. Một cách vô thức, tôi dịch một trong những chiếc bàn dài và thấp để có thêm không gian. Tĩnh lặng đến ngột ngạt, tĩnh lặng của sự sống, một sự tĩnh lặng không nên có khi rất nhiều người đang ở đây.
The silence was profound. The air of concentration intense. At long intervals there came an almost inaudible rustle which soon subsided again into death-like quiet. I looked about me, looking at the long lines of motionless robed figures sitting erect on the floor. These were intent men, men concentrating on the doings of the outside world. Some, indeed, were more concerned with the doings of the world outside this one! My eyes roamed about, dwelling first on one august figure, and then on another. Here was a great Abbot from a far-off district. There was a lama in poor and humble dress, a man come down from the mountains. Unthinkingly I moved one of the long, low tables so that I had more room. The silence was oppressive, a living silence, a silence that should not be, with so many men here.
“Rầm!” Sự tĩnh lặng bị phá tan một cách thô bạo và ầm ĩ. Tôi bật co một chân lên khỏi mặt đất chỗ đang ngồi, đồng thời bằng cách nào đó xoay một vòng. Vị thủ thư ngã sóng xoài và vẫn còn bàng hoàng, với nhiều cuốn sách gáy gỗ rơi lạch cạch xung quanh. Anh ta bước vào và vác nặng nên không thấy chiếc bàn tôi đã di chuyển. Chiếc bàn chỉ cao cách mặt sàn khoảng bốn lăm phân, nó làm anh ta vấp ngã. Giờ thì nó đang nằm ở trên đầu anh ta.
Crash! The silence was rudely and loudly shattered. I jumped a foot off the ground, in a sitting position, and somehow spun round at the same time. Sprawled out at full length, still in a daze, was a Library messenger, with wooden-backed books still clattering around him. Coming in, heavily laden, he had not seen the table which I had moved. Being only eighteen inches from the ground it had effectively tripped him. Now it was on top of him.
Những bàn tay cẩn thận, nhẹ nhàng cầm những quyển sách lên và phủi bụi cho chúng. Sách rất được trân trọng ở Tây Tạng. Sách chứa kiến thức và không bao giờ được phép lạm dụng hay coi thường. Bây giờ tư tưởng được tập trung vào những cuốn sách chứ không phải anh chàng kia. Tôi bê chiếc bàn lên và dịch sang một bên. Thật may chẳng ai nghĩ rằng nhẽ ra tôi phải là người có lỗi! Cậu thủ thư vò đầu, cố gắng hiểu xem chuyện gì vừa xảy ra. Tôi không ở gần lắm; nên rõ ràng là tôi không thể ngáng chân anh ta được. Lắc đầu khó hiểu, anh ta quay người bỏ đi. Chẳng mấy chốc sự yên tĩnh trở lại, và các lạt ma tiếp tục tập trung vào việc đọc sách trong Thư viện.
Solicitous hands gently picked up the books and dusted them off. Books are revered in Tibet. Books contain knowledge and must never be abused or mishandled. Now the thought was for the books and not for the man. I picked up the table and moved it out of the way. Wonder of wonders, no one thought that I was in any way to blame! The messenger, rubbing his head, was trying to work out what happened. I had not been near; obviously I could not have tripped him. Shaking his head in astonishment, he turned and went out. Soon calm was restored, and the lamas went back to their reading in the Library.
Bị thương từ đầu đến chân (đúng theo nghĩa đen!) khi làm ở nhà bếp, tôi đã tạm thời bị đuổi khỏi đó. Bây giờ, để lao động “chân tay” tôi phải đến Đại Thư viện phủi bụi bìa sách và nói chung là giữ cho khu vực được sạch sẽ. Sách Tây Tạng rất to và nặng. Bìa gỗ được chạm trổ phức tạp, ghi rõ tên sách và thường hay có hình ảnh. Đây là một công việc nặng nhọc, lấy sách ra từ những cái giá, lặng lẽ mang chúng đến bàn mình, phủi sạch bụi rồi lại trả từng cuốn về vị trí đã được sắp xếp. Thủ thư rất đặc biệt, cẩn thận kiểm tra từng cuốn xem nó có thực sự sạch hay không. Có những bìa gỗ bên trong là báo và tạp chí du nhập từ các quốc gia khác. Tôi đặc biệt thích xem chúng mặc dù chẳng hiểu một từ nào. Nhiều tờ báo cũ của nước ngoài có tranh ảnh và tôi mải mê coi bất cứ khi nào có thể. Thủ thư càng cố ngăn cản thì tôi càng vùi đầu vào những cuốn sách cấm đó bất cứ khi nào anh ta rời mắt khỏi mình.
Having been damaged top and bottom (literally!) while working in the kitchens, I had been permanently banished therefrom. Now, for “menial” work I had to go to the great Library and dust the carvings on book covers and generally keep the place clean. Tibetan books are big and heavy. The wooden covers are intricately carved, giving the title and often a picture as well. It was heavy work, lifting the books from shelves, carrying them silently to my table, dusting them and then returning each book to its allotted place. The Librarian was very particular, carefully examining each book to see that it really was clean. There were wooden covers which housed magazines and papers from countries outside our boundaries. I liked particularly to look at these, although I could not read a single word. Many of these months-old foreign papers had pictures, and I would pore over them whenever possible. The more the Librarian tried to stop me, the more I delved into these forbidden books whenever his attention was taken from me.
Những bức tranh về các phương tiện có bánh xe khiến tôi mê mẩn. Tất nhiên, những phương tiện đó không có ở Tây Tạng, và những lời Tiên tri đã nói rất rõ rằng khi bánh xe xuất hiện ở Tây Tạng chính là “mở đầu một sự kết thúc”. Tây Tạng sau này sẽ bị xâm lược bởi một thế lực đen tối, chúng lan ra khắp thế giới như một căn bệnh ung thư chết người. Chúng tôi hi vọng rằng, dù Lời tiên tri có nói thế nào, thì những quốc gia rộng lớn hơn và hùng mạnh hơn sẽ không quan tâm đến đất nước nhỏ bé của chúng tôi, một đất nước không có ý đồ gây chiến, không có ý định chiếm đoạt không gian sống của ai.
Pictures of wheeled vehicles fascinated me. There were, of course, no wheeled vehicles in the whole of Tibet, and our Prophecies indicated most clearly that with the advent of wheels into Tibet there would be the “beginning of the end”. Tibet would later be invaded by an evil force which was spreading across the world like a cancerous blight. We hoped that, in spite of the Prophecy, larger—more powerful nations—would not be interested in our little country which had no warlike intentions, no designs upon the living space of others.
Tôi xem những bức tranh và bị cuốn hút vào đó, trên một tờ tạp chí (tất nhiên tôi không biết nó được gọi là gì) tôi thấy một số bức ảnh — cả một loạt luôn — chúng được in trên tạp chí. Có những cỗ máy khổng lồ với những con lăn khủng và những bánh xe răng cưa to lớn. Trong các bức ảnh, những người đàn ông đang làm việc như điên, và tôi nghĩ sao nó khác với Tây Tạng này thế. Ở đây, người ta làm việc với niềm tự hào về sự khéo tay, niềm tự hào đã làm tốt một công việc. Không một chút suy nghĩ về tiền bạc xuất hiện trong đầu một người thợ thủ công ở Tây Tạng. Tôi lật giở lại những trang đó, và rồi tôi nghĩ về cách chúng tôi đang làm mọi việc.
I looked at pictures, and I was fascinated, on one magazine (of course I do not know what it was called) I saw some pictures—a whole series of them—which showed the magazine being printed. There were huge machines with great rollers and immense cog wheels. Men, in the pictures, were working like maniacs, and I thought how different it was here in Tibet. Here one worked with the pride of craftsmanship, with the pride of doing a job well. No thought of commerce entered the mind of the craftsman of Tibet. I turned and looked at those pages again, and then I thought of how we were doing things.
Những cuốn sách được in ra dưới làng Sho. Những nhà sư điêu khắc lành nghề đang chạm khắc chữ Tây Tạng vào những tấm gỗ tốt, họ làm thật chậm để đảm bảo độ chính xác tuyệt đối đến từng chi tiết nhỏ. Sau khi thợ điêu khắc hoàn thành từng bản khắc, những người khác sẽ mang chúng đi để đánh bóng sao cho không vết thô nhám nào còn ở trên tấm gỗ, rồi bản khắc sẽ được mang đến những người tiếp theo để kiểm tra sự chính xác của câu từ, vì không một sai sót nào được phép lọt vào cuốn sách Tây Tạng. Thời gian không quan trọng, quan trọng là độ chính xác.
Down in the Village of Shö books were being printed. Skilled monk-carvers were carving onto fine woods Tibetan characters, carving them with the slowness which ensured absolute accuracy, absolute fidelity to minute detail. After the carvers finished each board of print others would take that board and would polish it so that no flaw nor roughness remained on the wood, then the board would be taken away to be inspected by others for accuracy as to text, for no mistake was ever allowed to creep into a Tibetan book. Time did not matter, accuracy did.
Những tấm gỗ sau khi đã được chạm khắc, đánh bóng cẩn thận và kiểm tra để không có một sai sót nào, sẽ được chuyển cho các nhà sư-thợ in. Chúng sẽ được đặt ngửa mặt trên băng ghế, rồi lăn mực lên những chữ nổi. Tất nhiên các chữ ở đây đã được khắc ngược, để khi in ra chữ sẽ trở lại xuôi. Tấm gỗ đã bôi mực được kiểm tra một lần nữa để đảm bảo mực đã phủ kín, một tờ giấy cứng kiểu như giấy cói của Ai Cập sẽ nhanh chóng được trải lên khắp bề mặt đã bôi mực. Người ta sẽ ép, lăn nhẹ nhàng lên mặt sau tờ giấy, và rồi bóc ra khỏi mặt bản khắc bằng một động tác dứt khoát. Các nhà sư-kiểm soát sẽ ngay lập tức cầm tờ giấy lên và kiểm tra tỉ mỉ để phát hiện xem có lỗi hay sai sót nào không – và nếu như có bất kỳ một lỗi nào thì tờ giấy sẽ không được xé bỏ hay đem đốt, mà được bó lại.
With the boards all carved, all carefully polished and inspected for errors or flaws, it would pass to the monk-printers. They would lay the board face up on a bench, and then ink would be rolled onto the raised, carved words. Of course the words were all carved in reverse, so that when printed they would appear the right way round. With the board inked and carefully inspected once again to make sure that no portion was left uninked, a sheet of stiff paper akin to the papyrus of Egypt would be quickly spread across the type with its inked surface. A smooth rolling pressure would be applied to the back of the sheet of paper, and then it would be stripped off from the printing surface in one swift movement. Monk-inspectors would immediately take the page and examine it with minute care for any fault—any flaw—and if there was any flaw the paper would not be scrapped nor burned, but would be made up into bundles.
Chữ đã in ở Tây Tạng cũng được coi là linh thiêng, nếu tìm cách phá hoại hay xé bỏ những tờ giấy chứa đựng những lời giáo huấn hay thánh ngữ tôn giáo đều bị coi là sự xúc phạm, cứ thế thời gian trôi đi, Tây Tạng đã tích lại vô số bó, vô số những kiện giấy in không hoàn hảo dù chỉ một chút xíu. Nếu tờ giấy in được coi là hoàn hảo, những người thợ in sẽ được lệnh “làm tiếp” và họ tiếp tục sản xuất ra những tờ in khác và tờ nào cũng phải được kiểm tra cẩn thận như tở đầu tiên. Trước đây tôi thường quan sát những người thợ in làm việc, và trong chương trình học tôi cũng đã đích thân làm công việc của họ.Tôi khắc chữ ngược, sau đó đánh bóng bản khắc, rồi dưới sự giám sát kỹ càng tôi quết mực và in các cuốn sách.
The printed word, in Tibet, is held as near-sacred, it is considered to be an insult to learning to destroy or mutilate paper which bears words of learning or religious words, thus in the course of time Tibet has accumulated bundle after bundle, bale after bale, of slightly imperfect sheets. If the sheet of paper was considered satisfactorily printed, the printers were given the “go-ahead” and they went on producing various sheets each one of which was as carefully examined for flaws as was the first. I often used to watch these printers at work, and in the course of my studies I had to undertake their own work myself. I carved the printed words in reverse, I smoothed the carvings after, and under meticulous supervision I inked and later printed books.
Sách Tây Tạng không được đóng như sách phương Tây. Sách Tây Tạng dài, hay có lẽ nói đúng hơn là nó to bản và rất ngắn, bởi một dòng chữ in Tây Tạng kéo dài tới cả mét, nhưng chiều cao trang sách chỉ khoảng ba chục phân. Tất cả khay đựng các trang sách sẽ được phơi cẩn thận và khi đủ thời gian – không cần vội vàng – chúng sẽ khô. Khi chúng đã được phơi đi phơi lại cho đến khi khô hẳn, sách sẽ được đóng lại. Trước tiên là một tấm gỗ làm đế có gắn hai cái dây, sau đó đặt lên trên tấm đế là các trang sách được xếp theo đúng thứ tự, và khi cuốn sách đã được xếp đặt xong, người ta sẽ đặt một tấm gỗ nặng lên trên tập trang in để làm bìa sách. Tấm bìa sách này sẽ được chạm trổ phức tạp, có thể là các cảnh trích ra từ cuốn sách, và tất nhiên, phải có tên sách. Hai sợi dây ở tấm đế bây giờ sẽ buộc vòng lên bìa sách, tạo ra lực nén đáng kể để các tờ giấy được ép chặt xuống thành một khối. Những cuốn sách đặc biệt có giá trị, sau đó sẽ được bọc cẩn thận bằng vải lụa và tấm vải bọc sẽ được niêm phong để cho chỉ những người có đủ thẩm quyền mới có thể mở ra và làm xáo trộn sự bình yên của cuốn sách được in cẩn thận như vậy!
Tibetan books are not bound as are Western books. A Tibetan book is a long affair, or perhaps it would be better to say it was a wide affair and very short, because a Tibetan line of print extends for several feet, but the page may be only a foot high. All the sheets containing the necessary pages would be carefully laid out and in the fullness of time—there was no hurry—they would dry. When they had been allowed time and time again for drying the books would be assembled. First there would be a baseboard to which there were attached two tapes, then upon the baseboard would be assembled the pages of the book in their correct order, and when each book was thus assembled, upon the pile of printed pages would be placed another heavy board which formed the cover. This heavy board would bear intricate carvings, perhaps showing scenes from the book, and of course, giving the title. The two tapes from the bottom board would now be brought up and fastened across the top board, some considerable pressure would be exerted so that all the sheets were forced down into one compact mass. Particularly valuable books would then be carefully wrapped in silk and the wrappings would be sealed so that only those with adequate authority could open the wrapping and disturb the peace of that so carefully printed book!
Với tôi thì dường như mấy tấm ảnh phương Tây in hình phụ nữ ở đây trong đều trong tình trạng cực kỳ thiếu vải; Tôi chợt nghĩ rằng những quốc gia này chắc phải rất nóng, nếu không thì làm sao phụ nữ lại có thể đi lại trong tình trạng thiếu thốn như vậy? Trên một số bức ảnh người ta đang nằm, rõ ràng là đã chết, trong khi đứng cạnh đó có lẽ là một người đàn ông trông hung ác với một mẩu ống kim loại trên tay đang bốc khói. Tôi không bao giờ có thể hiểu được mục đích của việc này, vì – phán đoán từ cảm tưởng của riêng tôi –người thế giới phương Tây có sở thích chính là đi khắp nơi và giết lẫn nhau, thế rồi những người đàn ông to lớn với những bộ đồ kỳ dị sẽ đến và đặt những cái ống kim loại kia vào tay hoặc cổ tay của người có cái ống đang nhả khói.
It seemed to me that many of these Western pictures were of women in a remarkable state of undress; it occurred to me that these countries must be very hot countries, for how otherwise could women go about in such a scanty state? On some of the pictures people were lying down, obviously dead, while standing over them would be perhaps a villainous looking man with a piece of metal tubing in one hand from whence issued smoke. I never could understand the purpose of this, for—to judge from my own impressions—the people of the Western world made it their chief hobby to go round and kill each other, then big men with strange dresses on would come and put metal things on the hands, or wrists, of the person with the smoking tube.
Mấy quý cô ăn mặc mỏng manh, thiếu vải không hề khiến tôi cảm thấy khó chịu hay kích thích sự quan tâm đặc biệt nào cả, với người theo đạo Phật và đạo Hindu, và thực tế người phương Đông biết rõ tình dục là điều cần thiết trong cuộc sống con người: Người ta biết rằng tình dục có lẽ là hình thức hưng phấn cao nhất mà con người có thể trải nghiệm khi đang trong hình hài xác thịt. Vì thế mà nhiều bức tranh tôn giáo của chúng tôi thể hiện hình ảnh một người đàn ông và một người đàn bà – thường được liên tưởng đến Chúa và Nữ thần – đang ôm chặt lấy nhau. Bởi bản chất của sự sống, sự sinh sản ai cũng biết cả nên đâu cần phải ngụy tạo thực tế ấy, vậy nên đôi khi nó còn được vẽ lại chi tiết. Chúng tôi không hề coi cái này là khiêu dâm hay khiếm nhã, mà đó đơn thuần là cách thiết thực nhất để chỉ ra rằng khi có sự hợp nhất giữa nam và nữ, những cảm xúc đặc biệt nhất định sẽ được tạo ra, và nó cũng giải thích rằng sự hòa hợp linh hồn còn tạo ra khoái cảm lớn hơn nhiều, nhưng điều đó, tất nhiên, sẽ không có trên thế giới này.
The underclad ladies did not distress me at all, nor excite any particular interest in me, for Buddhists and Hindus, and, in fact, all the peoples of the East knew well that sex was necessary in human life: It was known that sexual experience was perhaps the highest form of ecstasy which the human could experience while still in the flesh. For that reason many of our religious paintings showed a man and a woman—usually referred to as God and Goddess—in the closest of close embraces. Because the facts of life, and of birth, were so well known there was no particular need to disguise what were facts, and so sometimes detail was almost photographic. To us this was in no way pornographic, in no way indecent, but was merely the most convenient method of indicating that with the union of male and female certain specific sensations were generated, and it was explained that with the union of souls much greater pleasure could be experienced, but that, of course, would not be upon this world.
Từ những cuộc trò chuyện với dân buôn trong thành phố Lhasa, trong làng Sho, và với những người đang dừng chân bên đường ở Cửa Tây, tôi đã thu lượm được thông tin thú vị rằng ở thế giới phương Tây, họ coi là khiếm nhã khi phô bày cơ thể của mình cho người khác nhìn vào. Tôi không hiểu tại sao lại như vậy, vì sự thật sơ đẳng nhất của cuộc sống là phải có hai giới tính. Tôi nhớ đến cuộc trao đổi với một thương nhân già thường đi cung đường giữa Kalimpong ở Ấn độ và Lhasa. Sau một thời gian khá lâu tôi mới thu xếp gặp được ông ấy ở Cửa Tây, mừng ông ấy một lần nữa đã đến được đất nước chúng tôi. Chúng tôi thường đứng và nói chuyện một lúc, tôi sẽ kể cho ông nghe những tin tức về Lhasa và ông ấy nói cho tôi biết những thông tin về thế giới rộng lớn ở ngoài kia.
From talks with traders in the City of Lhasa, in the village of Shö, and those who rested by the wayside at the Western Gate, I gathered the amazing information that in the Western world it was considered indecent to expose one’s body to the gaze of another. I could not understand why this should be so, for the most elementary fact of life was that there had to be two sexes. I remembered a conversation with an old trader who frequented the route between Kalimpong in India and Lhasa. Throughout some considerable time I had made it my business to meet him at the Western Gate, and to greet him at one more successful visit to our land. Often we would stand and chat for quite a while, I would give him news about Lhasa and he would give me news about the great world outside.
Ông ấy cũng thường mang sách báo cho thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, và tôi vinh dự được cầm chúng đến cho Ngài. Một tay buôn từng nói với tôi, “Tôi kể cậu nghe nhiều về người phương Tây nhưng tôi vẫn không hiểu được họ, một trong những điều họ nói tôi thấy khá vô lý. Chẳng hạn như thế này; Con người được tạo ra trong hình ảnh của Chúa, họ nói vậy, nhưng họ lại sợ phải phô bày cơ thể của chính mình mà họ nói nó được tạo ra giống với hình ảnh của Chúa. Thế thì có phải là họ cảm thấy xấu hổ với hình hài của Chúa không?” Ông ấy nhìn tôi đầy nghi hoặc, còn tôi tất nhiên là im lặng và bối rối vì chẳng biết trả lời thế nào. Con người được tạo ra trong hình hài của Chúa. Vậy nên, nếu Chúa là sự hoàn hảo tuyệt đối – bởi đúng là như vậy – thì không nên xấu hổ khi phơi bày hình hài của Chúa. Chúng tôi, những người được coi là ngoại đạo, không ngượng ngùng với cơ thể mình, chúng tôi biết không có tình dục thì chẳng thể sự duy trì nòi giống. Chúng tôi biết rằng quan hệ tình dục, vào những lúc thích hợp, và tất nhiên trong những môi trường thích hợp, sẽ làm thăng hoa tinh thần của cả đàn ông và đàn bà.
Often, too, he would bring books and magazines for my Guide the Lama Mingyar Dondup, and I would then have the pleasant task of delivering them. This particular trader once said to me, “I have told you much about the people of the West, but I still do not understand them, one of their sayings in particular just does not make sense to me. It is this; Man is made in the image of God, they say, and yet they are afraid to show their body which they claim is made in the image of God. Does it mean, then, that they are ashamed of God’s form?” He would look at me questioningly, and I of course was quite at a loss, I just could not answer his question. Man is made in the image of God. Therefore, if God is the ultimate in perfection—as should be the case—there should be no shame in exposing an image of God. We so-called heathens were not ashamed of our bodies, we knew that without sex there would be no continuation of the race. We knew that sex, on appropriate occasions, and in appropriate surroundings of course, increased the spirituality of a man and of a woman.
Tôi khá ngạc nhiên khi nghe kể rằng vài người đàn ông và phụ nữ đã kết hôn, có khi nhiều năm liền, chưa bao giờ nhìn thấy cơ thể trần trụi của người kia. Tôi được kể rằng, họ chỉ “làm tình” khi đã kéo rèm xuống và không còn ánh sáng, tôi đã nghĩ người kể chuyện đã đưa tôi đến một quốc gia ngu ngốc, họ quá ngu ngốc không biết những gì đang diễn ra trên thế giới này, thế nên sau buổi nói chuyện, tôi quyết định phải đi hỏi ngay thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, về tình dục ở thế giới phương Tây. Tôi rời Cửa Tây, lao vào con đường nhỏ hẹp và nguy hiểm mà bọn con trai ở Chakpori thường thích dùng hơn là lối đi thông thường. Lối đi này khiến dân leo núi cũng phải sợ; chúng tôi cũng vậy, nhưng đó là niềm vinh dự khi không dùng con đường khác để đi trừ khi chúng tôi đi cùng với tiền bối hay những vị trưởng lão khác. Quá trình leo lên đòi hỏi phải dùng tay để bám vào “những chiếc răng” đá lởm chởm, đu người lủng lẳng ở những đoạn đường nhô ra, và suốt chặng đường phải làm những việc như vậy, những việc mà chẳng người có đầu óc bình thường nào dám làm kể cả họ được trả một khoản tiền hậu hĩnh. Cuối cùng tôi cũng đã lên đến đỉnh, và đi vào Chakpori bằng con đường chúng tôi cũng đã biết và chắc hẳn sẽ làm các Giám thị phải choáng nếu họ cũng biết. Vậy là – cuối cùng tôi đã đứng trong Sân bên trong và mệt hơn rất nhiều nếu tôi đi theo đường chính thống, nhưng ít nhất thì cũng cảm thấy tự hào. Tôi đã hoàn thành chặng đường leo lên còn nhanh hơn những người khác đi xuống.
I was also astounded when I was told that some men and women who had been married, perhaps for years, had never seen the unclad body of the other. When I was told that they “made love” only with the blinds down and the light out I recall I thought my informant was taking me for a country bumpkin who really was too foolish to know what was going on in the world, and after one such session I decided that at the first opportunity I would ask my Guide, the Lama Mingyar Dondup, about sex in the Western world. I turned away from the Western Gate, and dashed across the road to the narrow, dangerous path which we boys of Chakpori used in preference to the regular path. This path would have frightened a mountaineer; frequently it frightened us as well, but it was a point of honour not to use the other path unless we were in company with our seniors and, presumably, betters. The mode of progression upwards entailed climbing by hand up jagged “tooths” of rock, dangling precariously from certain exposed routes, and at all times doing those things which no presumably sane person would do if they were paid a fortune. Eventually I reached the top, and got into the Chakpori by a route which was also known to us and which would have given the Proctors fits if they too had known. So—at last I stood within the Inner Courtyard far more exhausted than if I had come up the orthodox path, but at least honour was satisfied. I had done the trip up somewhat faster than some of the boys did it down.
Tôi rũ sạch bụi và sỏi đá bám trên cà sa, làm sạch cái tô bởi nó chứa đầy loại thực vật nhỏ bé, và rồi khi đã hài lòng, tôi đi vào bên trong tìm Thầy, Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Khi rẽ vào một góc đường, tôi nhìn thấy Ngài đang đi sang hướng khác, nên gọi theo, “Thưa Lạt ma tôn kính!” Ngài dừng lại và đi về phía tôi, một động thái không phải người nào ở Chakpori cũng làm thế, bởi Ngài đối xử với tất cả người lớn và trẻ em bình đẳng như nhau, vì Ngài đã nói, không phải là cái vẻ bề ngoài, cũng không phải cái thân hình được bao phủ bởi quần áo hiện tại mà là cái bên trong – cái đang kiểm soát thân thể – mới là quan trọng. Bản thân Thầy tôi là Hóa thân vĩ đại, Ngài dễ dàng được nhận ra khi tái kiếp. Đó luôn luôn là bài học nhớ đời đối với tôi, bởi con người vĩ đại này rất khiêm nhường và luôn tôn trọng cảm xúc của những người mà không chỉ là “không giỏi lắm”, mà cả những người – nói thẳng ra – là rất thấp kém.
I shook the dust and small stones out of my robe, and emptied my bowl which had collected numerous small plants, and then feeling fairly presentable I wended my way inwards in search of my Guide, the Lama Mingyar Dondup. As I rounded a corner I saw him proceeding away from me and so I called, “Ow! Honourable Lama!” He stopped, and turned and walked towards me, an action which possibly no other man in Chakpori would have done, for he treated every man and boy as equal, as he used to say, it is not the outward form, it is not the body which one is at present wearing but what is inside—what is controling the body—that counts. My Guide himself was a Great Incarnation who easily had been Recognised on his return to body. It was an always-remembered lesson for me that this great man was humble and always considered the feelings of those who were not merely “not so great”, but some who were—to put it bluntly—downright low.
“Giỏi lắm, Lobsang!”, Thầy tôi nói, “ta nhìn thấy con đi đường cấm, và nếu ta là một Giám thị, con chắc hẳn đã bị đánh đòn bét đít ngay lập tức, con chắc cũng sẽ vui lòng đứng phạt trong nhiều giờ đấy nhỉ.” Ngài cười và nói, “Tuy nhiên, thực chất trước kia ta cũng thường hay làm vậy, và ta vẫn có được cái có thể gọi là thú vị vì đã làm việc cấm khi nhìn thấy người khác làm cái việc mà ta không thể làm được nữa. Chà, mà con đang vội việc gì vậy?” Tôi nhìn Ngài và nói, “Thưa Lạt ma đáng kính, con nghe nhiều chuyện kinh khủng về người phương Tây và tâm trí con thực sự rối bời, bởi con không dám nói nếu con bị chê cười – nhỡ con trở thành một kẻ ngu ngốc hơn – hay liệu rằng những điều kì cục được kể đó là có thật.” “Đi theo ta, Lobsang,” Thầy tôi nói, “Ta đang về phòng, ta sắp thiền, nhưng thôi, chúng ta hãy trao đổi về điều đó. Thiền có thể chờ được.” Chúng tôi quay ra đi sóng đôi về phòng của Lạt ma Minh Gia Đại Đức – căn phòng nhìn ra công viên Đá quý (Jewel).
“Well now Lobsang!” said my Guide, “I saw you coming up that forbidden path, and if I had been a Proctor you would have been smarting in quite a number of places now; you would have been glad to remain standing for many hours.” He laughed, and said, “However, I used to do substantially the same thing myself, and I still get what is possibly a forbidden thrill in seeing others do what I can no longer do. Well, what is the rush anyhow?” I looked up at him and said, “Honourable Lama, I have been hearing horrible things about the people of the Western world and my mind is indeed in a constant turmoil, for I am unable to tell if I am being laughed at—if I am being made to look a worse fool than usual—or whether the marvels which have been described to me are indeed fact.” “Come with me, Lobsang,” said my Guide, “I am just going to my room, I was going to meditate but let us discuss things instead. Meditation can wait.” We turned and walked along side by side to the Lama Mingyar Dondup’s room—the one which overlooked the Jewel Park.
Tôi bước vào phòng theo sau Thầy, và thay vì ngồi ngay xuống, Ngài rung chuông gọi người phục vụ mang trà lên. Rồi tôi đi bên Ngài ra cửa sổ và nhìn xuống một vùng đất tuyệt đẹp trải rộng bên ngoài. Vùng đất này có lẽ là một trong những nơi đẹp nhất trên thế giới. Phía dưới bên trái một chút là một vườn cây tươi tốt được gọi là Norbu Linga hay Công viên Đá quý. Dòng nước trong trẻo tuyệt đẹp lấp loáng giữa đám cây, và ngôi đền nhỏ của Đức Thái Tuế được đặt trên một hòn đảo sáng lấp lánh trong nắng. Có ai đó đang băng qua con đập đá – một con đường đi qua dòng nước được làm bằng những phiến đá phẳng xếp cách nhau một khoảng trống để nước có thể chảy qua và cá cũng sẽ không bị cản trở. Tôi nhìn chăm chú và nghĩ rằng đã nhận ra kia là một trong những thành viên cấp cao của Chính phủ. “Đúng rồi đấy, Lobsang, ông ấy đang đi gặp Đức Thái Tuế,” Thầy nói đáp trả dòng tư tưởng không thành lời của tôi. Chúng tôi cùng nhau ngắm cảnh một lúc vì ở đây thật dễ chịu khi nhìn công viên từ trên cao, dòng sông Hạnh phúc lấp lánh và nhảy múa như có niềm vui của một ngày đẹp trời. Chúng tôi cũng có thể nhìn xuống bến đò – một trong những nơi yêu thích của tôi, một nguồn hạnh phúc và kinh ngạc vô biên đối với tôi khi quan sát anh lái đò bước lên con thuyền bọc da căng phồng của mình và vui vẻ chèo sang bờ bên kia.
I entered the room in his footsteps, and instead of immediately sitting down, he rang for the attendant to bring us tea. Then, with me by his side, he moved across to the window and looked out across that lovely expanse of land. Land which was one of the most beautiful places perhaps in the whole world. Below us, slightly to our left, was the fertile wooded garden known as the Norbu Linga or Jewel Park. The beautiful clear water sparkled among the trees, and the Inmost One’s small temple set upon an island was gleaming in the sunlight. Someone was crossing the rocky causeway—a path across the water made of flat stones with spaces between so that the water could flow free and the fish would have no bar. I looked carefully and thought I could distinguish one of the high members of the Government. “Yes, Lobsang, he is going to see the Inmost One,” said my Guide in answer to my unspoken thought. Together we watched for some time for it was pleasant here looking out upon that park with, beyond it, The Happy River sparkling and dancing as if with the joy of a beautiful day. We could also see down by the Ferry—one of my favourite spots, it was a never ending source of pleasure and amazement to me to see the ferryman get on his inflated skin boat and paddle away merrily to the other side.
Bên dưới, giữa chỗ chúng tôi đứng và Công viên Đá Quý, những người hành hương đang chậm rãi đi dọc theo con đường Lingkhor. Họ đi và hầu như không liếc nhìn Chakpori của chúng tôi, nhưng luôn tập trung để mắt xem liệu rằng có thể thấy có điều gì đó thú vị chỗ Công viên Đá quý không, vì những người hành hương đều được nghe nói rằng Đức Thái Tuế có lẽ đang ở đấy. Tôi cũng có thể nhìn thấy Kashya Linga, một công viên nhỏ, có nhiều cây cối, nằm một bên bờ của Bến đò. Có một con đường nhỏ đi từ đường Lingkhor xuống đến Kyi Chu, nó thường được những người du khách dùng để xuống bến đò. Tuy nhiên có một số người dùng nó để đi đến Khu vườn của các Latma nằm ở bên kia đường Bến đò.
Below us, between us and the Norbu Linga, pilgrims were making their slow way along the Lingkhor Road. They went along giving hardly a glance to our own Chakpori but keeping a constant lookout to see if possibly they could see anything of interest from the Jewel Park, for it must have been common knowledge to the ever-alert pilgrims that the Inmost One would be at the Norbu Linga. I could see too the Kashya Linga, a little park, well wooded, which was by the side of the Ferry Road. There was a small road leading from the Lingkhor Road down to the Kyi Chu, and it was used mainly by travelers who wanted to use the Ferry. Some, however, used it to reach the Lamas’ Garden which was on the other side of the Ferry Road.
Người phục vụ mang trà và cả đồ ăn khoái khẩu cho chúng tôi nữa. Thầy Lạt ma Minh Gia Đại Đức nói, “Đến đây, Lobsang, chúng ta hãy ăn sáng đi vì những người sắp tranh luận không được để cho cái bụng trống rỗng, trừ khi cái đầu của họ cũng rỗng tuếch như vậy!” Ngài ngồi lên một trong những miếng đệm cứng mà chúng tôi ở Tây Tạng hay dùng thay cho ghế, bởi vì chúng tôi ngồi khoanh chân trên sàn. Ngài ra hiệu cho tôi làm theo, tôi sốt sắng ngồi xuống bởi đồ ăn luôn khiến tôi vội vã. Chúng tôi ăn trong im lặng. Ở Tây Tạng, đặc biệt đối với các nhà sư, nếu nói hoặc gây tiếng động khi đồ ăn để trước mặt thì bị coi là khiếm nhã. Các nhà sư phải ăn một mình trong im lặng, nhưng nếu ăn cùng dù bao nhiêu người đi nữa thì cũng sẽ có một Phát Ngôn Viên đọc to những cuốn Kinh.
The attendant brought in tea for us and pleasant food as well. My Guide, the Lama Mingyar Dondup said, “Come, Lobsang, let us break our fast for men who are going to debate must not be empty inside unless their head so proves to be empty!” He sat down on one of the hard cushions which we of Tibet use instead of chairs, for we sit upon the floor cross-legged, so seated, he motioned for me to follow his example, which I did with alacrity because the sight of food was always one to make me hurry. We ate in comparative silence. In Tibet, particularly among monks, it was not considered seemly to speak or to make a noise while food was before us. Monks alone ate in silence, but if they were in a congregation of any great number a Reader would read aloud from the Sacred Books.
Phát Ngôn Viên sẽ đứng trên cao, ngoài việc có thể xem sách dễ dàng, ông ấy còn có thể nhìn bao quát đám nhà sư, và phát hiện được ngay những người nào đang quá mải ăn mà không không để ý nghe ông ta đọc. Khi có một tập thể các nhà sư cùng ngồi ăn, các Giám thị cũng có mặt để giám sát việc không ai được nói chuyện trừ nhà sư đang đọc Kinh. Chúng tôi ngồi một mình, trao đổi với nhau vài câu linh tinh, biết rằng nhiều phong tục, luật lệ cũ, như giữ im lặng trong khi ăn, là tốt cho việc duy trì kỉ luật khi ở trong một đám đông, nhưng điều ấy không cần thiết khi chỉ có hai người như chúng tôi. Vậy nên, trong suy nghĩ của mình, tôi tự xếp bản thân là một cộng sự của một trong những con người thực sự vĩ đại này của đất nước mình. “Nào, Lobsang”, Thầy nói khi chúng tôi xong bữa, “kể cho ta nghe điều gì khiến con băn khoăn đến vậy?”
This Reader would be in a high place where, in addition to seeing his book, he could look out across the gathering monks, and see immediately those who were so engrossed with their food that they had no time for his words. When there was a congregation of monks eating, then Proctors also would be present to see that there was no talking except for the monk-Reader. But we were alone; we passed a few desultory remarks to each other, knowing that many of the old customs, such as remaining silent at meals, were good for discipline when one was in a throng, but were not necessary for just a pair such as we. So, in my conceit, I classed myself as an associate of one of the truly great men of my country. “Well Lobsang,” said my Guide when we had finished our meal, “tell me what it is that bothers you so?”
“Thưa Lạt ma tôn kính !” Tôi phấn khích nói, “Người lái buôn đi qua đây, người mà con đã trao đổi một lúc ở Cửa Tây về một số vấn đề, đã cho con những thông tin đáng lưu ý về người phương Tây. Ông ấy nói với con rằng họ nghĩ những bức tranh về tôn giáo của chúng ta thật tục tĩu. Ông ấy còn kể một số điều khó tin về thói quen tình dục của họ, và con không chắc là ông ấy có coi con là một thằng ngu hay không nữa.” Thầy của tôi nhìn tôi và nghĩ một lúc, rồi nói, “Lobsang, để đi sâu vào vấn đề này sẽ mất hơn một buổi thuyết giảng đấy. Chúng ta còn phải đi lễ và cũng sắp đến lúc rồi. Chúng ta hãy thảo luận một khía cạnh nhỏ của vấn đề này trước nhé, được không? Tôi gật đầu, rất háo hức, bởi tôi thực sự tò mò về tất cả điều này. Thế rồi Thầy tôi nói, “Tất cả điều này bắt nguồn từ tôn giáo. Tôn giáo của phương Tây khác với tôn giáo của phương Đông. Chúng ta nên xem xét vấn đề đó và xem nó ảnh hưởng đến chủ đề này như thế nào.” Ngài chỉnh lại cà sa quanh người cho thoải mái hơn, rồi rung chuông cho người phục vụ đến dọn bàn. Khi mọi thứ đã xong, Ngài quay lại phía tôi và bắt đầu buổi thảo luận mà tôi thấy vô cùng thú vị.
“Honourable Lama!” I said in some excitement, “a trader passing through here, and with whom I was discussing matters of some moment at the Western Gate, gave me some remarkable information about the people of the West. He told me that they thought our religious paintings obscene. He told me some incredible things about their sex habits, and I am still not at all sure that he was not taking me for a fool.” My Guide looked at me and thought for a moment or two, then he said, “To go into this matter Lobsang, would take more than one session. We have to go to our Service and the time is near for that. Let us just discuss one aspect of this first, shall we?” I nodded, very eagerly, because I really was most puzzled about all this. My Guide then said, “All this springs from religion. The religion of the West is different from the religion of the East. We should look into this and see what bearing it has on the subject.” He arranged his robes about him more comfortably, and rang for the attendant to clear the things from the table. When that had been done, he turned to me and started a discussion which I found to be of enthralling interest.
“Lobsang,” Ngài nói, “chúng ta phải nhận thấy tôn giáo của phương Tây song song với Phật giáo của chúng ta. Từ những bài học của mình con sẽ rút ra rằng những giáo huấn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta đã bị thay đổi phần nào theo thời gian. Trong suốt nhiều năm và nhiều thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Đức Gautama rời khỏi trái đất này và đi vào Cõi Phật, những Giáo lý mà Người đích thân truyền dạy đã bị thay đổi. Một số trong chúng ta nghĩ rằng nó đã thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Những người khác lại cho rằng những Giáo lý đó đã được đưa vào phù hợp với tư tưởng hiện đại ”. Ngài nhìn tôi để xem tôi có chăm chú lắng nghe không và có hiểu những điều Ngài đang nói hay không. Tôi hiểu và tôi đang rất chăm chú. Ngài gật đầu nhẹ với tôi rồi tiếp tục.
“Lobsang,” he said, “we must draw a parallel between one of the religions of the West and our own Buddhist religion. You will realise from your lessons that the Teachings of our Lord Gautama have been altered somewhat in the course of time. Throughout the years and the centuries which have elapsed since the passing from this earth of The Gautama and His elevation to Buddhahood, the Teachings which He personally taught have changed. Some of us think they have changed for the worse. Others think that the Teachings have been brought into line with modern thought.” He looked at me to see if I was following him with sufficient attention, to see if I understood what he was talking about. I understood and I followed him perfectly. He nodded to me briefly and then continued.
“Chúng ta có một Vĩ Nhân mà chúng ta gọi là Đức Thích ca Mâu ni, hay còn gọi là Đức Phật. Thiên Chúa giáo cũng có Vĩ Nhân của họ. Vĩ Nhân ấy đã đưa ra những bài Giáo lý nhất định. Theo truyền thuyết hay thực sự là có những văn kiện xác nhận rằng Vĩ nhân, người mà theo Kinh thánh của họ, đã đi lang thang khắp thế giới, đã đến Ấn Độ và Tây Tạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tri thức về một tôn giáo có thể phù hợp với tâm lý và tư duy của người phương Tây. Vị Chúa này đã đến Lhasa và thăm Thánh đường Jo Kang. Sau đó, Người trở về phương Tây và hình thành một tôn giáo đáng ngưỡng mộ xét về mọi khía cạnh và phù hợp với người phương Tây. Sự ra đi của Con Người vĩ đại đó – cũng như của Thích ca Mâu ni của chúng ta – những bất đồng nhất định đã nổi lên trong Nhà thờ Thiên chúa giáo. Khoảng sáu mươi năm sau sự ra đi đó, một Hội nghị, hay một Cuộc họp, đã được tổ chức ở một địa danh có tên là Constantinople. Một sô thay đổi nhất định đã diễn ra trong giáo lý– cũng như trong niềm tin của Thiên chúa giáo. Có thể một số linh mục ngày đó đã cảm thấy rằng cần phải đặt ra một vài qui định khắt khe để duy trì kỷ cương cho giáo đoàn của mình khi có sự bất tuân.” Ngài lại nhìn tôi để xem tôi có đang lắng nghe không. Tôi cũng tỏ ra rằng tôi không chỉ vẫn đang theo dõi mà còn vô cùng thích thú.
“We had our Great Being whom we call Gautama, whom some call The Buddha. The Christians also had their Great Being. Their Great Being propounded certain Teachings. Legend and, in fact, actual records testify to the fact that their Great Being who, according to their own Scriptures, wandered abroad in the Wilderness, actually visited India and Tibet in search of information, in search of knowledge, about a religion which would be suitable for Western mentalities and spiritualities. This Great Being came to Lhasa and actually visited our Cathedral, The Jo Kang. The Great Being then returned to the West and formulated a religion which was in every way admirable and suitable for the Western people. With the Passing of that Great Being from this earth—as our own Gautama passed—certain dissensions arose in the Christian Church. Some sixty years after that Passing, a Convention, or Meeting, was held at a place called Constantinople. Certain changes were made in Christian dogma—certain changes were made in Christian belief. Probably some of the priests of the day felt that they had to put in a few torments in order to keep some of the more refractory of their congregation in good order.” Again he looked at me to see if I was following him. Again I indicated that I was not merely following him, but that I was vastly interested.
“Những người đàn ông đã tham gia Hội nghị tại Constantinople vào những năm sáu mươi là những người không thiện cảm với phụ nữ, cũng giống như một số nhà sư của chúng ta cảm thấy kinh tởm khi chỉ nghĩ về đàn bà. Đa số họ coi tình dục là một thứ không sạch sẽ, một cái gì đó chỉ nên dùng trong những trường hợp thật cần thiết để gia tăng giống nòi. Họ là những người đàn ông bản thân không có ham muốn tình dục, rõ ràng là họ đang có những ham muốn khác, có thể một số những ham muốn đó là rất thiêng liêng – ta cũng không biết nữa – chỉ biết rằng trong những năm sáu mươi đó họ đã ra phán quyết coi tình dục là bẩn thỉu, tình dục là hành động của ma quỷ. Họ coi những đứa trẻ mới ra đời là dơ bẩn và không đáng nhận phần thưởng cho đến khi chúng được rửa tội bằng một cách nào đó.” Ngài ngưng một lát, rồi mỉm cười, nói, “Ta không biết điều gì đã xảy ra với hàng triệu đứa trẻ được sinh ra trước Hội nghị Constantinople!”
“The men who attended that Convention at Constantinople in the year 60 were men who were not sympathetic toward women, just as some of our monks feel faint at the mere thought of a woman. The majority of them regarded sex as something unclean, something which should only be resorted to in the case of absolute necessity in order to increase the race. These were men who had no great sexual urges themselves, no doubt they had other urges, perhaps some of those urges were spiritual—I do not know—I only know that in the year 60 they decided that sex was unclean, sex was the work of the devil. They decided that children were brought into the world unclean and were not fit to go to a reward until in some way they had been cleansed first.” He paused a moment and then smiled as he said, “I do not know what is supposed to happen to all the millions of babies born before this meeting at Constantinople!”
“Lobsang à, con sẽ hiểu rằng ta đang cho con những thông tin về đạo Thiên Chúa như ta đã hiểu về nó. Có thể khi con đến sống cùng với họ, con sẽ có những ấn tượng khác và sẽ nhận được những thông tin khác, nó có thể làm thay đổi những ý kiến và bài giảng của chính ta.” Khi Ngài giảng xong thì tiếng tù và, tiếng kèn bên đền thờ vang lên ồn ã. Xung quanh chúng tôi là sự hối hả trong trật tự của những người có kỷ luật đang sẵn sàng cho buổi lễ. Chúng tôi cũng đứng dậy và phủi bụi trên áo choàng trước khi đi xuống đền thờ để làm lễ. Trước khi chia tay tôi chỗ lối vào, Thầy nói, “Lobsang, lát nữa nhớ đến phòng của ta, và chúng ta sẽ tiếp tục trao đổi.” Tôi bước vào đền thờ và ngồi cùng với đám bạn, tôi đọc những lời cầu nguyện và cảm ơn chính vị thần hộ mệnh của mình rằng tôi được là người Tây Tạng giống Thầy, Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Bên trong ngôi đền cổ này rất đẹp, không khí cầu nguyện, những đám mây khói hương nhẹ nhàng bay lơ lửng đã kết nối chúng tôi với người hành tinh đang tồn tại khác. Hương trầm không chỉ có mùi hương dễ chịu, không phải thứ để “tẩy uế” ngôi đền – mà nó là một mãnh lực sống, một mãnh lực được sắp đặt để bằng việc lựa chọn một loại hương đặc thù mà chúng ta có thể kiểm soát được tốc độ rung động.
“You will understand, Lobsang, that I am giving you information about Christianity as I understand it. Possibly when you go to live among these people you will have some different impression or different information which may in some way modify my own opinions and teachings.” As he finished his statement the conches sounded, and the temple trumpets blared. About us there was the ordered bustle of disciplined men getting ready for the Service. We too stood up and brushed off our robes before making our way down to the Temple for the Service. Before leaving me at the entrance, my Guide said, “Come to my room after, Lobsang, and we will continue our discussion.” So I entered into the Temple and I took my place among my fellows, and I said my prayers and I thanked my own particular God that I was a Tibetan the same as my Guide, the Lama Mingyar Dondup. It was beautiful in the old Temple, the air of worship, the gently drifting clouds of incense which kept us in touch with people on other planes of existence. Incense is not just a pleasant smell, not something which “disinfects” a Temple—it is a living force, a force which is so arranged that by picking the particular type of incense we can actually control the rate of vibration.
Tối nay, trong Đền thờ, khói hương đang bay và mang lại cho nơi đây một bầu không khí thư thái của thế giới cổ xưa. Từ chỗ đang ngồi với các bạn trong nhóm, tôi nhìn ra màn sương lờ mờ bên ngoài ngôi đền. Có tiếng đọc kinh trầm ấm của các vị lạt ma già – đôi khi – cùng với những tiếng chuông bạc. Tối nay, chúng tôi có một nhà sư người Nhật làm lễ cùng. Bằng mọi cách ông ấy đã đến đất nước của chúng tôi sau khi dừng chân ở Ấn độ một thời gian. Ở đất nước của ông ấy, ông là một vĩ nhân và luôn mang theo mình những chiếc trống gỗ, chúng đóng vai trò quan trọng trong tôn giáo của những nhà sư Nhật. Tôi ngạc nhiên trước sự đa tài của nhà sư Nhật Bản, trước thứ âm nhạc đặc sắc mà ông ấy tạo ra từ những chiếc trống của mình. Tôi thực sự sửng sốt khi đập vào một chiếc hộp gỗ mà nó có thể phát ra âm thanh rất có nhịp điệu; ông ấy có một cái trống gỗ và vài loại nhạc cụ xúc xắc, mỗi cái có gắn vài quả chuông nhỏ tạo ra âm nhạc, và các lạt ma của chúng tôi cũng phối hợp với ông bằng những chiếc chuông bạc, bằng tù và lớn của đền thờ vang lên vào thời điểm thích hợp. Với tôi dường như cả ngôi đền đang rung lên, chính các bức tường như đang nhảy múa, lung linh, và làn khói hương ở những hốc tường phía xa dường như tạo thành những khuôn mặt, khuôn mặt của các lạt ma đã chết từ lâu. Nhưng hôm nay đặc biệt buổi lễ kết thúc quá sớm, tôi vội chạy về như đã hẹn với Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức.
Tonight, in the Temple, the incense was floating and giving a mellow, old world atmosphere to the place. I looked out from my place among the boys of my group—looked out into the dim mists of the Temple building. There was the deep chanting of the old lamas accompanied by—at times—the silver bells. Tonight we had a Japanese monk with us. He had come all the way across our land after having stopped in India for some time. He was a great man in his own country, and he had brought with him his wooden drums, drums which play such a great part in the religion of the Japanese monks. I marveled at the versatility of the Japanese monk, at the remarkable music he produced from his drums. It seemed truly amazing to me that hitting a sort of wooden box could sound so very musical; he had the wooden drum and he had sort of clappers, each with little bells attached, and also our own lamas accompanied him with silver bells, with the great temple conch booming out in appropriate time. It seemed to me that the whole Temple vibrated, the walls themselves seemed to dance and shimmer, and the mists away in the distance of the far recesses seemed to form into faces, the faces of long-dead lamas. But for once all too soon, the Service had ended, and I hurried off as arranged to my Guide, the Lama Mingyar Dondup.
“Lobsang, con chưa bỏ phí nhiều thời gian lắm đâu,!” Thầy nói vui vẻ. “Ta thấy có lẽ con đang muốn dừng chút để hoàn thành một trong vô số những bữa ăn vặt của mình nhỉ!” “Không, thưa Lạt ma đáng kính” Tôi nói, “Con đang nóng lòng được khai sáng, bởi con thú thật rằng đề tài về tình dục ở phương Tây là điều khiến con thấy rất ngạc nhiên sau khi được nghe rất nhiều từ những thương gia và người khác.” Ngài cười to và nói, “Tình dục gây ra rất nhiều sự quan tâm ở khắp mọi nơi! Suy cho cùng thì tình dục là thứ đang duy trì con người trên trái đất này. Chúng ta sẽ thảo luận về nó vì đó là điều con mong muốn.”
“You have not wasted much time, Lobsang!” said my Guide cheerfully. “I thought perhaps you would be stopping to have one of those innumerable snacks!” “No, Honourable Lama” I said, “I am anxious to get some enlightenment, for I confess the subject of sex in the Western world is one which has caused me a lot of astonishment after having heard so much about it from traders and others.” He laughed at me and said, “Sex causes a lot of interest everywhere! It is sex, after all, which keeps people on this earth. We will discuss it as you require it so.”
“Thưa Lạt ma tôn kính,” Tôi nói, “Thầy có bảo con rằng tình dục là quyền lực lớn thứ hai trên thế giới. Thầy nói vậy nghĩa là sao? Nếu tình dục rất cần thiết để duy trì dân số thế giới thì tại sao nó không phải là thứ quan trọng nhất?” “Lobsang à, sức mạnh vĩ đại nhất trên thế giới,” Thầy tôi nói, “không phải là tình dục, mà đó là trí tưởng tượng, nếu không có trí tưởng tượng, sẽ không có ham muốn tình dục. Nếu đàn ông không có trí tưởng tượng, thì đàn ông sẽ không thể có hứng thú với đàn bà. Không có trí tưởng tượng, sẽ không có những nhà văn, những nghệ sĩ, không có bất cứ điều gì mang tính xây dựng và tốt đẹp cả!” “Nhưng, Thưa Lạt ma đáng kính,” tôi nói, “có phải Thầy đang nói rằng trí tưởng tượng là điều cần thiết cho tình dục? Và nếu như vậy, trí tưởng tượng có được áp dụng cho động vật không?” “ Động vật có trí tưởng tượng, Lobsang à, cũng giống như con người vậy. Nhiều người nghĩ động vật là loài sinh vật vô tri, không có trí khôn, không có lý trí, nhưng như ta đây, người đến nay đã sống qua rất nhiều năm, lại nói với con điều hoàn toàn khác.”
“Honourable Lama,” I said, “you said previously that sex was the second greatest force in the world. What did you mean by that? If sex is so necessary in order to keep the world populated why is it not the most important force?” “The greatest force in the world, Lobsang,” said my Guide, “is not sex, the greatest force of all is imagination, for without imagination there would be no sexual impulse. If a male had no imagination, then the male could not be interested in the female. Without imagination there would be no writers, no artists, there would be nothing whatever that was constructive or good!” “But, Honourable Lama,” I said, “are you saying that imagination is necessary for sex? And if you are, how does imagination apply to animals?” “Imagination is possessed by animals, Lobsang, just as it is possessed by humans. Many people think that animals are mindless creatures, without any form of intelligence, without any form of reason, yet I, who have lived a surprisingly long number of years, tell you differently.”
Ngài nhìn tôi, rồi phẩy tay, nói, “Con nói yêu thích những con mèo trong đền thờ, liệu con có bảo với ta là chúng không có trí tưởng tượng không? Con luôn nói chuyện với những con mèo trong đền thờ, con thường dừng lại để vuốt ve chúng. Sau một lần con gây cảm tình với chúng, chúng sẽ chờ đợi con đến lần thứ hai, lần thứ ba rồi nhiều lần khác nữa. Nếu đây chỉ là những phản ứng vô tình, nếu đó chỉ là những mô thức của não bộ, thì mèo sẽ không đợi con vào lần thứ hai hoặc thứ ba mà sẽ đợi cho đến khi thói quen được hình thành. Không, Lobsang, bất kỳ con vật nào cũng có trí tưởng tượng. Một con vật tưởng tượng ra những thú vui khi ở bên người bạn đời của nó, và rồi những điều tất yếu sẽ xảy ra! ”
My Guide looked at me, and then shaking a finger at me he said, “You profess to be fond of the Temple cats, are you going to tell me that they have no imagination? You always speak to the Temple cats, you stop to caress them. After you have been affectionate with them once they will wait for you a second time, and a third time, and so on. If this were mere insensitive reactions, if these were just brain patterns, then the cat would not wait for you on the second or third occasion, but would wait until the habit had been formed. No, Lobsang, any animal has imagination. An animal imagines the pleasures in being with its mate, and then the inevitable occurs!”
Khi tôi bắt đầu nghĩ đến điều đó, đào sâu vào chủ đề này, thì rõ ràng là Thầy hoàn toàn đúng. Tôi đã từng nhìn thấy những con chim nhỏ – những con gà mái – vẫy cánh của chúng rất giống cách những cô gái trẻ nhấp nháy cặp mắt của họ! Tôi đã quan sát những chú chim và chứng kiến sự lo lắng thật sự khi chúng chờ đợi bạn tình trở về sau khi đi kiếm mồi. Tôi đã nhìn thấy niềm vui của những con chim đang yêu khi chào đón bạn tình trở về. Điều đó đã rõ đối với tôi, bây giờ tôi nghĩ rằng, động vật thật sự có trí tưởng tượng, và vì vậy tôi có thể nhận ra ý nghĩa của điều mà Thầy đã nói, rằng trí tưởng tượng là sức mạnh tuyệt vời nhất trên thế giới.
When I came to think about it, to dwell upon the subject, it was perfectly clear to me that my Guide was absolutely right. I had seen little birds—little hens—fluttering their wings in much the same way as young women flutter their eyelids! I had watched little birds and seen very real anxiety as they waited for their mates to return from the unceasing forage for food. I had seen the joy with which a loving little bird had greeted her mate upon his return. It was obvious to me, now that I thought about it, that animals really had imagination, and so I could see the sense of my Guide’s remarks that imagination was the greatest force on earth.
“Thưa Lạt ma tôn kính, một thương nhân đã nói với con rằng, một người càng đi vào lĩnh vực huyền bí thì càng phản đối tình dục,” tôi nói. “Có phải thật vậy không, hay con đang bị lừa? Con đã được nghe quá nhiều điều rất kì lạ nên con thực sự không biết con phải hiểu vấn đề này như thế nào.” Lạt ma Minh Gia Đại Đức gật đầu buồn bã, rồi Ngài trả lời, “, Lobsang à, hoàn toàn đúng rằng nhiều người quan tâm sâu sắc đến những vấn đề huyền bí cực kỳ ác cảm với tình dục, và vì một lý do đặc biệt; trước đây con đã từng được nghe nói rằng những nhà huyền bí vĩ đại nhất thường không bình thường, tức là họ có điều gì đó không ổn về thể chất. Một người có thể mắc bệnh hiểm nghèo, chẳng hạn như T.B. (Bệnh lao, viết tắt của trực khuẩn lao), hoặc ung thư, hoặc bất cứ thứ gì đó tương tự. Một người có thể có một bệnh gì đó về thần kinh – bất kể đó là gì, thì đó cũng là một căn bệnh và căn bệnh đó làm tăng nhận thức trừu tượng. ”
“One of the traders told me that the more occult a person was the more he was opposed to sex, Honourable Lama,” I said. “Is this true, or am I being teased? I have heard so many very strange things that I really do not know how I stand in the matter.” The Lama Mingyar Dondup nodded sadly, as he replied, “It is perfectly true, Lobsang, that many people who are intensely interested in occult matters are intensely antipathetic to sex, and for a special reason; you have been told before that the greatest occultists are not normal, that is, they have something wrong with them physically. A person may have a grave disease, such as T.B. (Tuberculosis, short for tubercle bacillus), or cancer, or anything of that nature. A person may have some nerve complaint—whatever it is, it is an illness and that illness increases metaphysical perceptions.”
Ngài hơi cau mày khi nói tiếp, “Nhiều người cho rằng sự thôi thúc tình dục là một động lực lớn. Một số người vì lí do này hay lí do khác sử dụng các phương pháp làm thăng hoa ham muốn tình dục, và họ có thể chuyển mọi thứ thành thiêng liêng. Còn một khi người đàn ông hay đàn bà quay lưng lại với thứ gì, họ sẽ trở thành kẻ thù chết người của thứ đó. Không có một nhà cải cách nào vĩ đại hơn – không có một nhà tuyên truyền nào tuyệt vời hơn – chống lại sự xấu xa của rượu chè hơn một người say đã tỉnh ngộ! Cũng như vậy, một người đàn ông hay đàn bà đã từ chối tình dục (có thể vì họ không thể thỏa mãn được người khác hoặc họ không được thỏa mãn!) sẽ quay về những vấn đề huyền bí, và tất cả động lực trước đây dành cho khám phá tình dục (có thể thành công hoặc không thành công) thì nay được dành toàn bộ cho khám phá thần bí. Nhưng thật đáng tiếc, những người này thường có khuynh hướng không giữ được sự cân bằng, họ thường rỉ tai rằng chỉ bằng cách từ bỏ tình dục thì mới có thể tiến bộ được. Không có gì có thể lập dị hơn, không có gì có thể méo mó hơn thế, nhiều vĩ nhân vừa có thể tận hưởng cuộc sống bình thường và đồng thời tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực siêu hình.”
He frowned slightly as he continued, “Many people find that the sexual impulse is a great drive. Some people for one reason or another use methods of sublimating that sexual drive, and they may turn to things spiritual. Once a man or a woman has turned away from a thing they become a deadly enemy to that thing. There is no greater reformer—nor greater campaigner—against the evils of drink than the reformed drunkard! In the same way, a man or a woman who has renounced sex (possibly because they could not satisfy nor be satisfied!) will turn to occult matters, and all the drive which formerly went (successfully or unsuccessfully) into sexual adventures is now devoted to occult adventures. But unfortunately these people so often tend to be unbalanced about it; they tend to bleat that only in renouncing sex is it possible to progress. Nothing could be more fantastic, nothing could be more distorted, some of the greatest people are able to enjoy a normal life and also to progress vastly in metaphysics.”
Đúng lúc đó, Lạt ma Đại Danh Y Chinrobnobo bước vào, chúng tôi chào Ngài và Ngài ngồi xuống cùng chúng tôi. “Tôi đang nói với Lobsang một số vấn đề về tình dục và thuyết huyền bí,” Thầy nói. “À ra vậy!” Lạt ma Chinrobnobo nói, “đã đến lúc cậu ấy cần được biết về vấn đề này; Tôi đã nghĩ đến điều này khá lâu rồi.” Thầy tiếp tục, “ Rõ ràng là những người sử dụng tình dục một cách bình thường – như nó cần phải thế – thì họ sẽ làm tăng sức mạnh tinh thần của chính mình. Tình dục không phải thứ nên lạm dụng, nhưng nó cũng không nên bị từ chối. Bằng việc đem lại sự rung động cho người nào thì người ấy có thể phát triển được tâm hồn. Tuy nhiên ta muốn chỉ ra cho con,” Ngài nghiêm nghị nhìn tôi và nói, “rằng hành động tình dục chỉ nên được thực hiện thoải mái bởi những người đang yêu, những người có mối ràng buộc tình cảm thiêng liêng. Cái thứ tình dục trái đạo lý, trái pháp luật thì chỉ là sự bán rẻ thân thể và nó có thể làm hại một người cũng nhiều như đem lại lợi ích cho họ trong trường hợp khác. Tương tự, một người đàn ông hay một người phụ nữ chỉ nên có một người bạn đời, giúp tránh khỏi mọi cám dỗ khiến họ chệch ra khỏi con đường đúng đắn và chính đáng.”
Just at that moment the Great Medical Lama Chinrobnobo came in, we greeted him and he sat down with us. “I am just telling Lobsang some matters about sex and occultism,” said my Guide. “Ah yes!” said the Lama Chinrobnobo, “it is time he was given some information on This; I have thought so for a long time.” My Guide continued, “It is clear that those who use sex normally—as it is meant to be used—increase their own spiritual force. Sex is not a matter to be abused, but on the other hand nor is it a matter to be repudiated. By bringing vibrations to a person that person can increase spiritually. I want to point out to you, however,” he said looking sternly at me, “that the sexual act should only be indulged in by those who are in love, by those who are bound together by spiritual affinity. That which is illicit, unlawful, is mere prostitution of the body and can harm one as much as the other can help one. In the same way a man or a woman should have only one partner, eschewing all temptations which would lead one from the path of truth and righteousness.”
Lạt ma Chinrobnobo nói, “Nhưng có một vấn đề Ngài nên đào sâu thêm, thưa Đồng môn đáng kính, và đó chính là, vấn đề liên quan đến kiểm soát sự sinh sản. Tôi sẽ đi đây để Ngài nói về điều đó.” Ông đứng dậy, cúi đầu chào chúng tôi và rời khỏi căn phòng.
Thầy chờ một chút rồi nói, “ Con đã mệt mỏi với chuyện này chưa, Lobsang ?” “ Không, thưa thầy!” Tôi trả lời, “Con đang lo phải tiếp thu được nhiều nhất có thể bởi tất cả những điều này khá lạ lẫm đối với con.” “ Vậy con nên biết rằng, trong những ngày đầu của sự sống trên trái đất, loài người được chia thành các gia đình, dòng tộc. Khắp các vùng trên thế giới, có những gia đình nhỏ qua thời gian đã trở thành những gia đình lớn. Cãi vã và bất hòa xảy ra dường như là điều không thể tránh khỏi giữa con người với nhau. Gia đình chống lại gia đình. Những kẻ chiến thắng giết chết những người đàn ông mà họ đã đánh bại và đưa những người phụ nữ của họ nhập vào gia đình của mình.
The Lama Chinrobnobo said, “But there is another matter upon which you should dwell, Respected Colleague, and it is this, the matter referring to birth control. I will leave you to deal with it.” He rose to his feet, bowed gravely to us and left the room.
My Guide waited for a moment, and then said, “Are you tired of this yet, Lobsang?” “No, Sir!” I replied, “I am anxious to learn all I can for all this is strange to me.” “Then you should know that in the early days of life upon earth peoples were divided into families. Throughout areas of the world there were small families which, with the passage of time became big families. As seems to be inevitable among humans, quarrels and dissensions occurred. Family fought against family. The victors killed the men they had vanquished and took their women into their own family.
Chẳng bao lâu sau, thật rõ ràng là gia đình nào càng lớn, mà bây giờ gọi là bộ tộc, thì càng hùng mạnh và càng an toàn trước những hành động thù địch của các bộ tộc khác.” Ngài nhìn tôi có chút buồn rầu, rồi tiếp tục, “ Nhiều năm và nhiều thế kỷ trôi qua, các bộ tộc ngày càng gia tăng về quy mô. Một số người đàn ông tự xưng là linh mục, nhưng là linh mục với một chút quyền năng về chính trị, có con mắt hướng đến tương lai! Các linh mục quyết định rằng họ phải có một chỉ dụ linh thiêng – cái mà họ có thể gọi là mệnh lệnh từ Chúa – cái có thể giúp ích cho cả bộ tộc. Họ dạy rằng mỗi người phải sinh sôi nảy nở. Trong thời kỳ đó, điều này thực sự là rất cần thiết, bởi nếu con người không “sinh sôi” thì bộ lạc của họ sẽ trở nên yếu đuối và có thể sẽ bị xóa sổ. Như vậy, các linh mục, người đã ra lệnh con người phải sinh sôi nảy nở, đã bảo vệ cho tương lai của bộ lạc của chính họ. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, rõ ràng là dân số thế giới đã bùng nổ đến nỗi thế giới đang trở nên quá tải, nguồn thức ăn không đủ đáp ứng cho con người. Phải làm gì đó cho vấn đề này.”
Soon it became clear that the bigger the family, which was now referred to as a tribe, the more powerful and the more secure it was from the aggressive acts of others.” He looked at me a bit ruefully, and then continued, “The tribes were increasing in size as the years and centuries went by. Some men set up as priests, but priests with a bit of political power, with an eye to the future! The priests decided that they had to have a sacred edict—what they could call a command from God—which would help the tribe as a whole. They taught that one had to be fruitful and multiply. In those days it was a very real necessity, because unless people ‘multiplied’ their tribe became weak and perhaps completely wiped out. So—the priests who commanded that the people be fruitful and multiply were even safeguarding the future of their own tribe. With the passage of centuries and centuries, however, it is quite clear that the population of the world is increasing at such a pace that the world is becoming over-populated, there are more people than food resources justify. Something will have to be done about it.”
Tôi có thể hiểu được tất cả những điều này, chúng thực sự có ý nghĩa đối với tôi, và tôi mừng khi thấy rằng những người bạn mình ở Pargo Kaling – những thương nhân đã đi rất xa trong một thời gian dài – đã nói sự thật cho tôi nghe.
Thầy nói tiếp, “Một số tôn giáo thậm chí cho đến bây giờ vẫn còn nghĩ rằng thật sai lầm khi hạn chế sinh sản, nhưng nếu người ta nhìn lại lịch sử thế giới thì người ấy sẽ thấy hầu hết các cuộc chiến tranh nổ ra bởi thiếu không gian sống ở vùng đất của kẻ gây chiến. Một quốc gia có dân số phát triển quá nhanh, và họ biết rằng nếu nó cứ tiếp tục bùng nổ ở tốc độ đó, thì sẽ không có đủ thức ăn, không có đủ cơ hội sống cho những người dân của mình. Thế nên, họ gây ra chiến tranh, và nói rằng cần phải có không gian sống!” “Vậy thưa Lạt ma tôn kính”, tôi nói, “Thầy sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào?”
I could follow all this, it made sense to me, and I was glad to see that my friends of the Pargo Kaling—the traders who had traveled so far and for so long—had told me the truth.
My Guide continued, “Some religions even now think that it is wrong indeed to place any limitation upon the number of children who are born, but if one looks at world history one sees that most of the wars are caused by lack of living space on the part of the aggressor. A country has a rapidly expanding population, and it knows that if it goes on expanding at this rate there will not be enough food, not be enough opportunity, for those of its own peoples. Thus they make war, saying they have to have living space!” “Then, Honourable Lama,” I said, “how would you deal with the problem?”
Lobsang!” thầy trả lời, “vấn đề này rất đơn giản nếu đàn ông va phụ nữ có thiện chí cùng nhau thảo luận vấn đề. Các hình thái tôn giáo cũ – những giáo lý tôn giáo cổ xưa là rất phù hợp khi thế giới còn non trẻ, khi dân số còn ít ỏi, nhưng giờ thì không thể tránh khỏi – và điều này sẽ xảy ra đúng lúc cần thiết! –cần có sự tiếp cận mới cho vấn đề này. Con hỏi ta sẽ làm gì để giải quyết vấn đề này à? Phải, ta sẽ làm; ta muốn việc kiểm soát sinh sản là hợp pháp. Ta sẽ dạy mọi người về kiểm soát sinh sản, làm thế nào để có thể thực hiện được, biện pháp đó là gì và tất cả điều đó cần phải được khám phá. Ta muốn thấy rằng những người muốn có em bé có thể có một đến hai đứa, trong khi những người không muốn có con thì phải có kiến thức làm sao cho những đứa trẻ sẽ không được sinh ra. Theo tôn giáo của chúng ta, Lobsang, không hề là tội lỗi khi làm việc này. Ta đã đọc những cuốn sách ra đời rất rất lâu trước khi sự sống xuất hiện ở phần Tây của trái đất, bởi vì, như con đã biết, sự sống xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc và những khu vực quanh Tây Tạng, sau đó lan sang Ấn Độ trước khi sang đến phương Tây. Tuy nhiên chúng ta không bàn luận về việc này.”
“Lobsang!” he replied, “the matter is easy if men and women of goodwill get together to discuss the thing. The old forms of religions—the old religious teachings were in every way suitable when the world was young, when people were few, but now it is inevitable—and it will be in time!—that fresh approaches be made. You ask what I would do about it? Well, I would do this; I would make birth control legal. I would teach all peoples about birth control, how it could be accomplished, what it was, and all that could be discovered about it. I would see that those people who wanted children could have perhaps one or two, while those who did not want children had the knowledge whereby children would not be born. According to our religion, Lobsang, there would be no offence in doing this. I have studied the old books dating back long long ages before life appeared on Western parts of this globe, for, as you know, life first appeared in China and in the areas around Tibet, and spread to India before going Westwards. However, we are not dealing with that.”
Khi đó tôi quyết định rằng sẽ đề nghị Thầy nói nhiều hơn về nguồn gốc của sự sống trên trái đất sớm nhất có thể, nhưng tôi chợt nhận ra rằng mình đang cố gắng học được nhiều nhất có thể về vấn đề tình dục. Thầy quan sát tôi, và vì thấy tôi lại tập trung lắng nghe nên Ngài tiếp tục, “Như ta vừa nói, đa phần nguyên nhân của các cuộc chiến tranh là bởi sự quá tải về dân số. Thực tế là sẽ có chiến tranh – sẽ luôn luôn có chiến tranh đồng hành cùng với sự mở rộng và gia tăng dân số. Và chiến tranh là cần thiết vì nếu không thế giới quá tải dân số sẽ giống như một con chuột chết sẽ chẳng mấy chốc bị cả đàn kiến bâu kín. Khi con rời khỏi Tây Tạng, nơi chúng ta có dân số khá ít, đến một số thành phố lớn trên thế giới, con sẽ ngạc nhiên và kinh hãi trước số lượng người đông đảo của họ. Con sẽ thấy lời ta nói là đúng; chiến tranh là điều rất cần thiết để giảm dân số. Con người phải đến trái đất để học những bài học, và nếu như không có chiến tranh và bệnh tật, sẽ không có cách nào để duy trì dân số một cách có kiểm soát và nuôi sống nhau. Họ sẽ như một đàn châu chấu ăn tất cả mọi thứ trong tầm mắt, phá hủy mọi thứ và cuối cùng tự hủy hoại mình hoàn toàn.”
I decided then and there that as soon as I could I would get my Guide to talk more about the origin of life upon this earth, but I recollected that now I was studying all I could on the matter of sex. My Guide was watching me, and as he saw that I was again paying attention he continue, “As I was saying, the majority of wars are caused by overpopulation. It is a fact that there will be wars—there will always be wars—so long as there are vast and increasing populations. And it is necessary that there should be for otherwise the world would be absolutely overrun with people in the same way that a dead rat is soon completely overrun by swarms of ants. When you move away from Tibet, where we have a very small population, and you go to some of the great cities of the world, you will be amazed and appalled at the vast numbers, at the vast throngs of people. You will see that my words are correct; wars are utterly necessary to keep down the population. People have to come to earth in order to learn things and unless there were wars and diseases, then there would be no way whatever of keeping the population in control and keeping them fed. They would be like a swarm of locusts eating everything in sight, contaminating everything, and in the end they would finish themselves up completely.”
“Thưa Lạt ma tôn kính!” tôi nói, “một số thương nhân kể về biện pháp kiểm soát sinh sản đã nói rằng rất nhiều người nghĩ nó thật ác độc. Mà tại sao họ lại nghĩ vậy?” Thầy nghĩ một lát, chắc đang nghĩ xem nên nói gì với tôi bởi tôi vẫn còn trẻ con, và rồi Ngài nói, “Kiểm soát sinh sản đối với một số người là việc giết hại một con người chưa được sinh ra, nhưng trong Tín ngưỡng của chúng ta, Lobsang à, linh hồn chưa nhập vào một đứa trẻ chưa sinh. Trong Đức tin của chúng ta, không hề có sự sát sinh nào, và dù thế nào đi nữa, thật vô lý khi nói hành động ấy là giết người khi dùng biện pháp phòng ngừa để ngăn ngừa thụ thai. Cũng giống như việc nói chúng ta giết hại cả một rừng cây khi chúng ta ngăn không cho các hạt nảy mầm! Con người thường tưởng tượng họ là sinh vật tuyệt vời nhất sống trong Vũ trụ bao la này. Tất nhiên, thực ra con người cũng chỉ là một hình thái của sự sống, và không phải là hình thái cao nhất, tuy nhiên chúng ta không có thời gian để đào sâu vào những vấn đề như vậy vào lúc này.”
“Honourable Lama!” I said, “some of the traders who have talked about this birth control thing say that so many people think that it is evil. Now why should they think that?” My Guide thought for a moment, probably wondering how much he should tell me for I was as yet still young, and then he said, “Birth control to some appears to be murder of a person unborn, but in our Faith, Lobsang, the spirit has not entered the unborn baby. In our Faith no murder can possibly have occurred, and anyhow it is, of course manifestly absurd to say that there is any murder in taking precautions to prevent conception. It is just as well to say that we murder a whole lot of plants if we prevent their seeds from germinating! Humans too often imagine that they are the most wonderful thing that ever happened in this great Universe. Actually, of course, humans are just one form of life, and not the highest form of life at that, however there is no time to go into such matters as that for the present.”
Tôi nghĩ về một chuyện khác từng được nghe, nó dường như tồi tệ và khủng khiếp đến mức bản thân tôi khó có thể nói về điều đó. Tuy nhiên, tôi đã làm! “Thưa Lạt ma đáng kính! Con nghe nói một số động vật, như con bò chẳng hạn, đã được thụ tinh một cách không tự nhiên. Có đúng không ạ?” Thầy ngạc nhiên một lát, và rồi Ngài nói, “Đúng đấy, Lobsang, điều ấy là có. Một số người phương Tây cố gắng tăng đàn gia súc bằng cách mà họ gọi là thụ tinh nhân tạo, đó là con bò cái sẽ được con người thụ tinh cho nó bằng một ống tiêm lớn thay vì một con bò đực làm công việc cần thiết của nó. Những người này dường như không nhận ra rằng để tạo ra một đứa con, dù là một em bé, một gấu con, hay một con bê, nó không chỉ là sự giao phối một cách máy móc. Nếu một người muốn thành công trong việc này, thì phải có tình yêu hay một dạng tình cảm yêu thương nào đó trong quá trình giao phối. Nếu con người sinh ra do thụ tinh nhân tạo, thì khi đó có thể là – sinh ra không có tình yêu – họ sẽ không là con người đầy đủ! Lobsang, ta nhắc lại cho con nhớ, rằng để có một giống người hay động vật tốt hơn thì điều cần thiết là bố mẹ phải thích nhau, cả hai phải phát sinh những rung động cả về tâm hồn lẫn thể xác. Thụ tinh nhân tạo được thực hiện trong điều kiện vô cảm, không tình yêu, thực sự sẽ dẫn đến kết quả tồi tệ. Ta tin rằng thụ tinh nhân tạo là một trong những tội ác lớn nhất trên thế giới này.”
I thought of another thing which I had heard, and it seemed to be such a shocking—such a terrible thing—that I could hardly bring myself to speak of it. However, I did! “Honourable Lama! I have heard that some animals, cows for instance, are made pregnant by unnatural means. Is that correct?” My Guide looked quite shocked for a moment, and then he said, “Yes, Lobsang, that is absolutely correct. There are certain peoples in the Western world who try to raise cattle by what they call artificial insemination, that is the cows are inseminated by a man with a great big syringe instead of having a bull do the necessary work. These people do not seem to realise that in making a baby, whether it be a baby human, a baby bear, or a baby cow, there is more than just a mechanical mating. If one is going to have good stock, then there must be love or a form of affection in the mating process. If humans were artificially inseminated, then it could be that—being born without love—they would be sub-humans! I repeat to you, Lobsang, that for the better type of human or beast it is necessary that the parents shall be fond of each other, that they shall both be raised in spiritual as well as physical vibration. Artificial insemination, carried out in cold, loveless conditions, results in very poor stock indeed. I believe that artificial insemination is one of the major crimes upon this earth.”
Tôi ngồi đó, với bóng tối len lỏi khắp phòng, bóng tối nhá nhem đang trùm lên Lạt ma Minh Gia Đại Đức, và khi hoàng hôn xuống dần, tôi thấy hào quang của Ngài bừng lên thứ ánh sáng vàng tuyệt đẹp của tâm linh. Với tôi, người có khả năng thấu thị, ánh sáng này thực sự rực rỡ và xuyên qua bóng tối của hoàng hôn. Khả năng thấu thị cho tôi biết – như thể tôi chưa từng biết trước đây – rằng tôi đang được ngồi với một trong những vĩ nhân Tây Tạng. Tôi cảm thấy ấm áp trong lòng, cảm giác toàn cơ thể tôi đang rộn ràng với tình yêu dành cho người Thầy, người Giám hộ của mình. Phía dưới chúng tôi, tiếng cồng của ngôi đền lại vang lên, nhưng lần này không phải họ gọi chúng tôi mà là gọi những người khác. Chúng tôi cùng đi ra phía cửa sổ và nhìn ra ngoài. Thầy choàng lấy vai tôi khi chúng tôi nhìn xuống dưới thung lũng– thung lũng giờ đây đang chìm dần trong màu tím của bóng tối.
I sat there, with the evening shadows stealing across the room, bathing the Lama Mingyar Dondup in the growing dusk, and as the dusk increased I saw his aura flaring with the great gold of spirituality. To me, clairvoyantly, the light was bright indeed and interpenetrated the dusk itself. My clairvoyant perceptions told me—as if I did not know before—that there I was in the presence of one of the greatest men of Tibet. I felt warm inside me, I felt my whole being throb with love for this, my Guide and tutor. Beneath us the Temple conches blared again, but this time they were not calling us, but calling others. Together we walked to the window and looked out. My Guide put his hand on my shoulder as we looked out at the valley below us—the valley now partially enveloped in the purple darkness.
“Lobsang, hãy để đức tin dẫn lối cho con,” Thầy nói. “Con sẽ luôn biết cái gì là đúng hoặc cái gì là sai. Con sẽ đi rất xa – xa hơn con tưởng – và sẽ gặp rất nhiều cám dỗ phía trước. Hãy để đức tin chỉ đường dẫn lối cho con. Chúng ta ở Tây Tạng là những người hòa bình, chúng ta là một dân tộc thiểu số, chúng ta là người sống trong hòa bình, tin vào sự thánh thiện, tin vào sự thiêng liêng của Linh hồn. Bất cứ nơi nào con đến, bất kể con phải chịu đựng điều gì, hãy để đức tin của con dẫn hướng. Chúng ta đang cố gắng giúp con cùng với đức tin của con. Chúng ta đang cố gắng trao cho con sức mạnh vô biên của thần giao cách cảm và khả năng thấu thị để trong suốt cuộc đời sau này của con, bằng thần giao cách cảm con sẽ luôn luôn có thể kết nối với những lạt ma vĩ đại ở trên dãy núi cao Himalayas này, những lạt ma vĩ đại sau này sẽ dành trọn thời gian của họ để chờ đợi những thông điệp của con.”
“Let your conscience be your guide, Lobsang,” said my Guide. “You will always know if a thing is right or if a thing is wrong. You are going far—farther than you can imagine—and you will have many temptations placed before you. Let your conscience be your guide. We in Tibet are a peaceful people, we are people of a small population, we are people who live in peace, who believe in holiness, who believe in the sanctity of the Spirit. Wherever you go, whatever you endure, let your conscience be your guide. We are trying to help you with your conscience. We are trying to give you extreme telepathic power and clairvoyance so that always in the future for so long as you live you can get in touch telepathically with great lamas here in the high Himalayas, great lamas who, later, will devote the whole of their time to waiting for your messages.”
Chờ đợi những thông điệp của tôi ư? Tôi cảm giác quai hàm mình đang rớt xuống vì ngạc nhiên; thông điệp của tôi? Có điều gì quá đặc biệt về tôi vậy? Tại sao các lạt ma vĩ đại lúc nào cũng phải chờ đợi thông điệp của tôi? Thầy cười và vỗ vai tôi. “Lobsang, lí do con tồn tại, là bởi con có một nhiệm vụ rất rất quan trọng cần phải làm. Bất chấp mọi khó khăn và gian khổ, con sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng thật không công bằng khi con phải dấn thân vào một thế giới xa lạ, một thế giới sẽ chế nhạo con và gọi con là kẻ dối trá, lừa lọc và giả tạo. Đừng bao giờ tuyệt vọng, đừng bao giờ từ bỏ, vì lẽ phải sẽ chiến thắng. Lobsang, con sẽ chiến thắng!” Bóng tối đã chuyển thành màn đêm đen kịt, bên dưới chúng tôi, ánh sáng của thành phố lấp lánh. Trên đầu chúng tôi, vầng trăng non đang ló dạng qua rìa núi. Các hành tinh, hàng triệu hành tình, đang nhấp nháy trên bầu trời tím ngắt. Tôi nhìn lên, nghĩ về những tiên đoán về mình – tất cả những lời tiên tri về tôi – và tôi cũng nghĩ đến sự tin tưởng và lòng tin của người bạn, người Thầy của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Và tôi cảm thấy bằng lòng.
Waiting for my messages? I am afraid my jaw dropped with amazement; my messages? What was there so special about me? Why should great lamas be waiting for my messages all the time? My Guide laughed and slapped my shoulder. “The reason for your existence, Lobsang, is that you have a very very special task to do. In spite of all the hardships, in spite of all the suffering, you will succeed in your task. But it is manifestly unfair that you should be left on your own in an alien world, a world that will mock you and call you a liar, fraud and fake. Never despair, never give up, for right will prevail. You—Lobsang—will prevail!” The evening shadows turned into the darkness of night, below us the lights of the City were atwinkle. Above us a new moon was peeping down at us over the edge of the mountains. The planets, vast millions of them, twinkled in the purple heavens. I looked up, thought of all the forecasts about me—all the prophecies about me—and I thought also of the trust and the confidence shown by my friend, my Guide, the Lama Mingyar Dondup. And I was cc.
Người dịch: Nguyễn Thị Kiều Khanh
Biên tập: VMC Việt Nam