Chúng tôi đi dọc phố, qua các cửa hàng có các cửa sổ thắp sáng rực rỡ, bên trong là những vật liệu và hàng hóa mà trước đây chúng tôi chưa từng nhìn thấy. Một vài thứ đã xem trong ảnh trên các tạp chí đã được đưa đến Lhasa qua dãy Himalaya từ Ấn Độ, trước đó, chúng được đưa đến Ấn Độ từ Mĩ, miền đất huyền thoại. Một thanh niên Trung Quốc lao nhanh về phía chúng tôi trên một vật kỳ lạ nhất mà tôi đã từng thấy, đó là một khung sắt với hai cái bánh xe, một ở phía trước, một ở phía sau. Anh ta nhìn chúng tôi không rời mắt, thế nên đã không kiểm soát được “vật kỳ dị” đó, khiến bánh đằng trước lao vào đá và ngoặt ra bên đường, người thanh niên bay lên phía trên bánh xe đằng trước và ngã đập lưng xuống đất.
Một phụ nữ lớn tuổi người Trung Quốc chạy đến bên anh ta, bà đi quanh và mắng nhiếc con người đáng thương đó, chắc chắn là anh ta đang rất đau đớn. Anh ta đứng dậy, trông khá ngơ ngác, nhặt lên cái khung sắt còn gắn với bánh trước bị vặn méo, và vác lên vai rồi buồn bã đi xuống núi theo bậc thang. Chúng tôi nghĩ là mình đang đến một nơi điên rồ, bởi vì mọi người hành động rất khác thường. Chúng tôi chậm rãi đi dọc phố, kinh ngạc về hàng hóa trong các cửa hàng, cố gắng giải nghĩa giá cả là gì và để làm gì, bởi vì mặc dù chúng tôi đã nhìn thấy các tạp chí đến từ Mỹ, nhưng không ai trong chúng tôi hiểu những từ đơn giản nhất, mà chỉ giải trí với những bức hình mà thôi.
WE went along past the shops with brilliantly lighted windows, and in those windows were materials and goods of a kind which we had never seen before. Some of them we had seen pictured in magazines which had been brought to Lhasa over the Himalayas from India, and before reaching India from the U.S.A., that fabled land. A young Chinese came hurtling towards us on the weirdest thing I had ever seen, an iron framework with two wheels, one in front, one behind. He looked at us and could not take his eyes away. Through this he lost control of the framework, the front wheel hit a stone, the thing turned sideways, and the rider went straight over the front wheel to land on his back. Some elderly Chinese lady was almost swept off her feet by him. She turned round and berated the poor fellow, who we considered had already suffered enough. He got up, looking remarkably foolish, and picked up his iron framework with the front wheel buckled. He put it across his shoulders and went on sadly down the hill; the street of steps. We thought we had came to a mad place, because everyone was acting most peculiarly. We went slowly along, marveling at the goods in the shops, trying to decipher what price they would be, and what they were for, because although we had seen the magazines from America none of us had understood the slightest word, but had entertained ourselves with the pictures alone.
Đi xa hơn nữa, chúng tôi tìm thấy trường đại học nơi tôi sẽ theo học. Chúng tôi dừng lại và tôi đi vào trong để báo cáo về sự có mặt của mình. Tôi có những người bạn hiện vẫn còn trong tay của những người Trung Quốc, tôi không có ý định đưa ra bất cứ thông tin nào mà vì chúng, họ có thể bị nhận ra bởi tôi từng kết nối mật thiết nhất với Phong trào Thanh niên Tây Tạng Kháng chiến. Chúng tôi tích cực chống lại những người Trung Quốc ở Tây Tạng.
Tôi bước vào, chỉ ba bước, là đến nơi và vào một căn phòng. Ở đây có một cái bàn mà tại đó có một thanh niên Trung Quốc đang ngồi trên một cái bục nhỏ kỳ dị bằng gỗ, được đỡ bằng bốn cái cột và có hai cột khác nữa cùng một thanh ngang để đỡ lưng. Thật là một kiểu ngồi lười biếng, tôi nghĩ, tôi không bao giờ có thể xoay xở được giống như vậy! Anh ta có vẻ là một chàng trai trẻ tuổi dễ chịu. Anh mặc quần áo vải lanh màu xanh như hầu hết người Trung Quốc, đeo một chiếc huy hiệu trên ve áo, nó chỉ ra rằng anh ta là nhân viên của trường này.
Ngay khi nhìn thấy tôi, mắt anh ta mở to, miệng cũng vậy. Sau đó anh ta đứng lên và chắp hai tay vào nhau trong khi cúi thấp xuống.
– Tôi là sinh viên mới ở đây, tôi nói, tôi đến từ Lhasa, ở Tây Tạng, với bức thư của Tu viện trưởng Tu viện Potala.
Rồi tôi đưa ra chiếc phong bì đã cẩn trọng gìn giữ suốt hành trình, và bảo vệ nó khỏi mọi khó khăn gian khổ của chuyến đi.
Anh ta cầm lấy thư và cúi chào ba lần, và sau đó nói:
– Hòa thượng tôn kính, anh ta nói, ngài ngồi đây cho đến khi tôi trở lại được chứ?
– Được, tôi có nhiều thời gian.
Tôi nói và ngồi xuống trong tư thế hoa sen. Anh ta nhìn những ngón tay của mình một cách bối rối và bồn chồn lo lắng, đổi chân liên tục và sau khi nuốt nước miếng:
– Hòa thượng tôn kính, anh ta nói, với tất cả sự khiêm tốn và với sự tôn trọng sâu sắc nhất, tôi đề nghị ngài vui lòng làm quen với những chiếc ghế bởi vì chúng tôi sử dụng chúng trong trường đại học này.
Further along we came upon the college which I was to attend. We stopped, and I went inside so that I could report my arrival. I have friends still in the hands of the Communists, and I do not intend to give any information whereby they can be identified because I used to be most intimately connected with the Young Tibetan Resistance Movement. We most actively resisted the Communists in Tibet. I entered, there were three steps. I went up these and into a room. Here there was a desk at which a young Chinese was sitting on one of those peculiar little platforms of wood, supported by four poles and with two more poles and a crossbar to support the back. What a lazy way of sitting, I thought, I could never manage like that! He looked quite a pleasant young fellow. He was dressed in blue linen as most of the Chinese were. He had a badge in his lapel which indicated that he was a servant of the college. At sight of me his eyes opened quite wide, his mouth started to open as well. Then he stood up and clasped his hands together while he bowed low, “I am one of the new students here,” I said. “I have come from Lhasa, in Tibet, with a letter from the Abbot of the Potala Lamasery.” And I proffered the long envelope which I had treasured so carefully during our journey, and which I protected from all the rigors of travel. He took it from me, and gave three bows, and then, “Venerable Abbot,” he said, “will you sit down here until I return?” “Yes, I have plenty of time,” I said, and I sat down in the lotus position. He looked embarrassed and fidgeted nervously with his fingers. He stepped from foot to foot and then swallowed. “Venerable Abbot,” he said, “with all humility, and with the deepest respect, may I suggest that you get used to these chairs because we use them in this college.”
Tôi đứng lên và thận trọng ngồi xuống một trong những vật kỳ cục tồi tệ đó. Tôi nghĩ như thường lệ – Mình sẽ thử bất cứ cái gì ít nhất một lần! Dường như đối với tôi, vật này là một công cụ tra tấn.
Người thanh niên đi ra và để lại tôi ngồi đó bồn chồn và sốt ruột. Cơn đau xuất hiện ngay lúc đó, ngang qua lưng, rồi cứng cổ và rồi tôi cảm thấy hoàn toàn vượt quá sức chịu đựng. Tại sao, tôi nghĩ, ở đất nước bất hạnh này, người ta thậm chí không thể ngổi một cách đúng đắn như chúng tôi vẫn ngồi ở Tây Tạng, mà phải nhấc cao lên khỏi mặt đất. Tôi cố gắng nhích người sang một bên, cái ghế run rẩy kêu kẽo kẹt, vậy là tôi chẳng dám động đậy nữa vì sợ rằng nó sẽ gãy sụp xuống.
I rose to my feet and sat down most gingerly on one of those abominable contraptions. I thought—as I still think—I will try anything once! This thing seemed to me to be an instrument of torture. The young man went away and left me sitting. I fidgeted, and fidgeted. Soon pain appeared across my back, then I got a stiff neck and I felt thoroughly out of sorts with everything. Why, I thought, in this unfortunate country one cannot even sit properly as we did in Tibet, but here we have to be propped up from the ground. I tried to shift sideways and the chair creaked, groaned, and swayed, and after that I dared not move again for fear that the whole thing would collapse.
Người thanh niên đã trở lại, cúi đầu trước tôi lần nữa và nói:
– Ông Hiệu trưởng muốn gặp ngài, thưa Hòa thượng tôn kính. Mời ngài đi lối này.
Anh ta đưa tay ra mời tôi đi trước.
– Không, tôi nói, anh phải dẫn đường chứ. Tôi có biết đi lối nào đâu.
Anh ta cúi đầu lần nữa và vượt lên dẫn trước. Tất cả đều có vẻ rất ngớ ngần đối với tôi, những người nước ngoài này nói là họ sẽ chỉ đường cho bạn nhưng rồi họ lại đợi bạn dẫn họ đi. Làm thế nào bạn có thể chỉ dẫn trong khi bạn không biết đường? Đấy là quan điểm của tôi và bây giờ vẫn vậy.
Người thanh niên mặc quần áo màu xanh đưa tôi đi dọc theo hành lang và sau đó gõ cửa căn phòng gần phía cuối. Anh ta cúi đầu rồi mở cửa cho tôi và nói:
– Hòa thượng tôn kính, ngài Lobsang Rampa.
Anh ta khép cửa sau lưng và để tôi ở lại trong căn phòng. Một người đàn ông có tuổi đang đứng bên cửa sổ, ông già trông rất dễ chịu, một người đàn ông Trung Quốc, râu ngắn và hói đầu.
Kỳ lạ thay, ông ta cũng mặc bộ trang phục kinh khủng mà tôi đã từng nhìn thấy trước đây, kiểu trang phục mà người ta gọi là theo phong cách phương Tây. Ông mặc một chiếc áo khoác màu xanh, quần cũng màu xanh, và có một sọc màu trắng mỏng. Trên cổ áo ông đeo một cái cà vạt màu, và tôi nghĩ rằng bộ trang phục trông chán thế mà ông ấy định gây ấn tượng.
– Vậy anh là Lobsang Rampa, ông nói, tôi đã nghe nói rất nhiều về anh và tôi rất vinh dự nhận anh vào trường làm sinh viên của chúng tôi.
Tôi đã có một lá thư về anh, ngoài lá thư anh đã mang đến và tôi đảm bảo với anh rằng việc đào tạo trước đây mà anh đã trải qua sẽ có ích cho anh rất nhiều. Thầy của anh, Đức Lạt Ma Minh Gia Dondup, đã viết thư cho tôi. Tôi biết ông ấy rất rõ, từ vài năm trước ở Thượng Hải, trước khi tôi sang Mỹ. Tên tôi là Lee, Hiệu trưởng trường này.
The young man returned, bowed to me again, and said, “The Principal will see you, Venerable Abbot. Will you come this way.” He gestured with his hands and made for me to go ahead of him: “No,” I said, “you lead the way. I don’t know which way to go.” He bowed again and took the lead. It all seemed so silly to me, some of these foreigners, they say they will show you the way and then they expect you to lead them. How can you lead when you just don’t know which way to go? That was my point of view and it still is. The young man in blue led me along a corridor and then knocked at the door of a room near the end. With another bow he opened the door for me and said, “The Venerable Abbot, Lobsang Rampa.” With that he shut the door behind me and I was left in the room. There was an old man standing by the window, a very pleasant old man, bald and with a short beard, a Chinaman. Strangely, he was dressed in that awful style of clothing which I had seen before, that they call the western style. He had on a blue jacket and blue trousers and there was a thin white stripe going through. He had on a collar and a coloured tie, and I thought what a sad thing that such an impressive old gentleman has to get rigged up like that. “So you are Lobsang Rampa,” he said. “I have heard a lot about you and I am honoured to accept you here as one of our students. I have had a letter about you in addition to the one you brought and I assure you that the previous training which you have had will stand you in very good stead. Your Guide, the Lama Mingyar Dondup, has written to me. I knew him well some years ago in Shanghai before I went to America. My name is Lee, and I am the Principal here.”
Tôi phải ngồi xuống và trả lời một loạt các câu hỏi để kiểm tra kiến thức về các môn học và về giải phẫu học. Những điều quan trọng, hoặc có vẻ là chỉ quan trọng đối với tôi, là Giáo lý thì ông ấy chẳng kiểm tra tí nào.
– Tôi rất hài lòng về trình độ của anh, ông nói, nhưng anh sẽ phải học khá vất vả bởi vì ở đây, ngoài hệ thống của Trung Quốc, chúng tôi dạy theo phương pháp của Mỹ về y học và giải phẫu, và anh sẽ phải học nhiều môn chưa có trong chương trình của anh trước đây. Tôi đạt được tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, và tôi đã được ủy thác của Hội đồng quản trị về việc đào tạo một số thanh niên theo các phương pháp mới nhất của Mỹ và kết hợp các phương pháp này phù hợp với điều kiện của Trung Quốc.
Ông tiếp tục nói chuyện một lúc lâu về những điều kỳ diệu của nền y học và giải phẫu học của Mỹ, về những phương pháp được sử dụng để chuẩn đoán bệnh. Ông nói tiếp:
– Điện, Từ, Nhiệt, Ánh sáng và Âm thanh, tất cả các môn học này anh sẽ cần phải nắm vững thêm vào kiến thức rất hoàn hảo mà Thầy của anh đã dạy cho anh.
I had to sit down and answer all sorts of questions to test my knowledge of academic subjects and my knowledge of anatomy. The things that mattered, or so it seemed to me, the Scriptures, he tested not at all.
“I am very pleased with your standard,” he said, “but you are going to have to study quite hard because here, in addition to the Chinese system, we teach according to the American method of medicine and surgery, and you will have to learn a number of subjects which were not previously in your curriculum. I am qualified in the United States of America, and I have been entrusted by the Board of Trustees with training a number of young men in the latest American methods and co-relating these methods to suit conditions in China.” He went on talking for quite a time, telling me of the wonders of American medicine and surgery, and of the methods used for diagnosis. He went on, “Electricity, Magnetism, Heat, Light and Sound, all these subjects you will have to master in addition to the very thorough culture which your Guide has given you.”
Tôi nhìn ông trong nỗi kinh hoàng. Hai môn học đầu tiên, Điện và Từ, không có ý nghĩa gì với tôi. Tôi không có một chút ý tưởng mơ hồ nào về những gì ông ta nói. Nhưng Nhiệt, Ánh sáng và Âm thanh, phải, tôi nghĩ, bất kỳ kẻ ngu ngốc nào cũng biết về chúng; người ta phải sử dụng nhiệt để đun trà, sử dụng ánh sáng để nhìn, và sử dụng âm thanh khi nói.
Vậy thì có gì khác để nghiên cứu về chúng? Ông nói thêm:
– Tôi đề nghị rằng vì anh đã quen làm việc vất vả, nên hãy cố tích cực học gấp đôi người khác, và hãy theo hai khóa học cùng một lúc, hãy học các khóa về tiền y tế cùng lúc với khóa Đào tạo y tế. Với nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu, anh sẽ có thể làm được điều này. Hai ngày nữa chúng tôi có một lớp y tế mới khai giảng.
Ông ta quay đi và lục lọi những giấy tờ của mình, rồi cầm lên một vật mà tôi đã từng nhìn thấy trong hình vẽ, tôi nhận ra là cái bút mực – lần đầu tiên nhìn thấy – ông tự lẩm bẩm với chình mình:
– Lobsang Rampa, đào tạo đặc biệt về Điện và Từ. Hãy gặp ông Wu. Hãy nhớ là ông ta đặc biệt lưu tâm đấy.
I looked at him in horror. The first two, Electricity and Magnetism, meant nothing to me. I had not the vaguest idea what he was talking about. But Heat, Light and Sound, well, I thought, any fool knows about those; you use heat to heat your tea, you use light with which to see, and sound when you speak. So what else is there to study about them? He added, “I am going to suggest that as you are used to hard work, you should study twice as hard as anyone else, and take two courses together, take what we term the Premedical Course at the same time as the Medical Training. With your years of experience in study you should be able to do this. In two days’ time we have a new Medical Class starting.” He turned away and rustled through his papers. Then he picked up what from pictures I recognised as a fountain pen—the very first I had ever seen—he muttered to himself, “Lobsang Rampa, special training in Electricity and in Magnetism. See Mr. Wu. Make a note he gets special attention.”
Ông đặt bút xuống, cẩn thận thấm những gì đã viết, và đứng dậy. Tôi quan tâm nhất đến việc ông sử dụng giấy để thấm, chúng tôi sử dụng cát khô một cách cẩn thận. Nhưng ông đang đứng đấy nhìn tôi:
– Anh học hành tiến bộ đấy – ông ta nói – Qua trao đổi của chúng ta, tôi phải nói rằng anh thậm chí còn đi trước một số bác sĩ của chúng tôi, nhưng anh sẽ phải nghiên cứu hai môn học này, mà hiện nay, anh chưa có kiến thức về chúng.
Ông ta đặt tay lên cái chuông và nói:
– Tôi sẽ chỉ cho anh xem quanh đây và đưa anh đến các phòng ban khác để anh có ấn tượng nào đó về ngày hôm nay. Nếu anh có điều gì băn khoăn hay không chắc chắn thì hãy đến gặp tôi, vì tôi đã hứa với Đức Lạt Ma Minh Gia Dondup là sẽ giúp đỡ anh hết sức mình.
Rồi ông ấy cúi đầu chào, và tôi đặt tay lên tim cúi đầu chào lại.
Người thanh niên trong trang phục màu xanh bước vào. Ông Hiệu trưởng nói chuyện với anh ta bằng tiếng phổ thông. Sau đó ông quay sang tôi và nói:
– Có lẽ anh sẽ đi cùng Ah Fu, anh ấy sẽ chỉ cho anh quanh trường chúng ta và trả lời các câu hỏi của anh.
He put down his pen, carefully blotted what he had written, and stood up. I was most interested to see that he used paper for blotting. We used carefully dried sand. But he was standing up looking at me. “You are well advanced in some of your studies,” he said. “From our discussion I should say that you are even in advance of some of our own doctors, but you will have to study those two subjects of which, at present, you have no knowledge.” He touched a bell and said, “I will have you shown around and taken to the different departments so that you will have some impression to carry away with you this day. If you are in doubt, if you are uncertain, come to me, for I have promised the Lama Mingyar Dondup to help you to the full extent of my power.” He bowed to me, and I touched my heart to him as I bowed back. The young man in the blue dress entered. The Principal spoke to him in Mandarin. He then turned to me and said, “If you will accompany Ah Fu, he will show you around our college, and answer any questions you may care to put.”
Lúc này người thanh niên quay lại và dẫn đường, cẩn thận đóng cửa phòng Hiệu trưởng. Trong hành lang, anh ta nói:
– Trước tiên chúng ta cần phải đi đăng ký bởi anh cần phải ký tên vào sổ. Chúng tôi đi xuống hành lang, băng qua một hội trường lớn sàn sạch bóng.
Phía bên kia là một hành lang khác. Chúng tôi đi dọc theo đó vài bước và sau đó vào một căn phòng, trong đó rất nhộn nhịp. Các thư ký dường như đang rất bận rộn ghi tên vào danh sách, trong khi những người thanh niên khác đang đứng trước một cái bàn nhỏ ghi tên mình vào một cuốn sách lớn. Người thư ký đang hướng dẫn tôi nói điều gì đó với một người đàn ông khác, ông ta biến mất vào văn phòng lớn hơn kế bên.
Ngay sau đó, một người đàn ông Trung Quốc béo, lùn đi ra, với vẻ mặt tươi cười rạng rỡ. Ông ta đeo cặp kính dày cộm, và cũng ăn mặc theo phong cách phương Tây.
– À – ông ta nói – Lobsang Rampa, tôi đã được nghe nhiều về anh.
Ông ta giơ bàn tay cho tôi. Tôi nhìn và không biết ông ấy muốn tôi đưa cái gì cho ông ấy. Tôi nghĩ có lẽ ông ấy muốn tôi đưa tiền. Người dẫn đường thì thầm:
– Anh phải bắt tay ông ấy theo phong cách phương Tây.
– À phải, anh phải bắt tay tôi theo phong cách phương Tây, người đàn ông béo lùn nói, chúng ta sẽ sử dụng cách này ở đây.
Tôi liền nắm lấy tay ông ta và siết chặt.
– Ối! – ông ta kêu lên – anh đang bóp nát xương tôi rồi.
Tôi nói :
– Vâng, tôi không biết cần phải làm gì. Ở Tây Tạng chúng tôi đặt tay lên tim, giống như thế này.
Vừa nói tôi vừa làm cử chỉ minh họa. Ông ta liền bảo:
– Ồ, đúng rồi, nhưng bây giờ đã thay đổi. Chúng ta sẽ sử dụng cách này. Anh hãy nắm và lắc tay tôi đúng mức, tôi sẽ chỉ cho anh thấy làm như thế nào.
Và ông ta làm cử chỉ minh họa. Thế là tôi bắt tay ông ta và nghĩ, thật là ngu ngốc biết chừng nào.
This time the young man turned and led the way out, carefully shutting the Principal’s door behind him. In the corridor he said, “We must go to the Registrar first because you have to sign your name in a book.” We went down the corridor and crossed a large hall with a polished floor. At the far side of it was another corridor. We went along it a few paces and then into a room where there was a lot of activity. Clerks were very busy apparently compiling lists of names, while other young men were standing before small tables writing their names in large books. The clerk who was guiding me said something to another man who disappeared into an office adjoining the larger office. Shortly after, a short, squat Chinaman came out, beaming. He wore extremely thick glasses and he, too, was dressed in the Western style. “Ah,” he said, “Lobsang Rampa. I have heard such a lot about you.” He held out his hand to me. I looked at it. I did not know what he wanted me to give him. I thought perhaps he was after money. The guide with me whispered, “You must shake his hand in the Western style.” “Yes, you must shake my hand in the Western style,” the short, fat man said. “We are going to use that system here.” So I took his hand and squeezed it. “Owe!” he said, “You are crushing my bones.” I said, “Well; I don’t know what to do. In Tibet we touch our hearts, like this.” And I demonstrated. He said, “Oh, yes, but times are changing. We use this system. Now shake my hand properly, I will show you how.” And he demonstrated. So I shook his hand, and I thought, how utterly stupid this is.
Ông ta nói:
– Bây giờ anh phải ký tên để thể hiện rằng anh là sinh viên của chúng tôi.
Ông ta gạt qua một bên những thanh niên đang đứng cạnh cuốn sổ, và làm ướt mấy ngón tay để lật trang cuốn sổ cái.
– Đây rồi – ông nói – anh sẽ viết đầy đủ tên và cấp bậc của anh vào đây được không?
Tôi nhặt một cây bút Trung Quốc và ghi tên của mình ở đầu trang. “Tuesday Lobsang Rampa,” tôi viết, “Lạt ma Tây Tạng. Nhà sư y tế giải phẫu của lạt ma viện Chakpori. Được công nhận là Hóa thân. Được tấn phong Sư trưởng. Học trò của Đức Lạt ma Minh Gia Dondup.”
– Tốt!
Người đàn ông Trung Quốc béo, lùn nói khi ông ta nhìn chăm chú vào dòng chữ tôi viết.
– Tốt! Chúng ta làm xong rồi. Tôi muốn anh xem xung quanh chỗ chúng tôi. Tôi muốn anh có được ấn tượng về những kỳ quan của khoa học phương Tây đang có ở đây. Chúng ta sẽ gặp lại nhau sau.
Câu cuối cùng ông ta nói với người dẫn đường của tôi, và anh bạn trẻ nói:
– Anh sẽ đi cùng với tôi, chúng ta sẽ đi đến các phòng khoa học trước tiên.
He said, “Now you must sign your name to show that you are a student with us.” He roughly brushed aside some of the young men who were at the books, and wet his finger and thumb, then he turned over a big ledger. “There,” he said, “will you sign your full name and rank there?” I picked up a Chinese pen and signed my name at the head of the page. “Tuesday Lobsang Rampa,” I wrote, “Lama of Tibet. Priest-Surgeon. Chakpori Lamasery. Recognised Incarnation. Abbot Designate. Pupil of the Lama Mingyar Dondup.” “Good!” said the short, fat Chinaman, as he peered down at my writing. “Good! We shall get on. I want you to look round our place now. I want you to get an impression of all the wonders of Western science there are here. We shall meet again.” With that he spoke to my guide, and the young fellow said, “Will you came with me, we will go along to the science room first.”
Chúng tôi rảo bước qua các khu nhà và đi vào một tòa nhà dài khác. Ở đây có đồ bằng thủy tinh khắp mọi nơi. Chai, ống, bình thót cổ, … tất cả các thiết bị mà trước đây tôi mới chỉ nhìn thấy trong ảnh. Người thanh niên đi về phía một vật.
– Này! anh ta kêu lên, lại đây xem cái gì này.
Và anh ta cầm nghịch cái ống bằng đồng, đặt một mảnh thủy tinh dưới chân nó, rồi sau đó vặn cái núm và nhìn chăm chú vào ống đồng.
– Nhìn kìa!
Anh ta kêu lên. Tôi nhìn và thấy mẻ cấy của một loại vi trùng. Người thanh niên nhìn tôi băn khoăn và nói:
– Cái gì! Anh không ngạc nhiên à?
– Không hề! tôi đáp, chúng tôi có một cái rất tốt ở cung điện Potala do chính phủ Ấn Độ tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thầy của tôi, Đức Lạt Ma Minh Gia, được tự do đến đó và tôi đã dùng nó thường xuyên.
– Ồ!
Người thanh niên trả lời với vẻ mặt rất thất vọng.
– Tôi sẽ chỉ cho anh một cái gì đó khác vậy.
Và anh ta dẫn đường rời khỏi tòa nhà đó để đến một tòa nhà khác.
– Anh sẽ sống tại Lạt ma viện trên núi, anh ta nói, nhưng tôi nghĩ anh sẽ muốn nhìn thấy các phương tiện mới nhất, nơi mà những sinh viên sẽ tận hưởng khi đến sống ở đó.
We went out and walked briskly across the compound and into another long building. Here there was glassware everywhere. Bottles, tubing, flasks—all the equipment that we had seen before only in pictures. The young man walked to a comer. “Now!” he exclaimed. “Here is something.” And he fiddled about with a brass tube and put a piece of glass at the foot of it. Then he twisted a knob, peering into the brass tube. “Look at that!” he exclaimed. I looked. I saw the culture of a germ. The young man was looking at me anxiously. “What! aren’t you astounded?” he said. “Not at all,” I replied. “We had a very good one at the Potala Lamasery given to the Dalai Lama by the Government of India. My Guide, the Lama Mingyar Dondup, had free access to it and I used it often.” “0h!” replied the young man, and he looked most disappointed. “Then I will show you something else.” And he led the way out of the building and into another. “You are going to live at the Lamasery of the Hill,” he said, “but I thought you would like to see the very latest facilities which are enjoyed by students who are going to live in.”
Anh ta mở một cửa phòng, đập vào mắt là các bức tường sơn trắng, và sau đó ánh mắt thích thú của tôi hướng đến một cái khung sắt màu đen có nhiều dây xoắn kéo dài từ bên này sang bên kia.
– Cái gì vậy?
Tôi kêu lên, tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái gì giống như vậy trước đây.
– Đấy, anh ta nói với vẻ đầy tự hào, đó là cái giường. Chúng tôi có sáu chiếc như thế trong tòa nhà này, đó là thứ hiện đại nhất ở đây.
Tôi nhìn nó, chưa bao giờ tôi thấy vật gì giống như vậy.
– Môt chiếc giường – tôi nói – họ sẽ làm gì với chúng?
– Ngủ trên đó, anh ta trả lời, nó thực sự rất thoải mái. Hãy nằm lên và tự nhìn mình mà xem.
Tôi nhìn anh ta, rồi nhìn chiếc giường, và tôi lại nhìn anh ta một lần nữa. Được rồi, tôi nghĩ, mình không được thể hiện tính hèn nhát trước bất cứ nhân viên Trung Quốc nào và vì vậy tôi ngồi lên chiếc giường. Nó kêu cọt kẹt và võng xuống bên dưới rồi nghiêng hẳn về một bên, tôi cảm thấy như sắp đổ nhào xuống sàn nhà.
Tôi vội vàng nhảy ra và nói :
– Ồ, tôi quá nặng đối với nó.
Anh thanh niên cố gắng giấu nụ cười:
– Ồ, kiểu của nó thế đấy, anh ta trả lời, nó là một cái giường, một cái giường lò xo.
Và anh ta quăng mình nằm dài lên trên chiếc giường, nảy người lên. Không, tôi không muốn làm điều đó, nhìn nó thật kinh khủng. Tôi luôn luôn ngủ dưới sàn nhà, và thế là đủ tốt với tôi rồi. Anh thanh niên lại nhún lần nữa, và nảy bật ngay ra rồi đổ ầm xuống sàn nhà. “Thật đáng đời anh ta”, tôi nghĩ, khi giúp anh ta đứng dậy.
– Đó chưa phải là tất cả những gì mà tôi muốn chỉ cho anh – anh ta nói – nhìn này.
He opened a room door and I saw first white-washed walls, and then my fascinated gaze fell upon a black iron frame with a lot of twisted wire stretching from side to side. “What is that?” I exclaimed. “I have never seen anything like that before.” “That,” he said, with tones full of pride, “that is a bed. We have six of them in this building, the most modern things of all.” I looked. I had never seen anything like it. “A bed,” I said. “What do they do with the thing?” “Sleep on it,” he replied. “It is a very comfortable thing indeed. Lie on it and see for yourself.” I looked at him, I looked at the bed, and I looked at him again. Well, I thought, I must not show cowardice in front of any of these Chinese clerks and so I sat down on the bed. It creaked and groaned beneath me, it sagged, and I felt that I was going to fall on the floor. I jumped up hastily, “Oh, I am too heavy for it,” I said. The young man was trying to conceal his laughter. “Oh, that is what it is meant to do,” he answered. “It’s a bed, a spring bed.” And he flung himself full length on it, and bounced. No, I would not do that, it was a terrible looking thing. I had always slept on the ground, and the ground was good enough for me. The young man bounced again, and bounced right off and landed with a crash on the ground. Serves him right, I thought, as I helped him to his feet. “That is not all I have to show you,” he said. “Look at this.”
Anh ta dẫn tôi đi ngang qua một bức tường, ở đó có một cái chậu nhỏ có thể dùng làm tsampa, có lẽ cho đến nửa tá nhà sư.
– Hãy nhìn xem, anh ta nói, tuyệt vời phải không?
Tôi nhìn cái chậu. Nó chả gây ấn tượng gì với tôi. Tôi chả thấy nó có tác dụng gì cả. Dưới đáy có một cái lỗ.
– Ồ cái này không tốt – tôi nói – nó có một cái lỗ kìa, nên không thể pha trà trong đó được.
Anh ta cười, thực sự rất thích thú về điều đó.
– Đấy – anh ta nói – nó thậm chí còn mới hơn cả cái giường. Nhìn này!
Anh ta đưa tay ra và chạm vào một miếng kim loại gắn vào một bên của cái chậu trắng. Trước vẻ kinh ngạc sững sờ của tôi, một dòng nước chảy ra từ miếng kim loại. Nước!
– Nó lạnh, anh ta nói, khá lạnh. Nhìn này.
Và anh ta hứng tay mình dưới dòng nước.
– Hãy cảm nhận nó.
Anh ta nói, và tôi cũng đưa tay vào nước, giống y như nước sông vậy. Có vẻ nước hơi cũ, nó có mùi cũ hơn một chút so với nước sông, nhưng … nước từ một mảnh kim loại.
Ai mà nghe chuyện này được! Anh ta rút tay ra, nhặt lên một vật màu đen và đẩy nó vào lỗ ở dưới đáy chậu. Nước chảy róc rách, ngay sau đó ngập đầy chậu nhưng không bị tràn ra ngoài, nó đã chảy đi chỗ khác, qua một cái lỗ ở đâu đó, nhưng nước không rơi xuống sàn nhà. Anh thanh niên chạm vào miếng kim loại lần nữa và dòng nước ngưng chảy. Anh ta đưa hai tay vào chậu đầy nước và khỏa tay trong đó.
– Hãy nhìn xem – anh ta nói – nước thích tuyệt. Anh không cần phải đi ra ngoài và múc nước nữa.
He led me across to a wall where there was a small basin which could have been used for making tsampa for, perhaps, half a dozen monks. “Look at it,” he said, “wonderful, isn’t it?” I looked at it. It conveyed nothing to me, I could see no use in it. It had a hole in the bottom. “That’s no good,” I said. “It has a hole in it. Couldn’t make tea in that.” He laughed, he was really amused at that. “That,” he said, “is something even newer than the bed. Look!” He put out his hand and touched a lump of metal which was sticking up from one side of the white bowl. To my utter stupefaction water came out of the metal. Water! “It’s cold,” he said. “Quite cold. Look.” And he put his hand in it. “Feel it,” he said. So I did. It was water, just like river water. Perhaps a bit staler, it smelled a bit staler than river water, but—water from a piece of metal. Whoever heard of it! He put his hand out and picked up a black thing and pushed it in the hole, in the bottom of the basin. The water tinkled on; soon it filled the basin but did not overflow, it was going somewhere else, through a hole somewhere, but it wasn’t falling on the floor. The young man touched the lump of metal again and the flow of water stopped. He put his two hands in the basin full of water and swirled it about. “Look,” he said, “lovely water. You don’t have to go out and dig it out of a well any more.”
Tôi cũng đưa tay vào khỏa nước trong chậu. Cảm giác thật dễ chiụ, không cần phải bò xuống sông sâu để lấy nước.
Sau đó, anh thanh niên kéo cái xích và nước chảy ào đi. Anh ta quay đi và nhặt lên một vật mà tôi nghĩ là cái áo choàng ngắn không tay của ai đó.
– Đây này, anh ta nói, dùng nó đi.
Tôi nhìn anh ta và nhìn mảnh vải anh ta đưa cho tôi.
– Để làm gì? tôi nói, tôi mặc đủ quần áo rồi.
Anh ta lại cười phá lên, anh nói :
– Ồ, không, anh lau tay vào đây, như thế này.
Anh ta lau tay cho tôi xem rồi đưa cái khăn lại cho tôi, nói:
– Anh hãy lau khô tay đi.
Tôi cũng lau tay, nhưng ngạc nhiên bởi lần trước tôi đã nhìn thấy những người phụ nữ nói ở Tây Tạng họ sẽ rất vui mừng có một mảnh vải như vậy để sử dụng nó làm điều gì đó có ích, còn ở đây, chúng tôi đang làm hỏng nó bằng cách lau tay vào nó. Dù thế nào thì mẹ tôi cũng sẽ mắng nếu thấy tôi làm như vậy!
I put my hands in the water and swirled as well. It was quite a pleasant sensation, not having to get down on hands and knees to reach into the depths of some river. Then the young man pulled a chain and the water rushed away gargling like an old man at the point of death. He turned round and picked up what I had thought was somebody’s short cloak. “Here,” he said, “use this.” I looked at him and I looked at the piece of cloth he had handed me. “What is this for?” I said, “I am fully dressed.” He laughed again. “Oh, no, you wipe your hands on this,” he said. “Like this,” and he showed me. He passed the cloth back. “Wipe them dry,” he said. So I did, but I marveled because the last time I had seen women to speak to in Tibet they would have been very glad of such a piece of cloth to make something useful from it, and here we were spoiling it by wiping our hands on it. Whatever would my mother have said if she could have seen me!
Lúc này tôi thực sự bị ấn tượng. Nước chảy ra từ kim loại.
Những cái chậu có lỗ ở trong có thể sử dụng được. Người thanh niên dẫn đường đang hớn hở. Chúng tôi đi xuống vài bước và vào một căn phòng ở dưới lòng đất.
– Ở đây, anh ta nói, đây là nơi chúng tôi bảo quản những tử thi, đàn ông và đàn bà.
Anh ta mở tung cánh cửa, và ở đó, trên những chiếc bàn bằng đá, có những tử thi đã sẵn sàng để được mổ xẻ. Không khí đậm mùi hóa chất được sử dụng để bảo quản các tử thi không bị phân hủy. Lúc đó tôi vẫn chưa có một ý niệm nào về những thứ ở đây, bởi vì ở Tây Tạng, các tử thi có thể giữ được trong thời gian rất dài mà không bị phân hủy do không khí khô lạnh. Ở đây, trong thành phố Trùng Khánh ngột ngạt, tử thi cần phải được tiêm thuốc gần như ngay sau khi họ chết, để có thể được bảo quản trong vài tháng mà sinh viên chúng tôi cần phải phân tích tỉ mỉ chúng. Anh ta đi đến một cái tủ và mở nó ra.
– Hãy nhìn xem, anh nói, các thiết bị phẫu thuật mới nhất của Mỹ. Để cắt các tử thi, các cánh tay và chân. Hãy nhìn đây!
Tôi nhìn những vật dụng lấp lánh ánh kim loại, thủy tinh và ánh Crôm, và tôi nghĩ, phải, tôi nghi ngờ việc họ có thể làm điều gì tốt hơn chúng tôi đã làm ở Tây Tạng.
By now I really was impressed. Water from metal. Basins with holes in that could be used. The young man led the way quite jubilantly. We went down some steps and into a room which was underground. “Here,” he said, “this is where we keep bodies, men and women.” He flung open a door and there, on stone tables, were bodies all ready to be dissected. The air smelt strongly of strange chemicals which had been used to prevent the bodies from decaying. At the time I had no idea at all of what they were, because in Tibet bodies would keep a very long time without decay because of the cold dry atmosphere. Here, in sweltering Chungking, they had to be injected almost as soon as they were dead, so that they could be preserved for the few months which we students would need to dissect them. He moved a cabinet, and opened it. “Look,” he said. “The latest surgical equipment from America. For cutting up bodies, for cutting off arms and legs. Look!” I looked at all those gleaming pieces of metal, all the glasswork, and all the chromium, and I thought, well, I doubt if they can do things any better than we did in Tibet.
Sau khi đã ở trong khu nhà của trường đại học khoảng ba giờ, tôi quay trở lại với những người bạn đồng hành đang lo lắng ngồi chờ ở sân trong của tòa nhà. Tôi kể lại với họ những gì đã nhìn thấy, những gì đã làm.
Sau đó tôi nói:
– Chúng ta hãy đi quanh xem thành phố này, hãy xem nó là loại gì. Đối với tôi nó có vẻ rất man rợ, mùi hôi thối và tiếng ồn rất khủng khiếp.
Vì vậy, chúng tôi lại lên ngựa, và đi trở ra, ngắm nhìn con phố bậc thang với các cửa hàng san sát. Chúng tôi xuống ngựa để có thể đi, từng người một nối tiếp nhau, và ngắm nhìn những đồ vật đặc biệt được bày bán.
Chúng tôi nhìn xuống con phố mà cuối đường như thể cụt, nó dường như kết thúc đột ngột ở một vách đá. Nó làm cho chúng tôi tò mò nên đã đi xuống và nhìn thấy vẫn có những bậc dẫn tiế xuống bến cảng. Chúng tôi nhìn thấy những chiếc thuyền lớn chở hàng hóa, với mũi tàu cao, những dây chão, cánh buồm tam giác của chúng đang vỗ một cách uể oải, đập vào cột buồm trong gió vờn dưới chân vách núi.
After I had been in the college buildings for about three hours I made my way back to my companions who were sitting somewhat anxiously in the quadrangle of the building. I told them what I had seen, what I had been doing. Then I said, “Let us look around this city, let us see what sort of a place it is. It looks very barbaric to me, the stench and the noise is terrible.” So we got on our horses again, and made our way out, and looked at the street of steps with all the shops. We dismounted so that we could go and look, one by one, at the remarkable things there were for sale. We looked down streets, down one street at the end of which there seemed to be no further road, it seemed to end abruptly at a cliff. It intrigued us so we walked down and saw that it dipped steeply and there were further steps leading down to the docks. As we looked we could see great cargo vessels, high-stemmed, junks, their lateen sails flapping idly against the masts in the idle breeze which played at the foot of the cliff.
Những người phu đang khuân vác hàng hóa đi lại trên boong tàu theo bước đi lắc lư chầm chậm với những thanh tre dài trên vai. Tại mỗi đầu cùa thanh tre treo những giỏ hàng hóa.
Thời tiết rất ấm áp, và chúng tôi mệt nhoài. Bầu không khí của Trùng Khánh oi bức đáng nhớ. Sau đó, khi chúng tôi đi dọc phố dắt theo những con ngựa, sương mù sà xuống từ những đám mây, rồi nó tràn lên từ dòng sông, và chúng tôi mò mẫm như thể đi trong bóng tối.
Trùng Khánh là một thành phố cao, cao và hơi đáng sợ một chút. Nó là thành phố bậc đá với gần hai triệu dân. Những con phố dốc đứng, dốc đến nỗi một số căn nhà cứ như những hang động trên sườn núi, trong khi những ngôi nhà khác có vẻ như nhô ra, cheo leo trên vực thẳm. Nơi đây mỗi tấc đất đều được trồng trọt, hết sức giữ gìn, chăm sóc. Trên mỗi dải đất hẹp hoặc khoảnh đất nhỏ đều có lúa mọc, hoặc những luống đậu, hay ngô, không nơi nào đất để lãng phí hoặc nhàn rỗi.
Những bóng người mặc quần áo màu xanh khom lưng ở khắp nơi, cứ như thể họ được sinh ra như vậy, nhặt cỏ dại bằng những ngón tay mệt mỏi. Những người dân tầng lớp cao hơn sống trong thung lũng Gia Linh, một vùng ngoại ô của Trùng Khánh, là nơi không khí trong lành, nhưng theo tiêu chuẩn của người Trung Quốc, chứ không phải của chúng tôi, các cửa hàng phong phú hơn, đất đai màu mỡ hơn, là nơi có nhiều cây cối và những dòng suối nhỏ êm đềm. Đây không phải là nơi dành cho những người làm nghề phu khuân vác, mà là nơi dành cho những thương nhân phát đạt, những người chuyên nghiệp, và những người có của cải sung túc. Các quan lại và tầng lớp được đặc quyền trong xã hội sống ở đây. Trùng Khánh là thành phố đồ sộ, và lớn nhất mà chúng tôi từng thấy, nhưng nó cũng không ấn tượng với chúng tôi.
Coolies were loading some, going aboard at a jog-trot with long bamboo poles on their shoulders. At each end of the poles were loads carried in baskets. It was very warm, and we were sweltered. Chungking is noted for its sultry atmosphere. Then, as we walked along leading our horses mist came down from the clouds, and then it came up from the river, and we were groping about as if in darkness. Chungking is a high city, high and somewhat alarming. It was a steep stony city with almost two million inhabitants. The streets were precipitous, so precipitous indeed that some of the houses appeared to be caves in the mountainside, while others seemed to jut out and to overhang the abyss. Here every foot of soil was cultivated, jealously guarded, tended. There were strips and patches growing rice or a row of beans or a patch of corn, but nowhere was ground wasted or idle. Everywhere blue-clad figures were bent over, as if they were born that way, picking weeds with tired fingers. The higher class of people lived in the valley of Kialing, a suburb of Chungking, where the air was, by Chinese standards, though not by ours, healthy, where the shops were better and the ground more fertile. Where there were trees and pleasant streams. This was no place for coolies, this was for the prosperous business man, for the professional, and for those of independent means. The Mandarin and those of high caste lived here. Chungking was a mighty city, the biggest city any of us had ever seen, but we were not impressed.
Đột nhiên chúng tôi sực nhớ ra là mình đang rất đói. Chúng tôi không còn thực phẩm nên không còn cách gì khác ngoài việc đến quán và ăn như người Trung Quốc. Chúng tôi đến một cửa hàng có biển hiệu sặc sỡ hỏi xem họ có thể cung cấp thức ăn ngon nhất tại Trùng Khánh và không phải chờ đợi. Chúng tôi vào và ngồi xuống bên một cái bàn. Một nhân viên mặc bộ quần áo màu xanh đến và hỏi chúng tôi muốn ăn gì. Tôi nói:
– Anh có tsampa không?
– Tsampa! anh ta trả lời, ồ không, đó hẳn là món ăn của phương Tây. Chúng tôi không có loại đó.
– Vâng, vậy các anh có gì? tôi hỏi.
– Cơm, mì, vây cá mập, trứng.
– Được rồi, chúng tôi sẽ ăn cơm nắm, mì, vây cá mực và măng tre. Hãy nhanh lên!
Anh ta vội vã đi và ngay sau đó đã quay lại với thức ăn mà chúng tôi đã yêu cầu. Xung quanh chúng tôi, những người khác đang ăn và chúng tôi kinh hoàng khi thấy họ vừa ăn vừa nói chuyện, gây ồn ào kinh khủng. Ở Tây Tạng, tại các lạt ma viện, có một nguyên tắc bất khả xâm phạm là khi ăn cấm nói chuyện, bởi điều đó là thiếu tôn trọng thực phẩm và thức ăn có thể gây ra sự đau đớn bên trong cơ thể. Ở các lạt ma viện, trong bữa ăn luôn có một nhà sư đọc Giáo lý và mọi người phải vừa lắng nghe vừa ăn.
It suddenly dawned upon us that we were very hungry. We were completely out of food, so there was nothing to do but go to an eating place, and eat as the Chinese did. We went to a place with a garish sign which said that they could provide the best meal in Chungking and without delay. We went and sat down at a table. A blue clad figure came to us and asked what we would have. “Have you tsampa?” I said. “Tsampa!” he replied. “Oh, no, that must be one of those Western dishes. We have nothing like that.” “Well, what have you?” I said. “Rice, noodles, shark’s fins, eggs.” “All right” I said, “we will have rice balls, noodles, shark’s fin and bamboo shoot. Hurry up.” He hurried away and in moments was back with the food we wanted. About us others were eating and we were horrified at the chatter and noise they were making. In Tibet, in the lamaseries, it was an inviolable rule that those who were eating did not talk because that was disrespectful to food and the food might retaliate by giving one strange pains inside. In the lamaseries when one ate, a monk always read aloud the Scriptures and we had to listen as we ate.
Những cuộc trò chuyện diễn ra xung quanh chúng tôi thật là tầm thường. Chúng tôi bị sốc và ghê tởm. Chúng tôi ăn trong khi nhìn vào đĩa của mình trong suốt bữa theo quy định của tôn giáo chúng tôi. Một số cuộc nói chuyện là những cuộc thảo luận kín đáo về Nhật Bản và những tình trạng lộn xộn họ đã gây ra tại một vài vùng của Trung Quốc. Lúc đó, tôi chẳng biết gì về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng tôi không bị ấn tượng về bất cứ điều gì tại nơi ăn uống cũng như về Trùng Khánh. Bữa ăn này đáng chú ý chỉ bởi vì đó là bữa ăn đầu tiên mà tôi phải trả tiền.
Sau khi ăn xong, chúng tôi đi ra ngoài và tìm thấy một nơi trong sân của một tòa nhà nào đó của thành phố, nơi chúng tôi có thể ngồi nói chuyện. Chúng tôi tháo yên cương cho ngựa để chúng nghỉ ngơi thoải mái nhất, tại đó chúng được ăn và uống nước, bởi vì ngày hôm sau, các bạn đồng hành của tôi sẽ lên đường trở về nhà, trở về Tây Tạng. Còn bây giờ, theo cách của những người đi du lịch ở khắp nơi trên thế giới, họ đang cân nhắc nên mua gì để mang về cho bạn bè ở Lhasa, và tôi cũng tự hỏi nên gửi gì về làm quà cho Thầy của tôi, Đức Lạt Ma Minh Gia. Chúng tôi thảo luận một hồi, và sau đó giục nhau đứng lên, đi bộ trở lại các cửa hiệu một lần nữa để mua đồ.
Here there were conversations going on around us of an extremely light type. We were shocked and disgusted. We ate looking at our plates the whole time in the manner prescribed by our order. Some of the talk was not so light because there was much surreptitious discussion about the Japanese and the trouble they had been making in various parts of China. At that time I was quite ignorant of it. We were not impressed, though, by anything to do with the eating place nor with Chungking. This meal was notable only for this; it was the first meal that I ever had to pay for. After we had had it we went out and found a place in a courtyard of some municipal building where we could sit and talk. We had stabled our horses to give them a much needed rest and where they could be fed and watered, because on the morrow my companions were going to set out once again for home, for Tibet. Now, in the manner of tourists the world over they were wondering what they could take back to their friends in Lhasa, and I too was wondering what I could send to the Lama Mingyar Dondup. We discussed it, and then as if on a common impulse we got to our feet and we walked again to the shops and made our purchases.
Sau đó chúng tôi đi đến một khu vườn nhỏ nơi có thể ngồi trò chuyện. Trời đã tối. Những vì sao bắt đầu tỏa sáng mờ ảo xuyên qua những đám mây nhẹ đã thay thế cho làn sương mù đang tan dần. Lại một lần nữa, chúng tôi đứng lên và đi tìm thức ăn. Lần này là hải sản, loại thực phẩm mà chúng tôi chưa bao giờ ăn trước đây và nó có mùi vị hoàn toàn xa lạ với chúng tôi, rất khó chịu, nhưng cái chính nó là thức ăn mà chúng tôi lại đang đói. Ăn uống no nê, chúng tôi rời quán và trở về nơi nhốt ngựa. Có vẻ như chúng đang đợi và hý lên vui vẻ khi chúng tôi đến gần. Trông chúng khỏe mạnh, và rất mừng rỡ khi thấy chúng tôi đến. Tôi chưa bao giờ là một kỵ sĩ giỏi và chắc chắn tôi thích con ngựa mệt mỏi hơn là một con đã được nghỉ ngơi. Chúng tôi cưỡi ngựa vào phố và theo đường đi Gia Linh.
After that we walked to a small garden where we sat and talked and talked. It was dark now. The evening was upon us. The stars began to shine vaguely through the slight haze, for the fog had gone leaving just a haze. Once again we rose to our feet and went again in search of food. This time it was seafood, food which we had never had before and which tasted almost alien to us, most unpleasant, but the main thing was that it was food, because we were hungry. With our supper complete we left the eating place and went to where our horses were stabled. They seemed to be waiting for us and whinnied with pleasure at our approach. They were looking quite fresh, they felt quite fresh too as we got upon them. I was never a good horseman and certainly I preferred a tired horse to a rested one. We rode out into the street and took the road to Kialing.
Chúng tôi rời thành phố Trùng Khánh và đi ngang qua các vùng ngoại ô của thành phố, trên con đường dẫn tới nơi chúng tôi sẽ nghỉ lại qua đêm, tới lạt ma viện mà nơi đó sẽ là nhà của tôi vào buổi đêm. Chúng tôi rẽ phải và đi lên phía bên một đồi cây rậm rạp. Lạt ma viện được dành cho tôi và nó là lối gần nhất để về nhà ở Tây Tạng, khi tôi bước vào chùa đúng thời gian của buổi lễ cầu nguyện. Khói hương trầm phảng phất lan tỏa thành những đám mây và giọng đọc thâm trầm của các vị sư già hòa cùng giọng cao trong trẻo của các chú tiểu sơ cơ càng làm cho tôi thêm dằn vặt nỗi nhớ nhà da diết. Những người khác có lẽ cảm nhận được nỗi lòng của tôi nên họ im lặng và để tôi được ở lại một mình. Tôi ngồi nguyên tại chỗ của mình sau khi buổi lễ cầu nguyện đã kết thúc một lúc lâu.
Tôi ngồi đó và nghĩ mãi, day dứt nhớ về lần đầu tiên tôi bước chân vào lạt ma viện sau khi vượt qua thử thách khó khăn, khi đó tôi đã rất đói khát và khổ sở. Lúc này đây, tôi cũng đang đau buồn, có lẽ còn khổ sở hơn cả trước kia, vì lúc đó tôi còn quá nhỏ để biết nhiều về cuộc sống, nhưng giờ đây tôi cảm thấy đã biết quá nhiều về sự sống và về cái chết. Một lúc sau, vị Hòa thượng trụ trì đã nhiều tuổi của ngôi chùa nhẹ nhàng đến bên tôi.
– Người anh em của tôi, ông nói, không tốt chút nào khi nghĩ quá nhiều về quá khứ, khi mà cả tương lai đang đợi ở phía trước. Buổi lễ cầu nguyện đã kết thúc, người anh em của tôi, sắp đến thời gian của buổi lễ cầu nguyện khác rồi. Người anh em hãy về chỗ ngủ của mình, còn nhiều việc phải làm vào sáng sớm ngày mai.
Tôi đứng lên không nói gì và đi theo ông đến chỗ ngủ của mình. Những người bạn đồng hành của tôi đã đến lúc được trở về nhà. Tôi đi ngang qua chỗ họ nằm, vẫn hình dáng người cuộn tròn trong chăn. Ngủ ư? Có lẽ. Ai mà biết được? Có lẽ họ đang mơ về cuộc hành trình mà họ sẽ lại thực hiện một lần nữa và mơ về cuộc đoàn tụ vui vẻ mà họ sẽ có vào cuối cuộc hành trình ở Lhasa. Tôi, cũng vậy, cuộn tròn mình trong chăn, và nằm xuống. Bóng trăng đổ dài và trở nên càng dài hơn nữa trước khi tôi ngủ thiếp đi.
We left the city of Chungking and we passed through the outskirts of that city on the road to where we were going to stay the night, to the lamasery which was going to be my home by night. We branched to the right and went up the side of a wooded hill. The lamasery was of my own order and it was the nearest approach to going home to Tibet as I entered and went into the temple in time for the service. The incense was wafted round in clouds and the deep voices of the older monks and the higher voices of the acolytes brought a sharp pang of homesickness to me. The others seemed to know how I felt for they were silent and they left me to myself. For a time I stayed in my place after the service had ended. I thought, and thought. I thought of the first time I had entered a lamasery temple after a hard feat of endurance, when I was hungry and sick at heart. Now I was sick at heart, perhaps sicker at heart than I had been the time before, for then I had been too young to know much about life, but now I felt I knew too much of life, and of death. After a time the aged Abbott in charge of the lamasery crept softly to my side. “My brother,” he said, “it is not good to dwell too much upon the past when the whole of the future is before one. The service is ended, my brother, soon it will be time for another service. Will you not go to your bed for there is much to be done on the morrow.” I rose to my feet without speaking and accompanied him to where I was to sleep. My companions had already retired. I passed them, still forms rolled in their blankets. Asleep? Perhaps. Who knows? Perhaps they were dreaming of the journey they had again to undertake and of the pleasurable re-union which they would have at the end of that journey in Lhasa. I, too, rolled myself in my blanket, and lay down. The shadows of the moon lengthened and became long before I slept.
Tôi bị đánh thức bởi những âm thanh vang rền của tiếng kèn trumpet và tiếng cồng chiêng của nhà chùa. Đã đến giờ phải dậy và tham gia buổi lễ cầu nguyện lần nữa. Buổi lễ phải tiến hành trước bữa ăn sáng, nhưng tôi rất đói. Tuy nhiên, sau buổi lễ, thức ăn để trước mặt nhưng tôi không muốn ăn. Bữa sáng của tôi rất nhẹ, một bữa ăn nhẹ vì tôi cảm thấy rất buồn. Các bạn đồng hành của tôi đang ăn, dẫu rằng rất chán, tôi nghĩ, nhưng họ đang phải cố gắng để lấy lại sức cho cuộc hành trình trở về mà họ sẽ bắt đầu từ ngày hôm nay. Bữa ăn sáng kết thúc, chúng tôi cùng đi dạo quanh một lát. Không ai trong chúng tôi nói nhiều. Mà dường như chẳng có gì nhiều để mà nói.
I was awakened by the sound of temple trumpets, by gongs. It was time to rise and to attend the service once again. The service must come before the meal, but I was hungry. Yet after the service with food before me I had no appetite. Mine was a light meal, a very light meal because I was feeling sick at heart. My companions ate well, disgustingly well, I thought, but they were trying to get reinforced for the journey back which they were this day to commence. With our breakfast over we walked around a little. None of us said much. There did not seem much which we could say.
Sau đó, cuối cùng, tôi nói:
– Hãy giúp tôi chuyển thư và gói quà này đến Thầy của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức. Nói với Thầy là tôi sẽ viết thư cho Thầy thường xuyên. Hãy nói với Thầy các bạn đã nhìn thấy tôi nhớ Người và cảm thấy thiếu vắng sự hướng dẫn của Người biết bao.
Tôi đưa tay vào trong vạt áo,
– Còn cái này, tôi nói khi rút ra một gói nhỏ, đây là quà của tôi dành cho Đức Thái Tuế. Hãy đưa cho Thầy tôi, Thầy sẽ biết và chuyển cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Họ cầm lấy và tôi quay sang một bên vì quá xúc động, mà tôi không muốn những người khác nhìn thấy, tôi không muốn họ nhìn thấy tôi, một vị Lạt ma cao cấp, lại bị xúc động như vậy.
May mắn thay là họ cũng đang rất đau khổ vì giữa chúng tôi đã nảy sinh một tình bạn chân thành, mặc dù theo chuẩn mực của Tây Tạng, thì chúng tôi khác biệt về đẳng cấp. Họ rất buồn và thông cảm vì sự chia tay, thông cảm vì tôi bị bỏ lại trong thế giới xa lạ mà họ không thích, trong khi họ sẽ trở về Lhasa yêu dấu.
Then at last I said, “Give this letter and this gift to my Guide, the Lama Mingyar Dondup. Tell him I will write to him often. Tell him that you can see how much I miss his company and his guidance.” I fiddled about inside my robe. “And this,” I said as I produced a package, “this is for the Inmost One. Give it also to my Guide, he will see that it is conveyed to the Dalai Lama.” They took it from me and I turned aside quite overcome with emotion that I did not want the others to see, I did not want them to see me, a high lama, so affected. Fortunately they too were quite distressed because a sincere friendship had sprung up between us, notwithstanding—according to Tibetan standards—the difference in our rank. They were sorry for the parting, sorry that I was being left in this strange world which they hated while they were going back to beloved Lhasa.
Chúng tôi cùng đi với nhau thêm một lát nữa, giữa những cây cối, ngắm nhìn những bông hoa nhỏ nhiều như trải thảm trên mặt đất, lắng nghe tiếng chim hót trên cành cây, ngắm nhìn những đám mây rực sáng trên bầu trời cao. Rồi cũng đến lúc phải chia tay, chúng tôi cùng nhau quay trở lại lạt ma viện cổ của Trung Quốc, nép mình giữa những cây xanh trên đỉnh núi nhìn ra Trùng Khánh, nhìn xuống những dòng sông. Không còn gì nhiều để nói, để làm, chúng tôi bồn chồn và cảm thấy sầu não.
Chúng tôi đi đến chuồng ngựa. Một cách chậm rãi, các bạn đồng hành của tôi thắng yên những con ngựa của họ và cầm lấy dây cương con ngựa của tôi, mà nó vốn rất trung thành với tôi từ khi còn ở Lhasa, và bây giờ nó là một kẻ hạnh phúc, được trở về Tây Tạng. Chúng tôi trao đổi vài câu, chỉ nói rất ít, sau đó họ lên ngựa và cất bước lên đường, hướng về phía Tây Tạng, để lại tôi đứng đó một mình, nhìn chằm chằm xuống con đường dõi theo sau họ. Họ nhỏ dần, nhỏ dần, và biến mất khỏi tầm nhìn của tôi nơi khúc quanh. Đám bụi nhỏ bị dấy lên khi họ đi qua cũng đã lắng xuống, tiếng vó ngựa của họ xa dần rồi tắt hẳn.
We walked for a time amid the trees looking at the little flowers carpeting the ground, listening to the birds in the branches, watching the light clouds overhead. Then the time had come. Together we walked back to the old Chinese lamasery nestling amid the trees on the hill overlooking Chungking, overlooking the rivers. There wasn’t much to say, there wasn’t much to do. We fidgeted a bit and felt depressed. We went to the stables. Slowly my companions saddled their horses and took the bridle of mine, mine which had brought me so faithfully from Lhasa, and which now—happy creature—was going back to Tibet. We exchanged a few words more, a very few words, then they got on their horses and moved off towards Tibet leaving me standing, gazing down the road after them. They got smaller and smaller, They disappeared from my sight around a bend. A little cloud of dust which had been occasioned by their passing subsided, the clip-clop of their horses’ hooves died in the distance.
Tôi đứng đó suy nghĩ về quá khứ và sợ hãi tương lai. Tôi không biết đã đứng đó bao lâu trong nỗi khổ đau lặng lẽ, nhưng tôi được lôi ra khỏi tâm trạng chán nản bằng một giọng nói dịu dàng:
– Thưa Đức Lạt ma tôn kính, Ngài không nhớ rằng ở Trung Quốc cũng có những người sẽ là bạn của Ngài hay sao? Tôi sẵn sàng phục vụ Ngài, thưa Đức Lạt ma tôn kính của Tây Tạng, tôi cũng là sinh viên của Trùng Khánh.
Tôi chầm chậm quay người lại và ở đó, ngay sau lưng tôi, một nhà sư Trung Quốc trẻ tuổi dễ thương. Tôi nghĩ anh ấy khá phân vân, không biết thái độ của tôi sẽ ra sao khi anh đến bên tôi, bởi vì tôi là một Sư trưởng, một Lạt ma cao cấp, còn anh chỉ là một nhà sư Trung Quốc. Nhưng tôi vui mừng nhìn anh.
Anh ấy là Huang, một chàng trai mà sau này tôi tự hào gọi là bạn. Chúng tôi biết về nhau ngay sau đó và tôi đặc biệt vui mừng khi biết rằng anh ấy cũng sẽ là một sinh viên y khoa, bắt đầu từ ngày mai, cũng như tôi. Anh ấy cũng sẽ nghiên cứu những môn đáng chú ý, Điện và Từ. Trên thực tế, anh cũng sẽ tham gia cả hai khóa học mà tôi sẽ nghiên cứu, và chúng tôi đã biết rõ về nhau. Chúng tôi quay lại và đi trở về phía lối vào của lạt ma viện.
I stood thinking of the past and dreading the future. I do not know how long I stood in silent misery but I was brought from my despondent reverie by a pleasant voice which said, “Honourable Lama, will you not remember that in China there are those who will be friends with you? I am at your service, Honourable Lama of Tibet, fellow student of Chungking.” I turned slowly and there, just behind me, was a pleasant young Chinese monk. I think he rather wondered what my attitude would be to his approach because I was an abbot, a high lama, and he was just a Chinese monk. But I was delighted to see him. He was Huang, a man whom I was later proud to call a friend. We soon got to know each other and I was particularly glad to know that he too was going to be a medical student, starting on the morrow, as was I. He, too, was going to study those remarkable things, Electricity and Magnetism. He was, in fact, to be in both of those courses which I was going to study, and we got to know each other well. We turned and walked back towards the entrance of the lamasery.
Khi chúng tôi đi qua cổng, một nhà sư Trung Quốc khác tiến đến và nói:
– Chúng ta cần phải báo cáo với trường đại học. Chúng ta phải ký vào sổ đăng ký.
– Ồ, tôi đã làm tất cả những việc đó rồi, tôi nói, tôi đã làm việc đó ngày hôm qua.
– Vâng, thưa Đức Lạt Ma tôn kính, người kia đáp lại. Nhưng đây không phải là đăng ký học bổng cho sinh viên mà ngài đã ký với chúng tôi, nó là đăng ký hội học sinh đại học bởi vì trong trường đại học tất cả chúng ta đều là anh em như trong trường đại học của Mỹ.
Vì vậy, chúng tôi lại cùng nhau quay xuống con đường một lần nữa, đi dọc theo con đường mòn của lạt ma viện, đi ngang qua những rừng cây, trên con đường mòn được trải thảm bằng những bông hoa nhỏ, và chúng tôi trở lại con đường chính đi từ Gia Linh đến Trùng Khánh.
Cùng đi với những người thanh niên trẻ này, hầu như cùng lứa tuổi với tôi, hành trình dường như không quá dài cũng không còn khổ sở nữa. Chẳng mấy chốc, một lần nữa, chúng tôi đi đến tòa nhà nơi sẽ là ngôi nhà vào ban ngày của chúng tôi và đi vào. Người nhân viên trẻ trong bộ quần áo màu xanh tỏ vẻ rất vui vẻ khi nhìn thấy chúng tôi. Anh ấy nói:
– À, tôi đang hy vọng cậu sẽ gọi đến đây, chúng ta có một nhà báo người Mỹ ở đây, anh ấy nói được tiếng Trung Quốc. Anh ấy rất muốn gặp một Đức Lạt ma cao cấp của Tây Tạng.
As we passed the portals another Chinese monk came forward and said, “We have to report to the college. We have to sign a register.” “Oh, I have done all that,” I said, “I did it yesterday.” “Yes Honourable Lama,” the other replied. “But this is not the studentship register which you signed with us, it is a fraternity register because in the college we are all going to be brothers as they are in American colleges.” So together we turned down the path once more, along the lamasery path, through the trees, the path carpeted with flowers, and we turned into the main road from Kialing to Chungking. In the company of these young men who were of much the same age as I, the journey did not seem so long nor so miserable. Soon, once again, we came to the buildings which were to be our day-time home and we went in. The young clerk in the blue linen dress was really pleased to see us. He said, “Ah, I was hoping you would call, we have an American journalist here who speaks Chinese. He would very much like to meet a high lama of Tibet.”
Anh lại dẫn chúng tôi đi dọc theo hành lang một lần nữa và đi vào một căn phòng khác, nơi mà trước đó tôi chưa vào đó. Nó có lẽ là loại phòng tiếp tân vì ở đó có rất nhiều nam thanh niên đang ngồi nói chuyện với những người phụ nữ trẻ, mà tôi cảm thấy khá bị sốc. Trong những ngày đó, tôi biết rất ít về phụ nữ. Một người đàn ông trẻ cao lớn đang ngồi trong một chiếc ghế rất thấp.
Anh ấy khoảng ba mươi tuổi, tôi chắc vậy. Anh đứng lên khi chúng tôi bước vào và đặt tay lên nơi trái tim mình chào chúng tôi theo kiểu phương Đông.
Tất nhiên tôi cũng đáp lễ theo cách đó. Chúng tôi được giới thiệu với anh ta, và sau đó, vì lý do nào đó, anh ta đưa tay mình ra. Lúc này tôi đã được chuẩn bị nên tôi cầm lấy tay anh ta và rung nhẹ nó theo cách đã biết. Anh ấy cười:
– À, tôi thấy là bạn đã thành thạo những cách của người phương Tây đang được giới thiệu với Trùng Khánh.
– Vâng, tôi nói, tôi đã phải qua giai đoạn ngồi trong những chiếc ghế vô cùng kinh khủng và bắt tay.
He led us along the corridor again and into another room, a room which I had not previously entered. It appeared to be some sort of reception room because a lot of young men were sitting about talking to young women, which I thought rather shocking. I knew very little about women in those days. A tall young man was sitting in a very low chair. He was, I should say, about thirty years of age. He rose as we entered and touched his heart to us in the Eastern way. I of course touched mine in return. We were introduced to him, and then, for some reason, he put out his hand. This time I was not unprepared and I took it, and shook it in the approved manner. He laughed, “Ah, I see that you are mastering the ways of the West which are being introduced to Chungking.” “Yes,” I said, “I have got to the stage of sitting in the perfectly horrible chairs and of shaking hands.”
Anh là một chàng trai khá trẻ đẹp, và tôi cũng biết tên của anh; Anh đã qua đời tại Trùng Khánh một thời gian trước đây. Chúng tôi đi ra sân và ngồi lên một bức tường đá thấp, chuyện trò một lúc lâu. Tôi kể cho anh về Tây Tạng, về những phong tục của chúng tôi.
Tôi kể cho anh nghe nhiều về cuộc sống của tôi ở Tây Tạng, còn anh kể cho tôi nghe về nước Mỹ. Tôi hỏi anh đang làm gì ở Trùng Khánh, một người đàn ông hiểu biết như anh sống ở một nơi ngột ngạt như thế chắc hẳn phải có lý do đặc biệt. Anh nói rằng anh đang chuẩn bị một loạt các bài báo cho tạp chí rất nổi tiếng của Mỹ.
Anh hỏi liệu anh có thể đề cập đến tôi trong các bài báo đó, và tôi trả lời:
– Vâng, tôi nghĩ anh không làm thế thì hơn, bởi vì tôi ở đây vì một mục đích đặc biệt, học tập để phát triển, và để sử dụng nó như một bước đột phá cho hành trình xa hơn vào phương Tây. Tôi muốn chờ tới khi tôi làm được điều gì đó đáng kể, một cái gì đó xứng đáng để đề cập đến. Và sau đó, tôi tiếp tục, sau đó tôi sẽ liên lạc với anh và dành cho anh cuộc phỏng vấn mà anh mong muốn.
Anh ấy là một người trẻ tuổi rất tốt và hiểu rõ quan điểm của tôi. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn bè thân thiện; anh ấy nói tiếng Trung Quốc khá tốt và chúng tôi không gặp phải khó khăn đặc biệt nào để hiểu biết lẫn nhau. Anh đi với chúng tôi một đoạn đường trở về lạt ma viện. Anh nói:
– Tôi rất muốn đôi khi, nếu có thể sắp xếp được, đến thăm chùa và tham gia vào một buổi lễ cầu nguyện. Tôi không theo tôn giáo của anh, anh nói, nhưng tôi tôn trọng nó, và tôi muốn được bày tỏ lòng kính trọng của tôi trong ngôi chùa của các bạn.
– Đồng ý, tôi trả lời, anh sẽ đến ngôi chùa của chúng tôi. Anh cũng sẽ được tham gia buổi lễ cầu nguyện của chúng tôi và anh sẽ được chào đón, tôi hứa.
Đến đó chúng tôi chia tay vì chúng tôi còn nhiều việc phải chuẩn bị cho ngày hôm sau, ngày mai khi tôi bắt đầu sự nghiệp mới này làm một người sinh viên, y như thể tôi sẽ học cả đời vậy!
He was quite a nice young fellow, and I know his name still; he died in Chungking some time ago. We walked into the grounds and sat down on a low stone wall where we talked for quite a time. I told him of Tibet, of our customs. I told him much about my life in Tibet. He told me of America. I asked him what he was doing in Chungking, a man of his intelligence living in a sweltering place like that when apparently there was no particular reason for him to. He said that he was preparing a series of articles for a very famous American magazine. He asked if he could mention me in it, and I said, “Well, I would rather that you did not because I am here for a special purpose, to study, to progress, and to use this as a jumping-off point for further journeys into the West. I would rather wait until I have done something notable, something worthy of mention. And then, I went on, “then I will get in touch with you and give you this interview which you so much want.” He was a decent young fellow and understood my point. We were soon on quite friendly terms; he spoke Chinese passably well and we had no particular difficulty in understanding each other. He walked with us part of the way back to the lamasery. He said, “I would very much like sometime, if it can be arranged, to visit the temple and to take part in a service. I am not of your religion,” he said, “but I respect it, and I would like to pay my respects in your temple.” “All right,” I answered, “you shall come to our temple. You shall take part in our service and you will be welcome, that I promise.” With that we parted company because we had so much to do preparing for the morrow, the morrow when I was to begin this fresh career as a student—as if I had not been studying all my life!
Trở về lạt ma viện, tôi phải sắp xếp đồ đạc của mình, xem những cái áo choàng vừa được nhuộm; tôi sẽ đi giặt chúng bởi vì theo phong tục của chúng tôi, chúng tôi phải tự phục vụ quần áo, áo choàng và những vẫn đề cá nhân của riêng mình, và không được sử dụng người phục vụ để làm những công việc bẩn thỉu thay cho chúng tôi.
Sau này, tôi cũng sẽ mặc những bộ quần áo của sinh viên Trung Quốc, những bộ quần áo mầu xanh, bởi vì những bộ áo choàng Lạt ma của tôi thú hút quá nhiều sự chú ý và tôi không muốn tách riêng đơn độc khỏi cộng đồng, tôi muốn được học hành yên ổn. Ngoài những việc bình thường như giặt giũ quần áo ra, chúng tôi có các buổi lễ cầu nguyện phải tham gia và vì là một Lạt ma hàng đầu, tôi phải chia sẻ việc trông nom các buổi lễ cầu nguyện này bởi vì, mặc dù trong ngày tôi là một sinh viên, nhưng trong lạt ma viện tôi vẫn là một tu sĩ cấp cao có nghĩa vụ phải thực hiện lễ nghi đó. Vì vậy, đã đến gần cuối ngày, cái ngày mà tôi tưởng chừng kéo dài vô tận không bao giờ hết, cái ngày mà lần đầu tiên trong đời, tôi hoàn toàn bị tách rời khỏi những người thân thiết của mình.
Back in the lamasery I had to sort out my things, see to my robes which had been travel-stained; I was going to wash them because, according to our custom, we attend to our own clothing, to our own robes, to our own personal matters, and did not employ servants to do our dirty work for us. I was also later going to wear the clothes of a Chinese student, blue clothes, because my own lamastic robes attracted too much attention and I did not want to be singled out for publicity, I wanted to study in peace. In addition to the usual things such as clothes-washing we had our services to attend, and as a leading lama I had to take my share in the administration of these services because, although during the day I was to be a student, yet at the lamasery I was still a high-ranking priest with the obligations that went with that office. So the day drew to an end, the day which I thought was never going to end, the day when, for the first time in my life, I was completely and utterly cut off from my own people.
Vào buổi sáng – đó là một buổi sáng nắng ấm – Huang và tôi bắt đầu lên đường, một lần nữa, đến với cuộc đời mới, lần này là sinh viên y khoa. Chúng tôi nhanh chóng đi hết hành trình ngắn và đi vào sân trường, ở đó có đến hàng trăm người đang chen chúc xung quanh một cái bảng thông báo. Chúng tôi đọc cẩn thận tất cả các thông báo và tìm thấy tên của chúng tôi ở bên nhau, như vậy chúng tôi sẽ luôn học cùng nhau. Chúng tôi đẩy những người khác vẫn đang đọc thông báo để lây lối ra và đến lớp học như đã được chỉ dẫn. Tại đó chúng tôi ngồi xuống, khá là ngạc nhiên, cũng có thể chỉ tôi thôi, về tất cả những điều mới lạ của các máy móc, những cái bàn, và tất cả những thứ khác nữa.
Sau đó, sau thời gian dường như là vô tận, những người khác bước vào, từng nhóm nhỏ, và ngồi xuống chỗ. Cuối cùng một tiếng chuông vang lên ở đâu đó và một người đàn ông Trung Quốc bước vào, và nói:
– Chào buổi sáng, các em.
Chúng tôi đứng hết dậy, bởi vì nội quy nói rằng quy định đó đã được thống nhất để thể hiện sự tôn trọng, và chào đáp lễ ông:
– Chào thầy ạ.
Ông ta nói rằng sẽ phát cho chúng tôi một vài tờ giấy để viết và chúng tôi không phải lo lắng về những sự thiếu hiểu biết của mình bởi vì nhiệm vụ của ông là tìm hiểu những gì chúng tôi không biết, và không biết đến mức nào. Ông nói rằng sau khi đánh giá được trình độ của từng người, ông mới có thể trợ giúp chúng tôi được.
In the morning—it was a warm sunny morning—Huang and I set off down the road again to a new life, this time as medical students. We soon covered the short journey and went into the college grounds where there seemed to be hundreds of others milling around a notice board. We carefully read all the notices and found our names were together so that at all times we should be studying together. We pushed our way past others still reading, and made our way to the classroom which had been indicated to us. Here we sat down, rather marveling—or I did—at all the strangeness of the fittings, the desks, and all that. Then, after what seemed to be an eternity of time, others came in, in small groups, and took their places. Eventually a gong sounded somewhere and a Chinaman entered, and said, “Good morning, gentlemen.” We all rose to our feet because the regulations said that that was the approved method of showing respect, and we replied, “Good morning,” back to him. He said he was going to give us some written papers and we were not to be discouraged by our failures because his task was to find out what we did not know, not how much we knew. He said that until he could find the exact standard of each of us he would not be able to assist us.
Các tờ giấy đề cập tất cả khía cạnh học vấn, những câu hỏi khác nhau hỗn hợp, một sự pha trộn của người Trung Quốc đề cập đến Số học, Vật lý, Giải phẫu, tất cả mọi thứ có liên quan đến y học, giải phẫu, và khoa học, và các môn học đó là cần thiết để cho phép chúng tôi nghiên cứu y học, phẫu thuật và khoa học đến cấp độ cao hơn. Ông đã làm cho chúng tôi hiểu rõ ràng rằng nếu chúng tôi không biết phải trả lời thế nào một câu hỏi thì chúng tôi sẽ bỏ nó đấy, tại thời điểm đó chúng tôi vẫn chưa học nhưng, nếu chúng tôi có thể, hãy cung cấp vài thông tin sao cho ông có thể đánh giá chính xác kiến thức chúng tôi có đến đâu.
Sau đó ông rung chuông. Cửa mở ra và hai nhân viên bước vào trên tay chất đầy những cái gì đó có vẻ là sách. Họ đi len lỏi giữa chúng tôi và phân phát những quyển sách này. Thực tế, chúng không phải là sách, mà là hàng mớ những câu hỏi trên giấy và nhiều tờ giấy khác để chúng tôi viết. Sau đó một người khác đi vào và phân phát bút chì. Chúng tôi sẽ sử dụng bút chì chứ không phải bút lông. Vì vậy, sau đó chúng tôi bắt tay vào việc, đọc các câu hỏi, từng câu một, trả lời chúng theo cách tốt nhất có thể. Chúng tôi có thể nhìn thấy hào quang của giáo viên, hoặc ít nhất là tôi có thể, thấy rằng ông là một người đàn ông chân thật và mối quan tâm duy nhất của ông là giúp đỡ chúng tôi.
The papers would deal with everything, various questions all mixed up, a veritable Chinese broth of knowledge dealing with Arithmetic, Physics, Anatomy, everything relating to medicine and surgery and science, and the subjects which were necessary to enable us to study medicine, surgery and science to higher levels. He gave us clearly to understand that if we did not know how to answer a question then we could put down that we had not studied to that point but give, if we could, some information so that he could assess the exact point at which our knowledge ended. Then he rang the bell. The door opened and in came two attendants laden with what seemed to be books. They moved amongst us and distributed these books. They were not books, actually, but sheaves of questions on paper and many sheets of paper upon which we were to write. Then the other one came and distributed pencils. We were going to use pencils and not brushes on this occasion. So, then we set to, reading through the questions, one by one, answering them as best we could. We could see by the lecturer’s aura, or at least I could, that he was a genuine man and that his only interest was to help us.
Thầy tôi và cũng là thầy giáo riêng của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, đã dành cho tôi sự đào tạo rất đặc biệt. Kết quả của những tờ giấy mà chúng tôi được cung cấp trong thời gian khoảng hai ngày cho thấy trong rất nhiều môn học kiến thức tôi tốt hơn và đi trước các sinh viên cùng học khác, nhưng kết quả cũng cho thấy tôi không có chút kiến thức gì về Điện hoặc Từ học.
Khoảng một tuần sau buổi kiểm tra đó, chúng tôi học trong một phòng thí nghiệm mà ở đó chúng tôi sẽ được cho làm bài thí nghiệm đầu tiên bởi vì, cũng giống như tôi, một vài sinh viên khác chưa có khái niệm gì về ý nghĩa của hai từ nghe có vẻ đáng sợ này. Giảng viên đã giảng cho chúng tôi nghe một bài học về điện và ông nói:
– Bây giờ tôi sẽ cung cấp cho các em một bài thí nghiệm thực hành về tác động của điện, một bài thí nghiệm vô hại.
Ông đưa tôi cầm hai sợi dây và nói:
– Hãy cầm lấy, cậu hãy giữ chúng thật chặt cho đến khi tôi nói, ‘buông ra’.
My Guide and Tutor, the Lama Mingyar Dondup, had given me very highly specialized training. The result of the papers which we were given in about two days’ time showed that in very many subjects I was well in advance of my fellow students, but it showed that I had no knowledge whatever of Electricity or Magnetism. Perhaps a week after that examination we were in a laboratory where we were to be given a first demonstration because, like me, some of the others had no idea of the meaning of those two dreadful sounding words. The lecturer had been giving us a talk about electricity and he said, “Now, I will give you a practical demonstration of the effects of electricity, a harmless demonstration.” He handed me two wires and said, “Hold these, will you, hold them tightly until I say; ‘let go’.”
Tôi nghĩ là ông đang yêu cầu tôi trợ giúp ông trong bài thí nghiệm (thì đúng vậy mà!) và vì vậy tôi cầm lấy các sợi dây, mặc dù tôi khá lo lắng bởi vì hào quang của ông ta cho thấy rằng ông đang suy tính hình thái nào đó của sự lừa lọc. Tôi nghĩ, cũng có lẽ tôi đã đánh giá sai ông ta, dù thế nào đi chăng nữa ông ta cũng không phải là một người tốt. Ông quay người và bước nhanh ra xa tôi đến bên cái bàn thí nghiệm của mình. Ở đó, ông nhấn một cái nút. Tôi nhìn thấy ánh sáng đi đến từ dây dẫn và tôi nhìn thấy hào quang của người giảng viên biểu lộ sự kinh ngạc. Ông ta tỏ ra cực kỳ ngạc nhiên, và nói:
– Giữ chúng chặt hơn đi.
Thế là tôi làm đúng như ông ta bảo, siết chặt những sợi dây.
Người giảng viên nhìn tôi và dụi mắt. Ông ta rất ngạc nhiên, điều đó là hiển nhiên với tất cả mọi người, thậm chí với bất cứ ai không có khả năng nhìn thấy hào quang. Rõ ràng là giảng viên chưa bao giờ ngạc nhiên như vậy trước đây. Các sinh viên khác nhìn vào miệng há hốc của ông ngạc nhiên. Họ không thể hiểu được có chuyện gì. Họ không có một ý niệm nào về những điều được dự định. Rất nhanh, người giảng viên đi lại chỗ tôi sau khi tắt công tắc và cầm lấy hai sợi dây từ tay tôi.
Ông nói:
– Phải có một cái gì đó sai, chắc hẳn là đã ngắt kết nối.
I thought that he was asking me to assist him in his demonstration (he was!) and so I held the wires, although I was rather perturbed because his aura showed that he was contemplating some form of treachery. I thought, well perhaps I am misjudging him, he’s not a very nice fellow anyhow. He turned and walked quickly away from me to his own demonstration table. There he pressed a switch. I saw light coming from the wire and I saw the aura of the lecturer betray amazement. He appeared to be intensely surprised. “Hold them tighter,” he said. So I did. I squeezed the wires. The lecturer looked at me and really rubbed his eyes. He was astounded, that was obvious to everyone, even anyone without the ability to see the aura. It was obvious that this lecturer had never had such a surprise before. The other students looked on in open-mouthed wonder. They could not understand what it was all about. They had no idea at all what was intended. Quickly the lecturer came back to me after switching off and took the two wires from me. He said, “There must be something wrong, there must be a disconnection.”
Ông cầm hai sợi dây trong tay và quay trở lại bàn. Một sợi dây ở trong tay trái của ông, sợi dây kia trong tay phải. Vẫn giữ chúng trong tay, ông ta đưa một ngón tay ra trước và bật công tắc. Sau đó, ông ta gầm lên dữ dội:
– Ô! Tắt, nó đang giết chết tôi!
Đồng thời, cơ thể ông ta co quắp như thể tất cả các cơ bắp của ông bị trói và tê liệt. Ông tiếp tục la hét và thét lên inh ỏi, hào quang của ông ta nhìn như mặt trời lặn. “Thú vị biết bao,” tôi nghĩ, “tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái gì đẹp như thế trong hào quang của con người!”
He took the two wires in his hand and went back to the table with them. One wire was in his left hand, the other was in his right. Still holding them he stretched forth a finger and flicked on the switch. Then he erupted into a tremendous “Yow! Switch off, it’s killing me!” At the same time his body was knotted up as if all his muscles were tied and paralyzed. He continued to yell and scream and his aura looked like the setting sun. “How very interesting,” I thought, “I have never seen anything as pretty as that in the human aura!”
Những tiếng kêu la liên tục của người giảng viên đã lập tức làm cho mọi người chạy vào. Một người đàn ông liếc nhìn ông ta và vội vã chạy đến bàn và tắt công tắc. Người giảng viên khốn khổ gục xuống sàn, toát mồ hôi và run rẩy. Ông ta trông thật thiểu não; khuôn mặt ông xanh xám. Cuối cùng ông ta đứng dậy siết chặt mép bàn làm việc.
– Anh đã làm điều đó với tôi.
Tôi đáp:
– Tôi ư? Tôi không làm gì cả. Ông bảo tôi cầm những sợi dây và tôi đã giữ chúng, sau đó ông cầm lấy chúng từ tay tôi và ông trông như thể sắp chết.
Ông ta nói:
– Tôi không thể hiểu được. Tôi không thể hiểu được.
Tôi trả lời:
– Ông không thể hiểu được cái gì? Tôi đã giữ chúng, nhưng ông đang nói về cái gì vậy?
Ông ta nhìn tôi:
– Anh thực sự không cảm thấy bất cứ điều gì à? Anh không cảm thấy râm ran hay bất cứ điều gì à?
– Vâng, tôi nói, tôi không cảm thấy gì hơn ngoài sự ấm áp dễ chịu một chút. Tại sao, thế tôi phải cảm thấy gì?
Một giảng viên khác, người đã tắt dòng điện nói:
– Anh sẽ thử lại lần nữa được không?
Tôi nói:
– Tất nhiên tôi sẽ thử, ông muốn bao nhiêu lần cũng được.
The continued shrieks of the lecturer soon brought people running in. One man took a glance at him and rushed to the table and switched off the switch. The poor lecturer dropped to the floor, perspiring freely and shaking. He looked a sorry sight; his face had a pale greenish tinge to it. Eventually he stood up clasping the edge of the desk. “You did that to me.” I replied, “I? I haven’t done a thing. You told me to hold the wires and I held them, then you took them from me and you looked as if you were going to die.” He said, “I can’t understand it. I can’t understand it.” I answered, “What can’t you understand? I held the things, what are you talking about?” He looked at me: “Didn’t you really feel anything? Didn’t you feel a tingle or anything?” “Well,” I said, “I felt just a pleasant bit of warmth, nothing more. Why, what should I feel?” Another lecturer, the one who had switched off the current said, “Will you try it again?” I said, “Of course I will, as many times as you like.”
Thế là ông ta đưa tôi những sợi dây. Ông nói:
– Bây giờ tôi sẽ bật công tắc Hãy nói cho tôi biết điều gì đang xảy ra.
Ông ta ấn công tắc, và tôi nói:
– Ồ, nó chỉ là một chút ấm áp dễ chịu. Không có gì phải lo lắng cả. Nó cũng chỉ giống như khi tôi đưa tay lại gần ngọn lửa.
Ông ta nói:
– Siết chặt hơn nữa.
Và tôi đã làm như vậy, tôi thực sự siết chặt chúng cho đến khi các cơ bắp nổi gồ lên trên mu bàn tay tôi.
Ông ta và người giảng viên kia nhìn nhau, và dòng điện đã được ngắt. Sau đó một người cầm lấy hai sợi dây từ tay tôi và cuốn vải xung quanh chúng, và ông ta cầm nhẹ chúng trong tay mình.
– Bật lên!
Ông nói với người giảng viên kia. Thế là ông kia bật công tắc, và người đàn ông đang giữ trong tay những sợi dây đã được bọc trong vài liền buông rơi nó ngay lập tức. Ông nói:
– Ồ, nó vẫn còn trên đó.
Trong khi buông rơi xuống, hai sợi dây tụt khỏi miếng vài và chạm vào nhau. Có một ánh sáng lóe lên màu xanh sống động, và một cục kim loại nóng chảy văng ra khỏi đầu của sợi dây.
– Bây giờ các anh đã làm nổ cầu chì rồi.
Một người giảng viên nói, và ông đi ra để sửa chữa ở đâu đó.
So he handed me the wires. He said, “Now I am going to switch on. Tell me what happens.” He pressed the switch, and I said, “Oh, it’s just a pleasant bit of warmth. Nothing to worry about at all. It’s just as if I had my hands fairly close to a fire.” He said, “Squeeze it tighter.” And I did so, I actually squeezed it until the muscles stood out on the backs of my hands. He and the previous lecturer looked at each other, and the current was switched off. Then one of them took the two wires from me and put cloth around them, and he held them lightly in his hands. “Switch on,” he said to the other. So the other lecturer switched on, and the man with the wires wrapped in cloth in his hands soon dropped it. He said, “Oh, it’s still on.” In dropping the two wires fell free of the cloth and touched. There was a vivid blue flash, and a lump of molten metal jumped from the end of the wire. “Now you have blown the fuses,” said one, and he went off to do a repair somewhere.
Điện đã có trở lại, họ tiếp tục bài giảng về điện. Họ nói rằng họ đang cố gắng truyền qua tôi dòng điện hai trăm năm mươi volt như một cú sốc để chỉ ra dòng điện có thể gây ra điều gì. Tôi có một làn da khô khác thường và hai trăm năm mươi volt không làm tổn thương tôi chút nào cả. Tôi có thể đặt tay mình trên nguồn điện và không biết được liệu dòng điện đang có trên đó hay không.
Người giảng viên khốn khổ hoàn toàn không phải loại người đó, ông ấy lại còn đặc biệt nhạy cảm với dòng điện. Trong một lần thuyết trình họ nói:
– Ở Mỹ nếu một người bị kết tội giết người, hoặc nếu như luật sư nói rằng ông ta phạm tội giết người thì người đó sẽ bị giết bằng điện. Hắn ta sẽ bị trói vào một chiếc ghế, và dòng điện sẽ tác động vào cơ thể và nó sẽ giết hắn ta.
Tôi nghĩ một cách thú vị khi tự hỏi liệu họ sẽ làm gì với tôi, mặc dù tôi không muốn thử nó một cách nghiêm túc.
With the current restored they went on with their lecture about Electricity. They said they were trying to give me two hundred and fifty volts as a shock to show what electricity could do. I have a peculiarly dry skin and two hundred and fifty volts hurt me not at all. I can put my hands on the mains and be quite unaware of whether they are on or not. The poor lecturer was not of that type at all, he was remarkably susceptible to electric currents. In the course of the lecture they said, “In America if a man commits murder, or if the lawyers say that he is guilty of murder, the man is killed by electricity. He is strapped to a chair, and the current is applied to his body and it kills him.” I thought how very interesting. I wonder what they would do with me, though I have no desire to try it seriously.
Dịch giả: Cộng đồng thiền Việt Nam
Biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam