Chương I : Hang động người xưa – Lobsang Rampa

LỜI NÓI ĐẦU

Đây là một cuốn sách về huyền môn và về sức mạnh của Con người. Nó là một cuốn sách đơn giản, trong đó không có “ngoại ngữ”, không có tiếng Phạn, không có ngôn ngữ chết. Một người bình thường muốn BIẾT mọi thứ, không muốn phỏng đoán những từ mà một Tác giả bình thường cũng không hiểu được! Nếu một tác giả biết công việc của mình, anh ta có thể viết bằng tiếng Anh mà không cần phải ngụy trang sự thiếu kiến thức bằng cách sử dụng ngoại ngữ

This is a book about the Occult, and about the powers of Man. It is a simple book in that there are no “foreign words,” no Sanskrit, nothing of dead languages. The average person wants to KNOW things, does not want to guess at words which the average Author does not understand either! If an Author knows his job he can write in English without having to disguise lack of knowledge by use of a foreign language.

Quá nhiều người bị cuốn vào việc sùng bái mù quáng. Qui Luật của Sự sống thực sự đơn giản; Không cần thiết phải khoác lên chúng bằng các giáo phải huyền bí hay tôn giáo ngụy tạo. Cũng không cần yêu cầu bất cứ ai “tiết lộ thiên cơ”. BẤT CỨ AI đều có thể “tiết lộ” như thế nếu họ phụng sự thiên cơ.

Too many people get caught up in mumbo jumbo. The laws of Life are simple indeed; there is no need at all to dress them up with mystic cults or pseudo religions. Nor is there need for anyone to claim “divine revelations.” ANYONE can have the same “revelations” if they work for it.

Không có một tôn giáo nào nắm giữ Chìa khóa vào Thiên đường, cũng sẽ không ai bị nguyền rủa mãi mãi vì anh ta đã đội mũ đi vào nhà thờ thay vì phải bỏ giày ra. Ở Tây Tạng lối vào các tu viện có gắn dòng chữ “Nghìn tu sĩ, nghìn tôn giáo”. Hãy tin vào những gì bạn làm, nếu điều đó bao hàm ý “hãy làm vì bạn cần phải làm thế”, bạn sẽ NHẬN ĐƯỢC ƠN GỌI khi đến lúc.

No one religion holds the Keys of Heaven, nor will one be forever damned because he enters a church with his hat on instead of his shoes off. In Tibet lamasery entrances bear the inscription “A thousand monks, a thousand religions.” Believe what you will, if it embraces “do as you would be done by” you will GET by when the final Call comes.

Một số người nói rằng Kiến thức Nội tâm chỉ có thể đạt được bằng cách tham gia vào giáo phái nào đó, và cũng sẽ phải trả giá đáng kể. Luật Sự Sống nói rằng “Hãy tìm, và bạn sẽ thấy.”

Some say that Inner Knowledge can only be obtained by joining this cult or that cult, and paying a substantial subscription too. The Laws of Life say, ‘Seek, and you shall find.’

Cuốn sách này là thành quả của một cuộc sống lâu dài, được đào tạo một cách có lựa chọn từ các tu viện lớn của Tây Tạng, và từ những quyền năng đã đạt được bởi sự tuân thủ rất chặt chẽ các Qui Luật của Sự sống. Đây là kiến thức được người cổ xưa để lại, và được viết trong các Kim tự tháp của Ai Cập, trong các Đền thờ trên dãy núi cao Andes, và kho lưu trữ kiến thức huyền bí lớn nhất trên thế giới, Cao nguyên của Tây Tạng.

This book is the fruit of a long life, training culled from the greater Lamaseries of Tibet and from powers which were gained by a very close adherence to the Laws. This is knowledge taught by the Ancients of old, and is written in the Pyramids of Egypt, in the High Temples of the Andes, and the greatest repository of Occult knowledge in the world, the Highlands of Tibet.

  1. LOBSANG RAMPA

CHƯƠNG I

Đêm tối ấm áp, dễ chịu, ấm áp một cách lạ thường đối với thời điểm này của năm. Nhẹ nhàng bay trên không lộng gió, mùi hương trầm ngọt ngào mang đến sự yên tĩnh cho tâm hồn chúng tôi. Xa xa mặt trời đang lặn trong ánh hào quang rực rỡ phía sau những đỉnh núi cao của dãy Hymalaya, những ngọn núi phủ tuyết trắng nhuốm màu đỏ máu như để cảnh báo về dòng sông máu sẽ thấm đẫm Tây Tạng trong những ngày tới.

The evening was warm, deliciously, unusually warm for the time of the year. Gently rising on the windless air, the sweet scent of incense gave tranquility to our mood. Far away the sun was setting in a blaze of glory behind the high peaks of the Himalayas, tinting the snow-clad mountain tops a blood red as if in warning of the blood which would drench Tibet in the days to come.

Những cái bóng kéo dài len lỏi từ từ về phía thành phố Lhasa từ hai đỉnh Potala và Chakpori của chúng tôi. Bên dưới chúng tôi, phía bên phải, một đoàn người buôn bán đến muộn màng từ Ấn Độ, đang đi đến Pargo Kaling, hoặc Cổng Tây. Những người  hành hương sùng đạo cuối cùng vội vã một cách vô thức trên đường đi đến Lingkhor, như thể sợ bị bóng tối như nhung của màn đêm đang đến gần đuổi kịp.

Lengthening shadows crept slowly towards thc City of Lhasa from the twin peaks of the Potala and our own Chakpori. Below us, to the right, a belated caravan of traders from India wended their way to the Pargo Kaling, or Western Gate. The last of the devout pilgrims hurried with unseemly haste on their circuit of the Lingkhor Road, as if afraid of being overtaken by the velvet darkness of the fast approaching night.

Dòng sông Kyi Chu, hay Dòng sông Hạnh phúc, vui vẻ chảy theo hành trình bất tận của nó ra biển, ném lên những tia sáng chói lóa như để tưởng nhớ đến ngày sắp tàn. Thành phố Lhasa rực rỡ với ánh sáng vàng rực của đèn bơ. Từ cung điện Potala gần đó, một tiếng kèn vang lên vào cuối ngày, những nốt nhạc của nó ngân lên và vang vọng khắp Thung lũng, dội lại từ các vách núi đá và trở lại với chúng tôi cùng âm sắc đã thay đổi.

The Kyi Chu, or Happy River, ran merrily along on its endless journey to the sea, throwing up blight flashes of light as tribute to the dying day. The City of Lhasa was agleam with the golden glow of butter lamps. From the nearby Potala a trumpet sounded at the end of the day its notes rolling and echoing across the Valley, rebounding from rock surfaces, and returning to us with altered timbre.

Tôi nhìn chăm chú vào những cảnh tượng quen thuộc, chằm chằm vào Potala với hàng trăm cửa sổ lờ mờ khi các nhà sư thực hiện nốt những công việc của họ vào cuối ngày. Trên đỉnh tòa nhà cao lớn, bên những ngôi mộ vàng, một hình người đơn độc, cô đơn và xa xôi, đang đứng dõi theo. Khi những tia nắng cuối cùng chìm xuống dưới những dãy núi, một tiếng kèn lại vang lên và tiếng tụng niệm nổi lên từ Đền thờ bên dưới. Những dấu tích cuối cùng của ánh sáng nhanh chóng mờ dần; rồi những ngôi sao trên bầu trời trở thành một khối trang sức rực rỡ trên nền màu tím. Một thiên thạch lóe lên trên bầu trời và bùng cháy lên thành một chùm sáng rực rỡ cuối cùng trước khi rơi xuống Trái đất như một nhúm bụi tàn thuốc.

I gazed at the familiar scene, gazed across at the Potala, hundreds of windows atwinkle as monks of all degree went about their business at the close of the day. At the top of the immense building, by the Golden Tombs, a solitary figure, lonely and remote, stood watching. As the last rays of the sun sank below the mountain ranges, a trumpet sounded again, and the sound of deep chanting rose from the Temple below. Swiftly the last vestiges of light faded; swiftly the stars in the sky became a blaze of jewels set in a purple background. A meteor flashed across the sky and flared into a burst of final flaming glory before falling to the Earth as a pinch of smoking dust.

“Lobsang, Bầu trời đêm thật đẹp!” tôi nghe thấy giọng nói thân thiết, “Một đêm thật sự đẹp” tôi đáp lời trong khi nhanh chóng đứng dậy để có thể cúi đầu chào Đức Lạt ma Minh Gia. Người ngồi bên bức tường và ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh. Người chỉ tay lên trởi và nói, “Con có nhận ra rằng mọi người, con và ta, có thể trông giống như vậy không?” Tôi đăm đăm nhìn Thầy, làm sao tôi có thể trông như những vì sao trên bầu trời đêm được? Lạt ma là một người đàn ông to lớn, đẹp trai với cái đầu cao quý. Mặc dù vậy, Thầy trông không giống những ngôi sao. Thầy cười trước vẻ mặt bối rối của tôi. “Chỉ là câu chữ như mọi khi, Lobsang, như thường lệ thôi mà,” Thầy mỉm cười. “Ta muốn nói rằng mọi thứ không phải lúc nào cũng như những gì chúng được nhìn thấy. Nếu con viết ‘Om! Ma-ni pad-me Hum’ lớn đến nỗi nó lấp đầy toàn bộ Thung lũng Lhasa, mọi người sẽ không thể đọc được, nó sẽ quá lớn để họ có thể nhìn được hết.” Thầy dừng lại và nhìn tôi để chắc chắn rằng tôi đang theo dõi được lời giải thích của mình, rồi Ông nói tiếp, “Các ngôi sao cũng giống như vậy, ‘quá lớn’ đến mức chúng ta không thể xác định được hình dáng thực sự của chúng.”

“A beautiful night, Lobsang!” said a well-loved voice. “A beautiful night, indeed,” I replied as I swiftly rose to my feet in order that I might bow to the Lama Mingyar Dondup. He sat by the side of a wall and motioned for me to sit also. Pointing upwards, he said, “Do you realise that people, you, and I, may look like that?” I gazed at him dumbly, how could I look like stars in the night sky? The Lama was a big man, handsome, and with a noble head. Even so, he did not look like a collection of stars. He laughed at my bemused expression. “Literal as usual, Lobsang, literal as usual,” he smiled. “I meant to imply that things are not always what they seem. If you wrote ‘Om! ma-ni pad-me Hum’ so large that it filled the whole Valley of Lhasa, people would not be able to read it, it would be too large for them to grasp.” He stopped and looked at me to make sure that I was following his explanation and then continued, “In the same way the stars are ‘so large’ that we cannot determine what they really form.”

Tôi nhìn Thầy như thể Thầy đã từ bỏ hết sự khôn ngoan của mình. Những ngôi sao tạo thành hình gì đó ư? Chúng thực sự là những ngôi sao mà! Sau đó tôi nghĩ về việc viết thật lớn đến nỗi nó lấp đầy Thung lũng, và vì thế không thể đọc được vì kích thước của nó. Giọng nói dịu dàng tiếp tục, “Hãy hình dung con đang co lại, co lại, trở nên nhỏ bé như một hạt cát. Rồi sau đó, làm thế nào ta có thể tìm thấy con? Giả sử con trở nên nhỏ hơn, nhỏ đến mức hạt cát to đùng như một thế giới đối với con. Khi đó con sẽ nhìn thấy ta thế nào?” Ngài dừng lại và nhìn tôi chăm chú. “Thế nào?” Ngài hỏi “con sẽ thấy gì?”. Tôi ngồi đó và há hốc miệng, não tê liệt không nghĩ được gì, miệng há ra như một con cá vừa mắc cạn.

I looked at him as if he had taken leave of his senses. The stars forming something? They were—well—stars! Then I thought of writing so large that it filled the Valley, and so became unreadable because of its size. The gentle voice went on, “Think of yourself shrinking, shrinking, becoming as small as a grain of sand. How would I look to you then? Suppose you became even smaller, so small that the grain of sand was as large as a world to you. Then what would you see of me?” He stopped and looked piercingly at me. “Well?” he asked “what would you see?” I sat there and gaped, brain paralysed at the thought, mouth open like a newly landed fish.

“Lobsang, con thấy đấy,” Vị Lạt ma nói, “một cụm các thế giới rải rác rộng lớn trôi nổi trong bóng tối. Vì có kích thước quá bé nhỏ nên con sẽ thấy các phân tử trong cơ thể của ta như những thế giới tách biệt, giữa không gian rộng lớn. Con sẽ thấy các thế giới xoay quanh các thế giới khác, con sẽ thấy những ‘mặt trời’ đó là các phân tử của một số trung tâm huyền bí nhất định, con sẽ thấy một vũ trụ! Não của tôi như vỡ ra, tôi thề rằng cái “cỗ máy” ở trên lông mày của tôi đã rung bần bật, cùng với tất cả nỗ lực tôi đã cố gắng để theo dõi được những kiến thức kỳ lạ, thú vị này.

“You would see, Lobsang,” the Lama said, “a group of widely dispersed worlds floating in darkness. Because of your small size you would see the molecules of my body as separate worlds with immense space in between. You would see worlds rotating around worlds, you would see ‘suns’ which were the molecules of certain psychic centres, you would see a universe!” My brain creaked, I would almost swear that the ‘machinery’ above my eyebrows gave a convulsive shudder with all the effort I was expending in order to follow all this strange, exciting knowledge.

Thầy tôi, Đức Lạt ma Minh Gia nhoài người và nhẹ nhàng nâng cằm tôi lên. “Lobsang!” Ngài mỉm cười, “đôi mắt con trở nên bối rối khi cố gắng nghe ta nói.” Ngài lại ngồi xuống, mỉm cười và cho tôi một vài phút để hồi phục phần nào. Rồi Ngài nói, “Hãy nhìn vào chất liệu áo choàng của con. Hãy cảm nhận nó!” Tôi đã làm như vậy, cảm thấy thật ngu ngốc khi nhìn chằm chằm vào bộ quần áo cũ nát mình đang mặc. Vị Lạt ma nhận xét, “đó là vải, hơi mịn khi chạm vào. Con không thể nhìn xuyên qua nó. Nhưng hãy tưởng tượng nhìn nó qua một chiếc kính phóng đại nó lên mười lần. Hãy nghĩ về những sợi len yak dày, mỗi sợi dày hơn mười lần so với con thấy ở đây. Con sẽ có thể nhìn thấy ánh sáng giữa các sợi. Nhưng phóng đại nó lên một triệu lần và con sẽ có thể cưỡi một con ngựa băng qua nó, ngoại trừ mỗi sợi sẽ quá lớn để trèo qua!”

My Guide, the Lama Mingyar Dondup reached forward and gently raised my chin. “Lobsang!” he chuckled, “your eyes are becoming crossed with the effort to follow me.” He sat back, laughing, and gave me a few moments in which to recover somewhat. Then he said, “Look at the material of your robe. Feel it!” I did so, feeling remarkably foolish as I gazed at the tattered old garment I wore. The Lama remarked, “It is cloth, somewhat smooth to the touch. You cannot see through it. But imagine seeing it through a glass which magnified it by ten. Think of the thick strands of yak wool, each strand ten times thicker than you see it here. You would be able to see light between the strands. But magnify it by a million and you would be able to ride a horse through it, except that each strand would be too huge to climb over!”

Bây giờ tôi đã hiểu ra vấn đề. Tôi ngồi suy nghĩ, gật đầu, như lời Lạt ma nói, trông tôi “Giống như một bà già hom hem!” “Thưa Thầy!” cuối cùng tôi nói, “thế thì toàn bộ cuộc sống là rất nhiều không gian được rải khắp các thế giới.” “Không hoàn toàn đơn giản như vậy,” Ông trả lời, “nhưng hãy ngồi thoải mái hơn và ta sẽ kể cho con nghe một chút về Kiến thức mà chúng ta đã khám phá trong Hang động của người xưa.” “Hang động của người xưa!” Tôi thốt lên, đầy tò mò, “Thầy sắp kể cho con nghe về điều đó và Cuộc thám hiểm của Thầy!” “Đúng! Đúng vậy!” Ngài dỗ dành, “Ta sẽ kể, nhưng trước tiên chúng ta hãy bàn về Con người và Sự sống như những người Cổ đại thời Atlantis tin rằng họ là thế.”

It made sense to me, now that it was pointed out. I sat and thought, nodding, as the Lama said, “Like a decrepit old woman!” “Sir!” I said at last, “then all life is a lot of space sprinkled with worlds.” “Not quite so simple as that,” he replied, “but sit more comfortably and I will tell you a little of the Knowledge we discovered in the Cave of the Ancients.” “Cave of the Ancients!” I exclaimed, full of avid curiosity, “you were going to tell me about that and the Expedition!” “Yes! Yes!” he soothed, “so I will, but first let us deal with Man and Life as the Ancients in the days of Atlantis believed them to be.”

Trong thâm tâm, tôi quan tâm nhiều hơn đến Hang động của người cổ đại mà một đoàn thám hiểm của các Lạt ma cao cấp đã phát hiện ra, và nơi đó chứa những kho kiến thức và cổ vật tuyệt vời từ thời Trái đất còn non trẻ. Như tôi đã biết về Thầy mình, sẽ là vô ích khi mong đợi được nghe kể chuyện khi Ngài chưa sẵn sàng, và lúc này thì chưa phải lúc. Phía trên đầu chúng tôi, những ngôi sao tỏa sáng với tất cả vẻ đẹp rực rỡ của chúng, hầu như không bị làm mờ đi bởi không khí tinh khiết, hiếm có của Tây Tạng. Trong các Đền thờ và tu viện, ánh sáng lần lượt mờ dần. Từ xa, giữa không gian của đêm tối có tiếng rên rỉ than vãn của một con chó và tiếng sủa trả lời của những con khác trong Làng Shö ở bên dưới chân núi. Đêm yên tĩnh, êm đềm, và không có đám mây nào trôi ngang qua mặt trăng mới mọc. Cờ nguyện treo lô xô và vô hồn trên những cái cột. Từ nơi nào đó xuất hiện tiếng lách cách của Bánh xe cầu nguyện khi một tu sĩ sùng đạo, bị mê hoặc và không nhận thức được Thực tại, xoay tròn Bánh xe trong vô vọng mong được sự ưu ái của các vị Thần.

I was secretly far more interested in the Cave of the Ancients which an expedition of high lamas had discovered, and which contained fabulous stores of knowledge and artifacts from an age when the Earth was very young. Knowing my Guide as well as I did, I knew that it would be useless to expect to be told the story until he was ready, and that was not yet. Above us the stars shone in all their glory, hardly dimmed by the rare, pure air of Tibet. In the Temples and Lamaseries the lights were fading one by one. From afar, carried on the night air, came the plaintive wail of a dog, and the answering barks of those in the Village of Shö below us. The night was calm, placid even, and no clouds drifted across the face of the newly risen moon. Prayer flags hung limp and lifeless at their masts. From somewhere came the faint clacking of a Prayer Wheel as some devout monk, encased in superstition and not aware of Reality, twirled the Wheel in the vain hope of gaining the favour of the Gods.

Vị Lạt ma, Thầy của tôi, bật cười và nói, “mỗi người có niềm tin của riêng mình, tùy theo nhu cầu của anh ta. Những cái bẫy của nghi lễ tôn giáo là một niềm an ủi đối với nhiều người, chúng ta không nên kết án những người chưa đi đủ xa trên Con đường hành đạo, hay không thể đứng mà không cần nạng. Lobsang, ta sẽ nói cho con, về bản chất của Con người.” Tôi cảm thấy rất gần gũi với con người này, người duy nhất từng cho tôi thấy sự quan tâm và yêu thương. Tôi lắng nghe cẩn thận để chứng minh cho niềm tin của tôi đối với Ngài. Ít nhất, đó là cách tôi bắt đầu, nhưng tôi sớm thấy chủ đề này thật hấp dẫn, và rồi tôi lắng nghe với sự háo hức không hề che giấu.

The Lama, my Guide, smiled at the sound and said, “To each according to his belief, to each according to his need. The trappings of ceremonial religion are a solace to many, we should not condemn those who have not yet traveled far enough upon the Path, nor are able to stand without crutches. I am going to tell you, Lobsang, of the nature of Man.” I felt very close to this Man, the only one who had ever shown me consideration and love. I listened carefully in order to justify his faith in me. At least, that is how I started, but I soon found the subject to be fascinating, and then I listened with unconcealed eagerness.

“Cả thế giới được tạo nên từ những rung động, tất cả Sự sống, tất cả những gì là vô tri, đều bao gồm những rung động. Ngay cả dãy Hymalaya hùng vĩ,” Ông nói, “chỉ là một khối các hạt lơ lửng trong đó không hạt nào có thể chạm vào hạt kia. Thế giới, Vũ trụ, bao gồm các hạt vật chất rất nhỏ quay tròn xung quanh các hạt vật chất khác. Giống như Mặt trời của chúng ta có những thế giới xoay quanh nó, luôn giữ khoảng cách, không bao giờ chạm vào nhau, mọi thứ tồn tại bao gồm những thế giới xoay tròn.” Ông dừng lại và nhìn chằm chằm vào tôi, có lẽ tự hỏi liệu tất cả những điều này có nằm ngoài sự hiểu biết của tôi không, nhưng tôi có thể theo dõi câu chuyện một cách dễ dàng.

 “The whole world is made of vibrations, all Life, all that is inanimate, consists of vibrations. Even the mighty Himalayas,” said the Lama, “are just a mass of suspended particles in which no particle can touch the other. The world, the Universe, consists of minute particles of matter around which other particles of matter whirl. Just as our Sun has worlds circling around it, always keeping their distance, never touching, so is everything that exists composed of whirling worlds.” He stopped and gazed at me, perhaps wondering if all this was beyond my understanding, but I could follow it with ease.

Thầy tiếp tục nói, “Những con ma mà chúng ta nhìn thấy bằng thấu thị trong Đền thờ là những người, những người sống, đã rời khỏi thế giới này và rơi vào trạng thái mà các phân tử của chúng phân tán thưa đến mức ‘con ma’ có thể đi qua bức tường dày đặc nhất mà không chạm vào phân tử riêng lẻ của bức tường đó.” “Thưa Thầy tôn kính,” tôi nói, “tại sao chúng ta cảm thấy râm ran khi một ‘bóng ma’ lướt qua chúng ta?” “Mỗi phân tử, mỗi hệ ‘mặt trời và hành tinh’ nhỏ được bao quanh bởi điện tích, không phải là loại điện mà con người tạo ra bằng máy móc, mà là một loại tinh tế hơn. Điện mà chúng ta thấy lung linh trên bầu trời đêm. Giống như Trái đất có Ánh sáng phương Bắc, hay Bắc cực quang lung linh ở các cực, do có hạt vật chất ở chính giữa của ‘Ánh sáng phương Bắc’. Một ‘bóng ma’ đến quá gần chúng ta tạo ra một sự va chạm nhẹ vào hào quang của chúng ta, và vì vậy chúng ta có được cảm giác này.”

He continued, “The ghosts that we clairvoyants see in the Temple are people, living people, who have left this world and entered into a state where their molecules are so widely dispersed that the ‘ghost’ can walk through the densest wall without touching a single molecule of that wall.” “Honourable Master,” I said, “why do we feel a tingle when a ‘ghost’ brushes past us?” “Every molecule, every little ‘sun and planet’ system is surrounded by an electric charge, not the sort of electricity which Man generates with machines, but a more refined type. The electricity which we see shimmering across the sky some nights. Just as the Earth has the Northern Lights, or Aurora Borealis flickering at the Poles, so has the meanest particle of matter its ‘Northern Lights.’ A ‘ghost’ coming too close to us imparts a mild shock to our aura, and so we get this tingle.”

Trời đêm ở quanh chúng tôi vẫn thế, không một làn gió nhẹ làm xáo trộn sự yên tĩnh; một sự tĩnh lặng mà chỉ được biết đến ở những đất nước như Tây Tạng. “Vậy thì, hào quang mà chúng ta thấy có phải là điện tích không?” Tôi hỏi. “Đúng!” Đức Lạt ma Minh Gia trả lời. “Ở các quốc gia bên ngoài Tây Tạng, nơi dây dẫn mang dòng điện cao áp được kéo dài trên mặt đất, ‘hiệu ứng phát quang’ được các kỹ sư điện phát hiện và ghi nhận. Trong ‘hiệu ứng phát quang’ này, các dây dẫn dường như được bao quanh bởi một quầng sáng hoặc hào quang ánh sáng xanh. Nó quan sát được chủ yếu vào những đêm tối, sương mù, mà dĩ nhiên là ở đó có những người có thể nhìn thấy.” Thầy nhìn tôi đầy suy tư. “Khi con đến Trùng Khánh để học y, con sẽ sử dụng dụng cụ vẽ biểu đồ các sóng điện của não. Toàn bộ sự sống, tất cả những gì tồn tại, là điện và rung động.”

About us the night was still, not a breath of wind disturbed the quiet; there was a silence that one knows only in such countries as Tibet. “The aura, then, that we see, is that an electric charge?” I asked. “Yes! replied my Guide the Lama Mingyar Dondup. “In countries outside of Tibet, where wires carrying electric current at high voltages are strung across the land, a ‘corona effect’ is observed and recognised by electrical engineers. In this ‘corona effect’ the wires appear to be surrounded by a corona or aura of bluish light. It is observed mostly on dark, misty nights, but is of course there all the time for those who can see.” He looked at me reflectively. “When you go to Chungking to study medicine you will use an instrument which charts the electrical waves of the brain. All Life, all that exists, is electricity and vibration.”

“Giờ con thấy bối rối quá!” Tôi trả lời, “vì sao Sự sống có thể là rung động và là điện? Con có thể hiểu một, nhưng không phải cả hai.” “Nhưng Lobsang yêu quí của ta!” Vị Lạt ma cười, “không thể có điện mà không rung động, không chuyển động! Đó là chuyển động tạo ra điện, do đó cả hai có liên quan mật thiết với nhau.” Thầy nhìn thấy cái nhíu mày khó hiểu của tôi và Thầy đọc được suy nghĩ của tôi. “Không!” Thầy nói, “không phải bất kỳ rung động nào cũng tạo được ra điện! Để ta giải thích cho con theo cách này; hãy hình dung bàn phím âm nhạc thực sự rộng lớn, kéo dài từ đây đến vô tận. Một rung động mà chúng ta xem là đồng nhất sẽ được thể hiện bằng một nốt trên bàn phím đó. Rung động tiếp theo có thể đại diện cho âm thanh và tiếp theo nữa sẽ đại diện cho một hình ảnh. Những nốt khác sẽ thể hiện những cảm xúc, những cảm giác, những mục đích mà chúng ta không hiểu được khi còn ở trên Trái đất này. Một con chó có thể nghe được những nốt cao hơn con người và con người có thể nghe những nốt thấp hơn con chó. Những lời có thể được nói với con chó bằng những âm điệu cao mà nó có thể nghe được mà con người thì không biết gì hết. Vì vậy, những người của cái gọi là Thế giới Linh hồn có thể giao tiếp với những người vẫn ở trên Trái đất này, khi người Trái đất có được món quà đặc biệt là khả năng thấu thính.”

 “Now I am puzzled!” I replied, “for how can Life be vibration and electricity? I can understand one, but not both.” “But my dear Lobsang!” laughed the Lama, “there can be no electricity without vibration, without movement! It is movement which generates electricity, therefore the two are intimately related.” He saw my puzzled frown and with his telepathic powers read my thoughts. “No!” he said, “just any vibration will not do! Let me put it to you in this way; imagine a truly vast musical keyboard stretching from here to infinity. The vibration which we regard as solid will be represented by one note on that keyboard. The next might represent sound and the next again will represent sight. Other notes will indicate feelings, senses, purposes, for which we have no understanding while upon this Earth. A dog can hear higher notes than can a human, and a human can hear lower notes than can a dog. Words could be said to the dog in high tones which he could hear and the human would know nothing of it. So can people of the so-called Spirit World communicate with those yet upon this Earth, when the Earthling has the special gift of clairaudience.”

Vị Lạt ma dừng lại và cười nhẹ, “Lobsang, ta đang giữ con phải thức đêm, nhưng con sẽ có buổi sáng được nghỉ để hồi phục.” Thầy chỉ tay về phía những ngôi sao lấp lánh rực rỡ trên bầu trời trong vắt. “Kể từ khi đến thăm Hang động của Người cổ đại và thử các nhạc cụ tuyệt vời ở đó, các nhạc cụ được bảo tồn nguyên vẹn kể từ thời Atlantis, ta thường thấy buồn cười. Ta thích nghĩ về hai sinh vật nhỏ bé, nhỏ hơn cả virus nhỏ nhất. Không quan trọng hình dạng của chúng là gì, chỉ cần đồng ý rằng chúng thông minh và có những công cụ vô cùng đặc biệt. Hình dung họ đứng trên một không gian mở của thế giới vô hạn của chính họ (giống như chúng ta bây giờ!) ‘Bạn của tôi ơi! Đêm đẹp quá!’ Ay kêu lên, trong khi nhìn chăm chú lên bầu trời. ‘Đúng vậy,’ Beh đáp lại,‘nó khiến người ta tự hỏi về mục đích của cuộc sống, chúng ta là ai, chúng ta đang đi đâu?’ Ay suy ngẫm, nhìn những ngôi sao quét qua thiên đàng trong vô tận. ‘Thế giới không giới hạn, hàng triệu, hàng tỷ người. Tôi tự hỏi có bao nhiêu người?’ ‘Vô lý! Bất kính! Lố bịch!’ Beh lắp bắp, ‘bạn biết là không có sự sống ngoại trừ thế giới này của chúng ta, không phải các tu sĩ nói với chúng ta rằng chúng ta được tạo ra trong Hình ảnh của Thiên chúa hay sao? Và làm thế nào có thể có sự sống khác trừ khi nó giống hệt như của chúng ta – không, điều đó là không thể, bạn đang mất trí rồi!’Ay lẩm bẩm với chính mình khi anh ta sải bước, ‘Họ có thể sai, bạn biết đấy, họ có thể sai!’” Đức Lạt ma Minh Gia mỉm cười với tôi và nói, “Ta cũng có phần tiếp theo! Nó thế này:

The Lama paused and laughed lightly, “I’m keeping you from your bed, Lobsang but you shall have the morning off in order to recover.” He motioned upwards toward the stars glittering so brightly in the clear, clear air. “Since visiting the Cave of the Ancients and trying the wonderful instruments there, instruments preserved intact since the days of Atlantis, I have often amused myself with a whimsy. I like to think of two small sentient creatures, smaller even than the smallest virus. It does not matter what shape they are, just agree that they are intelligent and have super-super instruments. Image them standing upon an open space of their own infinitesimal world (just as we are now!) ‘My! It is a beautiful night!’ exclaimed Ay, staring intently upwards at the sky. ‘Yes,’ replied Beh, ‘it makes one wonder at the purpose of Life, what are we, where are we going?’ Ay pondered, gazing at the stars sweeping across the heavens in endless array. ‘Worlds without limit, millions, billions of them. I wonder how many are inhabited?’ ‘Nonsense! Sacrilege! Ridiculous!’ stuttered Beh, ‘you know there is no life except upon this our world, for do not the Priests tell us that we are made in the Image of God? And how can there be other life unless it is exactly like ours—no, it is impossible, you are losing your wits!’ Ay muttered bad-temperedly to himself as he strode off, ‘They could be wrong, you know, they could be wrong!’ ” The Lama Mingyar Dondup smiled across at me and said, “I even have a sequel to it! Here it is:

“Trong một phòng thí nghiệm xa xôi, có một nền khoa học phát triển mà chúng ta không tưởng tượng ra được, nơi có kính hiển vi có sức mạnh tuyệt vời, có hai nhà khoa học đang làm việc. Một người ngồi gù lưng trên ghế đẩu, mắt dán vào chiếc kính hiển vi siêu mạnh. Đột nhiên anh ta bật dậy, đẩy lùi cái ghế đẩu của mình ầm ĩ trên sàn nhà bóng loáng, ‘Nhìn này, Chan!’, Anh gọi cho người trợ lý của mình, ‘Hãy đến và nhìn vào đây!’ Chan đứng dậy, đi ngang qua cấp trên đang đầy phấn khích của mình và ngồi xuống trước kính hiển vi. ‘Tôi có một triệu hạt chì sunfua trên bản kính,’ nhà khoa học cấp trên nói, ‘nhìn xem này!’ Chan điều chỉnh núm điều khiển và huýt sáo vì ngạc nhiên. ‘Ôi chao ôi,’ anh ấy đã thốt lên, ‘nó giống như nhìn vào Vũ trụ qua kính viễn vọng. Mặt trời rực rỡ, quay quanh các hành tinh. . . !’ nhà khoa học cấp trên nói một cách đăm chiêu, ‘Tôi tự hỏi liệu chúng ta sẽ có đủ độ phóng đại để nhìn xuống một thế giới đơn lẻ hay không – Tôi băn khoăn liệu có sự sống ở đó không!,’ ‘Vô lý!’ Chan nói một cách cộc cằn, ‘dĩ nhiên không có sự sống có ý thức. Không thể có, không phải các tu sĩ nói với chúng ta rằng chúng ta được tạo ra trong Hình ảnh của Thiên chúa hay sao? làm sao có Sự sống có trí tuệ ở đó được?

 “In some distant laboratory, with a science undreamed of by us, where microscopes of fantastic power were available, two scientists were working. One sat hunched up at a bench, eyes glued to the super-super microscope through which he gazed. Suddenly he started, pushing back his stool with a noisy scrape upon the polished floor, ‘Look, Chan!’ he called to his Assistant, ‘Come and look at this!’ Chan rose to his feet, walked across to his excited Superior and sat down before the microscope. ‘I have a millionth of a grain of lead sulphide on the slide,’ said the Superior, ‘glance at it!’ Chan adjusted the controls and whistled with startled surprise. ‘My!’ he exclaimed, ‘it is just like looking at the Universe through a telescope. Blazing sun, orbiting planets . . . !’ The Superior spoke wistfully, ‘I wonder if we shall have enough magnification to see down to an individual world—I wonder if there is life there!’ ‘Nonsense!’ said Chan brusquely, ‘of course there is no sentient life. There cannot be, for do not the Priests say that we are made in the Image of God, how can there be intelligent Life there?’ ”

Phía trên chúng tôi, những ngôi sao chuyển động theo quỹ đạo của chúng, vô tận, vĩnh cửu. Mỉm cười, Đức Lạt ma Minh Gia cho tay vào áo choàng và lấy ra một hộp diêm, vật quý giá được mang đến từ Ấn Độ xa xôi. Người chầm chậm rút một que diêm và giơ nó lên. “Lobsang, Ta sẽ cho con thấy sự Sáng tạo!” Thầy vui vẻ nói. Ông cố tình vạch đầu que diêm lên bề mặt mồi lửa của chiếc hộp, và khi nó cháy bùng lên, Ông giơ cao que diêm đang cháy. Sau đó thổi tắt nó! “Sáng tạo, và tan rã,” Ông nói. “Que diêm bùng cháy phát ra hàng ngàn hạt, mỗi hạt trong chúng bùng nổ tách khỏi nhưng hạt khác. Mỗi hạt là một thế giới riêng biệt, toàn bộ là một Vũ trụ. Và vũ trụ đã chết khi ngọn lửa bị dập tắt. Con có thể nói rằng không có sự sống trên những thế giới đó không?” Tôi lúng túng nhìn Thầy, không biết phải nói gì, “Lobsang,nếu chúng là những thế giới, và có sự sống trên đó, với Sự sống đó, thế giới sẽ tồn tại hàng triệu năm. Có phải chúng ta chỉ là một que diêm bị tác động mạnh? Có phải chúng ta đang sống ở đây, với những niềm vui và nỗi buồn của chúng ta, chủ yếu là nỗi buồn vì nghĩ rằng đây là một thế giới không có kết thúc? Hãy suy nghĩ về nó và chúng ta sẽ nói chuyện thêm vào ngày mai.” Ông đứng dậy và rời đi khỏi tầm mắt của tôi.

Over us the stars wheeled on their course, endless, eternal. Smiling, the Lama Mingyar Dondup reached in his robe and brought forth a box of matches, treasure brought all the way from far-off India. Slowly he extracted one match and held it up. “I will show you Creation, Lobsang!” he said gaily. Deliberately he drew the match head across the igniting surface of the box, and as it flared into life, he held up the blazing sliver. Then blew it out! “Creation, and dissolution,” he said. “The flaring match head emitted thousands of particles each exploding away from its fellows. Each was a separate world, the whole was a Universe. And the Universe died when the flame was extinguished. Can you say that there was no life on those worlds?” I looked dubiously at him, not knowing what to say, “If they were worlds, Lobsang, and had life upon them, to that Life the worlds would have lasted for millions of years. Are we just a stricken match? Are we living here, with our joys and sorrows—mostly sorrows—thinking that this is a world without end? Think about it, and we will talk some more tomorrow.” He rose to his feet and was gone from my sight.

Tôi loạng choạng đi ngang mái nhà và mò mẫm tìm thang đi xuống. Những chiếc thang của chúng tôi khác với thang được sử dụng trong thế giới phương Tây, bao gồm các cột có xẻ rãnh. Tôi tìm thấy rãnh đầu tiên, thứ hai và thứ ba, sau đó tôi bị trượt chân ở chỗ ai đó đã làm đổ bơ từ chiếc đèn. Tôi bị rơi xuống, chân đáp xuống một đám lộn xộn, nhìn thấy nhiều “ngôi sao” hơn là sao trên bầu trời và gây ra nhiều phản ứng từ các nhà sư đang ngủ. Một bàn tay xuất hiện xuyên qua bóng tối và cho tôi một cái bạt tai làm “rung chuông” trong đầu tôi. Tôi nhanh chóng nhảy lên và trườn vào nơi an toàn trong bóng tối bao trùm. Im lặng nhất có thể, tôi tìm thấy một nơi để ngủ, quấn chiếc áo choàng quanh người và buông lỏng ý thức. Ngay cả những tiếng “shush-shush” của những đôi chân vội vã cũng không làm phiền tôi, ngay cả những tiếng tù và hay chuông bạc cũng không làm gián đoạn giấc mơ của tôi.

I stumbled across the roof and groped blindly for the top of the ladder leading down. Our ladders were different from those used in the Western world, consisting of notched poles. I found the first notch, the second, and the third, then my foot slipped where someone had spilled butter from a lamp. Down I crashed, landing at the foot in a tangled heap, seeing more “stars” than there were in the sky above and raising many protests from sleeping monks. A hand appeared through the darkness and gave me a cuff that made bells ring in my head. Quickly I leaped to my feet and sped away into the safety of the enshrouding darkness. As quietly as possible I found a place in which to sleep, wrapped my robe around me and loosed my hold on consciousness. Not even the “shush-shush” of hurrying feet disturbed me, nor did the conches or silver bells interrupt my dreams.

Buổi sáng muộn hôm đó tôi bị đánh thức bởi một người đang ra sức đá tôi. Tôi lúng túng nhìn vào khuôn mặt của một chú tiểu đang huyên náo, “Dậy, dậy! Theo sách Thánh, mày là một con chó lười biếng!” Cậu ta lại đá tôi một lần nữa. Tôi đưa tay ra, nắm lấy chân anh và vặn. Với một cái xương kêu ken két, anh ta ngã xuống sàn la hét, “Sư trưởng! Sư trưởng! Ngài gọi mày đấy, thằng ngốc!” Cho cậu ta thêm một cú đá để bù đắp cho những gì cậu ta đã làm với tôi, tôi kéo thẳng chiếc áo choàng của mình và vội vã rời đi. “Không thức ăn – không bữa sáng!” Tôi lẩm bẩm với chính mình “Tại sao mọi người lại gọi tôi vào giờ ăn nhỉ?” Chạy vội dọc theo các hành lang dài vô tận, quay ngoắt ở các góc, tôi gần như thương cảm với một vài tu sĩ già lập cập quanh đó, nhưng tôi đã đến phòng của vị Sư trưởng trong thời gian kỷ lục. Vội vã đi vào, tôi quỳ xuống làm lễ chào tỏ lòng tôn trọng.

The morning was far advanced when I was awakened by someone enthusiastically kicking me. Blearily I peered up into the face of a hulking chela, “Wake up Wake up! By the Sacred Dagger, you’re a lazy dog!” He kicked me again—hard. I reached out, grabbed his foot and twisted. With a bone-shaking jar he fell to the floor yelling, “The Lord Abbot! The Lord Abbot! He wants to see you, you cross grained idiot!” Giving him a kick to make up for the many he had given me, I straightened my robe and hurried off. “No food—no breakfast!” I mumbled to myself “why does everyone want me just when it is time to eat?” Racing along the endless corridors, swinging round corners, I almost gave heart-failure to a few old monks doddering around, but I reached the Lord Abbot’s room in record time. Rushing in I dropped to my knees and made my bows of respects.

Vị Sư trưởng đang kiểm tra hồ sơ của tôi và tôi nghe thấy một tiếng cười bị kìm nén vội vàng. “À!” Ngài nói, “anh chàng thanh niên hoang dã rơi xuống vách đá, bôi mỡ dưới sàn nhà và gây ra nhiều hỗn loạn hơn bất cứ ai khác ở đây.” Ngài dừng lại và nhìn tôi nghiêm khắc; “Nhưng con đã học rất giỏi, cực kỳ giỏi,” Ngài nói. “Các khả năng siêu hình của con đã đạt mức cao như vậy, và con đã tiến bộ trong công việc học tập của mình đến mức ta sẽ cho con được học riêng một cách đặc biệt với Đại đức Lạt ma Minh Gia. Con được trao một cơ hội chưa từng có bởi mệnh lệnh rõ ràng của Đấng Thái Tuế. Bây giờ hãy đến trình diện vị Lạt ma Thầy hướng dẫn của con đi.” Ngài phẩy tay, và lại quay sang đống giấy tờ của mình. Thật nhẹ nhõm vì không cái nào trong số nhiều “tội lỗi” của tôi bị phát hiện ra, tôi vội vã rời đi. Thầy của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, đang ngồi đợi tôi. Nhìn tôi chăm chú khi tôi bước vào, Thầy nói, “Con đã ăn sáng chưa?” “Chưa ạ, thưa Thầy,” tôi nói, “Đức Sư trưởng đã cho gọi con khi con đang ngủ – con đang đói!” Thầy cười và nói, “À! Thầy nghĩ rằng trông con thiểu não như thể đang bị bệnh vậy. Hãy đi ăn sáng và sau đó quay lại đây.” Không cần thúc giục, tôi đang đói và không thích điều đó tẹo nào. Lúc đó tôi không biết rằng, mặc dù điều đó đã được dự đoán trước, đói khát đã theo tôi suốt nhiều năm tháng của cuộc đời.

The Lord Abbot was perusing my Record and at one time I heard a hastily suppressed chuckle. “Ah!” he said, “the wild young man who falls over cliffs, greases the bottom of stilts, and causes more commotion than anyone else here.” He paused and looked sternly at me; “But you have studied well, extraordinarily well,” he said. “Your metaphysical abilities are of such a high order, and you are so far advanced in your academic work that I am going to have you specially and individually taught by the Great Lama, Mingyar Dondup. You are given an unprecedented opportunity by the express command of His Holiness. Now report to the Lama your Guide.” Dismissing me with a wave of his hand, the Lord Abbot turned again to his papers. Relieved that none of my numerous “sins” had been found out, I hurried off. My Guide, the Lama Mingyar Dondup, was sitting waiting for me. Eyeing me keenly as I entered, he said, “Have you broken your fast?” “No, Sir,” I said, “the Reverend Lord Abbot sent for me while I was yet asleep—I am hungry!” He laughed at me and said, “Ah! I thought you had a woebegone look as if you were being ill used. Be off with you, get your breakfast and then return here.” I needed no urging—I was hungry and did not like it. Little did I know then although it had been predicted!—that hunger was to follow me through many years of my life.

Tỉnh người sau khi được ăn một bữa sáng ngon lành, nhưng lại bị trừng phạt về tinh thần khi nghĩ đến công việc vất vả hơn, tôi trở lại phòng Đức Lạt ma Minh Gia. Thầy đứng dậy khi tôi bước vào. “Đến đây!” Thầy nói, “chúng ta sẽ dành một tuần ở Potala.” Thầy dẫn đường, sải bước ra khỏi phòng và đi đến nơi một nhà sư đang đợi với hai con ngựa. Tôi uể oải xem xét con ngựa được giao cho tôi. Nó thậm chí nhìn tôi ủ ê, nghĩ về tôi ít hơn tôi nghĩ về nó. Với một cảm giác sắp chết, tôi trèo lên lưng ngựa và ngồi vắt vẻo trên đó. Ngựa là những sinh vật khủng khiếp, không an toàn, nóng nảy và không có phanh. Cưỡi ngựa là thành tích tồi tệ nhất của tôi.

Refreshed by a good breakfast, but chastened in spirit at the thought of more hard work, I returned to the Lama Mingyar Dondup. He rose to his feet as I entered. “Come!” he said, “we are going to spend a week at the Potala.” Leading the way, he strode out of the Hall and out to where a groom-monk was waiting with two horses. Gloomily I surveyed the horse allotted to me. Even more gloomily he stared at me, thinking less of me than I of him. With a feeling of impending doom I mounted the horse and hung on. Horses were terrible creatures, unsafe, temperamental, and without brakes. Horse riding was the least of any accomplishment that I might have possessed.

Chúng tôi dong ngựa chậm rãi đi xuống con đường núi từ Chakpori. Băng qua con đường Mani Lakhang, với Pargo Kaling bên phải chúng tôi, chúng tôi nhanh chóng đi vào Làng Shö, nơi Thầy của tôi dừng lại một chút, sau đó chúng tôi leo lên những bậc thang dốc của Potala. Cưỡi ngựa lên cao là một trải nghiệm khó chịu, và mối quan tâm chính của tôi là không bị rơi khỏi lưng ngựa! Các tu sĩ, Lạt ma và khách hành hương, một số trong họ lê bước lên xuống Bậc thang không mệt mỏi, một số dừng lại để chiêm ngưỡng cảnh quan, những người khác đã được chính Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp đón chỉ suy tư về cuộc nói chuyện đó. Lên đến đỉnh cầu thang, chúng tôi dừng lại, và tôi biết ơn khi vụng về trượt khỏi lưng ngựa. Con ngựa tội nghiệp hý lên một cách chán ghét rồi quay lưng lại với tôi!

We jogged down the mountainous path from Chakpori. Crossing the Mani Lakhang road, with the Pargo Kaling on our right, we soon entered the Village of Shö—where my Guide made a brief stop, then we toiled up the steep steps of the Potala. Riding a horse up steps is an unpleasant experience, and my main concern was not to fall off! Monks, lamas and visitors, an unceasing throng of them were trudging up and down the Steps, some stopping to admire the view, others who had been received by the Dalai Lama Himself thought only of that interview. At the top of the Steps we stopped, and I slid gratefully but ungracefully from my horse. He, poor fellow, gave a whinny of disgust and turned his back on me!

Chúng tôi đi bộ, leo hết bậc này đến bậc khác cho đến khi chúng tôi lên đến bậc trên cao của Potala, nơi Đức Lạt ma Minh Gia có phòng cố định được dành cho Ông gần Phòng Khoa học. Những thiết bị kỳ lạ từ các quốc gia trên thế giới đều ở trong Căn phòng đó, nhưng những thiết bị kỳ lạ nhất trong số đó là những thiết bị từ quá khứ xa xôi. Vậy là, cuối cùng, chúng tôi đã đến đích và tôi đã ở lại một thời gian trong phòng mà bây giờ là phòng của tôi.

On we walked, climbing ladder after ladder until we reached the high level of the Potala where the Lama Mingyar Dondup had permanent rooms allotted to him near the Room of Sciences. Strange devices from countries the world over were in that Room, but the strangest devices of all were those from the remotest past. So, at last we reached our destination, and I settled for a time in what was now my room.

Từ cửa sổ phòng tôi, trên cao ở Potala, chỉ thấp hơn tầng của Đạt lại Lạt ma một tầng, tôi có thể nhìn ra Lhasa, trên Thung lũng. Xa xa tôi có thể nhìn thấy Nhà thờ lớn (Jo Kang) với mái vòm bằng vàng. Đường Vành đai, hay đường Lingkhor, trải dài ra xa, tạo thành một mạch hoàn chỉnh của Thành phố Lhasa. Những người hành hương sùng đạo tấp nập trên đường, tất cả đều đến để dâng lễ tại trung tâm học tập huyền bí lớn nhất thế giới. Tôi lấy làm lạ về sự may mắn của mình khi có một người thầy tuyệt vời như Đức Lạt ma Minh Gia; không có Người, tôi chỉ có thể là một chú tiểu bình thường, sống trong ký túc xá tối tăm thay vì gần như đứng đầu thế giới. Đột nhiên, bất ngờ đến nỗi tôi kêu ré lên, những cánh tay mạnh mẽ nắm lấy tôi và nâng tôi lên không trung. Một giọng trầm vang lên, “Thế đấy! Tất cả những gì con nghĩ về Thầy của mình là sẽ đưa con đến Potala và cho con ăn những món bánh ngọt ngào từ Ấn Độ ư?” Người cười át đi sự phản đối tôi; và tôi đã quá mù quáng, hoặc quá bối rối khi nhận ra rằng Thầy biết tôi đang nghĩ gì về Người!

From my window, high up in the Potala, only one floor lower than the Dalai Lama, I could look out upon Lhasa, upon the Valley. Far off I could see the great Cathedral (Jo Kang) with golden roof agleam. The Ring Road, or Lingkhor, stretched away in the distance, making a complete circuit of Lhasa City. Devout pilgrims thronged it, all coming to offer prostrations at the world’s greatest seat of Occult learning. I marveled at my good fortune in having such a wonderful Guide as the Lama Mingyar Dondup; without him I should be an ordinary chela, living in a dark dormitory instead of being almost on top of the world. Suddenly, so suddenly that I emitted a squeak of surprise, strong arms grasped mine and lifted me in the air. A deep voice said, “So! All you think of your Guide is that he gets you high in the Potala and feeds you those sickly sweet confections from India?” He laughed down my protestations; and I was too blind, or too confused to realise that he knew what I thought of him!

Cuối cùng, Người nói, “Chúng ta đã có mối quan hệ từ lâu, chúng ta biết nhau rất rõ ở kiếp trước. Con có tất cả kiến thức về kiếp trước và chỉ cần được nhớ lại. Bây giờ chúng ta phải làm việc. Đến phòng của ta.” Tôi kéo thẳng chiếc áo choàng của mình và đặt lại cái bát đã rơi ra khi tôi bị nhấc lên không trung, rồi tôi vội vã đến phòng của Thầy. Người ra hiệu cho tôi ngồi, và khi tôi đã an tọa, Người nói, “Có phải con đã suy ngẫm về vấn đề Sự sống, về cuộc thảo luận của chúng ta về đêm qua?” Tôi gục đầu trong thất vọng khi trả lời, “Thưa Thầy, con phải ngủ, sau đó, Sư trưởng cho gọi con, rồi Thầy gọi con, tiếp đó con phải đi ăn và sau đó Thầy lại gọi con. Hôm nay con đã không có thời gian để nghĩ về bất cứ điều gì!” Nụ cười hiện trên khuôn mặt khi Người nói, “Chúng ta sẽ thảo luận về tác dụng của thực phẩm sau, nhưng trước tiên chúng ta hãy tiếp tục về Sự sống.” Người dừng lại và với lấy một cuốn sách viết bằng tiếng nước ngoài kỳ lạ. Bây giờ tôi biết đó là ngôn ngữ tiếng Anh.

At last he said, “We are in rapport, we knew each other well in a past life. You have all the knowledge of that past life and merely need to be reminded. Now we have to work. Come to my room.” I straightened my robe and put back my bowl which had fallen out when I was lifted into the air, then I hurried to the room of my Guide. He motioned for me to sit, and when I was settled, he said, “And have you pondered on the matter of Life, on our discussion of last night?” I hung my head in some dismay as I replied, “Sir, I had to sleep, then the Lord Abbot wanted to see me, then you wanted to see me, then I had to have food and then you wanted to see me again. I have had no time to think of anything today!” There was a smile on his face as he said, “We are going to discuss later the effects of food but first let us resume about Life.” He stopped and reached out for a book which was written in some outlandish foreign language. Now I know it was the English language.

Lật giở những trang sách, cuối cùng Thầy đã tìm thấy chỗ cần tìm. Đưa cuốn sách cho tôi, mở ra một bức tranh, Thầy hỏi, “Con có biết đó là gì không?” Tôi nhìn vào bức tranh, và nó rất bình thường đến nỗi tôi nhìn vào những từ lạ bên dưới. Nó không có nghĩa gì với tôi cả. Trả lại cuốn sách tôi trách móc, “Thầy biết là con không thể đọc nó, Thưa Thầy tôn kính!” “Nhưng con có nhận ra bức tranh không?” Người vẫn kiên trì, “Vâng, có, đó chỉ là một Tinh linh thiên nhiên, không có gì khác ở đây.” Tôi mỗi lúc thêm hoang mang. Tất cả chuyện này là gì? Vị Lạt ma mở cuốn sách một lần nữa và nói, “Tại một quốc gia xa xôi bên kia đại dương, nói chung khả năng để nhìn thấy Tinh linh thiên nhiên đã bị mất. Nếu một người nhìn thấy Tinh linh như vậy thì đó là chuyện đùa, Người nhìn thấy thì bị buộc tội ‘nhìn thấy mọi thứ’. Người phương Tây không tin vào những thứ đó trừ khi chúng có thể bị xé thành từng mảnh hoặc cầm trong tay, hoặc bị nhốt trong lồng. Một Tinh linh thiên nhiên được gọi là Tiên ở phương Tây và Truyện cổ tích là không tin được.” Điều này làm tôi vô cùng ngạc nhiên. Tôi có thể nhìn thấy các Tinh linh mọi lúc và coi chúng là hoàn toàn tự nhiên. Tôi lắc đầu để xóa bỏ sự bối rối.

Turning over pages he at last found that which he was seeking. Passing the book to me, opened at a picture, he asked, “Do you know what that is?” I looked at the picture, and it was so very ordinary that I looked at the strange words beneath. It meant nothing at all to me. Passing the book back I said reproachfully, “You know I cannot read it, Honourable Lama!” “But you recognise the picture?” he persisted “Well, yes, it is just a Nature Spirit, no different from anything here.” I was becoming more and more puzzled. What was it all about? The Lama opened the book again and said, “In a far-off country across the seas the general ability to see Nature Spirits has been lost. If one sees such a Spirit it is a matter for jest, the Seer is literally accused of ‘seeing things.’ Western people do not believe in things unless they can be torn to pieces or held in the hands, or put in a cage. A Nature Spirit is termed a Fairy in the West—and Fairy Tales are not believed.” This amazed me immensely. I could see Spirits at all times and took them as absolutely natural. I shook my head to clear some of the fog out of it.

Đức Lạt ma Minh Gia nói, “Tất cả Sự sống, như ta đã nói với con đêm qua, bao gồm Vật chất rung động nhanh tạo ra sự tích điện, điện là Sự sống của Vật chất. Như trong âm nhạc có nhiều quãng tám. Hãy hình dung rằng con người bình thường bên lề đường rung động trên một quãng tám nhất định, còn Tinh linh và Ma sẽ rung động ở quãng tám cao hơn. Bởi vì Người bình thường chỉ sống và suy nghĩ và tin tưởng trên một quãng tám, người của các quãng tám khác là vô hình đối với anh ta!” Tôi loay hoay với chiếc áo choàng của mình khi nghĩ về điều đó; nó không có ý nghĩa với tôi. Tôi có thể nhìn thấy ma và tinh linh, do đó bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy chúng. Vị Lạt ma, đọc được suy nghĩ của tôi, đã trả lời, “Con thấy hào quang của con người. Hầu hết những người khác thì không. Con thấy tinh linh và ma quỷ. Hầu hết những người khác không thể. Tất cả trẻ nhỏ đều nhìn thấy những điều như vậy, bởi vì trẻ rất dễ tiếp thu. Sau đó, khi đứa trẻ lớn lên, sự lo lắng cho cuốc sống làm thô đi các giác quan. Ở phương Tây, những đứa trẻ nói với cha mẹ của chúng rằng đã chơi với những Người bạn Tâm linh thì sẽ bị phạt vì nói dối, hoặc bị cười vì ‘trí tưởng tượng sống động của chúng.’ Đứa trẻ phẫn nộ vì bị đối xử như vậy và sau một thời gian tự thuyết phục rằng tất cả đó chỉ là tưởng tượng! Còn con, nhờ có sự dạy dỗ đặc biệt, nên nhìn thấy ma và tinh linh, và con sẽ luôn luôn nhìn thấy, giống như con đang thấy hào quang của con người.”

The Lama Mingyar Dondup spoke, “All Life, as I told you last night, consists of rapidly vibrating Matter generating an electrical charge, the electricity is the Life of Matter. As in music there are various octaves. Imagine that the ordinary Man in the Street vibrates on a certain octave, then a Nature Spirit and a Ghost will vibrate at a higher octave. Because the Average Man lives and thinks and believes on one octave only, people of other octaves are invisible to him!” I fiddled with my robe, thinking it over; it did not make sense to me. I could see ghosts and nature spirits, therefore anyone should be able to see them also. The Lama, reading my thoughts, replied, “You see the aura of humans. Most other humans do not. You see nature spirits and ghosts. Most other humans do not. All very young children see such things, because the very young are more receptive. Then as the child grows older, the cares of living coarsen the perceptions. In the West, children who tell their parents that there has been a game with Spirit Playmates are punished for telling lies, or are laughed at for their ‘vivid imagination.’ The child resents such treatment and after a time convinces himself that it was all imagination! You, because of your special upbringing see ghosts and nature spirits, and you always will—just as you will always see the human aura.”

“Vậy thì, ngay cả những tinh linh, những người chăm sóc những bông hoa cũng giống như chúng ta sao?” Tôi hỏi. “Đúng,” Người đáp, “cũng giống như chúng ta ngoại trừ việc chúng rung động nhanh hơn và các hạt vật chất của chúng được khuếch tán nhiều hơn. Đó là lý do tại sao con có thể đặt bàn tay của con xuyên qua chúng giống như con có thể đặt bàn tay của con xuyên qua một tia nắng.” “Thầy đã bao giờ chạm vào – Thầy biết mà, hoặc giữ lấy – một con ma chưa ạ?” Tôi hỏi. “Có, Ta đã từng!” Thầy trả lời. “Việc đó có thể thực hiện được nếu một người nâng cao độ rung động của chính mình. Ta sẽ nói cho con về điều đó.”

 “Then even the nature spirits who tend flowers are the same as us?” I asked. “Yes,” he replied, “the same as us except that they vibrate faster and their particles of matter are more diffused. That is why you can put your hand right through them just as you can put your hand right through a sunbeam.” “Have you ever touched—you know, held—a ghost?” I queried. “Yes I have!” he replied. “It can be done if one raises one’s own rate of vibrations. I will tell you about it.”

Vị Lạt ma lắc nhẹ chiếc chuông bạc, món quà từ một vị Sư trưởng của một trong những Tu viện nổi tiếng của Tây Tạng. Nhà sư phục vụ, hiểu rõ chúng tôi, đã mang đến không phải là tsampa, mà là trà từ Ấn Độ, và những chiếc bánh ngọt ngào được mang qua những ngọn núi cao đặc biệt dành cho Đức Thái Tuế, Dalai Lama, và tôi, chỉ là một chú tiểu tội nghiệp, vô cùng thích. “Đây là phần thưởng dành cho những nỗ lực đặc biệt khi học tập” như Đức Thái Tuế thường nói. Đức Lạt ma Minh Gia đã đi khắp thế giới, cả bằng thể chất lẫn thể vía. Một trong rất ít điểm yếu của Thầy là nghiện trà Ấn Độ. Một điểm yếu mà tôi hết sức tán thưởng! Chúng tôi ngồi thật thoải mái, và ngay sau khi tôi ăn xong bánh, Thầy và cũng là Bạn của tôi bắt đầu nói.

My Guide touched his silver bell, a gift from a High Abbot of one of Tibet’s better known Lamaseries. The monk-servant, knowing us well, brought—not tsampa, but tea from Indian plants, and those sweet cakes which were carried across the high mountains specially for His Holiness, the Dalai Lama, and which I, just a poor chela, enjoyed so much. “Reward for special efforts at study” as His Holiness had often said. The Lama Mingyar Dondup had toured the world, both in the physical and the astral. One of his very few weaknesses was an addiction to Indian tea. A weakness which I heartily endorsed! We settled down comfortably, and as soon as I had finished my cakes, my Guide and Friend spoke.

“Cách đây nhiều năm, khi Ta còn là một chàng trai trẻ, Ta cũng đã chạy vòng quanh các góc hành lang tại Potala, giống như con vậy, Lobsang! Ta đã từng bị trễ buổi lễ, và điều kinh hoàng là Ta nhìn thấy một vị Sư trụ trì bệ vệ đang chặn đường. Ngài ấy cũng đang vội vã! Không còn thời gian để tránh ông ấy; Ta chỉ kịp xin lỗi khi đâm sầm xuyên qua ông ấy. Ông ấy cũng hoảng hốt như Ta. Tuy nhiên, Ta đã rất bối rối khi tiếp tục chạy và vì vậy không bị muộn, cuối cùng cũng không quá muộn.” Tôi cười, nghĩ đến Đức Lạt ma Minh Gia trang nghiêm đang chạy vội vã! Thầy mỉm cười với tôi và nói tiếp.

“Many years ago, when I was a young man, I scurried round a corner here at the Potala—just as you do, Lobsang! I was late for Service, and to my horror I saw a portly Abbot blocking my way. He was hurrying too! There was no time to avoid him; I was just rehearsing my apology when I crashed right through him. He was as alarmed as I. However, I was so bemused that I kept on running and so was not late, not too late, after all.” I laughed, thinking of the dignified Lama Mingyar Dondup scurrying! He smiled at me and continued.

“Đêm khuya hôm đó, Ta trăn trở về chuyện này. Ta nghĩ, ‘tại sao mình không được chạm vào một con ma?’ Càng nghĩ về nó, Ta càng quyết tâm sẽ phải chạm vào một con ma. Ta đặt kế hoạch cho mình một cách cẩn thận và đọc tất cả các tài liệu cổ về những vấn đề như vậy. Ta cũng đã tham khảo ý kiến của một người rất uyên bác sống trong một hang động cao trên núi. Ông ấy nói với Ta rất nhiều, ông ấy đưa ta đi đúng đường, và ta cũng sẽ nói với con như vậy, bởi vì nó dẫn trực tiếp đến chủ đề chạm vào một con ma.”

“Late that night I thought about it. I thought ‘why shouldn’t I touch a ghost?’ The more I thought about it the more determined I was that I would touch one. I laid my plans carefully, and read all the old Scripts about such matters. I also consulted a very very learned man who lived in a cave high in the mountains. He told me much, he put me on the right path, and I am going to tell you the same, because it leads directly to the theme of touching a ghost.”

Người rót thêm một ít trà và nhấm nháp một lát trước khi tiếp tục. “Sự sống, như ta đã nói với con, bao gồm một khối các hạt, các thế giới nhỏ xoay quanh các mặt trời nhỏ. Chuyển động sinh ra một chất mà vì muốn có một thuật ngữ tốt hơn, chúng ta sẽ gọi là ‘điện. Nếu như chúng ta ăn uống hợp lý, chúng ta có thể nâng cao rung động. Một chế độ ăn uống hợp lý, không có ý tưởng sùng bái nào, sẽ tăng cường sức khỏe của người đó, nâng cao tần số rung động thiết yếu của một người. Vì vậy, chúng ta đến gần với tần số rung động của ma.” Người dừng lại và thắp một nén nhang mới. Hài lòng với ngọn hương cháy ấm áp, Người lại hướng sự chú ý về phía tôi.

He poured himself some more tea and sipped awhile before continuing. “Life, as I told you, consists of a mass of particles, little worlds circling around little suns. The motion generates a substance which, for want of a better term, we will call ‘electricity.’ If we eat sensibly we can increase our rate of vibration. A sensible diet, none of the crank cult ideas, increases one’s health, increases one’s basic rate of vibration. So we come nearer to the ghost’s rate of vibration.” He stopped and lit a fresh stick of incense. Satisfied that the end was glowing satisfactorily, he turned his attention again to me.

“Mục đích duy nhất của hương trầm là để tăng tốc độ rung động của khu vực mà nó được đốt, và tốc độ rung động của những người trong khu vực đó. Bằng cách sử dụng hương trầm đúng cách, đối với tất cả những gì được thiết kế cho một rung động nhất định, chúng ta có thể đạt được kết quả nhất định. Trong một tuần, ta giữ cho mình một chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt, một chế độ làm tăng rung động hay ‘tần số’ của mình. Trong suốt tuần đó, ta cũng liên tục đốt nhang một cách thích hợp trong phòng. Vào cuối thời gian đó, ta gần như đã thoát ra khỏi bản thân mình; Ta cảm thấy mình trôi đi hơn là đi bộ, ta cảm thấy khó khăn trong việc giữ thể vía trong cơ thể vật lý của mình.” Thầy nhìn tôi và mỉm cười khi nói, “Con không cần phải đánh giá cao chế độ ăn kiêng chặt chẽ như vậy!” “Không” Tôi nghĩ, “Tôi thà được chạm vào một bữa cỗ no nê còn hơn được chạm vào bất kỳ con ma tốt nào!

“The sole purpose of incense is to increase the rate of vibration of the area in which it is burned, and the rate of those within that area. By using the correct incense, for all are designed for a certain vibration, we can attain certain results. For a week I held myself to a rigid diet, one which increased my vibration or ‘frequency.’ For that week also I continually burned the appropriate incense in my room. At the end of that time I was almost ‘out’ of myself; I felt that I floated rather than walked, I felt the difficulty of keeping my astral form within my physical.” He looked at me and smiled as he said, “You would not have appreciated such a restricted diet!” “No” I thought, “I would rather touch a square meal than any good ghost!”

“Vào cuối tuần,” Thầy nói, “Ta đã đi xuống vào trong Đền thờ và thắp thêm nhang trong khi cầu khẩn một con ma đến và chạm vào mình. Đột nhiên ta cảm thấy sự ấm áp của một bàn tay thân thiện trên vai mình. Quay lại để xem ai đang làm phiền phiên thiền định của mình, ta gần như nhảy thẳng ra khỏi áo choàng của mình khi nhìn thấy đang chạm vào ta là một linh hồn của một người đã ‘chết’ cách đây hơn một năm.” Đức Lạt ma Minh Gia đột ngột dừng lại, rồi cười lớn khi nghĩ về trải nghiệm đã qua từ lâu.

“At the end of the week,” said the Lama my Guide, “I went down to the Inner Sanctuary and burned more incense while I implored a ghost to come and touch me. Suddenly I felt the warmth of a friendly hand on my shoulder. Turning to see who was disturbing my meditation, I almost jumped straight out of my robe when I saw that I was being touched by the spirit of one who had ‘died’ more than a year ago.” The Lama Mingyar Dondup stopped abruptly, then laughed out loud as he thought of that long-past experience.

“Lobsang!” cuối cùng Thầy kêu lên, “Vị Lạt ma già đã ‘chết’ cười và hỏi tại sao ta lại đi qua tất cả những khó nhọc đó, khi mà tất cả những gì ta phải làm là đi vào cõi trung giới! Ta thú nhận rằng cảm thấy xấu hổ khi đã không nghĩ ra một giải pháp rõ ràng như vậy. Bây giờ, như con đã biết, chúng ta đi vào cõi trung giới để nói chuyện với ma và tinh linh.” “Tất nhiên, Thầy nói được bằng thần giao cách cảm,” tôi nhận xét, “và con không biết bất kỳ lý giải nào về thần giao cách cảm. Con làm được điều đó, nhưng con không biết mình đã làm như thế nào?”

“Lobsang!” he exclaimed at last, “the old ‘dead’ lama laughed at me and asked me why I had gone to all that trouble, when all I had to do was to go into the astral! I confess that I felt mortified beyond measure to think that such an obvious solution had escaped me. Now, as you well know, we do go into the astral to talk to ghosts and nature people.” “Of course, you spoke by telepathy,” I remarked, “and I do not know of any explanation for telepathy. I do it, but how do I do it?”

“Con hỏi những câu hỏi khó nhất, Lobsang ạ!” Thầy cười. “Những điều đơn giản nhất là khó giải thích nhất. Nói cho thầy biết, con giải thích quá trình thở như thế nào? Con làm điều đó, mọi người đều làm điều đó, nhưng giải thích quy trình như thế nào?” Tôi rầu rĩ gật đầu. Tôi biết tôi luôn đặt câu hỏi, nhưng đó là cách duy nhất để biết mọi thứ. Hầu hết các chú tiểu khác đều không quan tâm, miễn là họ có thức ăn và không phải làm việc quá nhiều là họ hài lòng. Tôi muốn nhiều hơn, tôi muốn biết.

“You ask the most difficult questions, Lobsang!” laughed my Guide. “The simplest things are the most difficult to explain. Tell me, how would you explain the process of breathing? You do it, everyone does it, but how does one explain the process?” I nodded glumly. I knew I was always asking questions, but that was the only way to get to know things. Most of the other chelas were not interested, as long as they had their food and not too much work they were satisfied. I wanted more, I wanted to know.

“Bộ não,” Người nói, “giống như một bộ đàm, giống như thiết bị mà người đàn ông Marconi đang sử dụng để gửi tin nhắn qua các đại dương. Tập hợp các hạt và điện tích cấu thành nên một con người, có thiết bị điện, hoặc radio, thiết bị của não để nói cho nó biết phải làm gì. Khi một người nghĩ đến việc di chuyển một cái tay hay chân, dòng điện chạy dọc theo các dây thần kinh thích hợp để kích thích các cơ hành động theo mong muốn. Cũng như vậy, khi một người nghĩ, sóng vô tuyến hoặc sóng điện – chúng thực sự đến từ phần cao hơn của phổ vô tuyến – được phát ra từ não. Một số công cụ có thể phát hiện các bức xạ và thậm chí có thể lập biểu đồ cho chúng theo những gì các bác sĩ phương Tây gọi là các dòng ‘alpha, beta, delta và gamma’.” Tôi gật đầu chậm chạp, tôi đã nghe về những điều như vậy từ các Lạt ma y tế.

“The brain,” said the Lama, “is like a radio set, like the device which that man Marconi is using to send messages across the oceans. The collection of particles and electrical charges which constitutes a human being, has the electrical, or radio, device of the brain to tell it what to do. When a person thinks of moving a limb, electric currents race out along the appropriate nerves to galvanize the muscles into the desired action. In the same way, when a person thinks, radio or electrical waves—actually they come from the higher part of the radio spectrum—are radiated from the brain. Certain instruments can detect the radiations and can even chart them into what the Western doctors term ‘alpha, beta, delta, and gamma’ lines.” I nodded slowly, I had already heard of such things from the Medical Lamas.

“Vậy thì,” Người tiếp tục, “những người nhạy cảm có thể phát hiện ra những bức xạ này và có thể hiểu chúng. Ta đọc được suy nghĩ của con, và khi con cố gắng, con có thể đọc được suy nghĩ của ta. Hai người càng có thiện cảm, hòa hợp với nhau, họ càng dễ dàng đọc được những bức xạ não của nhau, đó là những suy nghĩ. Vì vậy, chúng ta có được thần giao cách cảm. Cặp song sinh thường thần giao cách cảm với nhau. Cặp song sinh giống hệt nhau, trong đó bộ não của một người là bản sao của người kia, rất dễ cảm nhận với nhau từ xa đến nỗi thường rất khó để xác định một ý nghĩ bắt nguồn từ người nào.”

“Now,” my Guide continued, “sensitive persons can detect these radiations also, and can understand them. I read your thoughts, and when you try, you can read mine. The more two people are in sympathy, in harmony, with each other, the easier it is for them to read these brain radiations which are thoughts. So we get telepathy. Twins are often quite telepathic to each other. Identical twins, where the brain of one is a replica of the other, are so telepathic each to the other that it is often difficult indeed to determine which one originated a thought.”

“Thưa Thầy tôn kính,” tôi nói, “Con có thể đọc được hầu hết các tâm trí. Tại sao lại thế? Có nhiều hơn nữa khả năng đặc biệt này không?” “ Lobsang,” Thầy đáp, “ con có năng khiếu đặc biệt và được đào tạo đặc biệt. Sức mạnh của con đang được tăng lên bằng mọi cách theo yêu cầu của chúng ta vì con có một nhiệm vụ khó khăn trong Cuộc sống phía trước.” Thầy lắc đầu nghiêm nghị, “một nhiệm vụ khó khăn thực sự. Lobsang, Ngày xưa, Nhân loại có thể giao tiếp bằng thần giao cách cảm với thế giới động vật. Trong thời gian tới, sau khi Nhân loại chứng kiến sự điên rồ của các cuộc chiến tranh, sức mạnh sẽ được lấy lại; một lần nữa Loài Người và Động vật sẽ cùng nhau bước đi trong hòa bình, không muốn làm hại người khác.”

“Respected Sir,” I said, “as you know, I can read most minds. Why is this? Are there many more with this particular ability?” “You, Lobsang,” replied my Guide, “are especially gifted and specially trained. Your powers are being increased by every method at our command for you have a difficult task in the Life ahead of you.” He shook his head solemnly, “A difficult task indeed. In the Old Days Lobsang, Mankind could commune telepathically with the animal world. In the years to come, after Mankind has seen the folly of wars, the power will be regained; once again Man and Animal will walk in peace together, neither desiring to harm the other.”

Bên dưới chúng tôi những tiếng cồng chiêng ngân vang. Tiếng kèn vang lên, Lạt ma Minh Gia Đại Đức đứng lên và nói, “Chúng ta phải nhanh lên, Lobsang, buổi Lễ Cầu nguyện sắp bắt đầu, và Đức Thái Tuế sẽ ở đó.” Tôi vội vàng đứng dậy, sắp xếp lại áo choàng của mình, rồi vội vã đi theo Thầy, lúc này đã ở xa phía dưới hành lang và gần như khuất tầm nhìn.

Below us a gong boomed and boomed again. There came the blare of trumpets, and the Lama Mingyar Dondup jumped to his feet, saying, “We must hurry, Lobsang the Temple Service is about to commence, and His Holiness Himself will be there.” I hastily rose to my feet, re-arranged my robe, and rushed after my Guide, now far down the corridor and almost out of sight.

Dịch giả: Nguyễn Thị Nguyệt Khánh

Biên tập : VMC