CHƯƠNG I. DẪN NHẬP – TÔI TIN – LOBSANG RAMPA

Cô Mathilda Hockersnickler ngồi bên khung cửa sổ hé mở. Quyển sách cô đang đọc thu hút hết tâm trí của cô. Một đoàn rước đám tang đi qua trong lúc bóng cô đổ lên tấm rèm cửa bằng đăng ten trang trí cho khung cửa sổ. Một cuộc cãi nhau của hai người hàng xóm bên ngoài bị che khuất bởi chậu măng tây rung ring bên dưới cửa sổ. Cô Mathilda đang đọc sách.

Đặt quyển sách vào lòng một lát, cô đẩy cặp kính gọng thép lên trán và lấy tay dụi mắt. Sau đó cô lại đẩy cặp kính xuống sống mũi có phần nổi bật của mình, cầm quyển sách lên và đọc tiếp.

MISS MATHILDA HOCKERSNICKLER of Upper Little Puddlepatch sat at her half opened window. The book she was reading attracted her whole attention. A funeral cortege went by without her shadow falling across the fine lace curtains adorning her windows. An altercation between two neighbours went unremarked by a movement of the aspidistra framing the centre of the lower window. Miss Mathilda was reading.

Putting down the book upon her lap for a moment, she raised her steel-rimmed spectacles to her forehead while she rubbed at her red-rimmed eyes. Then, putting her spectacles back in place upon her rather prominent nose, she picked up the book and read some more.

Ở trong lồng một chú vẹt lông màu xanh và vàng với đôi mắt nhỏ và sáng đang nhìn xuống một cách tò mò. Và rồi nó kêu lên quang quác với giọng khàn khàn ‘Polly muốn ra, Polly muốn ra!

Nó làm cho cô Mathilda Hockersnickler giật mình. ‘Ôi lạy chúa tôi,’ cô kêu lên, ‘chị xin lỗi cục cưng bé bỏng thân yêu của chị, chị quên mất không chuyển em sang cái cành của em.

In a cage a green and yellow parrot, beady-eyed, looked down with some curiosity. Then there was a raucous squawk, ‘Polly want out, Polly want out!

Miss Mathilda Hockersnickler jumped to her feet with a start. ‘Oh, good gracious me,‘ she exclaimed, ‘I am so sorry my poor little darling, I quite forgot to transfer you to your perch.

Một cách cẩn thận cô mở cánh cửa của cái lồng chim mạ vàng và đưa tay vào trong, cô nâng chú vẹt già nua tả tơi lên và nhẹ nhàng đưa chú qua cánh cửa lồng. ‘Polly muốn ra, Polly muốn ra!’ chú vẹt lại kêu lên lần nữa.

Ôi chú vẹt ngốc nghếch,’ cô Mathilda trả lời. ‘Em đã ở bên ngoài rồi còn gì, chị sẽ để em lên cái cành của em.’ Nói vậy, cô để chú vẹt lên một thanh ngang cỡ một mét rưỡi một đầu có gắn khay. Cô buộc cẩn thận một sợi dây quanh chân chú vẹt, rồi đổ đầy nước và hạt thức ăn vào trong bát của chú.

Carefully she opened the door of the gilt wire cage and, putting a hand inside, she lifted the somewhat tattered old parrot and gently drew him through the opened cage door. ‘Polly want out, Polly want out!‘ squawked the parrot again.

Oh, you stupid bird,‘ replied Miss Mathilda. ‘You ARE out, I am going to put you on your perch.‘ So saying, she put the parrot on the crossbar of a five foot pole which at its distal end resulted in a tray or catch-pan. Carefully she put a little chain around the parrot’s left leg, and then made sure that the water bowl and the seed bowl at one end of the support were full.

Chú vẹt xù long ra và rúc đầu vào dưới cánh, phát ra một tiếng chiêm chiếp. ‘Polly ạ,’ cô Mathilda nói, ‘em nên đến đọc cuốn sách này cùng chị. Nó nói về chúng ta là gì khi mà chúng ta không ở đây. Chị ước chị có thể biết được những điều mà tác giả thật sự tin.’ Cô vừa nói vừa ngồi xuống và rất cẩn thận cô sửa lại cái váy để đầu gối không bị lộ ra.

Cô lại cầm quyển sách lên và ngần ngừ giữa việc để sách lên đùi hay cầm lên đọc. Cô để quyển sách xuống, với tay lấy một chiếc kim đan dài. Và với sự hăng hái đáng ngạc nhiên ở một phụ nữ đã luống tuổi, cô thích thú gãi sống lưng chỗ giữa hai bả vai. ‘Ah!’, cô kêu lên, ‘thật dễ chịu làm sao. Chắc hẳn là áo bên trong của mình có vấn đề. Hoặc là chỗ đó lông đang mọc. Mình sẽ gãi tiếp, thật dễ chịu làm sao.’ Cô tiếp tục gãi bằng cái kim đan một cách hăng hái, gương mặt tỏ rõ sự thích thú.

The parrot ruffled its feathers and then put its head beneath one wing, making cooing chirping noises as it did so. ‘Ah, Polly,‘ said Miss Mathilda, ‘you should come and read this book with me. It’s all about the things we are when we are not here. I wish I knew what the author really believed,‘ she said as she sat down again and very carefully and modestly arranged her skirts so that not even her knees were showing.

She picked up the book again and then hesitated halfway between lap and reading position, hesitated and put the book down while she reached for a long knitting needle. And then with a vigour surprising in such an elderly lady-she gave a wholly delightful scratch all along her spine between the shoulder blades. ‘Ah!‘ she exclaimed, ‘what a wonderful relief that is. I am sure there is something wrong with my liberty bodice. I think I must have got a rough hair there, or something, let me scratch again, it’s such a relief.‘ With that she agitated the knitting needle vigorously, her face beaming with pleasure as she did so.

Bằng cách đó cơn ngứa đỡ đi một chút, cô đặt cái kim đan xuống và cầm quyển sách lên. ‘Cái chết,’ cô tự nói với mình, hoặc là với chú vẹt chằng có hứng thú gì với chuyện cô đang nói, ‘giá mà mình có thể biết được tác giả THỰC SỰ tin vào điều gì sau khi chết.

Cô dừng đọc lại một lúc, với tay lấy vài cái kẹo cô để ở sau chậu măng tây. Và rồi thở dài, cô đứng lên đưa cho chú vẹt đang nhìn cô một cách giận dỗi một cái kẹo. Chú vẹt mổ lấy cái kẹo và giữ nó trong mỏ. Cô Mathilda một tay cầm kim đan, mồm ngậm kẹo, tay kia cầm quyển sách lại ngồi xuống và tiếp tục đọc.

With that item behind her, and her itch settled for the moment, she replaced the knitting needle and picked up the book. ‘Death,‘ she said to herself, or possibly to the unheeding parrot, ‘if I only knew what this author REALLY believed about after death.

She stopped for a moment and reached to the other side of the aspidistra bowl so that she could pick up some soft candies she had put there. Then with a sigh she got to her feet again and passed one to the parrot which was eyeing her very fiercely. The bird took it with a snap and held it in its beak. Miss Mathilda, with the knitting needle now in one hand again and candy in her mouth and the book in her left hand, settled herself again and continued her reading.

Cô đọc thêm được vài dòng rồi lại dừng lại. ‘Vì sao đức cha luôn nói rằng nếu ai đó không phải là một con chiên ngoan đạo – một người ngoan đạo và theo đạo Thiên Chúa – người đó sẽ không thể nào đến được nước thiên đàng. Mình không biết liệu có phải đức cha đã sai và liệu có phải tín đồ của những tôn giáo khác cũng sẽ đến được thiên đàng hay không.’ Cô lại chìm vào yên lặng, ngoại trừ một vài tiếng lẩm bẩm nhỏ cô phát ra khi cô cố hình dung ra những khái niệm xa lạ. Kí ức của vũ trụ, di chuyển bằng thể vía, các cảnh giới cao …

A few lines on she stopped again. ‘Why is it that the Father always says that if one is not a good Catholic – a good Church-attending Catholic – one is not able to attain to the Kingdom of Heaven? I wonder if the Father is wrong and if people of other religions go to Heaven as well.‘ She lapsed into silence again except for the faint mumbling that she made as she tried to visualise some of the more unfamiliar words. Akashic Record, astral travel, the Heavenly Fields.

Mặt trời đã đi qua mái nhà và cô Mathilda vẫn đang ngồi đọc sách. Chú vẹt với cái đầu rúc vào sau cánh đã ngủ yên. Chỉ có một vài cử động nhỏ không đủ để phá đi sự yên lặng. Bỗng một tiếng chuông nhà thờ xa xa vọng lại khiến cô Mathilda giật mình. ‘Ôi chúa ơi – ôi chúa ơi,’ cô kêu lên, ‘mình quên mất cả việc pha trà và việc mình phải đi dự buổi họp của hội phụ nữ nhà thờ.’ Cô vội vàng đứng lên, cận thận đặt một cái hình thêu vào trong quyển sách bìa giấy rồi giấu quyển sách vào bên dưới cái bàn may.

Cô đi pha trà và lẩm bẩm một mình trong lúc pha. ‘Ôi, mình thực sự muốn biết những điều mà tác giả thực sự tin – mình thực sự muốn được nói chuyện với người này. Chắc hẳn sẽ thú vị lắm!

The sun moved across the top of the house and Miss Mathilda sat and read. The parrot, with head beneath a wing, slept on. Only an infrequent twitch betrayed any sign of life. Then a church clock chimed away in the distance and Miss Mathilda came to life with a jerk. ‘Oh my goodness me – oh my goodness me,‘ she exclaimed, ‘I’ve forgotten all about tea and I have to go to the Church Women’s Meeting.‘ She jumped rapidly to her feet, and very carefully put an embroidered into the paperback book which she then hid beneath a sewing table.

She moved away to prepare her belated tea, and as she did so only the parrot would have heard her murmur, ‘Oh, I do wish I knew what this author really believed – I do wish I could have a talk with him. It would be such a comfort!

Cách xa đó tại một hòn đảo nắng rực rỡ không tên, mặc dù đáng lẽ nó phải được đặt tên, một người đàn ông da màu đang vươn vai một cách uể oải bên dưới tán cây um tùm của một cái cây cổ thụ. Một cách lười biếng anh ta đặt quyển sách đang đọc xuống và đưa tay lên với một trái cây chín ngọt đang đung đưa đầy quyến rũ gần đó. Anh hái nó một cách lơ đãng, kiểm tra xem có côn trùng không rồi cho vào miệng.

On a far off sunny island which shall be nameless, although, indeed, it could be named for this is true, a Gentleman of Colour stretched languorously beneath the ample shade of an age-old tree. Lazily he put down the book which he was reading and reached up for a luscious fruit which was dangling enticingly nearby. With an idle movement he plucked the fruit, inspected it to see that it was free of insects, and then popped it in his capacious mouth.

Được,’ anh ta lẩm bẩm trong lúc nhai nhồm nhoàm. ‘Được, mình chắc chắn không biết tác giả đang hướng đến điều gì. Nhưng mà mình thực sự muốn biết những điều mà ông ta tin.

Anh ta lại vươn vai và ngồi lại thoải mái hơn, lưng dựa vào thân cây. Anh ta lơ đãng đưa tay đập một con ruồi bay ngang qua nhưng đập trượt. Anh ta phẩy tay thêm vài cái nữa rồi lại cầm quyển sách lên đọc.

Gee,‘ he mumbled over the obstruction of the fruit. ‘Gee, I sure do an know what this cat is getting at. I sure do wish I knew what he really believed.

He stretched again and eased his back into a more comfortable position against the bole of the tree. Idly he swatted at a passing fly, missing he let his hand continue the motion and it idly picked up his book again.

Cuộc sống sau cái chết, di chuyển bằng thể vía, kí ức của vũ trụ.’ Người đàn ông da màu lật lướt qua vài trang sách. Anh ta muốn đến được phần cuối cùng mà không phải đọc hết từng từ của quyển sách. Anh ta đọc một đoạn ở đây, một câu ở kia, rồi lại vu vơ lật sang trang khác. ‘Haiz,’ anh ta lặp lại, ‘giá mà mình biết được điều tác giả tin.

Dần dần đầu người đàn ông da màu gục xuống ngực. Những ngón tay sậm màu từ từ thả lỏng ra và cuốn sách bìa giấy tuột dần từ bàn tay anh ta xuống cát mịn. Người đàn ông da màu lịch thiệp bắt đầu ngáy, và không còn biết gì về mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình.

Life after death, astral travel, the Akashic Record.‘ The Gentleman of Colour rifled through some pages. He wanted to get to the end of the stuff without the necessity of all the work involved in reading it word by word. He read a paragraph here, a sentence there, and then idly turned to another page. ‘Gee,‘ he repeated. ‘I wish I knew what he believed.

But the sun was hot. The hum of the insects soporific. Gradually the Gentleman of Colour’s head sank upon his chest. Slowly his dark fingers relaxed and the paperback book slithered from his nerveless hands and slid down to the gentle sand. The Gentleman of Colour snored and snored, and was oblivious to all that went on about him in the mundane sphere of activity.

Một cậu bé đi ngang qua nhìn thấy Negro đang ngủ và nhìn xuống quyển sách. Vừa để mắt đến người đàn ông đang ngủ cậu bé vừa dùng chân khều lấy quyển sách rồi nhanh nhẹn đưa lên tay. Cầm quyển sách theo mình, cậu bé bỏ đi trông như rất vô tội.

Cậu bé đi băng qua bụi rậm đến một bờ cát trắng sáng chói lòa. Cậu nghe thấy tiếng sóng lớn vỗ bờ nhưng cậu không để ý đến nó vì nó là cuộc sống của cậu, tiếng những con sóng đập vào mỏm đá xung quang cái phá đối với cậu là một âm thanh quen thuộc hàng ngày.

A passing youth glanced at the sleeping Negro and looked down at the book. Glancing again at the sleeper the youth edged forward and with prehensile toes reached and picked up the book which with bent leg he quickly transferred to his hand. Holding the book on the side away from the sleeper he moved away looking too innocent to be true.

Away he went into the little copse of trees. Passing through he came again into the sunlight and to a stretch of dazzling white sand. The boom of the breakers sounded in his ears but went unnoticed because this was his life, the sound of the waves on the rocks around the lagoon was an everyday sound to him. The hum of the insects and the chittering of the cicadas were his life, and, as such, unnoticed.

Cậu bé tiếp tục đi, vừa đi vừa lấy ngón chân bới cát với hy vọng tìm được một kho báu hay một vài đồng xu bị chôn vùi. Chẳng phải một người bạn của cậu đã từng nhặt được một đồng xu vàng bằng cách này?

Một rạch nước hẹp ngăn cách cậu vời một dải đất nơi có ba cái cây đơn độc. Cậu lội qua rạch nước và đi đến chỗ giữa ba cái cây. Cậu cẩn thận nằm xuống và chầm chậm đào một cái hõm nhỏ để đặt mông. Rồi cậu gối đầu một cách thoải mái vào rễ cây và xem quyển sách cậu mới trộm được của người đàn ông ngủ quên.

On he went, scuffling the fine sand with his toes for there was always a hope that some treasure or some coin would be unearthed for hadn’t a friend of his once picked up a golden Piece of Eight while doing this?

There was a narrow strip of water dividing him from a spit of land containing three solitary trees. Wading he soon traversed the interruption and made his way to the space between the three trees. Carefully he lay down and slowly excavated a little pit to hold his hip bone. Then he rested his head comfortably against the tree root and looked at the book which he had filched from the sleeper.

Cậu cẩn thận nhìn xung quanh để chắc là không ai thấy mình và không ai đuổi theo mình. Hài lòng vì mọi thứ đều an toàn, cậu đặt lưng xuống, một tay để lên chà mái tóc quăn tít, một tay vu vơ lật quyển sách, đầu tiên là mặt sau của cuốn sách để đọc lời giới thiệu của nhà xuất bản, sau đó cậu lật quyển sách lại và nghiên cứu hình vẽ với đôi mắt díu lại, vầng trán nhăn tít còn miệng thì tự lẩm bẩm những điều khó hiểu.

Cậu bé gãi đũng quần và kéo quần lên cho thoải mái hơn. Rồi nằm nghiêng người sang bên trái, chống khuỷu tay trái xuống, cậu lật trang sách và bắt đầu đọc.

Carefully he looked around to make sure that he was not observed, to make sure that no one was chasing him. Satisfied that all was safe, he settled back again and rubbed one hand through his woolly hair while with the other he idly turned over the book, first to the back where he read what the publisher had to say, and then he flipped the book over and studied the picture through half-closed slitted eyes and with furrowed brows and puckered lips as he muttered things incomprehensible to himself.

He scratched his crotch and pulled his pants to a more comfortable position. Then, resting on his left elbow, he flipped over the pages and started to read.

Các hình tư tưởng, thần chú, man-oh-man, chẳng phải quá tuyệt sao! Nếu như vậy mình có thể tạo ra một dạng ý nghĩ và Abigail sẽ làm bất cứ điều gì mình muốn cô bé ý làm. Yeah, mình sẽ làm thế.’ Cậu bé trở mình và gõ gõ lên mũi mình một lúc, rồi cậu nói, ‘Không biết mình có thể tin được những điều trong quyển sách này không.

Góc tối của căn phòng mang trong nó một bầu không khí của sự linh thiêng. Mọi thứ đều yên ắng ngoại trừ tiếng thanh củi cháy lép bép trong lò sưởi bằng đá. Cứ một chốc một luồng hơi nước lại phụt ra ngoài và trong cơn giận bay vào ngọn lửa, hơi nước được tạo ra bởi hơi ẩm lưu lại bên trong những thanh củi chưa khô hoàn toàn. Thỉnh thoảng củi lại cháy vỡ vụn và bắn ra những tàn lửa. Ánh sáng rập rình càng khiến căn phòng mang một cảm giác lạ lùng, huyền bí.

Thought forms, mantras, man-oh-man, ain’t that shoresumpin! So maybe I could make a thought form and then Abigail would have to do whatever I wanted her to do. Gee man, yeh, I shore go for that.’ He rolled back and picked at his nose for a bit, then he said, ‘Wonder if I can believe all this.

The shadowed recesses of the room exuded an atmosphere of sanctity. All was quiet except that in the deep stone fireplace logs burned and sputtered. Every so often a jet of steam would shoot out and hiss angrily at the flames, steam generated by moisture trapped within imperfectly dried logs. Every so often the wood would erupt in a little explosion sending a shower of sparks upwards. The flickering light added a strange feeling to the room, a feeling of mystery.

Tại một góc của lò sưởi có một cái ghé bành rất sâu quay lưng ra cửa phòng. Đằng sao cái ghế bành là một cây đèn cổ làm bằng đồng thau. Cây đèn sử dụng một cái bóng vừa phải trong một cái chụp đèn màu xanh, từ cây đèn tỏa ra một ánh sáng dịu và chỉ đủ để chiếu sáng xung quanh lưng ghế.

Từ chiếc ghế vang lên một tiếng ho khan và tiếng lật giấy xột xoạt. Và rồi tất cả lại trở lại im ắng ngoại trừ tiếng lép bép của lửa cháy và tiếng lật giấy đều đặn.

At one side of the fireplace a deep, deep armchair stood with its back facing the door. An old fashioned stand lamp made of brass rods stood beside the chair, and soft light was emitted from the medium powered electric light bulb concealed within the recesses of a green shade. The light went down, and then disappeared from sight because of the obstruction of the back of the chair.

There came a dry cough and the rustling of turning pages. Again there was silence except for the sputtering of a fire and for the regular fingering of paper as read pages were turned to reveal new material.

Ở xa xăm bên ngoài bỗng vang lên một tiếng chuông, một âm thanh ngân nga và lát sau đó là tiếng chân đi xăng đan và một vài tiếng nói xì xầm nhẹ nhàng. Có tiếng cửa mở và một phút sau là một tiếng thịch khi cửa đóng lại. Tiếng đàn organ vang lên cùng với tiếng hát của một người đàn ông. Bài hát tiếp tục trong một lúc, và rồi lại là tiếng sột xoạt và im lặng, và rồi im lặng lại bị phá vỡ bởi những tiếng xì xầm khi ai đó đang kể lại một câu chuyện rất khó hiểu

From the far distance there came the tolling of a bell, a tolling of slow tempo, and then soon there followed the shuffling of sandal-shod feet and the very soft murmur of voices. Thee was a clang of an opening door, and a minute later a hollow thud as the door was shut. Soon there came sounds of an organ and male voices raised in song. The song went on for some time and then there was rustling followed by silence, and the silence was destroyed by mumbling voices murmuring something incomprehensible but very well-rehearsed.

Trong phòng, một quyển sách rơi xuống đất gây ra một tiếng động khiến người ta giật mình. Và rồi một bóng người đứng lên. ‘Ôi Chúa ơi, chắc hẳn là mình đã ngủ quên. Một điều đáng ngạc nhiên làm sao!’ Người mặc áo choàng đó cúi xuống nhặt quyển sách và cẩn thận lật lại đúng trang. Một cách cẩn trọng ông ta đặt vào trong đó một cái đánh dấu trang, và thành kính đặt quyển sách lên trên cái bàn thấp bên cạnh. Ông ngồi đó trong một lúc, tay đan vào nhau và vầng trán nhăn lại, sau đó ông đứng lên khỏi ghế và quì xuống trước cây thánh giá trên tường. Trong tư thế quì, chắp tay, đầu cúi xuống, ông cầu nguyện để mong một sự hướng dẫn. Khi đã xong, ông đứng lên đi về phía lò sưởi và thêm vài thanh củi vào đống than hồng đang cháy rực. Và cứ thế ông thu mình ngồi bên cạnh cái lò sưởi bằng đá, hai tay ôm lấy đầu.

In the room there was a startling slap as a book fell to the floor. Then a dark figure jumped up. ‘Oh my goodness me, I must have fallen asleep. What a perfectly astonishing thing to do!‘ The dark robed figure bent to pick up the book and carefully opened it to the appropriate page. Meticulously he inserted a bookmark, and quite respectfully placed the book on the table beside him. For some moments he sat there with hands clasped and flurried brow, then he lifted from the chair and dropped to his knees facing a crucifix on the wall. Kneeling, hands clasped, head bowed, he muttered a prayer of supplication for guidance. That completed he rose to his feet and went to the fireplace and placed another log on the brightly glowing embers. For some time he sat crouched at the side of the stone fireplace with head cupped between his hands.

Đột nhiên ông vỗ đùi và đứng bật dậy. Ông nhanh nhẹn đi băng qua căn phòng tối đến bàn làm việc nằm trong một góc tối. Ông vội vàng kéo một sợi dây và ánh sáng ấm áp ngay lập tức lan tỏa ra khắp góc phòng. Ông ngồi xuống ghế và trong một lúc ông nhìn chằm chằm vào tờ giấy để trước mặt. Rồi ông đưa tay phải ra định lấy quyển sách ở bên cạnh nhưng nhận ra là quyển sách không có ở đó, ông lẩm bẩm một vài từ không hài lòng rồi đứng lên và đến bên cái bàn thấp cạnh ghế bành để lấy quyển sách.

On a sudden impulse he slapped his thigh and jumped to his feet. Rapidly he crossed the dark room and moved to a desk concealed in the shadows. A quick movement, a pull at a cord, and that corner of the room was flooded with warm light. The figure drew back a chair and opened the lid of the desk, and then sat down. For a moment he sat gazing blankly at the sheet of paper he had just put before him. Absently he put out his right hand to feel for the book that wasn’t there, and with a muttered exclamation of annoyance he rose to his feet and went to the chair to pick up the book deposited on the chair side table.

Ông quay lại ngồi xuống ghế và lật nhanh qua những trang sách cho đến khi tìm thấy cái mình cần – một địa chỉ. Ông nhanh nhẹn ghi địa chỉ lên phong bì, sau đó ông lại ngồi ngẫm nghĩ, sắp xếp lại những ý tưởng của mình, băn khoăn không biết nên làm gì, nên diễn đạt thế nào những điều ông muốn nói.

Rồi ông bắt đầu viết trong một không gian yên lặng, chỉ có tiếng sột soạt của ngòi bút và tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ đằng xa.

Thưa bác sĩ Rampa,’ bức thư bắt đầu, ‘tôi là một linh mục thiên chúa giáo và đồng thời cũng là một giảng viên về Nhân văn tại trường đại học của chúng tôi. Tôi đã đọc các cuốn sách của ngài với một sự quan tâm lớn.

Back at the desk he sat and rifled through the pages until he found that which he sought-an address. Quickly he addressed an envelope and then sat and pondered, sorting out his thoughts, wondering what to do, wondering how to phrase the words he wanted to use.

Soon he put nib to paper and all was quiet except for the scratching of a nib and the ticking of a distant clock. ‘Dear Dr. Rampa,‘ the letter commenced, ‘I am a Jesuit priest. I am a lecturer in the Humanities at our College, and I have read your books with more than the normal interest.

Tôi tin rằng chỉ những ai đi theo tôn giáo của chúng tôi mới nhận được sự cứu rỗi thông qua máu của đức Jesus Christ. Tôi tin điều đó khi tôi dạy sinh viên của mình. Tôi tin điều đó khi tôi ở bên trong nhà thờ. Nhưng lúc chỉ còn lại một mình khi đêm đã khuya, khi mà không có ai ở đó để theo dõi hành động và phân tích suy nghĩ của tôi thì tôi lại băn khoăn. Liệu đức tin của tôi có là đúng đắn? Có phải sẽ không một ai ngoại trừ những người thiên chúa giáo sẽ được cứu rỗi? Thế còn những tôn giáo khác thì sao? Chẳng nhẽ họ đều sai và đều làm việc cho quỉ dữ? Liệu có phải tôi và những người cùng có đức tin như tôi đã bị lừa dối? Các cuốn sách của ngài đã khai sáng cho tôi rất nhiều và đã giúp tôi giải đáp những nghi ngờ về lĩnh vực tâm linh mà tôi có liên quan. Thưa ngài, liệu ngài có thể trả lời một vài câu hỏi của tôi. Câu trả lời của ngài có thể khai sáng thêm cho tôi hoặc làm cho niềm tin của tôi thêm mạnh mẽ.

I believe that only those who follow our own form of religion are able to obtain Salvation through the blood of Our Lord Jesus Christ. I believe that when I am teaching my students. I believe that when I am within the Church itself. But when I am alone in the dark hours of the night, when there is none to watch my reactions or analyse my thoughts then I wonder. Am I right in my Belief? Is there no one except a Catholic who may be saved? What of other religions, are they all false, are they all works of the devil? Or have I and others of my Belief been misled? Your books have shed much light and enabled me greatly to resolve the doubts of the spirit in which I am involved, and I would ask you, Sir, will you answer me some questions so that you may either shed some new light or strengthen that in which I believe.

Một cách cẩn thận ông ghi tên mình lên bức thư. Trong lúc ông gấp bức thư lại và để nó vào phong bì, một ý nghĩ chợt đến với ông. Ông nhanh chóng lấy bức thư ra, có phần xấu hổ ông mở nó ra và ghi thêm vào : ‘Tôi xin ngài, vì danh dự một người đã cống hiến hết mình cho đức tin của mình, hãy không tiết lộ tên của tôi cũng như việc tôi đã viết thư cho ngài, vì việc đó là trái với các luật lệ của Bề trên.’ Ông kí tên, làm khô mực, nhanh chóng nhét bức thư vào trong phong bì và niêm phong nó. Ông lục tìm trong đống giấy tờ cho đến khi tìm thấy một quyển sách, ông viết vào trong đó một cái điện tín gửi đến Canada. Ông lục tìm trong các ngăn kéo và hộc tủ và cuối cũng cũng tìm thấy một con tem để dán lên phong bì. Vị linh mục cẩn thận đặt bức thư vào túi trong của áo choàng, đứng dậy tắt đèn và rời căn phòng.

Carefully he appended his name. Carefully he folded the letter and was inserting it in the envelope when a thought occurred to him. Quickly, almost guiltily, he snatched out the letter, unfolded it, and indicted a postscript: ‘I ask you of your honour as one devoted to your own Belief not to mention my name nor that I have written to you as it is contrary to the rules of my Order.‘ He initialled it, dried the ink, and then quickly inserted the folded letter in the envelope and sealed it. He fumbled among his papers until he found a book, and in that he made a note of the postage to Canada. Searching in drawers and pigeonholes eventually produced the appropriate stamps which were affixed to the envelope. The priest then carefully tucked the letter in the inner recesses of his gown. Rising to his feet he extinguished the light and left the room.

A thưa Đức Cha,’ một giọng nói vọng ra ngoài hành lang, ‘có phải cha định đi ra phố? Con có thể làm gì giúp cha không? Con phải đi làm vài công chuyện vặt và con xin sẵn lòng giúp việc cho cha.

Không, cám ơn người anh em,’ vị giáo sư già trả lời cấp dưới của mình, ‘Cha định đi ra phố, tập một vài động tác thể dục cần thiết. Vậy nên cha nghĩ cha sẽ đi dạo xuống con phố chính.’ Hai người cúi chào nhau trịnh trọng và mỗi người đi một đường riêng, vị giáo sư già đi ra khỏi tòa nhà cũ bằng đá xám đã nhuốm màu thời gian và bị che phủ một nửa bởi những cây thường xuân leo trên tường. Một cách chậm rãi ông đi bộ dọc theo con phố chính, tay cầm chặt cây thánh giá, miệng lẩm nhẩm một mình như thói quen của những người trong Giáo Hội của ông.

Ah Father,‘ said a voice out in the corridor, ‘are you going into the town or can I do anything for you there? I have to go on an errand and I should be happy to be of service to you.

No thank you, Brother,‘ replied the senior professor to his subordinate, ‘I have a mind to take a turn in the town and to get some much needed exercise, so I think I will just stroll down to the main street.‘ Gravely they took a half bow to each other, and each went his own way, the senior professor went out of the age-old building of grey stone stained with age and half covered with climbing ivy. Slowly he walked along the main drive, hands clasped about his crucifix, mumbling to himself as was the wont of those of his Order.

Trên con phố chính ngay bên ngoài cổng lớn, mọi người kính cẩn cúi chào khi trông thấy ông và nhiều người làm dấu thánh giá. Vị giáo sư già chậm rãi đi xuống phố đến chỗ thùng thư bên ngoài bưu điện. Ông nhìn quanh một cách xấu hổ, lén lút xem có ai ở trong Giáo Hội đang ở gần đó không. Hài lòng vì mọi thứ đều an toàn, ông lấy bức thư ra khỏi áo choàng và thả nó vào hòm thư. Rồi với một trái tim nhẹ nhõm, ông trở lại con đường vừa nãy.

In the main street just beyond the great gate people bowed respectfully at his appearance, and many crossed themselves. Slowly the elderly professor walked down the street to the letter box outside the post office. Guiltily, surreptitiously he looked about him to see if any of his Order were nearby. Satisfied that all was secure he removed the letter from his robes and flicked it into the letter box. Then with a heartfelt sigh of relief he turned and retraced his steps.

Quay lại với công việc nghiên cứu riêng, bên cạnh ngọn lửa cháy rực rỡ và ngọn đèn chiếu ánh sáng mờ lên trang sách, ông tiếp tục đọc trong nhiều giờ khi đêm đã khuya. Cuối cùng ông đóng cuốn sách lại, khóa nó trong ngăn kéo và đi về phòng mình. Ông vừa đi vừa lẩm bẩm một mình, ‘Mình nên tin vào điều gì đây, mình nên tin vào điều gì đây?

Bầu trời đầy mây mù nặng nề che phủ màn đêm ở Luân Đôn. Cơn mưa dày quét qua những con phố sứt mẻ với những người đi đường vội vã tay nắm chặt chiếc ô đang oằn lại vì gió. Luân Đôn, ánh sáng của Luân Đôn, và những con người đang hối hả đi về nhà sau một ngày làm việc. Những chiếc xe buýt khổng lồ màu đỏ phi nhanh bắn tung nước lên vỉa hè và lên những nhóm người đang run rẩy tránh những tia nước bẩn.

Back in his private study, again by the side of the sparkling fire and with a well-shaded light casting illumination on his book, he read and read deep into the hours of the night. At last he closed the book, locked it away, and went off to his cell murmuring to himself, ‘What should I believe, what should I believe?

The lowering sky gazed dourly upon night time London. The teeming rain swept down upon the shivering streets scurrying passers-by with grimly held umbrellas braced against the wind. London, the lights of London, and people hurrying home from work. Buses roared by, great giant red buses scattering water all over the sidewalks, and shivering groups of people trying to avoid the dirty spray.

Ở đằng trước cửa hàng, mọi người túm tụm đợi xe buýt đến, vội vàng lao ra ngoài khi có một chiếc xe bus tiến lại và rồi lại thất vọng quay vào khi thấy con số xe chỉ sang tuyến khác. Luân Đôn, một nửa thành phố đã về nhà, và nửa còn lại vẫn đang làm việc.

In shop fronts people huddled in groups waiting for their own buses to come along, dashing out eagerly as a bus came along and then slinking back despondently as the indicators showed the wrong numbers. London, with half the city going home, and another half coming on duty.

Tại phố Harley, trung tâm y khoa của Luân Đôn, một người đàn ông tóc màu xám đi đi lại lại trên tấm thảm bằng da gấu trước mặt một ngọn lửa đang cháy phập phùng. Ông ta đi lại, chắp tay sau lưng còn đầu thì cúi. Rồi bất thình lình ông quăng người vào trong cái ghế bành bằng da êm ái và lấy từ túi áo ra một quyển sách. Ông ta lật nhanh các trang sách cho đến khi ông tìm được đoạn ông ta cần, một đoạn nói về hào quang của con người. Ông đọc nó, và sau khi đã đọc xong lại đọc thêm một lần nữa. Rồi ông ngồi đó và nhìn chăm chăm vào ngọn lửa, cuối cùng khi đã tìm được lời giải ông ta gật gật đầu và đứng dậy. Ông nhanh chóng rời khỏi căn phòng và đi sang một phòng khác. Một cách cẩn thận ông khóa cánh cửa sau lưng mình lại và tiến đến bàn làm việc. Gạt sang một bên rất nhiều báo cáo y khoa và các chứng chỉ cần phải được kí, ông ngồi xuống và lấy ra từ ngăn kéo một tập giấy cá nhân.

In Harley Street, the heart of London’s medical world, a grey haired man paced restlessly on a bearskin rug in front of a roaring fire. Back and forth he strode, hands clasped behind his back, head bowed upon his chest. Then on impulse he flung himself into a well-padded leather armchair and pulled a book out of his pocket. Quickly he flipped through the pages until he found the passage he needed, a passage about the human aura. He read it again, and having read it turned back and read it once more. For a time he sat gazing into the fire, then he nodded in resolution and jumped to his feet. Quickly he left the room and went into another. Carefully he locked the door behind him and went to his desk. Pushing aside a lot of medical reports and certificates yet to be signed, he sat down and took some private notepaper from a drawer.

Thưa bác sĩ Rampa,’ ông ta viết bằng một thứ chữ viết tay gần như không thể đọc nổi. ‘Tôi đã đọc cuốn sách của ngài với một niềm đam mê tuyệt đối, một niềm đam mê được tăng thêm bởi niềm tin và bởi kinh nghiệm của chính bản thân tôi – rằng những điều ngài viết là sự thật.

Ông ta ngồi lại và đọc những gì vừa viết, và để hoàn toàn chắc chắn ông ta lại đọc thêm một lần nữa trước khi gút lại, ‘Tôi có một đứa con trai, một đứa bé rất thông minh và nó vừa trải qua một cuộc phẫu thuật não. Từ sau khi phẫu thuât, nó nói với chúng tôi rằng nó có thể nhìn thấy những màu sắc kì lạ xung quanh cơ thể con người, nó có thể nhìn thấy ánh sáng bên trên đầu mỗi người, và không chỉ đầu con người, không chỉ cơ thể con người mà cả động vật nữa. Trong một thời gian chúng tôi đã nghĩ rất nhiều về vấn đề này, băn khoăn không biết liệu có phải chúng tôi đã làm gì sai trong cuộc phẫu thuật, nghĩ rằng có thể là chúng tôi đã làm xáo trộn thần kinh nhãn quang của thằng bé. Nhưng sau khi đọc xong cuốn sách của ngài chúng tôi đã hiểu rõ hơn; con trai tôi có thể nhìn thấy hào quang của con người, chính vì thế tôi biết rằng những điều ngài viết đều là sự thật.

Tôi rất mong được gặp ngài nếu ngài đến Luân Đôn vì tôi tin rằng ngài có thể đem lại một sự hỗ trợ rất lớn cho con trai tôi. Thân ái.

Dear Dr. Rampa,‘ he wrote in an almost indecipherable handwriting, ‘I have read your book with absolute fascination, a fascination heightened very greatly by my own belief – by my own knowledge – that what you write is true.

He sat back and carefully read what he had just written, and to be quite sure he read it once again before resuming, ‘I have a son, a bright young fellow, who recently had an operation to his brain. Now, since that operation, he tells us that he is able to see strange colours around human bodies, he is able to see lights about the human head, but not only the human head, not only the human body – animals as well. For some time we have thought deeply on this matter, wondering what it was that we did wrong in the operation, thinking perhaps that we had disorganised his optic nerve, but after reading your book we know better; my son can see the human aura, therefore I know that you write the truth.

I should very much like to meet you if you are in London because I think you may be able to be of enormous assistance to my son. Yours very sincerely.

Ông ta đọc lại lần nữa những gì vừa viết, và rồi, giống như vị linh mục kia, khi đang chuẩn bị gấp thư lại cho vào trong phong bì, mắt ông dừng lại trên một nhóm hướng đạo sinh y khoa. Vị bác sĩ chuyên khoa giật mình như thể bị ong đốt và nhanh chóng ông ta cầm bút lên thêm vài dòng vào bức thư. ‘Tôi tin tưởng rằng ngài sẽ không tiết lộ tên của tôi hoặc nội dung của bức thư này cho bất kì ai vì nó có thể làm hại đến uy tín của tôi trong mắt các đồng nghiệp.’ Ông ta cẩn thận kí tên, gấp bức thư lại và cho nó vào trong phong bì, sau đó tắt đèn và ra khỏi căn phòng. Bên ngoài, chiếc xe đắt tiền của ông ta đang đợi sẵn. Người tài tỏ ra chú ý khi vị bác sĩ chuyên khoa nói, ‘lái xe tới bưu điện ở quảng trường Leicester.’ Chiếc xe lăn bánh, chẳng mấy chốc bức thư sẽ được thả vào bên trong thùng thư và cuối cũng sẽ đến được đích.

He reread what he had written, and then, like a priest before him, was about to fold the letter and insert it in an envelope, but his eyes fell upon the bust of a medical pioneer. The specialist started as if he had been stung by a bee and quickly grabbed his pen again and added a postscript to his letter. ‘I trust that you will not reveal my name or the contents of this letter to anyone because it would injure my status in the eyes of my colleagues.‘ Carefully he initialled it, folded it and put it in its envelope. Carefully he extinguished the lights and left the room. Outside his very expensive car was waiting. The chauffeur jumped to attention as the specialist said, ‘To the post office in Leicester Square.‘ The car drove off and soon the letter was dropped into the letter box and eventually reached its destination.

Và cứ như vậy tôi nhận được những bức thư từ nơi này đến nơi khác, từ mọi nơi, từ Bắc tới Nam, từ Đông sang Tây – vô vàn những bức thư tất cả đều yêu cầu câu trả lời, tất cả đều khẳng định rằng vấn đề họ gặp phải là duy nhất và chưa từng có ai bao giờ đã gặp phải một vấn đề tương tự. Những bức thư chỉ trích, những bức thư khen ngợi, những bức thư khẩn cầu. Tôi nhận được một bức thư từ Trinidad được viết trên một tờ giấy của học sinh loại rẻ tiền nhất và bằng một chữ viết tay của một người hoàn toàn thất học; ‘Tôi là một nhà truyền giáo, tôi làm việc vì lợi ích của Chúa. Hãy gửi cho tôi mười nghìn đô la và một cỗ xe mới. À phải rồi, và nếu ông gửi cho tôi loạt sách của ông miễn phí thì khi đó tôi sẽ tin những điều ông viết.

And so the letters came in, letters from Here, letters from There, letters from Everywhere, from the North to the South, and from the East to the West – letters, letters, letters, an unending shoal of letters all demanding an answer, all asserting that their own problems were unique and no one ever before had such problems. Letters of condemnation, letters of praise, letters of supplication. From Trinidad came a letter written on the cheapest form of school exercise paper in an absolutely illiterate handwriting; ‘I am a Holy Missionary, I am working for the good of God. Give me ten thousand dollars and a new station wagon. Oh yes, and while you are about it send me a free set of your books and then I shall believe what you write.

Một bức thư khác đến từ Singapore của hai chàng trai Trung Quốc trẻ tuổi: ‘Chúng tôi muốn trở thành bác sĩ. Chúng tôi không có tiền. Chúng tôi muốn ông hãy trả tiền cho chuyến bay hạng nhất của chúng tôi để đi từ Singapore đến nơi ông ở, rồi sau đó chúng ta sẽ nói chuyện. Chúng tôi sẽ nói cho ông làm thế nào ông có thể cho chúng tôi tiền để chúng tôi được đào tạo thành bác sĩ và giúp ích cho nhân loại. Ông cũng có thể gửi thêm cho chúng tôi một ít tiền để chúng tôi có thể đi gặp bạn ở New York, Mỹ. Làm như vậy cho chúng tôi là ông sẽ làm được việc tốt cho người khác, và khi đó chúng tôi sẽ tin.

Tôi nhận được hàng trăm hàng nghìn bức thư, tất cả đều yêu cầu câu trả lời. Chỉ một vài, vô cùng ít ỏi, nghĩ tới chi phí của việc viết, giấy bút và tiền gửi thư. Họ viết, ‘Hãy kể cho chúng tôi nhiều hơn về sau cái chết. Nói cho chúng tôi nhiều hơn về cái chết thực sự là gì. Chúng tôi không hiểu về cái chết, ông không nói đủ cho chúng tôi biết, ông không nói rõ ràng. Hãy nói cho chúng tôi biết mọi thứ.

From Singapore came a letter from two young Chinese men: ‘We want to become doctors. We have no money. We want you to pay our first class air fare from Singapore to your home, and then we will talk to you and tell you how you can give us the money so that we may be trained as doctors and do good for mankind. And you might send us extra money so we can see a friend of ours in New York, America. Do that for us and you will be doing good for people, and then we will believe.

The letters came in, in their hundreds, in their thousands, all demanding an answer. Few, a pitiful few, even thought of the expense of writing, of stationery, of postage. They wrote, ‘Tell us more about what happens after death. Tell us more what IS death. We don’t understand about dying, you don’t tell us enough, you don’t make it clear. Tell us everything.

Những người khác viết, ‘Hãy nói cho chúng tôi về tôn giáo, liệu chúng tôi có hy vọng sau kiếp sống này không khi mà chúng tôi không phải là người theo đạo thiên chúa?’ Còn một người khác thì viết, ‘Hãy cho tôi một câu thần chú để tôi có thể thắng trong Sweepstake Ai len. Và nếu tôi được giải nhất một triệu trong Sweepstake Ai len tôi sẽ cho ông mười phần trăm.

Và một người khác thì viết, ‘Tôi sống ở New Mexico, có một cái mỏ bị thất lạc ở đây. Hãy nói cho tôi cái mỏ bị thất lạc ở đâu – ông có thể đi vào thể vía để tìm nó – và nếu ông nói được cho tôi biết nó ở đâu để tôi tìm ra và chiếm được nó, tôi sẽ tặng ông một khoản tiền thù lao.

Mọi người viết rằng tôi nên kể thêm cho họ, kể hết cho họ, kể không thiếu gì cho họ để họ có thể biết được nên tin vào điều gì.

Others wrote, ‘Tell us about religions, tell us if we have a hope after this life when we are not Catholics.‘ Yet others wrote, ‘Give me a mantra so that I can win the Irish Sweepstake, and if I win the first prize of a million in the Irish Sweepstake I’ll give you ten percent.

And yet another person wrote, ‘I live in New Mexico, there is a lost mine here. Tell me where is the lost mine – you can go into the astral and find it – and if you tell me where it is and I find it and make it mine I will give you a present of some money for your services.

People wrote that I should tell them more, tell them all, tell them more than all so that they would know what to believe.

Bà Sheelagh Rouse ngồi nghiêm nghị tại bàn làm việc, gọng kính bằng vàng treo lỏng lẻo trên sống mũi và cứ chốc chốc bà lại phải đưa ngón tay lên đẩy nó về đúng chỗ.

Bà nhìn ra một chiếc xe lăn đi ngang qua cửa và nói, có phần quyết liệt ‘Ông đã viết mười sáu quyển sách rồi, tại sao ông không viết thêm quyển thứ mười bảy để nói cho mọi người biết họ CÓ THỂ tin điều gì? Hãy nhìn tất cả những bức thư yêu cầu một cuốn sách khác, yêu cầu ông nói cho họ điều họ có thể tin xem – tôi sẽ đánh máy nó cho ông!’ bà vui vẻ kết luận.

Mrs. Sheelagh Rouse sat grimly at her desk, her gold rimmed glasses were perched precariously on the bridge of her nose and every so often she would put a finger up and push them back into place.

She looked at the wheelchair passing her door and said, somewhat fiercely, ‘You’ve only written sixteen books, why not write another, the seventeenth, telling people what they CAN believe? Look at all the letters you’ve had asking for another book, asking you to tell them what they can believe – I’ll type it for you!‘ she concluded brightly.

Cô mèo Tadalinka và cô mèo Cleopatra Rampa ngồi ở ngoài hành lang đằng trước cái xe đẩy với vẻ mãn nguyện. Cô mèo Taddy thì mải suy nghĩ, gãi tai trái bằng chân trái khi đang tập trung vào một cuốn sách khác. Thỏa mãn, cô đứng lên và khệnh khạng đi về cái ghế yêu thích của mình.

Mẹ San Ra’ab Rampa ngước nhìn lên với một vẻ mặt có phần nhợt nhạt và kinh ngạc. Không nói gì – có thể bà không nói nên lời! – bà đưa cho tôi một mảnh giấy màu xanh dương với đầu đề ‘Mẹ San Ra’ab Rampa, cây liễu mềm’, ở giữa trang tôi thấy khuôn mặt tím bầm của mình như thể tôi đã chết quá lâu và không được chôn cất kip thời. Và bên dưới là cái mặt rất kì cục của con mèo Siamese mà tôi chưa thấy bao giờ. Tôi không thôt nên lời mất một lúc, nhưng tôi cho là thật tốt được thấy cái bìa cuốn sách đầu tay của ai đó. Tôi lưỡng lự vì đây là quyển sách thứ mười bảy và không còn gì mới lạ nữa. Nhưng, ‘Mẹ San,’ tôi nói, ‘thế bà, BÀ nghĩ gì về một cuốn sách khác? Liệu có đáng để cố gắng không khi mà tôi bị mắc kẹt trên giường như một kẻ ngốc, hay là tôi nên từ bỏ?

Miss Tadalinka and Miss Cleopatra Rampa sat in the corridor in front of the wheelchair and smiled contentedly. Miss Taddy, deep in thought, had to scratch her left ear with her left foot while she concentrated on the implications of yet another book. Satisfied she rose to her legs and waddled away back to her favourite chair.

Mama San Ra’ab Rampa looked up with a rather pale bemused expression on her face. Without a word – perhaps she was speechless! – she handed me a piece of blue card with a heading of ‘Mama San Ra’ab Rampa, Pussywillow‘, and then in the centre of the page I saw my own face in blue just as if I had been dead for too long and dug up too late. And below that, the weirdest looking Siamese cat face I have ever seen. Well, for a time it left me speechless, but I suppose that it is nice to see the first cover of one’s first book. I am biased because this is my seventeenth and there is no longer any novelty. But, ‘Mama San,‘ I said, ‘what do YOU think of another book? Is it worth all the effort with me stuck in bed like a stupid dummy, or shall I give it up?

Mẹ San vẫn còn xúc động vì cái bìa sách đầu tiên của mình, chợt tỉnh ra và nói, ‘Ồ vâng, tất nhiên là ông nên viết một cuốn sách rồi. Tôi còn đang định viết cuốn thứ hai đây!

Cô Cleo Rampa và cô Taddy Rampa hít hà cái bìa sách và quay đi với cái đuôi nghoe nguẩy trong không khí. Có vẻ như cái bìa sách đã được chúng chấp thuận.

Đúng lúc đó thì chuông điện thoại vang lên. Người gọi là John Henderson lúc đó đang ở trong một miền đấy hoang dã của nước Mỹ, nơi hợp lưu của rất nhiều dòng nước. Cậu ta nói, ‘Chào ông chủ. Cháu đã đọc được rất nhiều bài báo khen ngợi ông. Có một bài rất hay ở trong một tạp chí mà cháu đã gửi cho ông.

Mama San metaphorically uncrossed her eyes after the impact of her first book cover, and said, ‘Oh yes, of course you should write a book. I am thinking of writing my second!

Miss Cleo Rampa and Miss Taddy Rampa took a good sniff at the cover and walked away with their tails in the air. Apparently it met with their approval.

Just then the telephone rang and it was John Henderson, away in the wilds of the U.S.A., at the confluence of many waters. He said, ‘Hi Boss, I’ve been reading some very good articles in praise of you. There’s a good one in the magazine I’ve sent on to you.

John à,’ tôi trả lời. ‘tôi không thể để ý nổi tới hai tiếng la ó, hay thậm chí là một tiếng la ó trong các tạp chí và bài báo viết về tôi. Tôi không đọc chúng bất luận chúng là những bài viết hay hay dở. Có điều, thế cậu, CẬU nghĩ gì về một cuốn sách khác, cuốn sách thứ mười bảy?

Được, thưa ông,’ John H. nói, ‘đó là điều cháu mong đợi được nghe! Đã đến lúc ông viết một cuốn sách khác, mọi người đều thấp thỏm, và cháu được biết là những người bán sách đã được hỏi thăm rất nhiều.

Well, John,‘ I replied, ‘I couldn’t care two hoots, or even one hoot what magazines or newspapers write about me. I do not read them whether they are good or bad articles. But, what do YOU think of another book, a seventeenth?

Gee, Boss,‘ said John H., ‘that’s what I’ve been waiting to hear! It’s time you wrote another book, everyone is anxious, and I understand the booksellers are getting many inquiries.

Điều đó làm tôi khá choáng váng; mọi người có vẻ như đang về cùng một phe, ai cũng muốn một cuốn sách khác. Nhưng liệu một ông già tội nghiệp có thể làm được gì khi mà ông đã đi về phía cuối của cuộc đời, và ông bị yêu cầu đóng một khoản thuế khổng lồ cho một đất nước không có một chút mảy may thương xót – phải làm một cái gì đó thì mới giữ được lửa cháy trong lò sưởi, hoặc là giữ cho lũ chó săn thuế không đến gần cửa chính.

Well, that was quite a blow; everyone seemed to be ganging up, everyone seemed to want another book. But what can a poor fellow do when he is approaching the end of his life and he has a ferocious tax demand from a wholly unsympathetic country – and something has to be done to keep the home fires burning, or to keep the income tax jackals from the front door.

Một trong những điều tôi cảm thấy cay đắng – thuế thu nhập. Tôi là một người tàn tật và phần lớn thời gian của tôi là ở trên giường. Tôi không phải là một gánh nặng của đất nước, thay vào đó tôi phải trả một thứ thuế luẩn quẩn mà không có một chút trợ cấp nào vì tôi là một người sáng tác làm việc tại nhà. Thế nhưng một vài công ty dầu lửa ở đây lại không phải trả một chút thuế nào vì họ tham gia vào «nghiên cứu» (những nghiên cứu hoàn toàn hoang đường) và vì thế họ được miễn thuế. Và rồi tôi nghĩ đến những tín đồ lập dị tự lập nên một tổ chức phi lợi nhuận, trả tiền lương rất cao cho chính họ, họ hàng và bạn bè của họ, thế nhưng họ không phải đóng thuế vì họ là một tổ chức phi lợi nhuận.

One of the things I feel bitter about – the income tax. I am very disabled and most of my time is spent in bed. I am not a charge on the country but I pay a most vicious tax without any allowances because I am an author working at home. And yet some of the oil companies here do not pay any tax at all because some of them are engaged upon entirely mythical ‘research‘ and, as such, are tax exempt. And then I think of some of these crackpot cultists who set up as a non-profit organisation paying themselves, their relatives and their friends high salaries, but they pay no tax because they are registered as a non-profit organisation.

Vì vậy mặc dù không muốn nhưng tôi cần thiết phải viết cuốn sách thứ mười bảy, và sau khi đã đọc hết bức thư này đến bức thư khác, mọi ý kiến trong những bức thư đều hướng tôi đến một cuốn sách có tiêu đề là ‘Tôi tin’.

Cuốn sách này sẽ nói về cuộc sống trước khi ra đời, cuộc sống trên Trái đất và sự chuyển từ Trái đất sang cuộc sống Bên trên. Tôi đặt tên cho cuốn sách là ‘Tôi tin’ nhưng nó hoàn toàn không chính xác; đó không phải là vấn đề về niềm tin, đó là TRI THỨC. Tôi có thể làm mọi điều tôi viết. Tôi có thể đi vào thể vía dễ dàng như một người đi từ phòng này sang phòng khác – thật ra thì đó là điều mà tôi không thể làm, đi vào một căn phòng mà không cần tới nạng hay xe lăn hay những cái tương tự. Nhưng trong thể vía người ta không cần tới nạng, xe lăn hay thuốc men. Vì thế những điều tôi viết trong cuốn sách này là sự thật. Tôi không nói lên một ý kiến mà chỉ kể lại mọi thứ như nó THẬT SỰ là như vậy.

Còn bây giờ là lúc bắt tay vào việc. Chúng ta cùng đến với Chương II.

So it came about that unwillingly it was necessary for me to write a seventeenth book, and so the consensus of opinion was, after perusal of letter after letter after letter, that the title should be ‘I believe‘.

This book will tell of life before birth, life on Earth, and the passing from Earth and return to Life Beyond. I have the title of ‘I believe‘, but that is wholly incorrect; it is not a question of belief, it is KNOWLEDGE. I can do everything I write about. I can go into the astral as easily as another person can go into another room – well, that’s what I cannot do, go into another room without fiddling about on crutches and a wheelchair and all the rest of it, but in the astral one does not need crutches, wheelchairs or drugs. So what I write about in this book is the truth. I am not expressing an opinion, but just telling things as they REALLY are.

Now is the time to get down to it. So – on to Chapter Two.