Chương C

CAUSAL BODY – THỂ NHÂN QUẢ

Với những ai thích từ đao to búa lớn thì đây chính là Anandamaya-kosha, hoặc, nếu bạn còn thích một cách nói khác thay vì ngôn ngữ đơn giản, không rườm rà, thì bạn có thể gọi nó là Karana Sharira.
Thể nhân quả là lớp đầu tiên trong số nhiều lớp cơ thể khác nhau bọc lấy ta. Hãy hình dung chúng ta như một bộ những chiếc hộp, cái này nằm trong cái kia; hoặc tưởng tượng chúng ta là bất cứ thứ gì có thể xếp lồng vào nhau; nó có thể là một tập hợp của những chiếc bàn nước nhỏ, những chiếc hộp, một ngăn kéo, hay bất cứ thứ gì có một vật nhỏ bên trong, rồi tới một vật lớn hơn bên ngoài và tới một vật lớn hơn nữa, v.v. Đây là cách mà các lớp cơ thể khác nhau của ta được sắp xếp.
Thể nhân quả là lớp cơ thể trong cùng, lớp cơ thể khởi phát các tiến trình mà ta sẽ đạt được trải nghiệm qua thân xác. Thể nhân quả là thể được tái kiếp, và nó là thứ gây ra tất cả những rắc rối quen thuộc liên quan đến thân xác – hàng loạt ham muốn, vô số khát khao cuồng nhiệt, lòng tham khủng khiếp và phổ biến nhất là sự ích kỷ.
Chúng ta phải sống sao cho không còn phải cần đến cơ thể nhân quả nữa, bởi khi ta có thể xoay xở mà không cần thể nhân quả, ta không buộc phải quay lại Trái đất này cũng như không cần đến những thế giới vật chất không mấy dễ chịu khác.

For those who love big words this is the Anandamaya-kosha, or, if you prefer it under yet a different language instead of in simple, plain language, you could term it the Karana Sharira.
The causal body is the first of the various bodies with which we are encumbered. Think of us as being a nest of boxes, one inside the other ; or think of us as anything which fits one inside the other ; it could be a collection of those small coffee tables, or boxes, or a nest of drawers, anything which has a small subject, then a larger outside and a larger outside that, and so on. This is how our different bodies are arranged.
The causal body is the innermost one, and it is that which commences the processes whereby we gain experiences in the flesh. This, the causal body, is the body of incarnation, and it is the one which causes all those familiar troubles associated with the flesh — lusts of various kinds, numerous exciting desires, horrible greed, and, the most common of all, selfishness.
We have to live so that there is no need for us to have a causal body, because when we can manage without a causal body we do not have to come back to this Earth nor go to other material and unpleasant worlds.

CHAITANYA – TỈNH GIÁC

Một trạng thái khi ý thức tâm linh vừa được thức tỉnh, người đó được cảnh báo và sẵn sàng tiến lên trên hành trình, bước những bước đầu tiên để bỏ lại thể nhân quả.
Để đạt tới Chaitanya nghĩa là phải chăm chỉ hành động, chăm chỉ học hỏi, thiền định và chiêm nghiệm liên tục. Khi hội tụ đủ điều kiện, sáu Luân xa sẽ được kích hoạt và đi vào sự tỉnh thức, giúp người đó nhận thức được vận mệnh của mình, có được sự hiểu biết rằng mình phải là gì, trước khi đẩy nhanh tiến độ.

A state when the spiritual consciousness has just been awakened, and one is alert and ready to progress upwards, taking the first steps to leave the causal body behind one.
To attain to Chaitanya means hard work, hard study, constant meditation and contemplation. When the conditions are right, the six Chakras are stimulated and come into consciousness, giving one awareness of one’s destiny, giving an understanding of what must be before one can progress speedily.

CHAKRAS – LUÂN XA

Chúng ta nên tập trung vào sáu Luân xa. Sáu Luân xa chính này, hay những trung tâm của ý thức tinh thần, giống như những bánh xe được gắn dọc theo cột sống. Có vô khối những trung tâm khác nhau để giữ cho thể nhân quả của chúng ta gắn với các thể cao hơn, giao tiếp với các trung tâm cao hơn của ta.
Một số người gọi đây là những Luân xa, Bông Sen. Người khác gọi là Bánh xe. Một số tôn giáo tạo ra biểu tượng cách điệu mà người ta có thể cho là Bánh xe hoặc Hoa sen, tùy vào trí tưởng tượng mơ mộng của họ.
Có sáu Luân xa dọc theo cột sống, và một cái thứ bảy ở trung tâm của bộ não. Có thêm hai cái nữa làm thành chín tất cả, nhưng hầu hết mọi người chưa đạt đến trạng thái có thể tiêu hoá kiến thức về chín luân xa, vì vậy chúng ta sẽ chỉ xem xét bảy luân xa chính thống được đa số chấp nhận.
Khi một người có thể thấy hào quang, người ấy sẽ thấy tất cả các màu sắc xoáy ra từ các Luân xa khác nhau này, và, tất nhiên, mọi màu sắc và sự lan toả hào quang đều có sự khác biệt giữa nam và nữ.
Luân xa thứ nhất nằm ở đáy cột sống gần cơ quan bài tiết. Cái thứ hai nằm ở tầm cơ quan sinh dục, cái thứ ba là ở rốn, cái thứ tư nằm ngang tim, cái thứ năm là ở tầm cổ họng, và thứ sáu là ở vùng lông mày.
Niềm tin cổ xưa cho rằng những người tiến hoá thấp sống ở phần [Luân xa] thấp nhất của cột sống, và chỉ đến khi Con người có khả năng nâng dòng Kundalini lên tới Luân xa Tim thì anh ta mới có thể ý thức được sự tiến bộ. Con người phải đưa năng lượng tâm linh của mình lên tới Luân xa sáu mới có thể đạt được bất kỳ tiến bộ đáng kể nào, và khi người đó vượt qua luân xa bảy thì họ sẽ biết chắc rằng mình đang sống kiếp cuối cùng trên Trái đất.

We should concentrate upon the six Chakras. Along our spine, like wheels threaded along our spinal column, are the six main Chakras or centres of psychic consciousness. There are various centres which keep our causal body in touch with our higher bodies, in touch with our higher centres.
Some people prefer to call these Chakras, Lotuses. Others call them Wheels. Some religions make a stylised symbol which one can recognise as a Wheel or as a Lotus, depending upon one’s poetic imagination.

There are six Chakras along the spine, and a seventh in the centre of the cerebrum. There are two others making nine in all, but most people have not attained to the state yet where they can assimilate knowledge of nine, so let us deal only with the orthodox and commonly accepted seven.
When one can see the aura, one can see all the colours swirling out from these different Chakras, and, of course, the colours and the auric emanations of all types are different between man and woman.

The first Chakra is at the base of the spine near the excretory organ. The second is at the genitalia level, the third is at the umbilicus, the fourth approximates to the level of the heart, the fifth comes at the level of the throat, and the sixth is at the eyebrow level.

Mythology states that the lower man dwells in the lowest part of the spine, and not until Man is able to raise the Kundalini powers into the heart Chakra is he able to be aware of progress. Man has to send his spiritual forces into the sixth Chakra before being able to make any really satisfactory progress, and when one can get above the seventh then one knows quite surely that one is living on Earth for the last time.

CHAN –THIỀN

Từ này bây giờ có nghĩa là thiền. Nó là một từ được sử dụng bởi các Thiền sư Nhật Bản.
Nguồn gốc từ này là Channa, nó biểu thị rằng người được nói đến đã có những trải nghiệm thoáng qua về Chân lý. Bạn có thể nói rằng một người đã đạt được Channa tức đã trải nghiệm một sự mặc khải.

This now means meditation. It is a word used by the Japanese Zen Buddhists.
Originally the word was Channa, and it then signified that the person concerned had experienced instantaneous perception of Truth. You might say that the person who had Channa had experienced a revelation.

CHANG

Trái nghĩa với nhân tạo, với bất thường. Từ này chỉ những điều hoàn toàn bình thường, hoàn toàn chuẩn mực. Đây là một từ xuất phát từ tư tưởng Đạo giáo Trung Quốc.

The opposite of artificial, the opposite of abnormal. That which is completely normal, completely standard. It is a word from the Chinese Taoist belief.

CHANISM – THUYẾT MẶC KHẢI

Một học thuyết mà theo đó người ta có thể đạt đến quả vị Phật thông qua một ánh chớp mặc khải bất ngờ.
Những người theo Thuyết Mặc Khải thiền định liên tục theo các nguyên tắc và giới luật của Chân lý vĩnh cửu với hy vọng nhận được sự mặc khải bất ngờ này.

A theory whereby one can attain to the state of Buddhahood through sudden enlightenment, through a sudden lightning flash of revelation.
Devotees of Chanism engage in constant meditation upon the principles and precepts of the Eternal Truths in the hope of receiving this sudden revelation.

CHARMS – BÙA MÊ

Nhiều người coi bùa mê là sự mê tín vô ích, họ xem những chiếc bùa như những vật trang trí nhỏ mà chỉ những người cả tin mới mua với hy vọng thay đổi vận may. Chà, nếu bạn đến một cửa hàng lưu niệm nào đó và mua một chiếc bùa thì nó giống như ném tiền qua cửa sổ vậy. Nhưng nếu bạn có một chiếc bùa được chuẩn bị đặc biệt, được chuẩn bị ở đây có nghĩa là, bởi một người biết cách làm nó, thì chiếc bùa mới có hiệu quả.
Điều đó có nghĩa là người đó phải tạo ra một hình tư tưởng rồi đặt nó vào trong chiếc bùa theo cách tương tự người Ai Cập cổ đại đã làm để bảo vệ xác ướp của các Pha-ra-ông.
Chúng ta sẽ đề cập nhiều hơn về vấn đề này ở phần Bùa chú (Talismans).

Many people look upon charms as idle superstitions, they look upon charms as little ornaments which the gullible buy in the hope of changing their luck. Well, if you go to some souvenir shop and buy a charm it is just the same as throwing your money away. But if you have a specially prepared charm, prepared, that is, by a person who knows how to do it, the charm is effective.
It means that one has to build a thought form and locate it in the charm in much the same way as the Egyptians of old safeguarded their embalmed Pharaohs.
We shall deal with this more under Talismans.

CHENG – TÍNH BẢN THIỆN

CHENG – Tính bản thiện – là sự trung thực và chân thành vốn có trong mỗi người. Người ta phải cho phép Tính Bản Thiện phát triển và tự bộc lộ trước khi có thể đạt được bất kỳ tiến bộ đáng kể nào.
Nếu chúng ta loại bỏ lòng tham, ham muốn và sự ích kỷ như bóc đi lớp vỏ cứng của một loại hạt, ta sẽ thấy được phần nhân bên trong. Con người cũng bị bọc trong một lớp vỏ cứng, và họ phải trút bỏ lớp vỏ đó trước khi họ có thể tiến bộ.

The honesty and sincerity inherent in one’s true self. One has to allow Cheng to grow and to reveal itself before one can make any substantial progress.
If we cut away greed, lust, and selfishness like taking away the hard shell from a nut, we can get to the kernel inside. Humans are encased in a hard shell, and they have to shed that shell before they can progress.

CHI – MÃNH LỰC SỐNG

CHI là mãnh lực sống, là mọi thứ được bao gồm trong địa hạt vật chất. Như vậy mãnh lực sống ta có là mãnh lực hơi thở ứng với cảnh giới thấp nhất, mãnh lực dĩ thái, rồi cao hơn, là với mãnh lực hào quang.

This is vital force. Anything which comes within the sphere of matter. So we have Chi, the breath force which corresponds on the lowest plane with the etheric force, and then, higher, with the auric force.

CHIT – Ý THỨC

CHIT là ý thức, một loại ý thức khá trống rỗng [vô nghĩa]. Nó không có bất kỳ sự tỉnh thức đặc biệt nào. Ta có thể nói rằng đây là trạng thái có ý thức nhưng chẳng có bất kỳ mục đích cụ thể nào cho ý thức đó [chẳng để làm gi] và cũng không học được gì thông qua ý thức đó.

Consciousness, a rather empty sort of consciousness. It is a lack of any specific awareness. One might say that it is being conscious without having any specific purpose to that consciousness, without learning anything through that consciousness.

CHITTA – TÂM TRÍ THẤP

CHITTA là phần tâm trí thấp hơn. Tâm trí có ba phần, hoặc chính xác hơn là chất liệu của tâm trí. Phần thứ nhất là Manas; phần thứ hai là Buddhi; và phần thứ ba là Ahamkara. Phần đầu tiên tất nhiên thấp nhất. Tất cả mọi thứ đi vào phần Tâm trí thấp đều được chuyển tới tiềm thức để lưu trữ, sắp xếp, và có thể được sử dụng sau này. Cần nhớ rằng trong tiềm thức, chúng ta có kiến thức của toàn nhân loại, nhưng vì sự thiếu hoàn thiện của mình, chúng ta có những ký ức không trọn vẹn, nghĩa là ta không thể tải về tất cả những kiến thức mà mình có.

This is the lower mind. There are three parts of the mind, or it might be better to say mind-stuff. The first is Manas ; the second is Buddhi ; and the third is Ahamkara. The first, of course, is the lowest.
Everything which comes into the lower mind passes into the sub-conscious for storage and sorting, and possibly for later use. It should be remembered that within our sub-conscious we have the knowledge of all humanity, but through imperfections we have very imperfect memories, that is, we cannot get down to all the knowledge we have.

CHOICE – LỰA CHỌN

Thật không may là trên thế giới này có quá nhiều người đang cố chi phối người khác. Những người theo đạo Thiên Chúa, chẳng hạn, cố gây ảnh hưởng đến những người không theo Thiên Chúa nhẳm thay đổi tín ngưỡng hoặc niềm tin của họ. Như thể là một người có một tín ngưỡng nhất định nhưng lại không chắc chắn về niềm tin của mình, và vì vậy anh ta phải cố thuyết phục những người khác để họ có cùng niềm tin với anh ta, với hy vọng rằng càng đông càng an toàn.
Thật sai lầm khi cố gây ảnh hưởng đến sự tự do lựa chọn Đường Đạo và Đường Đời của người khác. Nếu một người luôn cần có bằng chứng, thì cứ kệ để họ như vậy. Nó có nghĩa là người đó chưa sẵn sàng để chọn một Con Đường cụ thể.
Bắt một người đi theo một con đường nhất định ngoài ý muốn của anh ta hoặc cô ta là vô ích, nó chỉ tạo thêm nghiệp quả cho người đang muốn chi phối và chẳng có lợi cho bất cứ ai. Vì vậy, tất cả những ai ưa làm điều tốt, hãy nhớ rằng khi cố gắng tác động đến Con Đường của người khác hoặc cố bắt họ phải chuyển hướng, là đang làm hại chính mình.

It is unfortunate that in this world people try to influence others. Christians, for example, try to influence non-Christians to change religions or change beliefs. It seems that a person of a certain belief is not at all sure of his beliefs, and so he must try to persuade others to the same belief in the hope that it will mean that in numbers there is safety.
It is wrong to influence one’s free choice of the Path of life and spirituality. If a person is always wanting proof, then that person should be let be. It means that the person is not ready to take a particular Path.
To compel a person to take a certain Path against his or her will is useless, it merely adds to the Karma of the person compelling and does no good to anyone. So, all you who are do-gooders, remember that in trying to influence the Path of another, or in trying to compel conversion, you are harming yourself.

CITY OF NINE GATES – THÀNH CHÍN CỔNG

Nhiều cuốn sách huyền bí hoặc siêu hình đã đề cập đến Thành phố với chín cánh cổng. Nó là một thiết bị để ngăn cản những kẻ chỉ đọc lướt qua các giáo lý huyền bí mà không có hứng thú cũng như kiến thức thực sự về chủ đề này. Nó là một thiết bị để che mắt những kẻ hời hợt, chưa tiến hoá và chỉ đơn thuần là tò mò.
Thành Chín Cổng, tất nhiên, chính là cơ thể vật lý với chín lỗ mở chính, hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, v.v … Các lỗ mở khác không cần phải nói đến chi tiết, vì bạn chắc đã biết rồi.
Thông qua mỗi trong số chín cổng, những kẻ thù cản trở sự tiến bộ của con người sẽ xuất hiện. Chẳng hạn, một người đàn ông rất tử tế có thể sẽ bị cám dỗ bởi ’kẻ thù’ xâm nhập qua đôi mắt của anh ta; anh ta có thể nhìn thấy một số cảnh kích thích những ham muốn sai lầm, những ham muốn mà anh ta tưởng rằng mình đã vượt qua. Anh ta có thể tìm thấy ’kẻ thù’ xâm nhập qua lỗ mũi của mình, sẽ có những mùi hương làm khơi dậy lòng tham của anh ta. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng chúng ta cũng có thể tiến bộ rất nhiều thông qua việc sử dụng đúng thay vì sử dụng sai chín cổng.

Many occult or metaphysical books refer to the City of Nine Gates. It is a device to thwart those who try to scan through occult literature without having a genuine interest, without having a genuine knowledge of the subject. It is a device to blind the superficial, the unevolved, and the merely curious.
The City of Nine Gates, of course, is the physical body which has nine main openings, two eyes, two ears, two nostrils, etc. The other openings need not be detailed, as you should know them.
Through each of the nine gates can come enemies which will stultify one’s progress. For example, a very good man can be tempted by ‘the enemy’ entering through his eyes ; he may see some sight which stimulates his wrong desires, desires which he thought he had overcome. He might find ‘the enemy’ entering through his nostrils, so that there would be scents which would unduly disturb his greed senses. It must be stated, however, that it is also possible to progress very satisfactorily through the use instead of the misuse of the nine gates.

CLAIRVOYANCE – THẤU THỊ/NHÃN THÔNG

Khả năng thấu thị thực sự có nghĩa là thể vía của một người có thể thoát ra khỏi cơ thể vật lý, và sau đó ‘nhìn thấy’ các chiều kích không thể tiếp xúc khi ở trong cơ thể vật lý.
Người bình thường chỉ có thể nhìn thấy một cách vật lý những thứ nằm trong tầm mắt anh ta; anh ta có thể nhìn vào một căn phòng và thấy một chiếc ghế, một chiếc bàn và một bức tường, nhưng những thứ ở ngoài căn phòng thì nằm ngoài tầm nhìn của anh ta. Qua nhãn thông, người ta có thể nhìn xuyên qua bức tường như thể không có bức tường nào, hoặc đối với những người có khả năng kém hơn, như một màn sương xám mơ hồ.
Khi một người bước vào giai đoạn xuất vía, người này có thể tham khảo Thư viện Akashic và biết được tất cả các sự kiện đã xảy ra, hoặc đang xảy ra. Người này cũng có thể thấy những xác suất của tương lai, nghĩa là, người này có thể biết ai đó sẽ gặp vận may hay vận rủi.
Sự thấu thị có thể được phát triển, đó là quyền của cả nam và nữ, mọi người đều có khả năng thấu thị nếu họ không trở nên quá ích kỷ và sử dụng năng lực vào lợi ích riêng.

True clairvoyance means that one’s astral body can get out of the physical body, and can then ‘see’ in dimensions which cannot be contacted while in the physical body.
The average person can see physically only those things which are within the range of his eyesight ; he may look about a room and see a chair, a table, and a wall, but that which is in the room beyond is also beyond his sight. In clairvoyance one can see through the wall as if there were no wall, or as if, in those of lesser ability, a vague grey mist was there instead.
When one gets into the astral stage one can consult the Akashic Record and see any incident which has happened, or any incident which is happening. One can also see the probabilities for the future, that is, one can see that a person is going to have good fortune or bad fortune.
Clairvoyance can be developed, it is the right of men and women, and before men and women became so selfish and used powers for their own gain everyone was clairvoyant.

CONCENTRATION – SỰ TẬP TRUNG/ ĐỊNH

Đây là nghệ thuật hướng trọn sự chú ý của mình vào một thứ, nó có thể là một thứ hữu hình hoặc vô hình, chẳng hạn như một ý tưởng.
Một người nên tập trung vào các quy tắc cố định cụ thể, điều đó nghĩa là sự chú ý của anh ta nên được tập trung cao độ vào đối tượng mà anh ta muốn tập trung.
Để minh họa, hãy nghĩ về một ngọn nến. Hãy thắp một ngọn nến phía trước bạn, ngồi ở bất kỳ vị trí nào thoải mái và nghĩ về cây nến đó, nghĩ về nó khi bạn nhìn mơ hồ về hướng của nó nhưng không thực sự nhìn thấy ngọn nến.
Cây nến trông như thế nào? Nó có mùi gì không? Nó được làm ra như thế nào? Bản chất của ngọn lửa là gì? Ngọn lửa được duy trì như thế nào? Và nếu ngọn nến đang cháy, và vật chất được cho là không thể bị phá hủy, thì điều gì sẽ xảy ra với cây nến khi nó cháy? Nếu bạn nghĩ về những dòng này, bạn có thể phát triển rất tốt khả năng tập trung của mình.
Ở Tây Tạng, một vị sư sẽ tập trung vào một cây nhang đang cháy trên đầu, anh ta phải duy trì sự tập trung ngay cả khi nhang cháy bắt đầu rơi xuống da đầu nhẵn nhụi của anh ta. Dĩ nhiên, một nhà sư hướng dẫn sẽ loại bỏ cây nhang trước nó gây bất kỳ tác hại nào, nhưng vị sư tập sự không được tự bỏ nó ra; nếu anh ta làm điều đó thì chứng tỏ sự tập trung của anh ta là chưa đủ.

This is the art of devoting one’s full attention to one thing, it may be a physical thing or an intangible thing, such as an idea.
One should concentrate along certain fixed rules, which means that one’s attention should be focused strongly upon the object on which one desires to concentrate.
As an illustration, consider a candle. Have a lighted candle before you, sit in any position which is comfortable, and think about that candle, think about it as you gaze vaguely in its direction but without actually seeing the candle.
What does the candle look like ? Is there any smell to it ? How was it made ? What is the nature of the flame ? How is the flame sustained ? And if the candle is burning, and matter is stated to be indestructible, what happens to the candle when it is going up in flames ? If you think upon these lines you can greatly develop your powers of concentration.
In Tibet a monk will concentrate with a burning stick of incense upon his head, he has to maintain his concentration even when the burning incense starts to scorch the skin of his shaven skull. A monk in attendance will, of course, remove the incense before any harm is done, but the student monk must not remove it ; if he does it shows that his concentration is not sufficient.

COMTEMPLATION – CHIÊM NGHIỆM

Việc chiêm nghiệm thường diễn ra khi thiền định kết thúc. Một người có thể thiền về một chủ đề nào đó và rồi anh ta có thể thấy rằng mình đã đi đến cuối dòng suy nghĩ liên quan đến vấn đề mà anh ta đang thiền. Việc chiêm nghiệm sẽ tiếp nối.
Người ta có thể chiêm nghiệm vẻ đẹp của hoàng hôn, hoặc chiêm nghiệm lý do dẫn đến một hành động cụ thể hoặc kỳ lạ của một người.
Chiêm nghiệm về cơ bản có hai loại:
1. Chiêm nghiệm ý thức, trong đó một đối tượng vật chất hoặc vấn đề được xem xét. Hoặc,
2. Chiêm nghiệm phi ý thức, trong đó một người dựa vào những thứ thuộc về linh hồn, những thứ vượt ra ngoài nhận thức vật chất của con người, nhưng người này phải đặc biệt tiến hóa, đặc biệt trưởng thành về mặt tinh thần, trước khi có thể thực hành sự chiêm nghiệm phi ý thức.

Contemplation often takes over when meditation ends. One may be meditating upon a certain subject and then one may find that one has come to the end of the information concerning the matter upon which one was meditating. Then contemplation takes over.

One can contemplate upon the beauty of the setting sun, or one can contemplate upon the reason for the particular or peculiar action of a person.
Contemplation is basically of two types:
1. Cognitive, in which a material object or matter is thought about. Or,
2. Non-cognitive, in which one dwells upon things of the spirit, things beyond Man’s material perception, but one has to be particularly evolved, particularly spiritually mature, before one can engage in non-cognitive contemplation.

CULT – GIÁO PHÁI

Thường thì một người ít hiểu biết, hoặc có nhận thức tâm linh kém sẽ tưởng tượng anh ta hoặc cô ta là một Bậc thầy vĩ đại, và rồi bằng cách tuyên truyền sẽ thu được một nhóm nhỏ tín đồ mà anh ta hoặc cô ta sẽ tiết lộ những chân lý vĩ đại nhận được bằng cách này cách nọ, lời sấm truyền, hay tự động ký, hay một cách khác.

Often a person of little knowledge, or of poor spiritual perception will imagine that he or she is a Great Teacher, and will then by propaganda get a small group of people to whom he or she will expound the great truth which has been received by this method or that method, or direct voice, or automatic writing, or something else.

It is tragic that often these groups distort the Great Truths. They merely exist to pander to the exalted ideas of some person who has barely started on The Path. One should only enter a group or cult when one is quite sure that one is doing right. There are enough orthodox religions — Jewish, Christian, Buddhist, or whatever you like — without all these subsidiary cults springing up.

Thật đáng buồn vì các nhóm này thường bóp méo các Chân lý vĩ đại. Họ chỉ tồn tại để tâng bốc những ý tưởng của một số kẻ hầu như còn chưa bắt đầu đi vào Đường Đạo. Một người chỉ nên tham gia một nhóm hoặc giáo phái khi người ấy khá chắc chắn rằng mình đang đi đúng hướng. Có đủ các tôn giáo chính thống – Do Thái giáo, Kitô giáo, Phật giáo, hoặc bất cứ tôn giáo nào bạn thích – mà không cần tới những nhánh giáo phái kia.
Thường thường một giáo phái mọc lên như một cỗ máy kiếm tiền nhắm vào những người cả tin. Đúng là các Bậc thầy cũng cần phải có tiền để mua thực phẩm và quần áo, nhưng khi ‘Vị thầy’ sử dụng tên tuổi của mình làm cơ sở để chiêu mộ thêm tín đồ, hoặc khi họ nhấn mạnh rằng Vị thầy là quan trọng, bạn có thể chắc chắn rằng có điều gì đó sai; Tên tuổi của một Vị thầy không quan trọng, tất cả những gì quan trọng là những gì Vị thầy đó dạy. Liệu điều đó có tốt không? Nó có thỏa mãn nhu cầu của bạn không? Nó có yêu cầu bạn phải trả một số tiền lớn trước khi tiếp tục buổi gặp sau hoặc bài giảng sau không? Nếu đúng như vậy, thì hãy cẩn thận, nó có thể là một cây vợt kiếm tiền.

All too often a cult is started as a money-making device preying upon the gullible. While one must agree that a Teacher needs to have money that food and clothing may be bought, yet when the ‘Teacher’ uses his or her name as a basis for getting members, or when he or she stresses that the Teacher is the important thing, you may be sure that there is something wrong ; the name of a Teacher does not matter, all that matters is what the Teacher teaches. Is it good ? Does it satisfy your needs ? Does it require that you pay large sums of money before you go on to the next meeting or the next lesson ? If so, be careful, it may be a money-making racket.

Nếu bạn nghi ngờ tại sao không thử đi gặp một tu sỹ của tôn giáo nơi bạn được sinh ra? Nếu đủ quyết tâm, bạn có thể tìm gặp vị tu sỹ đứng đầu tôn giáo đó. Những gì được nói ở đây là để đưa ra cảnh báo nghiêm trọng về các giáo phái đang có ý định dạy đủ thứ phép thuật; hay đủ kiểu phô diễn, nhưng chỉ khi bạn trả số tiền kha khá. Hãy nhớ rằng, sức khỏe tinh thần của bạn có thể trở thành nạn nhân.

If you are in doubt why not see a priest of the religion to which you were born ? If you are sufficiently determined you can see a higher priest of the religion to which you were born. But it is desired here to issue a solemn warning against cults which purport to teach all sorts of magic ; purport to give all sorts of demonstrations, but only if you pay enough. Remember, it may be your mental health which suffers.