Tóm tắt nội dung bài viết
FA – PHÁP
Từ này bắt nguồn từ Trung Quốc, chỉ các quy định hoặc luật lệ. Nó ngụ ý rằng một người muốn tinh tấn thì phải tuân thủ những Quy tắc đúng đắn. Bạn sẽ còn phải quay trở lại cái thế giới cũ kỹ ảm đạm này cho đến khi bạn tiến bộ.
This is from the Chinese and it denotes the law or regulations. It indicates that one must follow the right precepts if one is going to make right progress. Until you can progress you will have to keep coming back to this dreary old world.
FACE – KHUÔN MẶT
Hãy ngắm một người bình thường, nhìn những nếp nhăn trên khuôn mặt của họ, nhìn vào biểu hiện căng thẳng và cau có của họ! Và khi họ nghĩ họ đang thiền thì trông họ còn cau có hơn nữa. Điều này thật đáng tiếc bởi vì người ta không thể thiền khi người ta căng thẳng.
Nếu bạn thấy gương mặt mình đang căng thẳng, hãy cố gắng thư giãn. Cúi người về phía trước sao cho mặt song song với sàn, hãy đảm bảo rằng các cơ mặt được thả lỏng hết mức có thể. Tương tự, hãy để ý xem đôi môi của bạn có đang mím chặt hay không, bạn có thể để hé miệng nếu muốn.
Mắt bạn có thể khép hờ hoặc nhắm lại, nhưng không nên nhắm chặt vì như vậy sẽ làm căng cơ mặt.
Thư giãn toàn bộ khuôn mặt và tưởng tượng bạn như một chú chó đang còn ướt sũng vì vừa mới lội nước. Hãy lắc đầu thật mạnh như chú chó, cho đến khi tai bạn cũng lắc theo và tóc bạn rũ xuống. Làm đi làm lại nhiều lần, như thể có nước đọng trên khuôn mặt và bạn phải vẩy nước đi bằng những động tác dứt khoát. Hãy thực hành và nó sẽ làm giãn các nếp nhăn trên các cơ của bạn.
Sau khi đã thực hiện động tác trên vài lần, hãy ngồi thẳng và vươn cổ lên càng cao càng tốt. Hãy tưởng tượng bạn là một chú Hươu cao cổ, hay một người phụ nữ dân tộc đeo rất nhiều vòng vì muốn kéo dài cổ.
Sau khi bạn đã giãn cổ hết mức có thể, hãy hạ đầu xuống sát vai càng sâu càng tốt cho đến khi cổ của bạn thực sự bị ép lại. Sau đó, lại vươn cổ lên và rụt lại. Bạn hãy thực hiện vài lần, và cứ sau 3 lần thì lại lắc đầu giống như chú chó. Việc này sẽ giúp bạn nhiều hơn bạn tưởng.
Look at the average person, look at the lines and wrinkles on their face, look at their tense, screwed-up expression! And when they think they are meditating they become screwed-up all the more. This is unfortunate because one cannot meditate when one is tense.
If you find that your face is becoming stiff, try relaxing it. Bend forward so that your face is parallel with the floor, make sure that the muscles of the face are quite slack, as slack as you can make them. See, also, that your lips are not tightly compressed, you can have your mouth slightly open if you prefer.
The eyes should be either very slightly open or shut, but you must not shut them tightly because if you do you are tensing muscles.
Relax the whole face, and then imagine that you are a dog who has just come out of the water sopping wet. Shake your head sharply as a dog does, so that even your ears waggle and your hair-do comes undone. Do that several times, pretend there is water on your face and you have to shake it off with sharp movements. Do this, and it really will shake out folds in your muscles.
When you have done this several times sit up straight, and stretch your neck as far up as you can. Imagine that you are a giraffe or one of those native tribeswomen who put rings on the neck in order that the neck may be lengthened.
When you have stretched your head as far up as you can, pull it down to your shoulders as far as you can, pull it right down into your shoulders so that your neck really is compressed. Stretch up your head again, and make it come down again. Do it several times, and every third time shake your head sharply like a dog does. This will help you more than you imagine.
FAITH – ĐỨC TIN
Chúng ta cần phải có đức tin nếu đang tìm kiếm tri thức vì có những điều đòi hỏi ta phải tin từ khi vẫn còn loay hoay tìm bằng chứng, nếu người đang tìm cho quả quyết rằng họ sẽ chẳng tìm được gì, thì họ nhất định sẽ không tìm thấy.
Sẽ là sáng suốt khi giữ vững niềm tin rằng dựa trên năng lực trí tuệ, chúng ta có thể xác định chắc chắn điều đang được thảo luận là đúng.
Với đức tin, chúng ta cố gắng chứng minh một điều là đúng, thay vì chứng minh thứ gì đó sai như đa số mọi người đang làm hiện tại.
Đức tin không phải là niềm tin ngu ngốc, điên rồ và thụ động. Đức tin ngày càng mạnh mẽ khi ta khám phá sâu hơn về điều mà mình tin.
We must have faith if we are going to seek after knowledge because some things require that we have faith while we are still seeking for proof, and if a person goes seeking for a thing determined that they will not find it, then they will not find it.
It is wise to hold firm to the conviction that based upon intellectual ability we can ascertain that the thing under discussion is true.
In faith we try to prove that a thing is right, not, as so many do at present, try to prove that a thing is false.
Faith is no idle, senseless, ignorant belief. Faith grows and grows as one explores that in which one has faith.
FEAR – NỖI SỢ
Nỗi sợ là một trong những mối nguy hiểm lớn nhất trong bất kỳ hình thức nghiên cứu huyền bí nào. Ở Phương đông, các bậc thầy dạy học trò rằng,”Đừng sợ vì chẳng có gì phải sợ ngoài chính nỗi sợ.”
Nỗi sợ bào mòn khả năng nhìn nhận sáng suốt của chúng ta. Một khi chúng ta không sợ, thì chẳng có điều gì có thể làm hại hay cản trở chúng ta. Vì vậy, đừng sợ điều gì cả.
Cần lưu ý rằng một người thực hiện du hành thể vía không nên sợ hãi. Các tinh linh hay các thể vía khác không thể làm hại ta, nhưng nếu ta sợ hãi thì chính nỗi sợ của ta sẽ làm ta rối loạn – ví dụ như rối loạn tiêu hóa. Một lần nữa, xin nhắc lại rằng không ai có thể bị tổn thương trong thể vía ngoại trừ bởi chính bản thân họ, do sợ hãi mà quay lại một cách quá đột ngột khiến các thể bị xộc xệch.
Nếu thể vía của bạn trở lại thể xác với một cú sốc và sau đó bị đau đầu, thì cách chữa rất đơn giản, bạn hãy nghỉ ngơi và đi ngủ, để cho thể vía có thể thoát ra khỏi thể xác và đáp trở lại đúng vị trí của nó trong thể xác.
One of the greatest dangers in any form of occult study is of being afraid. In the East teachers tell the pupil, “Fear not for there is naught to fear but fear”.
Fear corrodes our abilities for clear perception. If we are not afraid, nothing whatever can hurt us or disturb us. Therefore – fear not.
It is worth particularly noting that when one is doing astral travel there is no need for fear. Elementals or astral entities cannot hurt one, but if we are afraid, well, our fear upsets us – upsets our digestion, for instance. Again, let it be stated that no one can be harmed in the astral except by oneself, that is by getting frightened and rushing back with such a thunk that one becomes disassociated from the body.
If you come back into the body with a shocking jerk and get a headache after it, the remedy is simple – rest again and go to sleep, so that your astral body can leave the physical and resettle in the correct location in the physical body.
FO CHIAO – PHẬT GIÁO
Đây là từ phiên âm từ tiếng Trung Quốc, chỉ Đạo Phật. Như chúng ta đã nói từ trước, Đạo Phật là một đạo lý sống, một lối sống, tuy nhiên ở đây, theo cách dùng thông thường, nó chỉ một tôn giáo.
Fo Chiao là tên tiếng Trung cho Phật giáo với nghĩa là một tôn giáo.
This is a Chinese interpretation of the Buddhist religion. As we have already stated, Buddhism is a code of living, a way of living, but in order to follow common usage it is referred to here as a religion.
Fo Chiao is the Chinese name for Buddhism as a religion.
FO HSUEH – PHẬT HỌC
Từ này nghĩa là học Phật, Phật giáo khi ấy được coi như một triết ký hay lối sống, thay vì một tôn giáo. Một lần nữa nó bắt nguồn từ những khái niệm Trung Quốc.
This is Buddhist learning, Buddhism when treated as a philosophy or way of life, instead of as a religion. Again, it is from the Chinese concepts.
FORCES – MÃNH LỰC
Có bốn loại mãnh lực liên quan tới chúng ta. Đó là:
- Các lực tự nhiên: Khi còn ở trường, chúng ta học về một nhóm các lực được biết đến như là môn Vật lý – gồm Nhiệt, Ánh sáng, Âm thanh, Dòng điện và Từ trường – và thế là có người từng ghét cay ghét đắng ông Pi-ta-go đáng thương, người đã tìm ra các định lý kỳ lạ và tuyệt vời này, gây cho học sinh biết bao nhiêu phiền toái.
- Các lực dĩ thái: Các lực này bao gồm cả năng lượng Kundalini. Các lực nhóm hai này vẫn kết nối với các hiện tượng tự nhiên vì Kundalini và tất cả những thứ liên hệ với nó chỉ ảnh hưởng sâu nhất là đến thể PHÁCH trước khi trở thành một lực siêu hình thay vì một lực tự nhiên trên trái đất.
- Các linh mục Ai Cập cổ đại là những chuyên gia về loại này, ta có thể gọi là Lực thứ 3. Họ bảo vệ các lăng mộ của họ bằng các hình tư tưởng có thể làm cho người ta khó chịu đến rợn người.
Lực thứ 3 bao gồm tất cả những thứ phát sinh từ tâm trí, và một khi nó được sinh ra thì nó sẽ tồn tại có lẽ trong hàng thế kỷ, cho đến khi năng lượng gốc của nó tiêu tan.
Dù lực thứ 3 này vẫn kết nối với tự nhiên nhưng nó tồn tại trên một nền tảng xa xôi hơn nhiều, bởi giờ chúng ta đang loại bỏ hai giai đoạn từ lực thiên nhiên, thô và cơ bản. - Đây là lực có thể được sinh ra từ các thực thể sống nhờ sức mạnh của tình yêu, lòng hận thù,v.v… Các lực này cũng mạnh mẽ như bất kỳ lực nào trong ba loại lực đã nói ở trên. Thần giao cách cảm, Nhãn thông, Thần học, Khinh công, dịch chuyển tức thời, v.v… thuộc nhóm lực thứ tư này.
Du hành thể vía không thuộc nhóm lực thứ tư, bởi du hành thể vía chỉ là sự giải thoát thể vía khỏi sự giam hãm trong thể xác.
There are four forces which need concern us. They are:
1. Natural forces: When we are at school we study a group of forces known as physics, or, if you prefer – heat, light, sound, electricity, and magnetism – and then one gets quite a dislike of poor old Pythagoras who worked out those weird and wonderful theorems which cause one so much trouble.
2. The etheric forces: Among these is included the power of the Kundalini. Those of the second group are still connected to natural phenomena because the Kundalini, and all that it implies, gets only as far as the etheric double before becoming a metaphysical force instead of an earth-natural force.
3. The ancient Egyptian priests specialised in this, which we might term “Force 3”. They protected their tombs with thought-forms which really could make one frightfully uncomfortable.
Force 3 consists of all those things which are generated from the mind, and which, once generated, go on and on perhaps for centuries, until they have dissipated their original energy.
While this third force is still connected with nature, it is on a much more remote basis because we are now two stages removed from the crude, basic, natural force.
4. This is a force which can be generated by living entities because of the power of love, hate, etc. They are quite as powerful as are any of the preceding three.
Telepathy, clairvoyance, psychometry, levitation, teleportation, etc., come under this group.
Astral travelling does not come under this force, because astral travelling is just releasing the astral body from imprisonment in the physical body.
FOUR FRUITS – TỨ QUẢ
Theo các tín ngưỡng Phương Đông khác nhau, Tứ Quả trong đời người là những Quả lớn dần đến khi chín và trưởng thành.
Quả đầu tiên là quả về đạo đức và sự thuần khiết trong suy nghĩ. Điều này giúp cho một người tử tế có thể tiến bộ trên con đường tâm linh.
Quả thứ hai là sự an toàn về vị thế, bảo vệ Ngôi Đền của Linh Hồn, tức là thể xác không bị tổn hại bởi sự nghèo đói hay đau khổ quá mức.
Cần phái nói rằng trong một số trường hợp, con người phải chịu đau khổ và nghèo đói vì Nghiệp, nhưng theo nguyên tắc chung thì tốt hơn hết ta nên ở Con đường Trung đạo – không quá nghèo, không quá giàu, không đói khát nhưng cũng không quá no nê.
Quả thứ ba là quả mà nhờ nó con người được đáp ứng những mong muốn chính đáng. Nó sinh ra như một phần thưởng cho lối sống đúng mực, suy nghĩ và hành xử đúng đắn.
Một mong muốn chính đáng không bao gồm mong muốn có một chiếc xe mới hoặc một chiếc áo khoác mới, hoặc những thứ phù phiếm chỉ để khoe khoang với người khác.
Mong muốn chính đáng là mong muốn giúp đỡ, cứu trợ người khác khỏi những đau khổ không cần thiết. Mong muốn tiến bộ và tinh tấn không vụ lợi cá nhân cũng là chính đáng, để ta có thể giúp đỡ người khác.
Quả thứ tư và lớn nhất trong Tứ Quả là khi con người ta nhanh chóng đạt tới sự giải thoát khỏi những ràng buộc trong thế giới này. Nghĩa là sự giải thoát khỏi Nghiệp, chấm dứt một kiếp người và sự tái sinh trên Trái Đất.
Khi ta đã có được Quả cuối cùng trong Tứ Quả, và thoát khỏi sự đầy ải trên Trái đất, thì sau đó ta có thể, nếu khờ dại, tình nguyện trở lại chốn cũ buồn thảm này để giúp đỡ mọi người.
Khi bạn đạt tới quả vị đó và đang ở “Thế giới bên kia”, hãy nhờ bạn bè kiểm tra sự sáng suốt của mình nếu có ý định tình nguyện quay lại, vì ngày nay dường như mọi thứ trên Trái đất này đều nằm ngoài tầm tay và cực kỳ khắc nghiệt. Tuy nhiên, chúng ta hiện đang sống trong Kỷ nguyên Kali, và Kỷ nguyên tăm tối đó sẽ qua đi, mặt trời sẽ lại chiếu sáng đem bình minh của một kỷ nguyên mới đến, cùng với sự trỗi dậy của tinh thần thuần khiết.
According to various Eastern beliefs, the Four Fruits of human life are that each Fruit shall develop and ripen and come to full growth.
The First Fruit is that of morality and purity of thought. This makes one a decent person who is able to progress on the Spiritual Path.
Secondly, there is security of position, so that the Temple of the Soul, which, naturally, is the body, is not damaged by excessive poverty or suffering.
It should be stated that in some conditions one has to have poverty and suffering because of Karma, but as a general rule it is better that one is able to attain to the Middle Way – not too rich, not too poor, not starving, but not overfed.
The Third Fruit is that by which one has one’s legitimate desires fulfilled. It comes as a reward for right living, right thinking, right behaving.
A legitimate desire does not include the desire of having a new car or a new coat, or things which are for vanity or to show off to other people.
A legitimate desire is a desire to help others and to save others from unnecessary distress. It is also legitimate to desire to progress and advance, again unselfishly, again so that one may help others.
The Fourth, and best, of the Fruits is that one shall speedily attain to release from the ties of this world. It means liberation from Karma, the end of one’s incarnations and reincarnations upon the Earth system.
When one has the last of the Four Fruits, when one has escaped from the toils of the Earth, then one can, if one is foolish, volunteer to come back to this dreary old spot to help others.When you attain to that position, and you are on the “Other Side”, leave instructions that if you ever decide to volunteer your friends will have your sanity tested, because it does appear that nowadays things are rather out of hand on the Earth, and things are much too hard. However, we are in the Age of Kali, and that gloomy Age will pass away and the sun will shine again with the dawn of a new era, and with an upsurge of spiritual purity.