Chúng tôi ngỡ ngàng trước sự thay đổi của Trùng Khánh. Đây không còn là Trùng Khánh mà chúng tôi biết. Những tòa nhà mới, những mặt tiền mới của những tòa nhà cũ, những cửa hàng bán mọi thứ mọc lên ở khắp nơi. Trùng Khánh! Nơi vô cùng đông đúc! Người ta đổ về từ Thượng Hải, từ các thị trấn ven biển. Những thương gia, cùng với cơ nghiệp của họ tại vùng biển bị cuốn trôi, tiến sâu vào nội địa để tới Trùng Khánh, để bắt đầu lại tất cả, có lẽ với một vài tài sản nhỏ mọn còn lại được cứu khỏi sự chiếm đoạt của người Nhật. Nhưng đa phần bắt đầu lại từ số không.
Các trường đại học tìm được những tòa nhà ở Trùng Khánh, hoặc xây dựng những tòa nhà tạm thời của riêng họ, hầu hết là những nhà kho xiêu vẹo. Nhưng đây là đại bản doanh của văn hóa Trung Hoa. Dù các tòa nhà có thế nào, những bộ não vẫn ở đó, một trong những bộ não vĩ đại nhất trên toàn thế giới.
Chúng tôi đi tới ngôi chùa mà mình đã ở trước đây; giống như trở về nhà. Nơi đây, trong cảnh tĩnh mịch của ngôi chùa, khói hương trầm gợn thành những đám mây phía trên đầu, chúng tôi cảm thấy như mình đã với bình an, cảm thấy như những hình vẽ Thiêng đang nhân từ nhìn chúng tôi như thấu hiểu những nỗ lực của chúng tôi, và có lẽ, cả sự cảm thông với những thử thách khắc nghiệt mà chúng tôi đã trải qua. Vâng, chúng tôi đã về nhà trong bình yên, phục hồi những vết thương của mình, trước khi lại ra đi, lao vào trận chiến khốc liệt để rồi lại chịu đựng những đau khổ mới, tồi tệ hơn. Chuông chùa ngân nga, báo hiệu đã lại đến giờ của những buổi lễ cầu nguyện thân thương và quen thuộc. Chúng tôi vài chỗ của mình với trái tim tràn đầy niềm vui được trở về nhà.
WE were amazed at the difference in Chungking. This was no longer the Chungking that we knew. New buildings— new fronts to old buildings—shops of all types springing up everywhere. Chungking! The place was absolutely crowded! People had been pouring in from Shanghai, from all the coastal towns. Businessmen, with their living gone on the coast, had come far inland to Chungking, to start all over again, perhaps with a few pitiful remnants saved from the grasping Japanese. But more often starting again from nothing.
Universities had found buildings in Chungking, or had built their own temporary buildings, ramshackle sheds most of them. But here was the seat of culture of China. No matter what the buildings were like, the brains were there, some of the best brains in the whole world.
We made our way to the temple at which we had stayed previously; it was like coming home. Here, in the calm of the temple, with the incense waving in clouds above our heads, we felt that we had come to peace, we felt that the Sacred Images were gazing benignly upon us in favour of our efforts, and perhaps even a little sympathetic at the harsh treatment which we had undergone. Yes, we were home at peace, recovering from our hurts, before going out into the fierce savage world to endure fresh and worse torments. The temple bells chimed, the trumpets were sounded. It was time again for the familiar, well beloved service. We took our places with hearts full of joy at being back.
Đêm đó chúng tôi đi ngủ muộn bởi vì có quá nhiều chuyện muốn nói, muốn nghe, bởi vì Trùng Khánh đang trong thời kỳ khó khăn với những trận bom dội xuống liên miên. Nhưng chúng tôi vừa trở về từ “thế giới bên ngoài”, như cách gọi của những người trong chùa, chúng tôi phải nói nhiều đến khô cả cổ trước khi được phép cuộn tròn trong chăn ở chỗ ngủ trên nền đất quen thuộc xưa kia, ngay gần các ban thpwf. Cuối cùng thì giấc ngủ cũng bao trùm chúng tôi.
Vào buổi sáng, tôi đến bệnh viện mà trước đây tôi đã từng là sinh viên, bác sĩ phẫu thuật, và sau này là nhân viên y tế. Lần này tôi sẽ là một bệnh nhân. Đây thực sự là một trải nghiệm mới khi được làm một bệnh nhân ở bệnh viện này. Mũi của tôi, tuy vậy, đang gặp rắc rối vì bị nhiễm trùng, và vì thế không có cách nào khác là phải mổ nó ra và cạo. Đó là một quá trình rất đau đớn. Chúng tôi không có thuốc gây mê, con đường Miến Điện đã bị đóng, toàn bộ nguồn cung cấp của chúng tôi đã bị ngừng lại, Chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài cố gắng chịu đựng một cách vui vẻ nhất có thể những điều không thể tránh khỏi. Ngay sau khi mổ xong, tôi trở về chùa, bởi vì giường bệnh trong bệnh viện Trùng Khánh rất khan hiếm. Người bị thương đang đổ về, và chỉ những trường hợp khẩn cấp, chỉ những ai không thể đi lại mới được phép lưu lại trong viện.
Ngày qua ngày, tôi đi xuống con đường mòn, đi dọc theo con đường lớn tới Trùng Khánh. Cuối cùng, sau hai hay ba tuần, trưởng khoa phẫu thuật gọi tôi đến văn phòng của ông, và nói:
– Chà, Lobsang, bạn của tôi, may sao chúng tôi không phải tìm tới ba mươi hai người bê quan tài cho anh. Chúng tôi đã tưởng mình phải làm vậy, anh biết đấy, tình trạng của anh như ngàn cân treo sợi tóc!
That night we were late in retiring because there was so much to discuss so much to tell, so much to hear as well, because Chungking had been having a hard time with the bombs dropping. But we were from “the great outside,” as they called it in the temple, and our throats were parched before we were allowed to roll again in our blankets and sleep in the old familiar place upon the ground near the temple precincts. At last sleep overtook us.
In the morning I had to go to the hospital at which I had previously been student, house surgeon, and then medical officer. This time I was going as a patient. It was a novel experience indeed to be a patient at this hospital. My nose, though, was giving trouble; it had turned septic, and so there was nothing for it but to have it opened and scraped. This was quite a painful process. We had no anesthetics. The Bulman Road had been closed, all our supplies had been stopped, There was nothing for it but to endure as pleasantly as I could, that which could not be avoided. But so soon as the operation was over I returned to the temple, because beds in Chungking hospita1 were very scarce. Wounded were pouring in, and only the most urgent cases, on1y those who could not walk at all were allowed to remain in the hospital. Day after day I made the journey down the little path along the high road, to Chungking. At long last, after two or three weeks, the Dean of the Surgical Facility called me into his office, and said, “Well, Lobsang, my friend, we shall not have to engage thirty-two coolies for you after all. We thought we should, you know, it has been touch and go!”
Việc hậu sự ở Trung Quốc được rất rất coi trọng.
Một điều cực kỳ quan trọng là số người bê quan tài phải phù hợp với địa vị của người đã khuất. Theo tôi, tất cả điều này thật ngớ ngẩn; vì tôi biết rõ rằng khi linh hồn đã rời khỏi cơ thể thì điều xảy ra với thể xác chẳng còn quan trọng nữa. Người Tây Tạng chúng tôi không làm màu mè với những xác chết; tử thi được các Âm Công thu thập, rồi được chặt nhỏ ra cho chim ăn. Ở Trung Quốc thì không như vậy. Ở đây một điều như vậy sẽ bị lên án tới chết Ở đây người ta phải có ba mươi hai người khiêng quan tài, nếu đó là lễ tang hạng nhất. Lễ tang hạng hai thì chỉ có một nửa số người khiêng quan tài, tức là mười sáu người, như thể cần tới mười sáu người đàn ông để khênh một cái quan tài! Lễ tang hạng ba – đây là hạng trung bình – có tám người khiêng quan tài bằng gỗ sơn mài. Còn lễ tang hạng bốn, là tầng lớp lao động bình thường, có bốn người khiêng. Tất nhiên quan tài sẽ nhẹ và khá rẻ. Thấp hơn lễ tang hạng bốn sẽ không có người khiêng. Quan tài chỉ được đẩy trên xe cút kít. Và dĩ nhiên, không chỉ có số người khênh quan tài được xét đến; còn có những người khóc thuê, những người khóc lóc và vật vã, và kiếm sống bằng cách tham dự các lễ tang.
Đám tang ư? Cái chết ư? Thật lạ lùng khi một vài sự kiện kỳ lạ lại đọng lại trong tâm trí chúngta! Một sự kiện như vậy đã in đậm trong tâm trí tôi suốt từ đó. Câu chuyện xảy ra gần Trùng Khánh. Sẽ thú vị khi nhắc đến nó ở đây, để đưa ra một viễn cảnh nhỏ về chiến tranh – và cái chết.
Funerals in China are taken very, very seriously indeed.
It was considered of the utmost importance to have the correct number of bearers according to one’s social status. To me it all seemed silly; as I well knew when the spirit had left the body it did not matter at all what happened to the body. We of Tibet made no fuss about our discarded bodies; we just had them collected by the Body Breakers who broke them up and fed the bits to the birds. Not so in China. Here that would be almost akin to condemning one to eternal torment. Here one had to have a coffin borne by thirty-two coolies if it was a first class funeral. The second class funeral, though, had just half that number of bearers, sixteen of them, as if it took sixteen men to carry one coffin! The third class funeral—this was about the average —had eight coolies bearing the lacquered wooden coffin. But the fourth class, which was just the ordinary working class, had four coolies. Of course the coffin here would be quite a light affair, quite cheap. Lower than fourth class had no coolies at all to carry. The coffins were just trundled along in any sort of conveyance. And of course there were not only coolies to be considered; there were the official mourners, those who wept and wailed, and made it their lifes work to attend on the departure of the dead.
Funerals? Death? It is strange how odd incidents stay in one’s mind! One in particular has stayed in mine ever since. It occurred near Chungking. It may be of interest to relate it here, to give a little picture of war—and death.
Hôm đó là ngày Trung thu “Ngày rằm tháng Tám” khi mặt trăng mùa thu tròn vành vạnh. Ở Trung Quốc, đây là một dịp tốt lành. Đó là thời gian mà các gia đình quây quần với nhau trong bữa tiệc lúc cuối ngày. “Bánh Trung thu” sẽ được bày ra ăn để chào mừng mặt trăng mùa gặt; những chiếc bánh được ăn như lễ vật để bày tỏ niềm hy vọng năm tới sẽ là một năm hạnh phúc hơn.
Huang bạn tôi, một nhà sư Trung Quốc, cũng đang ở trong chùa. Cậu cũng đã bị thương, và trong cái ngày đặc biệt này, chúng tôi đang đi bộ từ làng Chiaoting đến Trùng Khánh. Khu làng nằm trên bờ dốc cao của sông Dương Tử, đây là khu nhà giàu, khu của những người có đủ điều kiện để có cuộc sống tốt nhất. Bên dưới chúng tôi, xuyên qua khe hở giữa các lùm cây, chúng tôi có thể vừa đi vừa nhìn thấy dòng sông và những con thuyền trên đó. Gần hơn, trên những mảnh ruộng bậc thang, những người đàn ông và đàn bà mặc quần áo xanh đang làm việc, còng lưng với công việc làm cỏ và xới đất muôn đời của họ.
Buổi sáng thật đẹp, nắng ấm, mọi thứ đều mang vẻ tươi tắn và hân hoan. Những suy nghĩ về chiến tranh đã biến mất trong tâm trí của chúng tôi khi chúng tôi tản bộ, thỉnh thoảng dừng lại ngắm nhìn qua những lùm cây và chiêm ngưỡng cảnh vật. Gần chỗ chúng tôi, trong một bụi cây ngay đó, một chú chim đang hót, chào đón một ngày mới. Chúng tôi đi bộ trên sườn đồi. Bỗng Huang nói:
– Dừng lại một chút, Lobsang, tớ mệt rồi.
Vì thế chúng tôi ngồi xuống một tảng đã dưới bóng cây. Ngồi đó thật dễ chịu, ngắm nhìn cảnh đẹp bên kia sông, với lớp rêu bao phủ con đường mòn xuôi xuống sườn đồi, cùng những bông hoa mùa thu bé nhỏ lấp ló trên mặt đất như những đốm rực rỡ đầy màu sắc. Cây cối cũng đã bắt đầu thay màu. Phía trên chúng tôi, những đám mây nhỏ trôi lững lờ trên bầu trời.
It was the day of the mid-autumn festival of “The Fifteenth Day of the Eighth Month” when the autumn moon was at the full. In China this is an auspicious occasion. It is the time when families try their utmost to come together for a banquet at the ending of the day. “Moon-cakes” are eaten to celebrate the harvest moon; they are eaten as a sort of sacrifice as a sort of token that they hope the next year will be a happier one.
My friend Huang the Chinese monk was also staying at the temple. He too had been wounded and on this particular day we were walking from Chiaoting Village to Chungking. The village is a suburb perched high an the steep sides of the Yangtse, Here lived the wealthier people, those who could afford the best. Below us through occasional gaps in the trees as we walked we could see the river and the boats upon it. Nearer in the terraced gardens blue- clad men and women worked, bent over at their eternal weeding and hoeing. The morning was beautiful. It was warm and sunny, the type of day when everything seems bright and cheerful. Thoughts of war were far removed from our minds as we strolled along, stopping every so often to look through the trees and admire the view. Close to us in a nearby thicket a bird was singing, welcoming the day. We walked on and breasted the hill. “Stop a minute Lobsang. I’m winded,” said Huang. So we sat on a boulder in the shadow of the trees. It was pleasant there with the beautiful view across the water, with the moss covered track sweeping away down the hill, and the little autumn flowers peeping from the ground in profuse flecks of colour. The trees, too, were beginning to turn and change shade. Above us little flecks of cloud drifted idly across the sky.
Từ đằng xa đang tiến về phía chúng tôi là một đám rất đông người. Những âm thanh vẳng đến chỗ chúng tôi theo làn gió nhẹ.
– Chúng mình phải nấp thôi, Lobsang. Đó là đám ma ông Shang, một nhà buôn vải. Đám tang hạng nhất đó. Lẽ ra tớ phải tham gia, nhưng tớ đã lấy cớ bị ốm, và tớ sẽ mất mặt nếu bị họ nhìn thấy bây giờ.
Huang đứng lên, và tôi cũng vậy. Chúng tôi cùng nhau lùi ra xa một đoạn vào chỗ những lùm cây, nơi chúng tôi có thể quan sát mà không bị ai nhìn thấy. Có một mỏm đá, và chúng tôi nằm xuống phía sau nó, Huang nằm phía sau tôi một chút để nếu như tôi có bị nhìn thấy thì anh ta vẫn an toàn. Chúng tôi nằm thoải mái, cuốn áo choàng xung quanh mình, những chiếc áo choàng hòa lẫn với màu nâu đỏ của mùa thu.
Đám ma chậm chạp tiến đến gần, các nhà sư Trung Quốc mặc áo choàng bằng lụa màu vàng, với khăn màu đỏ gạch cuốn quanh vai. Mặt trời mùa thu nhẹ nhàng chiếu sáng trên mái đầu mới cạo của họ, để lộ những vết sẹo của lễ điểm đạo; mặt trời chói rọi trên những chiếc chuông bạc mà họ đang cầm trong tay, phản chiếu những ánh lấp lóe khi chúng đung đưa. Các nhà sư đang ngâm nga những bài kinh ngắn dành cho tang lễ khi bước đi phía trước chiếc quan tài lớn bóng nhoáng đang được ba mươi hai người khênh. Người đánh cồng chiêng, người đốt pháo để xua đuổi bất cứ loài ma quỷ nào đang rình rập, bởi vì, theo niềm tin của người Trung Quốc, các loài ma quỷ đang rình rập bắt lấy linh hồn của người quá cố, và cần phải làm cho chúng sợ bằng pháo và tiếng ồn.
Tang quyến, với vải trắng quấn quanh đầu, đi phía sau. Một người phụ nữ, đang mang thai, có vẻ là một họ hàng gần, đang khóc lóc thảm thiết và phải được đỡ bởi những người khác. Những người khóc mướn thì kêu khóc om sòm trong khi ca tụng phẩm hạnh của người đã khuất cho tất cả những người khác nghe. Tiếp đến những người hầu mang vàng mã, và các mô hình bằng giấy làm theo các đồ vật mà người quá cố sử dụng trong cuộc sống này, và sẽ cần đến sau khi chết. Từ nơi chúng tôi đang quan sát, được che khuất bởi mỏm đá, và những bụi cây um tùm, chúng tôi có thể ngửi thấy mùi hương và mùi thơm của những bông hoa tươi bị giẫm nát dưới chân của những người trong đoàn tang lễ. Đó thực sự là một đám ma kếch xù. Ông Shang buôn vải, chắc hẳn là một người trong giới thượng lưu, vì sự giàu có ở đây quả thật là khó tưởng.
In the distance approaching us we saw a crowd of people. snatches of sound were borne to us on the light wind. “We must conceal ourselves, Lobsang. It is the funeral of old Shang, the Silk Trader. A first class funeral. I should have attended, but I said I was too ill, and I shall lose face if they see me now.” Huang had risen to his feet, and I rose as well from the boulder. Together we retreated a little way into the wood, where we could see, but not be seen. There was a rocky ridge, and we lay down behind it, Huang a little way behind me so that even if I were seen he would not be. We made ourselves at ease, draping our robes around us, robes which blended well with the russet of autumn.
Slowly the funeral procession approached, the Chinese monks were gowned in yellow silk, with their rust red capes around their shoulders. The pale autumn sun shone on their freshly shaven heads, showing up the scars of the initiation ceremony; the sun gleamed on the silver bells they carried in their hands, making flashings and glintings as they were swung. The monks were singing the minor chant of the funeral service as they walked ahead of the huge Chinese lacquered coffin which was carried by thirty-two coolies. Attendants beat gongs, and let off fireworks to scare any lurking devils, for, according to Chinese belief, demons were now ready to seize the soul of the deceased, and they had to be frightened off by fireworks and by noise. Morn- ers, with the white cloth of sorrow draped around their heads, walked behind. A woman, far advanced in preg- nancy, and evidently a close relation, was weeping bitterly as she was helped along by others. Professional mourners wailed loudly as they shrieked the virtues of the departed to all who listened. Next came servants bearing paper money, and paper models of all the things which the de- ceased had in this life, and would need in the next. From where we watched, concealed by the ridge of rock, and the overgrowing bushes, we could smell the incense and the scent of the freshly crushed flowers as they were trodden underfoot by the procession. It was a very big funeral indeed. Shang, the Silk Trader, must have been one of the leading citizens, for the wealth here was fabulous.
Đám đông chậm chạp đi qua chúng tôi cùng với tiếng than khóc ầm ĩ, và tiếng loảng xoảng của chum chọe, tiếng nhạc cụ í éo và tiếng chuông rung. Đột nhiên những cái bóng xuất hiện che khuất mặt trời, ngay phía trên đầu của đám tang huyên náo, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu của động cơ máy bay công suất cao, ngày càng lớn hơn và đáng ngại hơn. Ba chiếc máy bay Nhật hung hãn bay vào tầm nhìn phía trên những lùm cây, giữa chúng tôi và mặt trời. Chúng lượn vòng tròn. Một chiếc tách ra, bay xuống thấp hơn, và lướt ngay bên trên đám tang. Nhưng chúng tôi không lo lắng. Chúng tôi nghĩ rằng ngay cả người Nhật cũng sẽ tôn trọng sự trang nghiêm của cái chết. Và chúng tôi nhẹ cả tim khi chiếc máy bay lao nhanh trở lại cùng với hai chiếc kia, và chúng cùng nhau bay đi. Tuy nhiên, niềm vui của chúng tôi chỉ được chốc lát; máy bay lượn vòng và trở lại chỗ chúng tôi lần nữa; những đốm nhỏ màu đen rơi xuống từ bên dưới cánh của chúng, lớn dần và lớn dần, thế rồi những trái bom rít lên khi chạm đất, rơi thẳng vào đám tang.
Phía trước chúng tôi, cây cối quay cuồng rung chuyển, mặt đất hỗn loạn, kim loại vỡ nát tạo ra những tiếng rít rợn người. Chúng tôi đã ở gần đến nỗi không nghe thấy tiếng nổ. Khói bụi, và cây cối vụn nát văng trong không trung. Những mảng màu đỏ văng tung tóe bên cạnh, rơi xuống đất thật khủng khiếp. Trong một lúc, tất cả bị che khuất bởi một màn khói màu đen vàng. Rồi làn khói bị gió cuốn đi để lại chúng tôi đối mặt với cuộc tàn sát khủng khiếp.
Trên mặt đất, chiếc quan tài mở toang hoác, trống trơn. Xác chết khốn khổ bị văng tung tóe, giống như con búp bê bị vỡ, rụng rời, nhếch nhác, và bị vứt bỏ. Chúng tôi nhấc mình khỏi chỗ nằm, bàng hoàng và choáng váng trước sự tàn phá, trước sự ác liệt của vụ nổ, và trước sự thoát chết trong tấc gang của chính mình. Tôi đứng lên và nhặt từ thân cây phía sau một mảnh kim loại dài đã suýt nữa thì trúng tôi khi nó sượt ngang qua đầu. Đầu mảnh kim loại sắc và rỉ máu, và nó cực kỳ nóng, nóng đến nỗi làm tôi đánh rơi nó và kêu lên vì đau khi rầu rĩ nhìn đầu ngón tay cháy xém của mình.
The party came slowly by us with loud wailings, and the clattering of cymbals, and the blaring of instruments and the ringing of bells. Suddenly shadows came across the sun, and above the clamor of the funeral party we heard the drone of high-powered aero engines, a drone growing louder, and louder, and more and more ominous. Three sinister-looking Japanese planes came into view above the trees, between us and the sun. They circled around. One detached itself, and came lower, and swept right above the funeral procession. We were not perturbed. We thought that even the Japanese would respect the sanctity of death. Our hearts rose as the plane swept back to rejoin the other two, and together they made off. Our rejoicing was short-lived however; the planes circled, and came at us again; little black dots fell from beneath their wings, and grew larger, and larger, as the shrieking bombs fell to earth, fell directly on the funeral procession.
Before us the trees swayed and rocked, the whole earth appeared to be in turmoil, riven metal went screaming by.
So close were we that we heard no explosion. Smoke and dust, and shattered cyprus trees were in the air. Red lumps went swishing by, to land with sickening splats on anything in the way. For a moment all was hidden by a black and yellow pall of smoke. Then it was swept away by the wind and we were left to face the ghastly carnage.
On the ground the coffin gaped wide, and empty. The poor dead body which it had contained was flung asprawl, like a broken doll, shredded, unkempt, discarded. We picked ourselves from the ground, shaken, and half stunned by the havoc, by the violence of the explosion, and by our very close escape. I stood and picked from the tree behind me a long sliver of metal which had barely missed me as it whirred by my head. The sharp end was dripping with blood, and it was hot, so hot that I dropped it with an exclamation of pain as I looked ruefully at my scorched finger tips.
Trên những cành cây bị xé nát là những mảnh vải lay động trong gió nhẹ, dính đầy những máu thịt. Một cánh tay, còn dính với một bên vai, đu đưa trên một cành cây cách tôi khoảng mười lăm mét. Nó bập bênh, trượt xuống và lại vướng vào cành cây dưới thấp hơn, và sau đó rơi xuống đất. Từ nơi nào đó, một cái đầu méo mó đầy máu, nhe răng vẻ sợ hãi và kinh ngạc, rơi qua những cành cây, lăn về phía tôi, để cuối cùng dừng lại ngay bên chân tôi như thể nó đang nhìn tôi trong sự kinh ngạc về nhân tính của kẻ xâm lược người Nhật Bản.
Đây dường như là một thời khắc mà ngay cả thời gian cũng chết đứng lại trong nỗi kinh hoàng. Không khí nồng nặc mùi thuốc nổ, cùng mùi máu, và ruột bị xé nát. Chỉ có âm thanh loạt xoạt và tiếng rơi tõm xuống, cứ như những vật không thể tưởng tượng nổi rơi từ trên trời cao hoặc từ trên cây cối. Chúng tôi vội vã đến bên đống đổ nát khi hy vọng có thể giúp đỡ được ai đó, chắc chắn phải còn ai đó sống sót sau thảm kịch. Đây là một cơ thể, đã bị cắt thành nhiều mảnh và văng đi hết ruột, vì bị cắt nát, và cháy xém đến mức không thể biết đó là một người đàn ông hay phụ nữ; bị cắt nát đến mức chúng tôi thậm chí khó có thể nói rằng đó là một con người. Cạnh đó, ngang qua bên kia, là một cậu bé, chân cậu đã bị thổi bay đến tận đùi. Cậu vừa rên rỉ vừa khóc thút thít vì sợ hãi. Khi tôi quỳ xuống bên cạnh, cậu bé nôn ra một bụm máu tươi, rồi ho và tắt thở. Buồn bã, chúng tôi nhìn quanh, mở rộng phạm vi tìm kiếm. Bên dưới một cái cây bị đổ, chúng tôi tìm thấy người phụ nữ mang thai. Cái cây bị thổi ngang qua người cô. Nó đã làm rách tung bụng cô. Từ tử cung, thai nhi nhô ra ngoài, và đã chết. Xa hơn là một bàn tay mà nó vẫn còn đang nắm chặt chiếc chuông bạc. Chúng tôi tìm kiếm mãi, và không thấy ai còn sống sót.
On the rended trees pieces of cloth stirred in the breeze, with with bloody flesh adhering. An arm, complete with shoulder, still swayed across a forked branch some fifty feet away. It teetered, slipped, caught again for a moment on a lower branch, and then finally, sickeningly fell to the earth. From somewhere a red, distorted head, grinning frightened surprise, fell through the stripped branches of the trees, and rolled towards me, to finally stop at my feet as if it were gazing at me in awed wonder at the in-humanity of the Japanese aggressor.
It seemed a moment when even time itself stood still in horror. The air reeked with the odors of high explosive, with blood, and with riven guts. The only sounds were swish and plop, as unmentionable things fell from the sky or from the trees. We hurried to the wreckage, hoping that someone could be helped, sure that there must be some survivor of the tragedy. Here was a body, shredded and disemboweled, so mutilated, so scorched that we could not say if it was male or female; so mutilated that we could hardly say even that it was human. By it, across it, was a small boy, with his legs blown off at the thigh. He was whimpering with terror. As I knelt beside him he erupted a gout of bright blood, and coughed his life away. Sadly we looked about, and widened our area of search. Beneath a fallen tree we found the pregnant woman. The tree had been blown across her. It had burst her stomach. From the womb her unborn baby protruded, dead. Further along was a severed hand which still tightly grasped a silver bell. We searched and searched, and found no life.
Từ trên trời vang đến tiếng động cơ máy bay. Những kẻ tấn công đã trở lại để xem công việc khủng khiếp của chúng. Chúng tôi nằm lại trên mặt đất dính đầy máu khi chiếc máy bay Nhật bay vòng ngày càng thấp hơn, để kiểm tra những thiệt hại mà nó đã gây ra, để chắc chắn rằng không ai còn sống sót để có thể kể lại câu chuyện này. Nó bay vòng uể oải, nghiêng cánh giống như con chim ưng đang sà xuống để giết mồi, sau đó nó bay vòng trở lại, bay thẳng xuống ngày càng thấp hơn. Tiếng nổ lốp bốp khắc nghiệt của súng máy và quất đạn dọc theo rặng cây. Một cái gì đó kéo mạnh vạt áo choàng của tôi và tôi nghe một tiếng kêu thét. Tôi cảm thấy như thể chân tôi bị cháy xém. “Tội nghiệp Huang,” tôi nghĩ, “cậu ấy bị trúng đạn và đang cần mình.” Phía trên chúng tôi, những chiếc máy bay đang lượn vòng tròn vu vơ như thể tên phi công bay nghiêng cho đến lúc có thể nhìn được mặt đất bên dưới.
Hắn chúc mũi máy bay xuống và lại bắn lung tung, rồi bay vòng tròn lần nữa. Rõ ràng là hắn hài lòng vì hắn lắc lư đôi cánh và bay đi. Sau một lúc tôi đứng lên để giúp Huang, nhưng anh đã ở cách tôi một đoạn xa, thực sự an toàn, vẫn còn ẩn nửa người dưới đất. Tôi kéo áo choàng của mình và thấy chân trái tôi có một vết cháy do viên đạn cày dọc một đoạn. Cách tôi vài phân, cái hộp sọ đang cười giờ đã có thêm một lỗ đạn mới xuyên qua, thẳng qua thái dương bên này, và đi ra thái dương bên kia; làm thành một lỗ lớn và thổi não ra ngoài qua đó.
Một lần nữa chúng tôi tìm kiếm trong các bụi cây và giữa những cái cây, nhưng không có dấu hiệu của sự sống. Năm mươi đến một trăm người, có lẽ còn hơn thế nữa, đã ở nơi đây mới chỉ vài phút trước để tỏ lòng kính trọng đối với người chết. Lúc này họ cũng đã chết. Lúc này họ chỉ đơn thuần là những tàn tích màu đỏ và những đống không hình thù. Chúng tôi hoàn toàn bất lực. Không còn gì cho chúng tôi làm, không còn gì để cứu. Chỉ thời gian mới có thể làm lành những vết thương này.
From the sky came the sound of aircraft engines. The attackers were returning to view their ghastly work. We lay back on the blood-stained ground as the Japanese plane circled lower, and lower, to inspect the damage, to make sure that none lived to tell the tale. It turned lazily, banking like a hawk swooping for the kill, then came back, back in straight flight, lower and lower. The harsh crackle of machine-gun fire and the whiplash of bullets along the trees. Something tugged at the skirt of my robe and I heard a scream. I felt as if my leg had been scorched. “Poor Huang,” I thought, “he’s hit and he wants me.” Above us the plane turned circling idly as if the pilot leaned as far as he could to view the ground below. He put his nose down and desultorily fired again and again, and circled once more. Apparently he was satisfied for he waggled his wings and went away. After a while I rose to give aid to Huang but he was many feet away, quite unhurt, still half consealed in the ground. I pulled my robe and found my left leg had a scorch mark where the bullet had ploughed its way along the flesh. Inches from me the grinning skull now had a fresh bullet hole through it, straight through one temple and out through the other side; the exit hole was huge and had blown the brains out with it.
Once again we searched in the undergrowth and among the trees, but there was no sign of life. Fifty to a hundred people, perhaps more, had been here only minutes ago to pay homage to the dead. Now they too were dead. Now they were merely red ruin and shapeless mounds. We turned helplessly. There was nothing at all for us to do, nothing to save. Time alone would cover these scars.
Đây là “Ngày Rằm Trung thu” khi mà các gia đình đến bên nhau vào cuối ngày, khi họ đến cùng nhau với trái tim đầm ấm vui vẻ của cuộc hội ngộ. Ít nhất ở đây, vì hành động của quân Nhật, các gia đình “đến cùng nhau” vào lúc kết thúc ngày của họ. Chúng tôi quay lại đi tiếp, khi chúng tôi rời khỏi nơi xảy ra thảm họa, một con chim hót lên khúc nhạc bị gián đoạn của mình như thể không có điều gì xảy ra.
Cuộc sống ở Trùng Khánh lúc đó thực sự khó khăn. Nhiều kẻ hám tiền đổ về đây, những kẻ đang cố gắng khai thác nỗi đau khổ của người nghèo, những kẻ đã cố gắng lợi dụng chiến tranh. Giá cả tăng vọt, điều kiện sống gặp nhiều khó khăn. Chúng tôi thực sự vui mừng khi lệnh gửi đến để chúng tôi tiếp tục nhiệm vụ của mình. Thương vong gần miền duyên hải thực sự nhiều. Nhân viên y tế vô cùng cần thiết. Vì vậy, một lần nữa, chúng tôi rời Trùng Khánh, đi xuống miền duyên hải nơi viên Tướng Yo đang đợi để đưa lệnh điều động cho chúng tôi. Những ngày sau đó, tôi được phân bổ làm nhân viên y tế phụ trách bệnh viện, một thuật ngữ thật nực cười. Bệnh viện là ruộng lúa trên đó những bệnh nhân không may mắn nằm trên mặt đất úng nước, vì không có nơi nào khác để nằm, không có giường, không có gì hết. Thiết bị của chúng tôi ư? Băng bằng giấy. Những dụng cụ phẫu thuật lỗi thời, và bất cứ vật gì khác chúng tôi có thể tạo ra, nhưng ít nhất thì chúng tôi cũng có kiến thức và ý chí để mang sự giúp đỡ đến cho những người bị thương nặng, và những người đó thì chúng tôi có thừa. Quân Nhật đang giành chiến thắng ở khắp mọi nơi. Thương vong vô cùng khủng khiếp.
This then was the “Fifteenth Day of the Eighth Month” when families came together at the ending of the day, when they came together with joy in their hearts at the reunion. Here at least, by the action of the Japanese, the families had “come together” at the ending of their day. We turned to continue our way, as we left the wrecked area a bird took up its interrupted song as if nothing at all had happened.
Life in Chungking at that time was crude indeed. Many money-grabbers had come in, people who tried to exploit the misery of the poor, who tried to capitalize on war. Prices were soaring, conditions were difficult. We were glad indeed when orders came through for us to resume our duties. Casualties near the coast had been very high indeed. Medical personnel were desperately needed. So once again, we left Chungking, and made our way down to the coast where General Yo was waiting to give us our orders. Days later I was installed as medical officer in charge of the hospital, a laughable term indeed. The hospital was a col- lection of paddy fields in which the unfortunate patients lay on the water-logged ground, for there was nowhere else to lie, no bed, nothing. Our equipment? Paper bandages.
Obsolete surgical apparatus, and anything else we could make, but at least we had the knowledge and the will to bring help to those so badly wounded, and of those we had a surfeit. The Japanese were winning everywhere. The casualties were ghastly.
Một hôm, không khí tấn công dường như trở nên mãnh liệt hơn bình thường. Bom dội khắp mọi nơi. Toàn bộ cánh đồng bao quanh đầy những hố bom. Quân đội đang rút lui. Sau đó, vào buổi tối ngày hôm đó, lực lượng quân Nhật đổ đến chỗ chúng tôi, đe dọa chúng tôi bằng lưỡi lê, khi đâm người đầu tiên, sau đó là một người khác, chỉ để thể hiện rằng chúng là những người chủ. Chúng tôi không chống cự, chúng tôi không có vũ khí, không có gì để tự vệ. Quân Nhật tra hỏi tôi thô lỗ vì tôi là người phụ trách ở đây, rồi sau đó chúng đi ra trên cánh đồng để kiểm tra các bệnh nhân. Tất cả các bệnh nhân được lệnh phải đứng lên. Những người quá yếu, không thể đi lại được, bị chúng dùng lưỡi lê đâm chết. Những người còn lại bị lùa đi, ngay cả chúng tôi cũng vậy, đến một trại tù vào sâu hơn trong lãnh thổ. Chúng tôi đi hàng dặm mỗi ngày. Bệnh nhân chết bị thả bên đường, và khi họ ngã xuống, lính gác Nhật đổ xô đến kiểm tra họ tìm những vật có giá trị. Hàm răng nghiến chặt khi chết bị cậy mở ra bằng lưỡi lê, và một chút vàng được dùng để hàn răng cũng sẽ bị cậy ra một cách thô bạo.
Một hôm khi chúng tôi đang đi trên đường, tôi nhìn thấy những tên lính gác ở phía trước có vật gì đó kỳ lạ ở đầu lưỡi lê, mà bọn chúng đang vẫy nghịch tôi nghĩ đó là một kiểu chào mừng nào đó. Nó trông như thể họ có những quả bóng ở đầu súng trường. Sau đó, vừa cười vừa la hét, bọn lính gác xông đến xô những người tù xuống đường, và chúng tôi nhìn mà nôn nao trong dạ dày, khi thấy chúng cắm đầu lưỡi lê vào đầu các tù nhân. Những cái đầu với mắt mở to, mồm há ra, cằm sệ xuống. Quân Nhật đang tóm lấy những người tù, chặt đầu họ và xiên lưỡi lê vào cổ như một dấu hiệu – lại một lần nữa – rằng chúng là những ông chủ.
One day the air-raids seemed to be more intense than usual. Bombs were dropping everywhere. The whole fields were ringed with bomb craters. Troops were retreating. Then in the evening of that day a contingent of Japanese rushed upon us, menacing us with their bayonets, jabbing first one, then another, just to show that they were the masters. We had no resistance, we had no weapons at all, nothing with which to defend ourselves. The Japanese roughly questioned me as the one in charge, and then they went out in the fields to examine the patients. All the patients were ordered to stand up. Those who were too ill to walk and carry a load were bayoneted by the enemy then and there. The rest of us were marched off, just as we were, to a prison camp much further in the interior. We marched miles and miles each day. Patients were dropping dead by the roadside, and as they fell Japanese guards rushed to examine them for anything of value. Jaws clenched in death were pried open with a bayonet, and any gold fillings of teeth were crudely knocked out.
One day as we were marching along I saw that the guards in front had something strange on the end of their bayonets. They were waving them about. I thought it was some sort of celebration. It looked as if they had got bal- loons tied on the end of their rifles. Then, with laughs and shouts, guards came rushing down the line of prisoners, and we saw with a sick feeling in the stomach, that they had heads spiked to the end of their bayonets. Heads with the eyes open, the mouth open, too, the jaws dropped down. The Japanese had been taking prisoners, decapitating them and spearing the necks as a sign—again—that they were the masters.
Trong bệnh viện của chúng tôi, chúng tôi chữa bệnh cho các bệnh nhân của tất cả các quốc gia. Bây giờ, khi chúng tôi lê bước dọc theo con đường, xác chết của người từ tất cả các quốc gia nằm bên vệ đường.Lúc này, họ đã thuộc về cùng một quốc gia, quốc gia của người chết. Lính Nhật lấy tất cả mọi thứ của họ.
Trong nhiều ngày, chúng tôi đi liên tục, nhận được ngày càng ít dần đồ ăn thức uống, ngày càng trở nên mệt mỏi hơn, cho tới khi chỉ còn vài người trong chúng tôi đến được trại giam mới, loạng choạng đi vào mắt mờ màu đỏ vì đau đớn và kiệt sức, với máu rỉ qua giẻ bọc chân, và để lại vệt dài màu đỏ trên đường phía sau chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được trại, cũng là một trại giam hết sức thô thiển. Ở đây cuộc thẩm vấn lại được bắt đầu. Tôi là ai? Tôi là gì? Tại sao tôi là một lạt ma của Tây Tạng lại chiến đấu vì đất nước Trung Quốc? Câu trả lời của tôi là tôi không chiến đấu, mà chỉ cứu chữa những cơ thể bị thương, và giúp đỡ những người bị bệnh, bị ngược đãi và bị đánh đập.
– Phải, chúng nói, phải, chữa để chúng có thể chiến đấu chống lại chúng tao.
Cuối cùng, tôi được đưa vào làm công việc chăm sóc cho những người cần phải cố gắng được cứu chữa để làm nô lệ lao động của quân Nhật. Khoảng bốn tháng sau khi chúng tôi tới trại giam đó, có một cuộc thanh tra lớn. Một vài sĩ quan cao cấp sẽ đến để xem các tù nhân được đối xử như thế nào, và liệu có ai có thể lưu ý để sử dụng cho quân Nhật.
In our hospital we had been dealing with patients of all nations. Now, as we marched along, bodies of all nation- lities were by the roadside. They were all of one nationality now, the nation of the dead. The Japanese had taken everything from them. For days we marched on, getting fewer and fewer, getting tiered, and tireder, until those few of us who reached the new camp were stumbling along in a red haze of pain and fatigue, with the blood seeping through our rag-wrapped feet, and leaving a long red trail behind us. At last we reached the camp, and a very crude camp it was too. Here again the questioning started. Who was I? What was I? Why was I, a lama of Tibet, fighting on behalf of the Chinese? My reply to the effect that I was not fight- ing, but mending broken bodies, and helping those who were ill, brought abuse and blows. “Yes,” they said, “yes, mending bodies so that they can fight against us.”
At last I was put to work looking after those who were trying to save them for the slave labor of the Japanese. About four months after we reached that camp there was a big inspection. Some high officials were coming to see how the prison camps were behaving, and whether there was anyone of note who could be of use to the Japanese.
Tất cả chúng tôi đứng xếp hàng ngay từ đầu bình minh, và bị để đứng đó hàng giờ, và nhiều giờ cho đến cuối buổi chiều, và sau đó trông chúng tôi đúng là một đám đông thiểu não. Những người bị ngã vì quá mệt sẽ bị đâm bằng lưỡi lê và kéo đi quăng vào đống xác chết.
Chúng tôi đứng thẳng hàng phần nào khi chiếc xe ô tô công suất cao lái đến với một tiếng gầm, và những người đàn ông đeo mề đay nhảy ra. Tên thiếu tá Nhật đến thăm tình cờ đi xuống dọc theo hàng tù nhân, nhìn lên khắp các tù nhân. Hắn liếc nhìn tôi, sau đó lại nhìn tôi một cách cẩn thận. Hắn nhìn tôi chằm chằm, và nói điều gì đó với tôi mà tôi không hiểu. Sau đó, khi tôi không trả lời, hắn đánh vào mặt tôi bằng bao kiếm của chính thanh kiếm của hắn, viên thiếu tá nói điều gì đó với hắn. Tên lính trực chạy đến văn phòng lưu giữ hồ sơ, và sau một thơi gian rất ngắn, hắn trở lại với hồ sơ của tôi. Tên thiếu tá giật lấy nó từ tay hắn, và đọc ngấu nghiến. Sau đó, hắn chửi rủa tôi, và ra lệnh cho những tên lính gác.
Một lần nữa tôi bị chúng dùng báng súng trường đánh gục. Lại một lần nữa mũi của tôi –vừa mới được sửa chữa và làm lại – bị đập vỡ và tôi lại bị lôi đến phòng của lính gác. Ở đây, hai bàn tay và chân tôi bị trói quặt ra sau lưng, kéo lên trên và buộc ở gáy, để mỗi lần tôi cố gắng nới tay ra thì lại tự chẹt lấy cổ mình. Trong một thời gian dài, tôi bị đá và bị đánh liên hồi, và bị đốt bằng đầu thuốc lá trong khi các câu hỏi tới tấp đưa ra. Sau đó, tôi bị chúng ấn xuống bắt quỳ, và lính gác nhảy lên gót chân tôi với hy vọng rằng vì đau mà tôi sẽ buộc phải trả lời. Bị giẫm mạnh quá nên xương vòm bàn chân tôi bị gãy.
We were all lined up in the early dawn, and left standing there for hours, and hours, until the late afternoon, and a sorry crowd we looked by then. Those who fell from fatigue were bayoneted and dragged away to the death pile. We straightened our lines somewhat as high-powered cars drove up with a roar, and bemedalled men jumped out. A visiting Japanese major casually walked down the lines, looking over the prisoners. He glanced at me, then looked at me more carefully. He stared at me, and said something to me which I did not understand. Then as I did not reply he struck me across the face with the scabbard of his sword major said something to him. The orderly ran off to the records office, and after a very short time he came back with my record. The major snatched it from him, and read it avidly. Then he shouted abuse at me, and issued an order to the guards with him. Once again I was knocked down by their rifle butts. Once again my nose—so newly repair and rebuilt—was smashed and I was dragged away to the guard room. Here my hands and feet were tied behind my back, and pulled up and tied to my neck, so that every time I tried to rest my arms I nearly strangled myself. For a long time I was kicked and pummeled, and burned with cigarette ends while questions were shot at me. Then I was made to kneel, and guards jumped on my heels in the hope that that pain would compel me to answer. My arches snapped under the strain.
Những câu chúng tra hỏi tôi! Làm thế nào mà tôi đã trốn thoát được? Tôi đã nói chuyện với những ai trong khi tôi trốn đi? Tôi có biết rằng việc trốn chạy là một sự xúc phạm đến Thiên Hoàng của chúng hay không? Chúng cũng hỏi chi tiết việc chuyển quân, bởi vì chúng nghĩ rằng tôi là một lạt ma của Tây Tạng, sẽ phải biết nhiều về cách sắp đặt quân của Trung Quốc. Tất nhiên tôi không trả lời, và chúng tiếp tục đốt tôi bằng thuốc lá đang cháy, và sử dụng tất cả các ngón đòn tra tấn thông thường. Cuối cùng, chúng ấn tôi vào một loại giá thô bạo, và kéo cái ống hình trụ thật chặt để tôi cảm thấy như thể tay và chân tôi đang bị kéo ra khỏi khớp nối.
Tôi ngất đi và mỗi lần như vậy, chúng dội một xô nước lạnh vào tôi, hoặc dùng đầu lưỡi lê chọc vào người để tôi tỉnh lại. Cuối cùng, nhân viên phụ trách y tế của trại can thiệp. Hắn nói rằng nếu tiếp tục tra tấn tôi thêm dù chỉ một trận đòn nữa, chắc chắn tôi sẽ chết, và chúng không thể có được câu trả lời nào cho các câu hỏi của bọn chúng. Chúng không muốn giết tôi, bởi vì giết tôi sẽ cho phép tôi thoát khỏi sự thẩm vấn của chúng. Tôi lại bị tóm cổ lôi đi, và ném vào xà lim sâu dưới lòng đất có hình dạng như một cái chai, được xây bằng xi măng. Tôi bị giam giữ ở đây trong nhiều ngày, cũng có thể là nhiều tuần.
Tôi mất tất cả ý niệm về thời gian, không còn cảm giác về thời gian. Xà lim đen màu hắc ín. Thức ăn được ném vào hai ngày một lần, và nước được đưa xuống trong một cái hộp. Thường thì nó đã bị đổ, và tôi phải bò trong bóng tôi, và quờ quạng bàn tay để cố gắng tìm nó, hoặc cố gắng tìm bất cứ chỗ ẩm ướt nào có trên sàn. Tâm trí tôi bị vỡ vụn dưới sức ép căng thẳng, dưới bóng tối đậm đặc như vậy, nhưng sự đào tạo đã cứu tôi. Tôi lại nghĩ về quá khứ.
The questions they asked! How had I escaped? Who had I spoken to while I was away? Did I know that it was an insult to their Emperor to escape? They also demanded details of troop movements because they thought that I, as a lama from Tibet, must know a lot about Chinese dis- positions. Of course I did not answer, and they kept burning me with their lighted cigarettes, and going through all the usual routine of torture. Eventually they put me on a crude sort of rack, and pulled the drum tight so that it felt as if my arms and legs were being dragged from their sockets. I fainted and each time I was revived by having a bucket of cold water thrown over me, and by being pricked with bayonet points. At last the medical officer in charge of the camp intervened. He said that if I had any more suffering I would assuredly die, and they would then not be able to get answers to their questions. They did not want to kill me, because to kill me would be to allow me to escape from their questions. I was dragged out by the neck, and thrown into a deep underground cell shaped like a bottle, made of cement. Here I was kept for days, it might have been weeks. I lost all count of time, there was no sensation of time. The cell was pitch dark. Food was thrown in every two days, and water was lowered in a tin. Often it was spilled, and I had to grovel in the dark, and scrabble with my hands to try and find it, or to try and find anything moist from the ground. My mind would have cracked under the strain, under that darkness so profound, but my training saved me. I thought again of the past.
Bóng tối ư? Tôi nghĩ đến những ẩn sĩ ở Tây Tạng, trong am thất đóng chặt của họ được xây dựng trên những đỉnh núi cao ngất, ở những nơi không thể xâm nhập được giữa những đám mây. Những ẩn sĩ sống đơn độc trong am thất của họ, và ở lại đó trong nhiều năm, giải phóng tâm trí khỏi cơ thể, giải phóng linh hồn khỏi tâm trí, để họ có thể nhận thức được sự tự do tinh thần cao quý hơn. Tôi không nghĩ về hiện tại, mà nghĩ về quá khứ, và trong cơn mơ màng, chắc hẳn tôi đã trở lại với trải nghiệm tuyệt vời nhất, chuyến thăm của tôi đến Cao nguyên Chang Tang.
Chúng tôi, gồm có Thầy của tôi, Đại Đức Minh Gia, và một vài bạn đồng môn và tôi, bắt đầu lên đường từ dưới mái vàng Cung điện Potala ở Lhasa để tìm kiếm các loại thảo dược quý hiếm. Trong nhiều tuần, chúng tôi đi lên, đến vùng băng giá phía Bắc, tới Cao nguyên Chang Tang, hay, như một số người còn gọi nó là Shamballah. Ngày hôm đó, chúng tôi đang tới gần mục tiêu của mình. Đó là một ngày rét buốt, rét buốt nhất trong nhiều ngày băng giá. Băng giá thổi vào chúng tôi cơn gió mạnh đang rít lên không ngừng. Các viên đá đập vào áo choàng của chúng tôi, và làm đông lại lớp da từ bất cứ bề mặt nào bị hở ra. Ở đây, gần hai mươi lăm ngàn feet trên mực nước biển, bầu trời màu tía sống động, một vài đám mây bay ngang qua đang trở thành màu trắng. Trông như những con ngựa trắng của các vị Thần, đang được các Ngài cưỡi trên khắp Tây Tạng.
Darkness? I thought of the hermits in Tibet, in their secure hermitages perched in lofty mountain peaks in in- accessible places among the clouds. Hermits who were im- mured in their cells, and stayed there for years, freeing the mind of the body, freeing the soul from the mind, so that they could realize greater spiritual freedom. I thought not of the present, but of the past, and during my reverie inevitably came back to that most wonderful experience, my visit to the Chang Tang Highlands.
We, my Guide, the Lama Mingyar Dondup, and a few companions and I, had set out from the golden roofed Potala in Lhasa in search of rare herbs. For weeks we had journeyed upwards ever upwards into the frozen North into Chang Tang Highlands, or, as some call it, Sham- ballah. This day we were nearing our objective. That day was indeed bitter, the bitterest of many frozen days. Ice blew at us driven by a shrieking gale. The frozen pellets struck our flapping robes, and abraded the skin from any surface which was left exposed. Here, nearly twenty-five thousand feet above the sea, the sky was a vivid purple, few patches of cloud racing across were startling white in comparison. It looked like the white horses of the Gods, taking their riders across Tibet.
Chúng tôi tiếp tục trèo, lên cao mãi không ngừng trên địa hình hiểm trở ngày càng trở nên khó khăn hơn sau mỗi bước đi. Những lá phổi rít lên xào xạc trong cổ họng của chúng tôi. Chúng tôi móc chân tạm thời vào đất cứng, cố hết sức giữ chặt những ngón tay vào các vết nứt nhỏ trong đá lạnh cứng. Cuối cùng, chúng tôi lại đến được vành đai sương mù bí ẩn (xem quyển Con Mắt Thứ Ba) và đi xuyên qua nó vào vùng đất đang trở nên ngày càng ấm áp hơn dưới chân chúng tôi, và không khí xung quanh cũng trở nên dịu mát hơn và dễ chịu hơn. Dần dần chúng tôi vượt qua được màn sương mù, tiến vào thiên đường tươi tốt của nơi ẩn dấu thú vị đó. Phía trước chúng tôi lại là vùng đất của một thời đại đã qua.
Đêm đó chúng tôi nghỉ ngơi trong sự ấm áp và dễ chịu của vùng đất ẩn kín đó. Thật tuyệt vời được ngủ trên chiếc giường mềm mại bằng rêu, và hít thở hương thơm ngọt ngào của những bông hoa. Nơi đây, trên mảnh đất này, có những trái cây mà chúng tôi chưa bao giờ được nếm thử trước đó, những trái cây mà chúng tôi đã lấy mẫu và cố gắng lấy lại lần nữa. Cũng rất thú vị khi có thể tắm trong nước ấm, và thơ thẩn thoải mái trên bờ suối bằng vàng.
Ngày hôm sau chúng tôi sẽ đi tiếp về phía trước, đi lên cao hơn nữa, nhưng lúc này chúng tôi không gặp khó khăn gì cả. Chúng tôi đi bộ xuyên qua những bụi cây đỗ quyên, đi ngang qua những cây óc chó, và cả những cây khác mà chúng tôi không biết tên của chúng. Chúng tôi không gây áp lực cho mình quá mức ngày hôm đó. Đêm lại trùm xuống chúng tôi lần nữa, nhưng lúc này chúng tôi không lạnh. Chúng tôi đang thư giãn, thoải mái. Nhanh chóng, chúng tôi ngồi xuống bên dưới những tán cây, rồi đốt lửa, và chuẩn bị bữa ăn tối của mình. Khi đã xong, chúng tôi quấn áo choàng quanh mình, và nằm xuống tiếp tục nói chuyện. Rồi từng người một, chúng tôi chìm vào giấc ngủ.
We climbed on, and on, with the terrain becoming more difficult with every step. Our lungs rasped in our throats. We clawed a precarious foothold in the hard earth, forc- ing our fingers into the slightest crack in the frozen rock. At last we reached that mysterious fog belt again (see Third Eye) and made our way through it with the ground beneath our feet becoming warmer, and warmer, and the air around us becoming more and more balmy and com- forting. Gradually we emerged from the fog into the lush paradise of that lovely sanctuary. Before us again was that land of a bygone age.
That night we rested in the warmth and comfort of the Hidden Land. It was wonderful to sleep on a soft bed of moss, and to breathe the sweet scent of flowers. Here in this land there were fruits which we had not tasted before, fruits which we sampled, and tried again. It was glorious too, to be able to bathe in warm water, and to loll at ease upon a golden strand.
On the following day we journeyed onward, going higher and higher, but now we were not at all troubled. We marched on through clumps of rhododendron, and passed by walnut trees, and others the names of which we did not know. We did not press ourselves unduly that day. Night fall came upon us once again, but this time we were not cold. We were at ease, comfortable. Soon we sat beneath the trees, and lit our fire, and prepared our evening meal. With that completed we wrapped our robes about us, and lay and talked. One by one we dropped off to sleep.
Vào ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục hành trình của mình, nhưng chúng tôi chỉ đi được hai hoặc ba dặm thì bất ngờ, ngoài dự kiến, chúng tôi đến một nơi không gian mở ra thoáng đãng, nơi đó không còn cây nữa, và phía trước chúng tôi – khi đó chúng tôi đã dừng lại gần như bị tê liệt vì kinh ngạc, run lên khi hiểu rằng chúng tôi đang đến với điều gì đó hoàn toàn vượt quá hiểu biết của chúng tôi. Chúng tôi chăm chú ngắm nhìn, rõ ràng phía trước chúng tôi là điều gì đó vô cùng rộng lớn.
Ngay trước mặt chúng tôi là một vùng đất bằng phẳng, trải dài hơn năm dặm .
Về phía xa bên cạnh, có một dải băng rộng lớn mở rộng về phía trước, giống như một tấm kính vươn về phía thiên đường, như thể thực sự nó là một cửa sổ dẫn vào thiên đường, một cửa sổ dẫn về quá khứ. Phía bên kia của dải băng đó chúng tôi có thể nhìn thấy, như thể xuyên qua làn nước tinh khiết nhất, một thành phố, còn nguyên vẹn, một thành phố lạ, mà chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy, thậm chí cả trong những quyển sách có những bức ảnh mà chúng tôi đã có ở Potala.
Nhô ra khỏi dòng sông băng là các tòa nhà. Hầu hết đều ở trong trạng thái bảo quản tốt, bởi vì lớp băng đã tan ra nhẹ nhàng trong không khí ấm áp của thung lũng ẩn kín, tan ra nhẹ nhàng, chậm dần đến mức không một hòn đá hay một phần nào cấu trúc bị hư hại. Một số tòa nhà trong số đó, thực sự khá nguyên vẹn, được bảo quản trong suốt nhiều thế kỷ trong không khí khô, tinh khiết tuyệt vời của Tây Tạng. Một vài trong số những tòa nhà trên thực tế, như thể mới được xây dựng, có lẽ chỉ một tuần trước đó, chúng trông rất mới.
Again on the next day we continued our march, but we had only covered two or three miles when suddenly, un- expectedly, we came to an open clearing, a spot where the trees ended, and before us—we stopped almost paralyzed with amazement, shaking with the knowledge that we had come upon something completely beyond our understanding. We looked. The clearing before us was a vast one.
There was a plain before us, more than five miles across. At its distant side there was an immense sheet of ice extending upwards, like a sheet of glass reaching toward the heavens, as if indeed it were a window on heaven, a window on the past. For at the other side of that sheet of ice we could see, as if through the purest of water, a city, intact, a strange city, the like of which we had never seen even in the books of pictures which we had at the Potala.
Projecting from the glacier were buildings. Most of them were in a good state of preservation, because the ice had been thawed out gently in the warm air of the hidden valley, thawed out so gently, so gradually that not a stone or part of a structure had been damaged. Some of them, indeed, were quite intact, preserved throughout countless centuries by the wonderful pure dry air of Tibet. Some of those buildings in fact, could have been erected perhaps a week before, they looked so new.
Thầy của tôi, Đại Đức Minh Gia, phá vỡ sự im lặng kinh ngạc của chúng tôi, khi nói:
– Những người anh em của tôi, nửa triệu năm về trước, đây là nhà của các vị Thần. Nửa triệu năm về trước, đây là một khu nghỉ mát bên bờ biển thú vị mà các nhà khoa học của những giống dân và chủng tộc khác đã sống ở đây. Họ cùng nhau đến từ một nơi khác, và tôi sẽ nói cho các bạn về lịch sử của họ trong một ngày nào đó; nhưng thông qua những thử nghiệm của họ, họ đã mang tai họa đến khắp trái đất, và họ đã bỏ trốn khỏi nơi xảy ra thảm họa, bỏ rơi những người dân thường của trái đất ở phía sau. Họ đã gây ra tai họa, bằng những thử nghiệm của họ, biển đã dâng lên và đóng băng, và nơi đây phía trước chúng ta, chúng ta nhìn thấy một thành phố được bảo quản trong lớp băng vĩnh cửu từ thời kỳ đó, một thành phố đã bị ngập khi mặt đất bị nâng cao lên và nước cũng dâng lên cùng với nó, bị ngập nước và đóng băng.
Chúng tôi im lặng lắng nghe đầy hứng thú khi Thầy tôi tiếp tục câu chuyện, khi Người nói cho chúng tôi nghe về quá khứ, về những hồ sơ cổ đại ở sâu bên dưới cung điện Potala, những hồ sơ được khắc trên những miếng vàng, cũng giống như bây giờ trong thế giới phương Tây, các hồ sơ được bảo tồn cho hậu thế trong những cái mà họ gọi là “màng bọc thời gian”.
Cùng bị thôi thúc, chúng tôi đứng lên, và sau đó đi khám phá những tòa nhà trong phạm vi xem xét của chúng tôi. Chúng tôi vào những tòa nhà gần hơn, chúng tôi càng trở nên sững sờ ngẩn ngơ hơn nữa. Nó thật lạ lùng biết bao. Trong một lúc chúng tôi không thể hiểu cảm xúc của chính mình. Chúng ta hình dung rằng chúng tôi bỗng nhiên trở thành những chú lùn. Sau đó, lời giải mới ập đến với chúng tôi. Các tòa nhà rất rộng lớn, như thể chúng được xây dựng cho một giống dân cao gấp đôi chúng ta. Vâng, đúng là như vậy. Những con người đó, những siêu nhân đó, cao gấp hai lần người bình thường trên trái đất. Chúng tôi đi vào một vài tòa nhà, và nhìn quanh.
My Guide, the Lama Mingyar Dondup, broke our awed silence, saying, “My brothers, half a million years ago this was the home of the Gods. Half a million years ago this was a pleasant seaside resort in which lived scientists of a different race and type. They came from another place together, and I will tell you of their history one day; but through their experiments they brought calamity upon the earth, and they fled the scene of their disaster leaving the ordinary people of the earth behind. They caused calamity, and through their experiments the sea rose up and froze, and here before us we see a city preserved in the eternal ice from that time, a city which was inundated as the land rose and the water rose with it, inundated and frozen.”
We listened in fascinated silence as my Guide continued with his talk, telling us of the past, telling us of the ancient records far beneath the Potala, records engraved upon sheets of gold, just as now in the Western world records are preserved for posterity in what they called “time capsules.”
Moved by a common impulse we rose to our feet, and then walked to explore the buildings within our reach. The closer we got, the more dumbfounded we became. It was so very very strange. Far a moment we could not understand the sensation that we felt. We imagined that we had suddenly become dwarfs. Then the solution hit us. The buildings were immense, as if they were built for a race twice as tall as we. Yes, that was it. Those people, those super-people, were twice as tall as ordinary people of earth. We entered some of the buildings, and looked about.
Đặc biệt có một nơi, dường như là một phòng thí nghiệm loại nào đó, và có nhiều thiết bị kỳ lạ, và nhiều chiếc trong số đó vẫn còn làm việc được.
Một dòng nước lạnh như đá kéo giật tôi trở về thực tại một cách đột ngột choáng váng, kéo giật tôi trở về với sự khốn khổ và đau đớn của thực tại bên trong nhà tù đá. Bọn Nhật đã quyết định rằng tôi đã ở trong đó đủ lâu, và tôi đã không trở nên đủ “mềm hơn”. Cách dễ nhất để đưa tôi ra ngoài, chúng nghĩ, là đổ đầy nước vào xà lim, để tôi có thể nổi lên mặt nước như một cái nút chai nổi lên bề mặt của một cái bình đầy nước. Khi tôi nổi lên đển đỉnh, tới cổ hẹp của xà lim, một bàn tay thô bạo túm lấy và lôi tôi ra ngoài. Tôi bị lôi ra để đến một xà lim khác, lần này đến một phòng giam trên mặt đất, và bị ném vào.
Ngày hôm sau tôi bị đưa ra làm việc, để chữa trị cho các bệnh nhân lần nữa. Cuối tuần đó, có một cuộc thanh tra khác của các sĩ quan cao cấp Nhật Bản. Có nhiều việc gấp gáp hơn. Việc thanh tra được thực hiện mà không có bất cứ sự cảnh báo trước nào, và bọn lính gác rất hoảng loạn. Tôi nhận thấy mình lúc đó đang ở gần với cổng chính của nhà tù. Không ai chú ý tới tôi, vì vậy tôi nắm lấy cơ hội, tiếp tục đi, không quá nhanh, vì tôi không muốn thu hút sự chú ý nhưng cũng không quá chậm, chần chừ ở đó là không có lợi! Tôi tiếp tục bước đi, như thể tôi hoàn toàn có quyền để ra ngoài. Một tên lính gác gọi tôi, và tôi quay lại phía hắn và vẫy tay, như lời chào. Vì lý do nào đó, hắn cũng vẫy tay với tôi, và quay trở lại với công việc đang làm của hắn.
Tôi tiếp tục đi. Khi tôi đã ra ngoài tầm nhìn của nhà tù, khuất sau những bụi cây, tôi chạy nhanh hết sức mà cơ thể yếu ớt của mình cho phép.
Một vài dặm nữa, tôi nhớ đến ngôi nhà thuộc sở hữu của một người phương Tây mà tôi biết. Thực tế, có thể tôi đã giúp đỡ họ gì đó trước đây. Vì thế, một cách thận trọng, tôi tới nhà họ. Họ đưa tôi vào nhà, thốt lên tiếng kêu ấm áp của sự cảm thông. Họ băng bó những vết thương của tôi, và cho tôi ăn, rồi đặt tôi vào giường, khi hứa rằng họ sẽ làm mọi điều có thể để đưa tôi qua phòng tuyến quân Nhật. Tôi rơi vào giấc ngủ, xoa dịu bằng ý nghĩ rằng một lần nữa, tôi lại được ở trong tay bạn bè.
One in particular seemed to be a laboratory of some kind, and there were many strange devices, and many of them still worked.
A gushing current of ice cold water jerked me back to reality with stunning suddenness, jerked me back to the misery and pain of my existence in the stone oubliette. The Japanese had decided that I had been in there long enough, and I had not been “softened up” enough. The easiest way to get me out, they thought, was to fill the oubliette with water, so that I would float to the surface as a cork floats to the surface of a filled bottle. As I reached the top, reached the narrow neck of the cell, rough hands grabbed me and dragged me out. I was marched off to another cell, this time to one above ground, and flung in.
The next day I was put to work, again treating the sick. Later that week there was another inspection by the high Japanese officials. There was much rushing about. The in- spection was being carried out without any previous warn- ing, and the guards were in a panic. I found myself at the time quite near the main gate of the prison. No one was taking any notice of me, so I took the opportunity to keep walking, not too fast, as I did not want to attract attention but not too slow, either, it was not healthy to linger there! I kept walking, and walking, as if I had a perfect right to be out. One guard called to me, and I turned toward him and raised my hand, as if in salute. For some reason he just waved back, and turned about his ordinary work.
I continued with my walk. When I was out of sight of the prison, hidden by the bushes, I ran as fast as my weakened frame would enable me.
A few miles further on, I recollected, was a house owned by Western people whom I knew. I had, in fact, been able to do them some service in the past. So, cautiously, by nightfall, I made my way to their home. They took me in
Tiếng la hét và những cú đánh thô bạo sớm đưa tôi trở lại với thực tế, nhanh chóng kéo giật tôi ra khỏi giấc ngủ. Lính Nhật đang đứng phía trên tôi, kéo tôi ra khỏi giường, thúc giục tôi lần nữa bằng lưỡi lê của chúng. Chủ nhà của tôi, sau tất cả những lời cam đoan đầy sự cảm thông, đã chờ đợi cho đến khi tôi ngủ say, và sau đó đã thông báo cho lính gác Nhật rằng họ có một người tù trốn trại. Lính gác Nhật đã không tốn nhiều thời gian để đến bắt tôi. Trước khi bị đưa đi, tôi đã cố gắng hỏi người phương Tây tại sao họ lại phản bội tôi như vậy. Câu trả lời rõ ràng của họ là:
– Anh không phải là người của chúng tôi. Chúng tôi phải chăm sóc những người của mình. Nếu chúng tôi giữ anh, chúng tôi sẽ gây mối thù địch với người Nhật, và gây nguy hiểm cho công việc của chúng tôi.
Trở lại trại tù, tôi bị đối xử thực sự rất tệ. Trong nhiều giờ, tôi bị treo bằng dây lên những cành cây, treo bằng cách buộc hai ngón tay cái với nhau. Sau đó, có một loại phiên tòa giả hiệu ở phía trước sĩ quan chỉ huy trại. Hắn được cho biết:
– Người đàn ông này là một kẻ trốn tù liên tục. Hắn đang gây ra cho chúng ta quá nhiều việc.
Vì vậy hắn đã tuyên án tôi. Tôi bị tháo xuống, và đặt trên mặt đất. Sau đó chúng kê bên dưới chân tôi để chân tôi được đỡ khỏi mặt đất. Mỗi tên lính gác Nhật đứng lên một chân tôi, và nhảy bật lên, để xương bị gãy. Tôi ngất đi vì đau đớn cực độ. Khi tôi phục hồi được ý thức thì thấy mình đã trở lại xà lim ẩm ướt và lạnh, với những con chuột nhung nhúc xung quanh tôi.
Sẽ chết nếu không tham gia điểm danh vào thời gian trước bình minh, và tôi biết điều đó. Một bạn tù mang đến cho tôi một số nẹp tre, và buộc thanh nẹp vào từng chiếc chân để đỡ những cái xương bị gãy. Tôi sử dụng hai thanh tre khác làm nạng, và thanh thứ ba tôi dùng làm một loại giá ba chân để giữ thăng bằng. Bằng cách đó, tôi đã cố gắng để tham gia điểm danh, và vì vậy đã tự cứu mình khỏi cái chết vì bị treo cổ, hoặc lưỡi lên đâm, hoặc bị mổ bụng, hoặc bằng bất cứ cách nào khác trong các hình thức thông thường mà lính Nhật rất quen thuộc.
Ngay khi chân tôi được điều trị và xương đã liền – mặc dù không tốt lắm, vì tôi phải tự mình đặt lại chúng – tên sĩ quan chỉ huy trại đã cho gọi tôi, và nói với tôi rằng tôi sẽ được chuyển đến một trại khác sâu trong lãnh thổ, ở đó tôi sẽ là một nhân viên y tế của trại giam này của tù nhân nữ. Vì vậy, một lần nữa, tôi tiếp tục chuyển đi. Lần này, có một đoàn hộ tống bằng các xe tải sẽ đi tới trại giam, và tôi là tù nhân duy nhất được chuyển đến đó. Vì thế tôi bị bắt lên xe và bị xích lại như một con chó gần cửa phía sau của một xe tải. Cuối cùng, vài ngày sau đó, chúng tôi đến trại giam nơi tôi bị đưa ra và dẫn đến chỗ viên sĩ quan chỉ huy.
Ở đây chúng tôi không có bất cứ loại thiết bị y tế nào, và cũng không có thuốc. Chúng tôi chế tạo ra những thứ mà chúng tôi có thể làm từ những vỏ hộp cũ bằng cách mài trên những hòn đá, làm từ tre đã được tôi cứng qua lửa, và từ những sợi chỉ được tháo ra từ quần áo đã rách nát. Một số phụ nữ không có cái quần áo nào cả, hoặc rất nát. Các ca phẫu thuật được thực hiện khi các bệnh nhân còn tỉnh táo, và các bộ phận cơ thể bị rách được khâu bằng bông luộc. Thường vào ban đêm, lính Nhật sẽ đến và ra lệnh đưa tất cả những người phụ nữ ra để kiểm tra. Bất kỳ người phụ nữ nào mà chúng thấy thích, chúng sẽ đưa đến khu vực đóng quân để cho các sĩ quan hoặc khách của chúng giải trí. Buổi sáng, những người phụ nữ bị trả lại, họ trông vẻ rất hổ thẹn, và ốm yếu, và tôi là tù nhân làm bác sĩ sẽ phải cố gắng vá víu những cơ thể bị đối xử tàn tệ của họ.
With warm exclamations of sympathy. They bandaged my many hurts, and gave me a meal, and put me to bed, promising that they would do everything they could to get me through the Japanese lines. I fell asleep, soothed by the thought that once again I was in the hands of friends.
Rough shouts and blows soon brought me back to reality, soon jerked me back from sleep. Japanese guards were standing over me, dragging me out of the bed, prodding me again with their bayonets. My hosts, after all their protesta- tions of sympathy, had waited until I was asleep, and had then notified the Japanese guards that they had an escaped prisoner. The Japanese guards had lost no time in coming to collect me. Before I was taken away I managed to ask the Western people why they had so treacherously betrayed me. Their illuminating answer was, “You are not one of us. We have to look after our own people. If we kept you we should antagonize the Japanese, and endanger our work.”
Back in that prison camp I was treated very badly indeed. for hours I was strung up from the branches of a tree, suspended by my two thumbs tied together. Then there was a sort of mock trial in front of the commandant of the camp. He was told, “This man is a persistent escaper. He is causing us too much work.” So he passed sentence on me. I was knocked down, and laid out on the ground. Then blocks were put beneath my legs so that my legs were Supported clear of the ground. Two Japanese guards stood on each leg, and bounced, so that the bone snapped. I fainted with the agony of it. When I recovered consciousness I was back in the cold, dank, cell, with the rats swarming around me.
It was death not to attend the pre-dawn roll-call, and I knew it. A fellow prisoner brought me some bamboos, and tied splints to each leg to support the broken bones. I used two other bamboos as crutches, and I had a third which I used as a sort of tripod leg in order to balance. With that I managed to attend the roll-call, and so saved myself from death by hanging, or bayoneting, or disemboweling, or any other of the usual forms in which the Japanese specialized.
As soon as my legs were healed and the bones knit together—although not very well, as I had set them myself— the commandant sent for me, and told me that I was going to be moved to a camp yet further into the interior, where I was to be medical officer of this camp for women. So, once again, I was on the move. This time there was a convoy of lorries going to the camp and I was the only prisoner being moved there. So I was just ordered aboard and kept chained like a dog near the tail board of one lorry. Eventually, several days later, we arrived at this camp where I was taken off and led to the commandant.
Here we had no medical equipment of any kind, and no drugs. We made what we could from old tins sharpened on stones, from fire-hardened bamboo, and from threads unraveled from tattered clothing. Some of the women had no clothing at all, or were very ragged. Operations were performed on conscious patients, and torn bodies were stitched with boiled cotton. Often by night the Japanese would come along and order out all women to inspect them. Any which they found to their liking they took off to the officers’ quarters to entertain the permanent officers and any visitors. In the morning the women would be returned looking shamefaced, and ill, and I as the prisoner-doctor would have to try to patch up their maltreated bodies.