Chương III- Hang Động Người Xưa- Lobsang Rampa

Tu viện của các Bậc tiên tri nhỏ, gọn và rất tách biệt. Vài chú tiểu nhỏ tự chơi vô tư không người trông nom. Không có những nhóm sư thơ thẩn trong sân đầy nắng, nhàn rỗi ríu rít nói chuyện vào thời gian cuối tuần. Những ông già – cũng chính là các Lạt ma cao niên – chiếm đa số ở đây. Những người đàn ông già nua, tóc bạc trắng và oằn lưng dưới sức nặng của năm tháng, họ đi lại một cách chậm chạp làm công việc của mình. Đây là Nhà của các vị Tiên tri. Các Lạt ma cao tuổi nói chung, và các Nhà tiên tri nói riêng, được giao nhiệm vụ dự đoán trước tương lai, và xem bói. Không một khách không mời nào được vào đây, không một người hành hương nào được phép nghỉ ngơi hoặc ăn uống ở đây. Đây là nơi nhiều người sợ và cấm tất cả trừ những vị được đặc biệt mời. Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức là ngoại lệ; bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể vào và Ngài thực sự là một vị khách luôn được chào đón.

The Lamasery of the State Oracle was small, compact, and very secluded. Few small chelas played with carefree abandon. No groups of trappas lounged indolently in the sundrenched courtyard, whiling away the noonday hour in idle chatter. Old men—old Lamas too!—were in the majority here. Aged men, white of hair and bent under the weight of years, they went slowly about their business. This was the Home of the Seers. To the aged lamas in general, and to the Oracle himself, was entrusted the task of Prophecy, of Divination. No uninvited visitor entered here, no stray traveler called in search of rest or food. This was a place feared by many and forbidden to all except those specially invited. My Guide, the Lama Mingyar Dondup was the exception; at any time he could enter and find that he was indeed a welcome visitor.

Những lùm cây xanh um tùm tạo cho tu viện sự riêng tư, tránh khỏi những cặp mắt tò mò. Những bức tường đá vững chắc giúp bảo vệ các tòa nhà khỏi mấy kẻ tọc mạch quá mức, phòng khi chúng dám mạo hiểm với cơn thịnh nộ của Vị Lạt ma Tiên tri quyền năng trước sự tò mò vớ vẩn. Những căn phòng được giữ gìn cẩn thận dành riêng cho Đức Chí Tôn Đấng tối cao, người thường xuyên đến thăm Ngôi đền Kiến thức này. Không khí thanh tịnh, ấn tượng chung là sự tĩnh lặng, là những con người điềm đạm làm công việc quan trọng của họ.

A gracious grove of trees gave the Lamasery privacy from prying eyes. Strong stone walls gave the buildings protection from the over-curious, if there should be any who would risk the wrath of the powerful Oracle Lama for idle curiosity. Carefully kept rooms were set aside for His Holiness the Inmost One who so frequently visited this Temple of Knowledge. The air was quiet, the general impression was of quietude, of men placidly going about their important business.

Cũng không có cơ hội cho các cuộc ẩu đả hay những kẻ xâm nhập ồn ào. Nơi này được tuần tra bởi những người đàn ông to lớn, dũng mãnh dân tộc Kham, nhiều người cao tới hơn hai mét, và không ai trong số họ nặng dưới chín mươi kilogam, được thuê trên khắp Tây Tạng với tư cách là tu sĩ cảnh binh, được giao nhiệm vụ giữ trật tự trong các cộng đồng có đến hàng nghìn nhà sư. Các nhà sư cảnh binh liên tục cảnh giác và luôn sẵn sàng. Mang theo những cây gậy dũng mãnh, họ thực sự là hình ảnh đáng sợ đối với những người có lương tâm tội lỗi. Không phải cứ mặc áo cà sa là trở thành người tu hành, cộng đồng nào cũng đều có những kẻ bất lương và lười biếng, vì vậy những người đàn ông Kham này thực sự bận rộn.

Nor was there opportunity for brawls, for noisy intruders. The Place was patrolled by the mighty Men of Kham, the huge men, many of them over seven feet tall, and none of them weighing less than two hundred and fifty pounds, who were employed throughout Tibet as monk-police charged with the task of keeping order in communities of sometimes thousands of monks. The monk-police strode about the grounds constantly alert, constantly on guard. Carrying mighty staves they were indeed a frightening sight to those with guilty consciences. A monk’s robe does not necessarily cover a religious man; there are wrongdoers and lazy men in all communities, so the Men of Kham were busy.

Các tòa nhà của Tu viện cũng phù hợp với mục đích đã định của chúng. Không có tòa nhà nào xây cao ở đây, không có cột dài đục sẵn lỗ để mở rộng quy mô; nơi này dành cho các bô lão, những người đã mất đi sự linh hoạt của tuổi trẻ, có bộ xương yếu ớt. Hành lang dễ ra vào và những người tuổi cao nhất sống ở tầng trệt. Bản thân Nhà tiên tri cũng sống ở tầng trệt, bên cạnh Đền Tiên tri. Quanh ông là những bô lão cao niên nhất, uyên bác nhất, và vị cao tăng cảnh binh người Kham.

The lamastic buildings too were in keeping with their intended purpose. No high buildings here, no long notched poles to scale; this was for aged men, men who had lost the elasticity of youth, men whose bones were frail. The corridors were easy of access, and those of greatest age lived upon the ground floor. The State Oracle himself also lived upon the ground floor, at the side of the Temple of Divination. Around him lodged the oldest men, the most learned. And the senior monk-police of the Men of Kham.

“Lobsang, chúng ta sẽ đi gặp Nhà tiên tri,” Thầy nói. “Ngài đã bày tỏ sự quan tâm rất lớn đến con và sẵn sàng dành nhiều thời gian cho con.” Lời mời – hay mệnh lệnh – bao phủ lên tôi sự u ám mịt mùng; Bất kỳ chuyến viếng thăm nào đến nhà chiêm tinh hoặc ‘nhà tiên tri’ trong quá khứ đều mang lại tin chẳng lành, nhiều đau khổ hơn, nhiều khẳng định hơn về những khó khăn sắp tới. Thông thường, tôi cũng phải mặc chiếc áo choàng đẹp nhất của mình và ngồi như một con vịt nhồi bông trong khi nghe một ông già buồn tẻ nào đó nói ra một chuỗi những điều tôi không muốn nghe. Tôi ngước lên đầy hoài nghi; Vị Lạt ma đang cố gắng che giấu nụ cười khi Người nhìn xuống tôi. Rõ ràng là tôi đang mơ màng, và Người đã đọc được suy nghĩ của tôi! Ngài phá lên cười khi nói, “Con hãy cứ như vậy đi, Nhà tiên tri không bị đánh lừa bởi tấm áo bề ngoài của kẻ khác đâu. Ngài biết về con nhiều hơn con biết về chính mình đấy!” Tôi ngày càng u sầu, tôi tự hỏi sắp được nghe điều gì tiếp theo đây.

“We will go to see the Oracle, Lobsang,” said my Guide. “He has expressed great interest in you and is prepared to give you much of his time.” The invitation—or command—filled me with the greatest gloom; any visit to an astrologer or ‘seer’ in the past had been productive of bad news, more suffering, more confirmation of hardships to come. Usually, too, I had to wear my best robe and sit like a stuffed duck while listening to some prosy old man bleating out a string of platitudes which I would rather not hear. I looked up suspiciously; the Lama was struggling to conceal a smile as he gazed down at me. Obviously, I thought dourly, he has been reading my mind! He broke into a laugh as he said, “Go as you are, the Oracle is not at all swayed by the state of one’s robe. He knows more about you than you know yourself!” My gloom deepened, what was I going to hear next, I wondered.

Chúng tôi đi dọc hành lang rồi vào sân trong. Tôi liếc nhìn những dãy núi thấp thoáng, cảm giác như sắp bị hành quyết. Một tu sĩ cảnh binh cau có tiến đến, trông như một trái núi đang di chuyển. Nhận ra Thầy tôi, anh ta nở nụ cười chào đón và cúi đầu thật sâu. “Xin phục dưới chân Ngài, Thưa Lạt ma tôn kính,” anh ta nói. “Hãy cho tôi vinh dự được dẫn Ngài đến chỗ Ngài Tiên tri tôn kính.” Anh ta cúi đầu bước đi bên cạnh chúng tôi và tôi cảm thấy rất rõ mặt đất rung chuyển theo bước chân nặng nề của anh ta.

We walked down the corridor and went out into the inner courtyard. I glanced at the looming mountain ranges, feeling like one going to execution. A scowling police-monk approached, looking to me almost like a mountain on the move. Recognising my Guide he broke into welcoming smiles and bowed deeply. “Prostrations at thy Lotus Feet, Holy Lama,” he said. “Honour me by permitting me to lead you to His Reverence the State Oracle.” He fell into step beside us and I felt sure that the ground trembled to his ponderous tread.

Hai vị lạt ma đứng hai bên cửa, họ không phải là những người tu sĩ cảnh binh bình thường, khi chúng tôi đến gần, họ đứng sang một bên để chúng tôi có thể vào. “Thánh nhân đang chờ các vị,” một người mỉm cười nói với Thầy tôi. “Người rất mong đợi chuyến thăm của Ngài, thưa Ngài Minh Gia tôn kính,” người kia nói. Chúng tôi bước vào và thấy đang ở trong một căn phòng ánh sáng mờ ảo. Trong vài giây đầu, tôi hầu như không thể nhận biết  được xung quanh bởi mắt đã bị lóa vì ánh nắng chói chang ngoài sân. Dần dần, khi đã quen với ánh sáng nơi đây, tôi đã có thể nhìn trở lại bình thường, tôi nhận ra một căn phòng trống, chỉ có hai tấm thảm trên tường và một lư hương nhỏ đang bốc khói nghi ngút ở một góc. Ở chính giữa căn phòng, trên một tấm đệm trơn là một người đàn ông khá trẻ. Ông ấy trông gầy gò và ốm yếu, và tôi thực sự ngạc nhiên khi nhận ra rằng đây là Nhà tiên tri của Tây Tạng. Đôi mắt ông hơi lồi, và nhìn chằm chằm vào tôi, cái nhìn xuyên thấu. Tôi có ấn tượng rằng ông ấy đang nhìn thấu tới linh hồn mình chứ không phải cái thể xác này.

Two lamas stood beside the door, lamas, not ordinary monk-guards, at our approach they stood aside that we might enter. “The Holy One awaits you,” said one smiling upon my Guide. “He is looking forward to your visit, Lord Mingyar,” said the other. We walked in and found ourselves to be in a somewhat dimly lighted room. For some seconds I could distinguish very little indeed; my eyes had been dazzled by the bright sunlight in the courtyard. Gradually, as my vision returned to normal, I perceived a bare room with but two tapestries upon the walls and a small incense burner which stood smoking in a corner. In the centre of the room, upon a plain cushion, sat a quite young man. He looked thin and frail, and I was amazed indeed when I realised that this was the State Oracle of Tibet. His eyes protruded somewhat, and stared at me and through me. I had the impression that he was seeing my soul and not my earthly body.

Thầy của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại đức, và tôi đảnh lễ theo cách chào truyền thống và theo quy định, sau đó chúng tôi đứng dậy chờ. Cuối cùng, khi sự im lặng ngày càng trở nên khó chịu, Nhà tiên tri nói. “Chào mừng, Ngài Minh Gia tôn kính, chào mừng Lobsang!” Ngài nói. Giọng Ngài hơi cao và yếu ớt; nó tạo ấn tượng như đến từ một khoảng cách rất xa. Trong một lúc, Thầy tôi và Nhà tiên tri thảo luận về những vấn đề cùng quan tâm, sau đó Lạt ma Minh Gia Đại đức cúi đầu, quay người và rời khỏi phòng. Nhà tiên tri ngồi nhìn tôi và cuối cùng nói, “Lobsang, hãy mang nệm và đến ngồi bên ta.” Tôi với lấy một trong những tấm nệm vuông dựng vào bức tường phía xa và đặt nó xuống chỗ mà tôi có thể ngồi trước mặt ngài. Nhìn tôi một lúc trong im lặng và có phần ủ rũ, rồi cuối cùng, khi cảm thấy khó chịu của tôi dưới sự soi xét của mình, ngài bắt đầu nói. “Vậy con là Tuesday Lobsang Rampa!” ngài nói. “Chúng ta đã biết rõ về nhau trong một kiếp trước đây. Bây giờ, theo lệnh của Đấng Tối Cao, ta phải nói với con về những khó khăn sắp tới, những khó khăn phải vượt qua.” “Ồ, thưa ngài!” Tôi thốt lên, “Chắc con đã làm những điều khủng khiếp trong kiếp trước để rồi phải chịu đựng như vậy. Nhân quả của con, Định mệnh tiền định của con, dường như khó khăn hơn bất kỳ ai khác.” “Không phải vậy,” ông trả lời, “Đó là một sai lầm rất phổ biến đối với mọi người khi nghĩ rằng họ gặp khó khăn trong cuộc sống này vì họ cần thiết phải chịu đựng sự trừng phạt do những tội lỗi của tiền kiếp. Nếu con luyện kim loại trong lò thì đó là vì chúng đã hỏng và phải bị trừng trị, hay con làm vậy để cải thiện phẩm chất của vật liệu?” Ông nhìn tôi chăm chú và nói, “Tuy nhiên, Thầy của con, Lạt ma Minh Gia Đại đức sẽ thảo luận điều đó với con. Ta chỉ nói với con về tương lai.”

My Guide, the Lama Mingyar Dondup, and I prostrated ourselves in traditional and prescribed greeting, then we rose to our feet and stood waiting. At last, when the silence was becoming decidedly uncomfortable, the Oracle spoke. “Welcome, Lord Mingyar, welcome Lobsang!” He said. His voice was somewhat high in pitch and was not at all strong; it gave the impression of coming from a great distance. For a few moments my Guide and the Oracle discussed matters of common interest, then the Lama Mingyar Dondup bowed, turned, and left the room. The Oracle sat looking at me and at last said, “Bring a cushion and sit by me, Lobsang.” I reached for one of the padded squares resting against a far wall and placed it so that I could sit before him. For a time he gazed at me in a somewhat moody silence, but at long last, when I was becoming uncomfortable beneath his scrutiny, he spoke. “So you are Tuesday Lobsang Rampa!” he said. “We knew each other well in another phase of existence. Now, by order of the Inmost One, I have to tell you of hardships to come, difficulties to overcome.” “Oh, Sir!” I exclaimed, “I must have done terrible things in past lives to have to suffer thus in this. My Kharma, my predestined Fate, seems to be harder than anyone else’s.” “Not so,” he replied, “it is a very common mistake for people to think that because they have hardships in this life they are necessarily suffering for the sins of past lives. If you heat metal in a furnace do you do so because the metal has erred and must be punished, or do you do it in order to improve the qualities of the material?” He looked hard at me and said, “However, your Guide the Lama Mingyar Dondup will discuss that with you. I have to tell you only of the future.”

Nhà Tiên tri chạm vào chiếc chuông bạc và một người hầu lặng lẽ bước vào. Đi ngang qua chỗ chúng tôi, anh ta đặt một cái bàn rất thấp giữa Nhà tiên tri và tôi, trên bàn là một chiếc bát tựa như gốm, được trang trí công phu với những nét hoa văn bạc. Bên trong chiếc bát có những cục than hồng cháy đỏ rực khi vị tu sĩ huơ nó lên không trung trước khi đặt trước Nhà tiên tri. Ông ta lẩm bẩm gì đó phía trên đầu tôi mà tôi không nghe rõ, rồi ông đặt một chiếc hộp gỗ được chạm khắc tinh xảo bên phải chiếc bát, và rời đi cũng lặng lẽ như lúc vào. Tôi ngồi yên, không thoải mái chút nào, tự hỏi tại sao tất cả những điều này lại xảy ra với tôi. Mọi người đều nói với tôi rằng tôi sẽ có một cuộc sống khó khăn như thế nào; họ có vẻ thích thú với điều đó. Gian khổ thì sao, mặc dù rõ ràng tôi không phải trả giá cho những tội lỗi ở một vài kiếp trước. Nhà tiên tri chậm rãi đưa tay về phía trước và mở hộp. Với một chiếc thìa nhỏ bằng vàng, ông múc một thứ bột mịn rắc lên trên than hồng đang rực cháy.

The Oracle touched a silver bell and an attendant entered silently. Padding across to us he placed a very low table between the State Oracle and me, and upon the table he placed an ornate silver bowl lined, apparently, with a form of porcelain. Within the bowl glowed charcoal embers which flared bright red as the monk-attendant swung it in the air before placing it in front of the Oracle. With a muttered word, the import of which was lost upon me, he placed a richly carved wooden box to the right of the bowl, and departed as silently as he had come. I sat still, ill at ease, wondering why all this had to happen to me. Everyone was telling me what a hard life I was going to have; they seemed to delight in it. Hardship was hardship, even though apparently I was not having to pay for the sins of some past life. Slowly the oracle reached forward and opened the box. With a small gold spoon he ladled out a fine powder which he sprinkled on to the glowing embers.

Căn phòng tràn ngập một làn khói xanh trong sáng; Tôi cảm thấy các giác quan của mình quay cuồng và thị giác của tôi mờ đi. Từ một khoảng cách xa vô tận dường như tôi nghe thấy tiếng chuông lớn. Âm thanh dội đến gần hơn và cường độ ngày càng to dần đến khi tôi cảm thấy đầu mình như thể bị tách ra. Tôi nhìn rõ hơn và chăm chú quan sát cột khói bốc lên không ngừng từ cái bát. Trong làn khói, tôi thấy có sự chuyển động, nó bốc lên đến gần hơn và nhấn chìm tôi để tôi là một phần của nó. Từ đâu đó bên ngoài ý thức của tôi, giọng Nhà tiên tri cứ truyền đến, cứ vang lên liên tục. Nhưng tôi không cần phải nghe ngài nói, tôi đang nhìn thấy tương lai, nhìn thấy nó một cách sống động cũng như ngài vậy. Trong một lúc, tôi đứng tách sang một bên và nhìn những sự kiện của cuộc đời mình quay cuồng trước mắt như thể những thước phim đang chiếu. Thời thơ ấu của tôi, những sự kiện trong cuộc đời tôi, sự khắc nghiệt của cha tôi – tất cả đều được hiện lên sinh động. Một lần nữa tôi lại ngồi trước Tu viện vĩ đại Chakpori. Một lần nữa tôi cảm thấy những phiến đá rắn rỏi của Núi Sắt khi gió quật tôi ngã xuống từ mái nhà Tu viện, hất tung tôi bằng một sức mạnh tan xương nát thịt xuống sườn núi. Làn khói cuộn xoáy và những hình ảnh (mà chúng ta gọi là “Tàng thư Akashic”) tiếp tục. Tôi lại nhìn thấy buổi điểm đạo của mình, những buổi lễ bí mật được kết lại trong làn khói khi tôi lúc đó còn chưa có được khả năng đặc biệt. Qua những hình ảnh, tôi thấy mình đang đi trên con đường dài vắng vẻ đến Trùng Khánh ở Trung Quốc.

The room filled with a fine blue haze; I felt my senses reel and my sight grow dim. From a measureless distance away I seemed to hear the tolling of a great bell. Closer came the sound, and its intensity grew and grew until I felt my head would split. My sight cleared and I watched intently as a column of smoke rose endlessly from the bowl. Within the smoke I saw movement, movement which came closer and engulfed me so that I was part of it. From somewhere beyond my comprehension the voice of the State Oracle reached me, droning on and on. But I had no need of his voice, I was seeing the future, seeing it as vividly as he. Within a point of Time I stood apart and watched the events of my life reel before me as if pictured upon an ever-moving film. My early childhood, events in my life, the fierceness of my father—all were portrayed before me. Once again I sat before the great Lamasery of Chakpori. Once again I felt the hard rocks of the Iron Mountain as the wind whipped me from the Lamasery roof to fling me with bone-breaking force down the mountain side. The smoke swirled and the pictures (what we term “the Akashic Record”) moved on. I saw again my initiation, secret ceremonies wreathed in smoke as I was not then initiated. On the pictures I saw myself setting out on the long, lonely trail to Chungking in China.

Một cỗ máy kỳ lạ xoắn vặn và tung lên không trung, bay lên và rơi xuống trên những vách đá dựng đứng của Trùng Khánh. Và tôi – chính tôi – đã ở vị trí điều khiển! Sau đó, tôi nhìn thấy những phi đội máy bay như vậy, với hình ảnh Mặt trời mọc của Nhật Bản được phô trương trên các đôi cánh của chúng. Từ những cỗ máy rơi ra những đốm màu đen lao xuống đất rồi bùng lên thành lửa và khói. Những thân thể bị xé nát quăng lên trời, và trên bầu trời là những cơn mưa máu với các mảnh cơ thể. Tôi cảm thấy đau tim và choáng váng khi những hình ảnh chuyển động, cho thấy tôi đang bị người Nhật tra tấn. Tôi nhìn thấy cuộc đời mình, thấy những gian khổ, cay đắng. Nhưng nỗi buồn lớn hơn tất cả là sự phản bội xấu xa của một số người ở thế giới phương Tây, những người mà tôi thấy, đã muốn phá hủy những thứ tốt đẹp chỉ vì lý do duy nhất là họ ghen tị. Những hình ảnh cứ thế tiếp diễn, và tôi đã nhìn thấy chặng đường có thể xảy ra của cuộc đời mình trước khi tôi sống trong nó.

A strange machine twisted and tossed in the air, soaring and falling above the steep cliffs of Chungking. And I—I—was at the controls! Later I saw fleets of such machines, with the Rising Sun of Japan flaunted from their wings. From the machines fell black blobs which rushed to the earth to erupt into flame and smoke. Wrecked bodies hurtled heaven-wards, and for a time the skies rained blood and human fragments. I felt sick at heart, and dazed, as the pictures moved and showed me myself being tortured by the Japanese. I saw my life, saw the hardships, felt the bitterness. But the greatest sorrow of all was the treachery and evil of some people of the Western world, who, I saw, were bent on destroying work for good for the sole reason that they were jealous. The pictures moved on and on, and I saw the probable course of my life before I lived it.

Như tôi đã biết, khả năng được dự báo là rất chính xác. Chỉ có những chi tiết nhỏ đôi khi là khác đi. Bức tranh chiêm tinh của một người chỉ ra giới hạn những gì anh ta có thể trở thành và có thể chịu đựng, giống như bộ điều khiển động cơ có thể đặt tốc độ tối thiểu và tối đa cho nó. “Một cuộc sống khó khăn đối với tôi, được thôi!” Tôi nghĩ. Rồi bỗng tôi nhảy dựng lên, mạnh đến mức suýt bắn ra khỏi đệm; một bàn tay đã đặt trên vai tôi. Khi quay lại, tôi thấy khuôn mặt Nhà tiên tri, lúc này đang ngồi phía sau mình. Cái nhìn của ngài tràn đầy thương cảm, và đau lòng về chặng đường khó khăn phía trước của tôi. “Năng lực ngoại cảm của con rất mạnh mẽ, Lobsang,” ông nói, “Ta thường phải thuyết minh về những hình ảnh này cho người xem. Đấng tối cao, như người đã kỳ vọng, là hoàn toàn chính xác.”

As I well knew, probabilities can be most accurately forecast. Only the minor details are sometimes different. One’s astrological configurations set the limit of what one can be and can endure just as the governor of an engine can set its minimum and maximum speeds. “A hard life for me, all right!” I thought. Then I jumped so hard that I almost left the cushion; a hand was laid upon my shoulder. As I turned I saw the face of the State Oracle, now sitting behind me. His look was of utter compassion, of sorrow for the difficult way ahead. “You are very psychic, Lobsang,” he said, “I normally have to tell these pictures to onlookers. The Inmost One, as one would expect, is quite correct.”

“Tất cả những gì con muốn,” tôi trả lời, “là ở đây trong yên bình. Vì cớ gì con lại phải muốn đến thế giới phương Tây, nơi họ rất nhiệt tình rao giảng về tôn giáo trong khi cố gắng cắt cổ ai đó từ phía sau?” Ngài nói: “Có một Nhiệm vụ phải hoàn thành anh bạn của ta ơi. Con có thể làm điều đó bất chấp mọi sự phản đối. Thế nên con đang phải trải qua khóa đào tạo đặc biệt và khó khăn.” Tôi thấy khó chịu đỉnh điểm, suốt cả buổi nói chuyện chỉ toàn về những khó khăn và nhiệm vụ. Tất cả những gì tôi muốn cả bây giờ và sau này là bình an và yên tĩnh với ba cái trò giải trí vô hại. “Giờ thì,” Nhà tiên tri nói, “đã đến lúc con trở lại với Thầy của con, vì ông ấy có nhiều điều để nói với con và ông ấy đang đợi con.” Tôi đứng dậy, cúi đầu trước khi quay người và rời khỏi phòng. Bên ngoài, một nhà sư cảnh binh hộ pháp đang đợi dẫn tôi đến gặp Đại Đức Minh Gia. Chúng tôi cùng đi dạo bên nhau, nó gợi cho tôi về hình ảnh trong cuốn sách đã xem, trong đó là một con voi và một con kiến đang cùng nhau dạo chơi trên con đường rừng. . .

“All I want,” I replied, “is to stay here in peace. Why should I want to go to the Western world where they so ardently preach religion—and try to cut one’s throat behind one’s back?” “There is a Task my friend,” said the Oracle, ”which must be accomplished. You can do it in spite of all oppositions. Hence the special and difficult training which you are undergoing.” It made me feel most glum, all this talk about hardships and Tasks. All I wanted was peace and quiet and some harmless amusement now and then. “Now,” said the Oracle, “it is time for you to return to your Guide, for he has much to tell you and he is expecting you.” I rose to my feet and bowed before turning and leaving the room. Outside the huge monk-policeman was waiting to lead me to the Lama Mingyar Dondup. Together we walked, side by side, and I thought of a picture book I had seen wherein an elephant and an ant walked a jungle path side by side . . .

“Chà, Lobsang!” Vị Lạt Ma nói khi tôi bước vào phòng Ngài, “Ta hy vọng con không quá buồn phiền về những gì đã thấy?” Người mỉm cười với tôi và ra hiệu cho tôi ngồi. “Thức ăn cho thể xác trước đã, Lobsang, và sau đó là thức ăn cho Linh hồn,” Người cười khi rung chuông bạc gọi nhà sư hầu cận mang trà cho chúng tôi. Rõ ràng là tôi đến đúng lúc! Quy tắc của Lạt ma viện là không được nhìn xung quanh khi đang ăn, mắt không được nhìn tản mạn và phải tập trung sự chú ý hoàn toàn vào giọng nói của Chủ lễ. Ở đây, trong phòng của Lạt ma Minh Gia Đại Đức, không có Chủ lễ ngồi trên chúng tôi, đọc to cuốn Sách Thánh để giữ cho chúng tôi thoát khỏi những suy nghĩ tầm phào thay vì thức ăn. Cũng không có bất kỳ Giám thị nghiêm khắc nào sẵn sàng nhảy bổ vào chúng tôi vì những vi phạm nhỏ nhất. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, dãy Himalaya trải dài vô tận trước mặt, nghĩ rằng sẽ chẳng bao lâu nữa sẽ không còn được ngắm nhìn chúng. Tôi đã được nhìn thấy tương lai – tương lai của chính mình – và sợ hãi những điều chưa thấy rõ ràng vì bị lấp một phần trong làn khói.

“Well, Lobsang!” said the Lama as I entered his room, “I hope you are not too depressed at all that you have seen?” He smiled at me and motioned for me to sit. “Food for the body first, Lobsang, and then food for the Soul,” he exclaimed laughingly as he rang his silver bell for the monk-attendant to bring our tea. Evidently I had arrived just in time! Lamasery rules stated that one must not look about while one was eating, one’s eyes should not stray, and full attention should be given to the Voice of the Reader. Here in the Lama Mingyar Dondup’s room there was no Reader perched high above us, reading aloud from the Sacred Books in order to keep our thoughts from such common things as food. Nor were there any stern Proctors ready to jump at us for the slightest infraction of the Rules. I gazed out of the window at the Himalayas stretching endlessly before me, thinking that soon the time would come when I should gaze upon them no more. I had received glimpses into the future—my future—and I dreaded the things which I had not seen clearly but which had been partly veiled in smoke.

“Lobsang!” Thầy nói, “con đã nhìn thấy nhiều, nhưng còn nhiều điều nữa vẫn bị che khuất. Nếu con cảm thấy rằng không thể đối mặt với Tương lai đã định, thì chúng ta sẽ chấp nhận một việc – mặc dù thật đáng buồn – là con vẫn có thể ở lại Tây Tạng.” “Thưa Thầy!” Tôi trả lời: “Thầy đã từng nói với con rằng một người khi dấn bước trên Đường Đời mà chùn bước và quay lại, thì không phải là con người. Con sẽ tiến lên dù biết những khó khăn đang đợi trước mắt”. Người mỉm cười, và gật đầu đồng ý. “Đúng như ta mong đợi,” Người nói, “cuối cùng con sẽ thành công.” “Thưa Thầy!” Tôi hỏi, “tại sao mọi người không đến thế giới này với kiến thức về những gì họ đã có trong tiền kiếp và những gì họ phải làm trong cuộc sống này? Tại sao phải có cái mà Thầy gọi là ‘Tri thức Ẩn giấu’? Tại sao tất cả chúng ta không thể biết tất cả mọi thứ?”

“Lobsang!” said my Guide, “you have seen much, but much more has remained hidden. If you feel that you cannot face the planned Future, then we will accept the fact—though sadly—and you may remain in Tibet.” “Sir!” I replied, “you once told me that the man who sets out upon one of Life’s Paths, falters, and turns back, is no man. I will go ahead in spite of knowing the difficulties before me.” He smiled, and nodded his approval. “As I expected,” he said, “you will succeed in the end.” “Sir!” I asked, “why do not people come to this world with a knowledge of what they have been in past lives and what they are supposed to do in this life? Why must there be what you term ‘Hidden Knowledge’? Why cannot we all know everything?”

Lạt ma Minh Gia Đại Đức nhướng mày và cười. “Con chắc chắn muốn biết nhiều điều!” Người nói. “Trí nhớ của con đang khá tệ đó; gần đây ta đã nói với con rằng chúng ta thường không nhớ tiền kiếp của mình, vì như vậy sẽ làm tăng gánh nặng lên chính mình trong thế giới này. Như chúng ta nói, ‘Bánh xe sự sống xoay vần, mang sự giàu có cho người này và nghèo túng cho người khác. Người ăn xin của ngày hôm nay là hoàng tử của ngày mai.’ Khi không nhớ được tiền kiếp của mình, thì tất cả chúng ta đều sẽ tự làm mới bản thân mà không gắng trở lại chính mình ở kiếp trước.” “Nhưng,” tôi hỏi, “còn về Kiến thức Ẩn giấu? Nếu tất cả đều có kiến thức đó thì mọi người đều sẽ tốt hơn, sẽ tiến bộ nhanh hơn.” Thầy mỉm cười với tôi. “Nó không đơn giản như vậy!” Người trả lời. Im lặng một lúc rồi Thầy nói tiếp.

The Lama Mingyar Dondup raised his eyebrows and laughed. “You certainly want to know a lot!” he said. “You’re memory is failing, too; quite recently I told you that we do not normally remember our past lives as to do so would be to increase our load upon this world. As we say, ‘The Wheel of Life revolves, bringing riches to one and poverty to another. The beggar of today is the prince of tomorrow.’ If we do not know of our past lives we all start afresh without trying to trade on what we were in our last incarnation.” “But,” I asked, “what about the Hidden Knowledge? If all people had that knowledge everyone would be better, would advance more quickly.” My Guide smiled down at me. “It is not so simple as that!” he replied. For a moment he sat in silence, then he spoke again.

“Có những quyền năng bên trong chúng ta, trong tầm kiểm soát của Chân ngã, lớn hơn vô cùng bất cứ thứ gì mà Con người có thể tạo ra bằng vật chất, trong thế giới vật chất. Người phương Tây nói riêng sẽ lạm dụng những quyền năng như chúng ta có thể có, vì tất cả những gì người phương Tây quan tâm là tiền. Người phương Tây có hai câu hỏi: bạn có thể chứng minh điều đó không? và – tôi sẽ được gì từ việc đó?” Người cười như đứa trẻ và nói, “Ta luôn cảm thấy thích thú nhất khi nghĩ đến một loạt các máy móc và công cụ mà Con người sử dụng để gửi một thông điệp ‘không dây’ qua các đại dương. ‘Không dây’ là thuật ngữ họ sử dụng, trong khi những thiết bị này có hàng dặm hàng dặm dây dẫn. Nhưng ở đây, ở Tây Tạng, các Lạt ma được huấn luyện của chúng ta gửi các thông điệp thần giao cách cảm mà không cần thiết bị nào cả. Chúng ta đi vào cõi trung giới và du hành xuyên không gian và thời gian, thăm thú không chỉ thế giới này mà cả những thế giới khác. Chúng ta có thể bay lên – nâng những vật nặng khổng lồ bằng cách áp dụng những sức mạnh thường không được biết đến. Lobsang, không phải tất cả mọi người đều trong sáng, cũng không phải ai khoác áo cà sa cũng là người thánh thiện. Có thể có kẻ ác trong tu viện cũng như có thể có một vị thánh trong nhà tù.” Tôi bối rối nhìn Người. “Nhưng nếu tất cả mọi người có kiến ​​thức này, chắc chắn tất cả họ sẽ tốt chứ?” Tôi hỏi.

“There are powers within us, within the control of our Overself, immeasurably greater than anything that Man has been able to make in the material, the physical world. Western Man in particular would abuse such Powers as we can command, for all that Western Man cares about is money. Western Man has but two questions: can you prove it? and—what do I get out of it?” He laughed quite boyishly and said, “I always feel most amused when I think of the vast array of mechanisms and apparatus which Man uses to send a ‘wireless’ message across the oceans. ‘Wireless’ is the last term they should use, for the apparatus consists of miles and miles of wire. But here, in Tibet, our trained lamas send telepathic messages with no apparatus at all. We go into the astral and travel through space and time, visiting other parts of the world, and other worlds. We can levitate—lift immense loads by the application of powers not generally known. Not all men are pure, Lobsang, nor does a monk’s robe always cover a holy man. There can be an evil man in a lamasery just as there can be a saint in prison.” I looked at him in some puzzlement. “But if all men had this knowledge, surely they would all be good?” I asked.

Vị Lạt ma nhìn tôi buồn bã đáp. “Chúng ta giữ bí mật những Kiến thức Bí truyền để bảo vệ Nhân loại. Nhiều người, đặc biệt là những người phương Tây, chỉ nghĩ đến tiền bạc và quyền lực đối với người khác. Như đã được báo trước bởi Nhà tiên tri và những người khác, vùng đất này của chúng ta sau này sẽ bị xâm lược và chiếm đoạt về mặt vật chất bởi một giáo phái kỳ lạ, một giáo phái không có tư tưởng cho người bình thường, mà chỉ tồn tại nhằm củng cố quyền lực của những kẻ độc tài, những kẻ sẽ nô dịch hóa một nửa thế giới. Đã có những Lạt ma cấp cao bị người Nga tra tấn đến chết vì họ đã không tiết lộ những kiến ​​thức bị cấm. Lobsang, một người bình thường đột nhiên được tiếp cận với kiến ​​thức bị cấm, sẽ phản ứng như thế này: đầu tiên anh ta sẽ sợ hãi sức mạnh có trong tay mình lúc này. Sau đó, điều xảy ra tiếp theo, anh ta có phương tiện làm cho mình trở nên giàu có vượt xa những giấc mơ ngông cuồng nhất của mình. Anh ta sẽ thử nghiệm, và tiền sẽ đến với anh ta. Với tiền và quyền lực ngày càng tăng, anh ta sẽ muốn có thêm nhiều tiền và quyền lực hơn  nữa. Một triệu phú không bao giờ hài lòng với một triệu, mà muốn nhiều triệu hơn nữa! Người ta nói rằng trong suy thoái, quyền lực tuyệt đối bị suy đồi. Tri thức Ẩn giấu mang lại sức mạnh tuyệt đối ”

The Lama looked at me sorrowfully as he replied. “We keep the Secret Knowledge secret in order that Mankind may be safeguarded. Many men, particularly those of the West, think only of money and of power over others. As has been foretold by the Oracle and others, this our land will later be invaded and physically conquered by a strange cult, a cult which has no thought for the common man, but exists solely in order to bolster up the power of dictators, dictators who will enslave half the world. There have been high lamas who have been tortured to death by the Russians because the lamas would not divulge forbidden knowledge. The average man, Lobsang, who suddenly had access to forbidden knowledge, would react like this: first he would be fearful of the power now within his grasp. Then it would occur to him that he had the means of making himself rich beyond his wildest dreams. He would experiment, and money would come to him. With increasing money and power he would desire yet more money and power. A millionaire is never satisfied with one million, but wants many millions more! It is said that in the unevolved, absolute power corrupts. The Hidden Knowledge gives absolute power.”

Một tia sáng tuyệt vời bừng lên trong tôi; Tôi biết làm thế nào để Tây Tạng có thể được cứu! Nhảy lên đầy phấn khích, tôi kêu lên, “Vậy thì Tây Tạng đã được cứu rồi! Tri thức Ẩn giấu sẽ cứu chúng ta khỏi cuộc xâm lược!” Thầy nhìn tôi với lòng trắc ẩn. “Không, Lobsang,” Người buồn bã trả lời, “chúng ta không sử dụng quyền năng cho những việc như thế. Tây Tạng sẽ bị đàn áp, gần như bị tiêu diệt, nhưng sau đó, Tây Tạng sẽ sống lại và trở nên vĩ đại hơn, thuần khiết hơn. Đất nước sẽ được thanh tẩy trong lò lửa chiến tranh giống như sau này, cả thế giới cũng vậy”. Người liếc nhìn tôi. “Phải có chiến tranh, con biết đấy, Lobsang!” Người nói khẽ. “Nếu không có chiến tranh, dân số thế giới sẽ trở nên quá lớn. Nếu không có chiến tranh thì sẽ có bệnh dịch. Chiến tranh và bệnh tật điều chỉnh dân số trên thế giới và tạo cơ hội cho mọi người trên Trái đất – và trên các thế giới khác – làm điều tốt lành cho những người khác. Sẽ luôn có những cuộc chiến tranh cho đến khi dân số thế giới có thể được kiểm soát theo một cách nào đó khác”.

A great light dawned upon me; I knew how Tibet could be saved! Jumping up excitedly, I exclaimed, “Then Tibet is saved! The Hidden Knowledge will save us from invasion!” My Guide looked upon me with compassion. “No, Lobsang,” he replied sadly, “we do not use the Powers for things like that. Tibet will be persecuted, almost annihilated, but in the years to come she will rise again and become greater, purer. The country will be purified of dross in the furnace of war just as, later, the whole world will be.” He gave me a sideways glance. “There has to be wars, you know, Lobsang!” he said quietly. “If there were no wars the population of the world would become too great. If there were not wars there would be plagues. Wars and sickness regulate the population of the world and provide opportunities for people on the Earth—and on other worlds—to do good to others. There will always be wars until the population of the world can be controlled in some other way.”

Tiếng cồng chiêng báo hiệu buổi lễ tối. Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức đứng dậy. “Đi thôi, Lobsang,” Người nói, “chúng ta là khách ở đây và phải thể hiện sự tôn trọng đối với chủ nhà bằng cách tham dự buổi lễ.” Chúng tôi bước ra khỏi phòng và đi vào sân trong. Tiếng cồng chiêng vang lên liên tục – lâu hơn so với ở Chakpori. Chúng tôi thả bộ chậm rãi một cách đáng ngạc nhiên đến Đền thờ. Đang băng khoăn về sự chậm chạp của chúng tôi, nhìn quanh tôi thấy những người đàn ông rất già và ốm yếu, tập tễnh băng qua sân theo chân chúng tôi. Thầy thì thầm với tôi, ” Lobsang, sẽ tế nhị hơn nếu con đi sang bên kia và ngồi với những chú tiểu đó.” Gật đầu, tôi đi vòng qua các bức tường bên trong của Ngôi đền đến chỗ các chú tiểu của Tu viện đang ngồi. Họ nhìn với ánh mắt tò mò khi tôi ngồi xuống bên cạnh họ. Nhanh như cắt, khi các Giám quan không nhìn, họ tiến về phía trước đến khi vây kín tôi.

The gongs were summoning us to the evening service. My Guide the Lama Mingyar Dondup rose to his feet. “Come along, Lobsang,” he said, “we are guests here and must show respect for our hosts by attending the service.” We walked out of the room and went into the courtyard. The gongs were calling insistently—being sounded longer than would have been the case at Chakpori. We made our surprisingly slow way to the Temple. I wondered at our slowness, then as I looked around I saw very aged men, and the infirm, hobbling across the courtyard in our footsteps. My Guide whispered to me, “It would be a courtesy, Lobsang, if you went across and sat with those chelas.” Nodding, I made my way round the inner walls of the Temple until I came to where the chelas of the State Oracle Lamasery were sitting. They eyed me with curiosity as I sat down to one side of them. Almost imperceptibly, when the Proctors were not looking, they edged forward until they surrounded me.

“Cậu đến từ đâu?” Một cậu bé hỏi, có vẻ là trưởng nhóm. “Chakpori,” tôi thì thầm đáp. “Cậu là người được Đấng Tối Cao gửi tới phải không?” một người khác thì thầm. “Vâng,” tôi thì thầm đáp lại, “Tôi đã gặp Nhà tiên tri, ông ấy nói với tôi …” “TRẬT TỰ!” Một giọng nói dữ dội gầm lên ngay sau tôi, “Mấy thằng nhóc này không được làm mất trật tự!” Tôi nhìn thấy người đàn ông hộ pháp bước tới. “Biến đi!” một cậu bé nói, “đừng để ý đến hắn, hắn sủa còn tệ hơn cắn.” Ngay sau đó Nhà tiên tri và một vị Sư trưởng xuất hiện qua một cánh cửa nhỏ ở bên hông, và buổi lễ bắt đầu.

“Where do you come from?” asked one boy, one who seemed to be the leader. “Chakpori,” I replied in a whisper. “You the fellow sent by the Inmost One?” whispered another. “Yes,” I whispered back, “I have been to see the Oracle, he told me___” “SILENCE!” roared a fierce voice just behind me, “Not another sound out of you boys!” I saw the big man move away. “Ga!” said a boy, “don’t take any notice of him, his bark is worse than his bite.” Just then the State Oracle and an Abbot appeared through a small door at the side, and the service commenced.

Sau buổi lễ, chúng tôi lại đi ra ngoài. Cùng với những người khác, tôi vào bếp để lấy đầy túi lúa mạch và trà. Không có cơ hội để nói chuyện; các nhà sư ở mọi cấp bậc đã đứng quanh đó, thảo luận vài phút cuối trước khi nghỉ đêm. Tôi đến căn phòng dành cho mình, cuộn trong chiếc áo choàng và nằm ngủ. Tuy nhiên, giấc ngủ không đến nhanh chóng. Tôi nhìn ra màn đêm màu tím chiếu sáng bởi những ngọn đèn bơ vàng rực. Xa xa là dãy Himalaya vĩnh cửu vươn những ngón tay bằng đá lên trời như thể cầu khẩn các vị thần của Thế giới. Ánh trăng sáng trắng sống động lóe lên qua các khe núi, biến mất và lóe sáng trở lại khi nhô lên cao hơn. Đêm nay trời không có gió, những lá cờ nguyện treo lơ lửng trên cột. Những đám mây lơ lửng trên Thành phố Lhasa. Tôi trở mình và chìm vào giấc ngủ không mộng mị.

Soon we were streaming out into the open again. With the others I went to the kitchen to have my leather barley bag refilled and to get tea. There was no opportunity to talk; monks of all degree were standing about, having a last minute discussion before retiring for the night. I made my way to the room allotted to me, rolled myself in my robe and lay down to sleep. Sleep did not come quickly, though. I gazed out at the purple darkness, pin-pointed by the golden-flamed butter lamps. Far away the eternal Himalayas stretched rock-fingers skywards as if in supplication to the Gods of the World. Vivid white shafts of moonlight flashed through mountain crevices, to disappear and flash again as the moon climbed higher. There was no breeze tonight, the prayer flags hung listlessly from their poles. The merest trace of cloud floated indolently above the City of Lhasa. I turned over, and fell into a dreamless sleep.

Sáng sớm, tôi sợ hãi thức dậy; Tôi đã ngủ quên và sẽ đến muộn buổi lễ cầu nguyện sớm. Bật dậy, tôi vội vàng thu mình vào trong áo choàng và lao ra khỏi cửa. Chạy đua dọc theo hành lang vắng vẻ, tôi lao ra sân – phi thẳng vào vòng tay của một trong những nhà sư cảnh binh người Kham. “Cậu đi đâu?” ông ta thì thầm một cách dứt khoát trong khi giữ tôi trong tay giống như cái kìm sắt. “Đến buổi lễ cầu nguyện sớm,” tôi trả lời, “Chắc tôi đã ngủ quên”. Ông ta cười và thả tôi ra. “Ồ!” ông ta nói “cậu là khách ở đây. Ở đây không có buổi lễ sớm. Về ngủ tiếp đi.” “Không có buổi lễ sớm à?” Tôi kêu lên, “tại sao mọi người đều có buổi lễ cầu nguyện sớm mà!” Nhà sư cảnh binh chắc hẳn đang có tâm trạng tốt, vì ông ấy đã trả lời tôi một cách nhã nhặn, “Ở đây chúng ta có những người già, và một số người ốm yếu, vì lý do đó, chúng ta bỏ qua buổi lễ cầu nguyện sớm. Hãy đi đi, và cứ yên tâm nghỉ ngơi một lát.” Ông ta vỗ nhẹ vào đầu tôi, nhẹ nhàng đối với ông ấy, nhưng như sét đánh đối với tôi, và đẩy tôi trở lại hành lang. Quay ra, ông ta tiếp tục đi lại trên sân, bước chân chậm chạp, với cây gậy nặng nề chọc xuống đất kêu “thịch! thịch!” theo mỗi bước chân của ông. Tôi chạy về dọc theo hành lang và sau vài phút đã ngủ say trở lại.

In the very early hours of the morning I awakened with a start of fright; I had overslept and would be late for the early service. Jumping to my feet, I hastily shrugged into my robe and bolted for the door. Racing down the deserted corridor I dashed out into the courtyard—straight into the arms of one of the Men of Kham. “Where are you going?” he whispered fiercely as he held me in an iron grip. “To early morning service,” I replied, “I must have overslept”. He laughed and released me. “Oh!” he said “you are a visitor. There is no early service here. Go back and sleep again.” “No early service?” I cried, “why everyone has early service!” The monk-policeman must have been in a good mood, for he answered me civilly, “We have old men here, and some who are infirm, for that reason we dispense with the early service. Go, and rest awhile in peace.” He patted me on the head, gently for him, like a thunderclap for me, and pushed me back into the corridor. Turning, he resumed his pacing of the courtyard, his ponderous footsteps going “bonk! bonk!” with the heavy stave going “thunk! thunk!” as the butt thudded into the ground at every other step. I raced back along the corridor and in minutes was sound asleep again.

Sau đó trong ngày, tôi được trình diện với vị Sư trưởng và hai trong số các Lạt ma cấp cao. Họ chăm chú hỏi tôi những câu hỏi về cuộc sống gia đình của tôi, những gì tôi nhớ về tiền kiếp, mối quan hệ của tôi với Thầy mình, Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Cuối cùng cả ba loạng choạng đứng dậy và tiến về phía cửa. “Lại đây” người đi cuối cùng nói, ngoắc ngón tay về phía tôi. Ngơ ngác bước đi như một người ngẩn ngơ, tôi ngoan ngoãn đi theo phía sau. Họ đi chậm rãi ra khỏi cửa và lững thững lê bước dọc hành lang. Tôi đi theo, hết sức nhẹ nhàng trong nỗ lực đi thật chậm. Chúng tôi tiếp tục lê bước, qua những căn phòng mở, nơi những nhà sư và các chú tiểu đều tò mò ngước nhìn khi chúng tôi chậm chạp đi qua. Tôi thấy má nóng bừng vì xấu hổ khi ở “đuôi” của đám rước này; Vị Sư trưởng dẫn đầu lê bước với sự hỗ trợ của hai cây gậy. Tiếp đến là hai vị lạt ma già nua và tiều tụy đến nỗi không thể theo kịp với Sư Trưởng. Và tôi, đi sau cùng, rất khó để có thể đi đủ chậm.

Later in the day I was presented to the Abbot and two of the senior lamas. They questioned me intently asking me questions about my home life, what I remembered of past lives, my relationship with my Guide, the Lama Mingyar Dondup. Finally the three rose totteringly to their feet and filed toward the door. “Come” said the last one, crooking a finger in my direction. Dumbfounded, walking as one in a daze, I followed meekly behind. They wended a slow way out of the door and shuffled lethargically along the corridor. I followed, almost tripping over my feet in an effort to go slowly enough. We crawled on, past open rooms where trappas and chelas alike looked up in curiosity at our slow passing. I felt my cheeks burn with embarrassment at being on the “tail” of this procession; at its head, the Abbot shuffling along with the aid of two sticks. Next came two old lamas who were so decrepit and withered that they could scarce keep up with the Abbot. And I, bringing up the rear, could hardly go slowly enough.

Cuối cùng, hoặc nó có vẻ là “lê thê” đối với tôi, chúng tôi đến một ô cửa nhỏ trên bức tường phía xa. Chúng tôi dừng lại trong khi vị Sư trưởng lần mò chìa khóa và lầm bầm trong hơi thở. Một vị Lạt ma bước tới để hỗ trợ ông, và cuối cùng cánh cửa được đẩy ra với tiếng kêu rít của bản lề. Vị Sư trưởng bước vào, theo sau lần lượt hai vị Lạt ma. Không ai nói gì với tôi, vì vậy tôi cũng đi vào. Một vị lạt ma già đẩy đóng cửa sau lưng tôi. Trước mặt tôi là một chiếc bàn khá dài chất đầy những đồ vật cũ kỹ và phủ đầy bụi. Áo choàng cũ, Bánh xe cầu nguyện cổ, bát cũ và các loại chuỗi Hạt cầu nguyện. Rải rác trên bàn là một vài Hộp Bùa và nhiều đồ vật khác mà thoạt nhìn tôi không thể xác định được. “Hmmmn. Mmmmn. Cậu bé lại đây!” Vị Sư trưởng ra lệnh. Tôi miễn cưỡng di chuyển về phía ông và ông nắm lấy cánh tay trái của tôi bằng bàn tay xương xẩu. Tôi cảm thấy như thể đang bị nắm chặt bởi một bộ xương! “Hmmm. Mmmmn. Con trai! Hmmm. Cái nào, nếu có, trong số những đồ vật và vật phẩm này là của con trong tiền kiếp?” Ông dẫn tôi đi dọc theo chiếc bàn, rồi quay sang tôi và nói, “Hmmmn. Mmmmn. Nếu con tin rằng bất kỳ vật nào là của con, Hmmmn, hãy nhặt nó lên và Hmmmn, Mmmmn, mang nó đến cho ta.” Ông ngồi xuống một cách nặng nề và tỏ ra không quan tâm đến các hoạt động của tôi nữa. Hai vị lạt ma ngồi với ông, và không nói một lời nào.

At long last, or it seemed “long last” to me, we reached a small doorway set in a far wall. We stopped while the Abbot fumbled with a key and mumbled beneath his breath. One of the lamas stepped forward to assist him, and eventually a door was pushed open with a squeal of protesting hinges. The Abbot entered, followed by first one lama and then the other. No one said anything to me, so I went in as well. An old lama pushed the door shut behind me. Before me there was a fairly long table laden with old and dust-covered objects. Old robes, ancient Prayer Wheels, old bowls, and assorted strings of Prayer Beads. Scattered on the table were a few Charm Boxes and various other objects which I could not at first glance identify. “Hmmmn. Mmmmn. Come here my boy!” commanded the Abbot. I moved reluctantly toward him and he grasped my left arm with his bony hand. I felt as if in the clutch of a skeleton! “Hmmm. Mmmmn. Boy! Hmmmm. Which, if any, of these objects and articles were in your possession during a past life?” He led me the length of the table, then turned me about and said, “Hmmmn. Mmmmn. If you believe that any article was yours. Hmmmn, pick it or them out and Hmmmn, Mmmmn, bring it or them to me.” He sat down heavily and appeared to take no more interest in my activities. The two lamas sat with him, and no word was uttered.

“Được rồi!” tôi tự nhủ, “nếu ba ông già muốn chơi theo cách này – được thôi, tôi sẽ chơi theo cách của họ!” Tất nhiên, phép đo tâm lý là công việc đơn giản nhất. Tôi đi chậm cùng với lòng bàn tay trái mở rộng phía trên các đồ vật khác nhau. Ở một số vật, tôi cảm thấy ngứa ở giữa lòng bàn tay và hơi rùng mình, hoặc run rẩy dọc theo cánh tay. Tôi chọn một Bánh xe Cầu nguyện, một cái bát cũ nát và một chuỗi hạt. Sau đó, tôi lặp lại hành trình của mình bên cạnh chiếc bàn dài. Chỉ có một vật nữa khiến lòng bàn tay tôi ngứa ngáy và cánh tay tôi ngứa ran; một chiếc áo choàng cũ nát đang trong giai đoạn mục ruỗng sau cùng. Chiếc áo choàng màu nghệ tây của một quan chức cấp cao, màu sắc gần như bị bạc theo năm tháng, chất liệu mục nát và vỡ vụn khi chạm vào. Tôi nhẹ nhàng nhặt nó lên, vừa sợ rằng nó sẽ tan ra giữa đôi tay thận trọng của mình. Tôi cẩn thận mang nó đến cho vị Sư trưởng già, đặt nó dưới chân ông ấy, và quay trở lại để lấy Bánh xe Cầu nguyện, chiếc bát bị móp méo, và chuỗi hạt. Không nói một lời nào, Sư trưởng và hai Lạt ma xem xét các đồ vật và so sánh một số dấu hiệu, hoặc những ký hiệu bí mật, với những ký hiệu trong một cuốn sách đen cũ mà Sư trưởng đã ghi chép. Họ ngồi đối mặt với nhau một lúc, đầu gật gù trên những chiếc cổ khô ngẳng, những bộ não cổ xưa gần như vỡ ra khi cố gắng suy nghĩ.

“Well!” I thought to myself, “if the three old men want to play it this way—all right, I will play it their way!” Psychometry is, of course, the simplest thing of all to do. I walked slowly along with my left hand extended palm down over the various articles. At certain objects I experienced a form of itch in the centre of the palm, and a slight shiver, or tremor, thrilled along my arm. I picked out a Prayer Wheel, an old battered bowl, and a string of beads. Then I repeated my journey by the side of the long table. Only one more article caused my palm to itch and my arm to tingle; an old tattered robe in the last stages of decay. The saffron robe of a high official, the colour almost bleached out by age, the material rotten and powdery to the touch. Gingerly I picked it up, half afraid that it would disintegrate between my cautious hands. Carefully I carried it to the old Abbot, deposited it at his feet, and returned for the Prayer Wheel, the battered bowl, and the string of beads. Without a word the Abbot and the two lamas examined the articles and compared certain signs, or secret markings, with those in an old black book which the Abbot produced. For a time they sat facing each other, heads a-nod on withered necks, ancient brains almost creaking with the effort to think.

“Harrumph! Arrrf! ” Vị Sư trưởng lầm bầm, thở khò khè như một con yak làm việc quá sức. “Mmmmmnnn. Đúng là ông ấy. Hmmmn. Một kết quả đặc biệt. Mmmmn. Hãy đến với Thầy của con, Lạt ma Minh Gia Đại Đức, cậu bé của ta và Hmmmn, nói với ông ấy rằng chúng ta rất vinh dự bởi sự hiện diện của ông ấy. Con trai ta, con không cần quay lại đây nữa. Harrumph! Arrrf!” Tôi quay người và chạy ra khỏi phòng, vui mừng vì được giải thoát khỏi những xác sống này, những người mà sự lạnh lùng khô khan của họ khác xa với lòng nhân ái ấm áp của Lạt ma Minh Gia Đại Đức. Đang chạy gấp ở góc hành lang, tôi đứng sững lại cách Thầy mình vài mét. Người cười nhạo tôi và nói, “Ồ! Đừng giật mình như thế, ta cũng vừa nhận được tin nhắn.” Vỗ nhẹ lưng tôi một cái thân thiện, Người bước nhanh về phía căn phòng nơi Sư trưởng và hai vị lạt ma già đang ở trong đó. Tôi lững thững bước ra sân và vô tư lấy chân hất một vài viên đá.

“Harrumph! Arrrf!” mumbled the Abbot, wheezing like an over-worked yak. “Mmmmmnnn. It is indeed he. Hmmmn. A remarkable performance. Mmmmn. Go to your Guide, the Lama Mingyar Dondup, my boy and Hmmmn, tell him that we should be honoured by his presence. You my boy, need not return. Harrumph! Arrrf!” I turned and raced from the room, glad to be free from these living mummies whose desiccated remoteness was so far removed from the warm humanity of the Lama Mingyar Dondup. Scurrying round a corner I came to a full stop inches from my Guide. He laughed at me and said, “Oh! Don’t look so startled, I received the message also.” Giving me a friendly pat on the back he hastened on toward the room containing the Abbot and the two old lamas. I wandered out into the courtyard and idly kicked a stone or two.

“Cậu là người được nhận ra là Hóa thân phải không?” một giọng nói cất lên đằng sau. Tôi quay lại và thấy một chú tiểu đang chăm chú nhìn mình. “Tôi không biết họ đang làm gì,” tôi trả lời. “Tất cả những gì tôi biết là bị kéo đi khắp các hành lang để có thể chọn ra một số đồ cũ của mình. Ai cũng có thể làm được điều đó mà! ” Cậu bé cười hiền hậu, “Những người của tu viện Chakpori như cậu biết đâu là vật dụng của mình,” cậu ta nói, “bằng không cậu đã chẳng được ở trong Tu viện đó. Tôi nghe nói cậu là một người cấp cao trong tiền kiếp. Chắc hẳn vì thế mà chính Nhà tiên tri đã dành hẳn nửa ngày cho cậu.” Cậu ta nhún vai với vẻ kinh sợ chế giễu và nhận xét, “Tốt hơn là cậu nên cẩn thận. Trước khi cậu biết điều gì đang xảy ra, họ sẽ nhận ra cậu và phong cậu làm Sư trưởng. Thế rồi cậu sẽ không thể chơi với những người khác ở Chakpori nữa.”

“You the fellow whose Incarnation is being Recognised?” asked a voice behind me. I turned to see a chela regarding me intently. “I don’t know what they are doing,” I replied. “All I know is that I have been dragged round the corridors so that I could pick out some of my old things. Anyone could do that!” The boy laughed good-naturedly, “You Chakpori men know your stuff,” he said, “or you would not be in that Lamasery. I heard it said that you were someone big in a past life. You must have been for the Oracle Himself to devote half a day to you.” He shrugged his shoulders in mock horror and remarked, “You’d better look out. Before you know what is happening they will have Recognised you and made you an Abbot. Then you won’t be able to play with the other men at Chakpori any longer.”

Từ một cánh cửa ở cuối sân xuất hiện hình dáng Thầy tôi. Người nhanh chóng sải bước về phía chúng tôi. Chú tiểu mà tôi đang nói chuyện cúi đầu chào khiêm tốn. Lạt ma mỉm cười với cậu ta và nói một cách ân cần – như mọi khi. ” Lobsang, chúng ta phải lên đường thôi!” Lạt ma Minh Gia Đại Đức nói với tôi, “trời sắp tối rồi, và chúng ta không muốn đi trong đêm.” Chúng tôi cùng nhau đi bộ đến chuồng ngựa nơi một nhà sư trông nom đang đợi cùng với những con ngựa của chúng tôi. Miễn cưỡng tôi lên ngựa và đi theo Thầy đến con đường xuyên qua hàng liễu. Chúng tôi đi trong im lặng; Tôi không bao giờ có thể trò chuyện một cách thông minh trên lưng ngựa vì toàn bộ năng lượng của tôi phải dồn vào cho việc duy trì ngồi cho vững. Tôi thực sự ngạc nhiên, chúng tôi không dừng lại ở Chakpori, mà tiếp tục đi đến Potala. Những con ngựa từ từ leo lên bậc thang. Bên dưới chúng tôi, Thung lũng mờ dần trong đêm. Tôi vui mừng xuống ngựa và nhanh chóng đi vào Potala, bây giờ đã trở nên quen thuộc, để tìm thức ăn.

From a door at the far end of the courtyard appeared the form of my Guide. Rapidly he strode toward us. The chela with whom I had been talking bowed low in humble salutation. The Lama smiled upon him and spoke kindly—as always. “We must be on our way, Lobsang!” said the Lama Mingyar Dondup to me, “soon night will be upon us, and we do not want to ride through the darkness.” Together we walked to the stables where a monk-groom was waiting with our horses. Reluctantly I mounted and followed my Guide on to the path through the willow trees. We jogged along in silence; I could never converse intelligently on horse-back as the whole of my energies was devoted to staying on. To my astonishment we did not turn off at Chakpori, but wended our way on to the Potala. Slowly the horses climbed the Road of Steps. Beneath us the Valley was already fading into the shadows of the night. Gladly I dismounted and hurried into the now-familiar Potala in search of food.

Thầy đợi tôi khi về phòng sau bữa ăn tối. “Vào đây với Thầy, Lobsang,” Ngài gọi. Tôi đi vào và ngồi xuống chỗ Người đã xếp cho  tôi. “Tốt lắm!” Người nói, “Ta hy vọng con đang tự hỏi tất cả những điều này là gì.” “Ồ! Con mong đợi được công nhận là một Hóa thân!” Tôi trả lời quấy quá. “Con và một người nữa đang nói về chuyện đó ở Tu viện của Nhà tiên tri khi Thầy gọi con đi!” “Điều đó rất tốt cho con,” Lạt ma Minh Gia Đại Đức nói. “Bây giờ chúng ta phải dành chút thời gian để thảo luận về một số thứ. Con không cần phải tham dự buổi lễ tối nay. Hãy ngồi thoải mái hơn và lắng nghe, và đừng ngắt lời ta.”

My Guide was waiting for me when I went to my room after supper. “Come in with me, Lobsang,” he called. I went in and at his bidding seated myself. “Well!” he said, “I expect you are wondering what it is all about.” “Oh! I expect to be Recognised as an Incarnation!” I replied airily. “One of the men and I were discussing it at the State Oracle Lamasery when you called me away!” “Well that is very nice for you,” said the Lama Mingyar Dondup. “Now we have to take some time and discuss things. You need not attend service tonight. Sit more comfortably and listen, and do not keep interrupting.”

“Hầu hết mọi người đến thế giới này để học hỏi mọi thứ,” Thầy bắt đầu nói. “Vài người đến để hỗ trợ người khác nếu cần hoặc hoàn thành một số nhiệm vụ đặc biệt, vô cùng quan trọng.” Người nhìn chằm chằm vào tôi để chắc chắn rằng tôi đang theo dõi, rồi tiếp tục, “Nhiều tôn giáo thuyết giảng về Địa ngục, là nơi trừng phạt hoặc đền tội của ai đó phạm lỗi. Nhưng Địa ngục chính là ở đây, trên thế gian này. Còn cuộc sống thực của chúng ta là ở Thế giới bên kia. Ở đây chúng ta đến để học hỏi, để trả giá cho những sai lầm đã gây ra trong kiếp trước hoặc – như ta đã nói – để cố gắng hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Con ở đây để thực hiện một nhiệm vụ liên quan đến hào quang của con người. ‘Công cụ’ của con sẽ là nhận thức tâm linh đặc biệt nhạy bén, là khả năng nhìn thấy hào quang của con người được tăng cường đáng kể và là tất cả kiến ​​thức mà chúng ta có thể cung cấp cho con về tất cả các nghệ thuật huyền bí. Đức Thái Tuế đã ra lệnh sử dụng mọi phương tiện có thể để tăng cường khả năng và tài năng của con. Giảng dạy trực tiếp, kinh nghiệm thực tế, thuật thôi miên, chúng ta sẽ sử dụng tất cả những phương pháp đó để con có thể tiếp thu được nhiều kiến ​​thức nhất trong thời gian ngắn nhất. ”

“Most people come to this world in order to learn things,” commenced my Guide. “Others come in order that they may assist those in need, or to complete some special, highly important task.” He looked sharply at me to make sure that I was following, then continued, “Many religions preach about a Hell, the place of punishment, or expiation for one’s sins. Hell is here, on this world. Our real life is on the other World. Here we come to learn, to pay for mistakes made in previous lives or—as I said—to attempt the accomplishment of some highly important task. You are here to do a task in connection with the human aura. Your ‘tools’ will be an exceptionally sensitive psychic perception, a greatly intensified ability to see the human aura, and all the knowledge that we can give you concerning all the occult arts. The Inmost One has decreed that every possible means be used to increase your abilities and talents. Direct teaching, actual experiences, hypnotism, we are going to use them all in order that we may get the most knowledge into you in the shortest time.”

“Địa ngục là đây, đúng vậy!” Tôi rầu rĩ kêu lên. Vị Lạt ma cười trước biểu cảm của tôi. “Nhưng Địa ngục này chỉ đơn thuần là bước đệm cho một cuộc sống tốt đẹp hơn,” Người đáp. “Ở đây chúng ta có thể tránh khỏi một số lỗi cơ bản. Ở đây, trong vài năm cuộc sống trên Trái đất, chúng ta đã mắc phải những sai lầm nó có thể đã ảnh hưởng đến chúng ta ở Thế giới khác trong khoảng thời gian dài vô tận. Toàn bộ cuộc sống của thế giới này chỉ là một chớp mắt của Thế giới khác.

Hầu hết mọi người ở phương Tây,” Người nói tiếp, “nghĩ rằng khi một người ‘chết’, anh ta sẽ ngồi trên đám mây và chơi đàn hạc. Những người khác nghĩ rằng khi một người rời khỏi thế giới này để đến với thế giới tiếp theo, họ tồn tại trong một trạng thái hư vô thần bí và thích cuộc sống đó”. Người cười và tiếp tục, “Giá như chúng ta có thể khiến họ nhận ra rằng cuộc sống sau khi chết là có thật hơn bất cứ thứ gì trên Trái đất! Mọi thứ trên thế giới này bao gồm những rung động; rung động của toàn thế giới — và mọi thứ bên trong thế giới — có thể được ví như quãng tám trên thang âm nhạc. Khi chúng ta đi đến phía bên kia của cái chết là đang lên thêm một ‘quãng tám’.”

Người dừng lại, nắm lấy tay tôi và gõ các khớp ngón tay của tôi trên sàn. “Đó, Lobsang,” Người nói, “đó là đá, những rung động mà chúng ta gọi là đá.” Một lần nữa Người nắm lấy tay tôi và xoa những ngón tay vào áo choàng của tôi. “Đó,” Người thốt lên, “đó là những rung động chỉ ra đây là len. Nếu chúng ta di chuyển mọi thứ lên theo thang độ rung động, chúng ta vẫn duy trì mức độ cứng và mềm tương ứng. Vì vậy, trong Đời sống sau khi chết, Đời sống thực, chúng ta có thể sở hữu những thứ như chúng ta có trên thế giới này. Con có hiểu rõ không?” Người hỏi.

“Hell it is, all right!” I exclaimed gloomily. The Lama laughed at my expression. “But this Hell is merely the stepping stone to a far better life,” he replied. “Here we are able to get rid of some of the baser faults. Here, in a few years of Earth life, we shed faults which may have plagued us in the Other World for countless spans of time. The whole life of this world is but the twinkling of an eye to that of the Other World. Most people in the West,” he went on, “think that when one ‘dies’ one sits on a cloud and plays a harp. Others think that when one leaves this world for the next one they exist in a mystical state of nothingness and like it.” He laughed and continued, “If we could only get them to realise that the life after death is more real than anything on Earth! Everything on this world consists of vibrations; the whole world’s vibrations—and everything within the world—may be likened to an octave on a musical scale. When we pass to the Other Side of Death the ‘octave’ is raised further up the scale.” My Guide stopped, seized my hand and rapped my knuckles on the floor. “That, Lobsang,” he said, “is stone, the vibrations which we term stone.” Again he took my hand and rubbed my fingers on my robe. “That,” he exclaimed, “is the vibration which indicates wool. If we move everything up the scale of vibrations we still maintain the relative degrees of hardness and softness. So, in the Life after Death, the real Life, we can possess things just as we do on this world. Do you follow that clearly?” he asked.

Tất nhiên là tôi hiểu rõ, tôi đã biết những điều như vậy từ rất lâu rồi. Vị Lạt ma đã đọc được suy nghĩ của tôi. “Đúng vậy, ta biết rằng tất cả những điều này là kiến ​​thức phổ thông ở đây, nhưng nếu chúng ta nói ra những ‘suy nghĩ không thành lời’ này, chúng ta sẽ làm cho nó rõ ràng hơn trong tâm trí của con. Sau đó,” Người nói, “con sẽ có hành trình đến các vùng đất của thế giới phương Tây. Ở đó con sẽ gặp nhiều khó khăn từ các tôn giáo phương Tây”. Người cười nhạt và nhận xét: “Những người theo đạo Thiên chúa gọi chúng ta là những kẻ ngoại đạo. Trong Kinh thánh của họ có viết rằng ‘Đấng Christ đã lang thang đến các vùng hoang vắng.’ Trong những tài liệu ghi chép lại cho biết rằng Đấng Christ đã đi qua Ấn độ, nghiên cứu Ấn độ giáo, và sau đó Ngài đến Lhasa và nghiên cứu tại Jo Kang dưới sự chỉ dẫn của các tu sĩ lỗi lạc thời đó. Đấng Christ đã hình thành nên một tôn giáo tốt, nhưng Cơ đốc giáo được thực hành ngày nay không phải là tôn giáo mà Đấng Christ đã lập ra.”

Thầy nhìn tôi có phần nghiêm khắc và nói, “Ta biết chủ đề này làm con thấy chán và nghĩ rằng ta đang nói vì tác dụng của lời nói, nhưng ta đã đi khắp thế giới phương Tây và ta có nhiệm vụ cảnh báo con về những gì con sẽ trải qua. Cách tốt nhất mà ta có thể làm là nói cho con biết về tôn giáo của họ, vì ta biết con có một trí nhớ tuyệt vời.” Tôi đỏ mặt bởi đã nghĩ “thầy nói nhiều quá!”

Obviously it was clear, I had known things like that for a very long time. The Lama broke into my thoughts. “Yes, I am aware that all this is common knowledge here, but if we vocalize these ‘unspoken thoughts’ we shall make it clearer in your mind. Later,” he said, “you will journey to the lands of the Western world. There you will meet many difficulties through Western religions.” He smiled somewhat wryly and remarked, “The Christians call us heathens. In their Bible it is written that ‘Christ wandered in the wilderness.’ In our records it is revealed that Christ wandered throughout India, studying Indian religions, and then He came to Lhasa and studied at the Jo Kang under our foremost priests of that time. Christ formulated a good religion, but the Christianity practiced today is not the religion that Christ produced.” My Guide looked at me somewhat severely and said, “I know you are a little bored by this, thinking I am talking for the sake of words, but I have traveled throughout the Western world and I have a duty to warn you of what you will experience. I can do that best by telling you of their religions, for I know you have an eidetic memory.” I had the grace to blush; I had been thinking “too many words!”

Ngoài hành lang, các nhà sư đang lặng lẽ đi về hướng Đền thờ để dự buổi lễ tối. Trên mái nhà, những người thổi kèn hướng ra Thung lũng và những nốt nhạc cuối cùng của ngày tàn vang rền. Ở đây, trước mặt tôi, Thầy tôi, Lạt ma Minh Gia Đại Đức tiếp tục câu chuyện của mình. “Có hai tôn giáo cơ bản ở phương Tây nhưng phân chia thành vô số nhánh. Tôn giáo của người Do Thái lâu đời và khoan dung. Con sẽ không gặp rắc rối, khó khăn nào do người Do Thái gây ra. Trong nhiều thế kỷ, họ đã bị bức hại, và họ rất thông cảm, thấu hiểu cho những người khác. Nhưng người theo đạo Thiên Chúa không khoan dung như vậy, trừ vào các ngày Chủ nhật. Ta sẽ không nói bất cứ điều gì về niềm tin cá nhân, con sẽ đọc họ, mà ta sẽ nói về cách các tôn giáo bắt đầu.”

Outside in the corridors monks were shush-shushing along toward the Temple to the evening service. On the roof above trumpeters looked out across the Valley and sounded the last notes of the dying day. Here, in front of me my Guide the Lama Mingyar Dondup continued his talk. “There are two basic religions in the West but innumerable subdivisions. The Jewish religion is old and tolerant. You will have no trouble, no difficulties caused by Jews. For centuries they have been persecuted, and they have great sympathy and understanding for others. The Christians are not so tolerant, except on Sundays. I am not going to say anything about individual beliefs, you will read of them, but I am going to say how religions started.

“Thủa sơ khai của sự sống trên Trái đất,” vị Lạt Ma nói, “đầu tiên, con người sống thành những nhóm nhỏ, những bộ lạc rất nhỏ. Không có luật lệ, không có quy tắc ứng xử. Chỉ có luật duy nhất là sức mạnh; bộ tộc mạnh hơn và hung ác hơn gây chiến với những kẻ yếu hơn. Theo thời gian, một người đàn ông mạnh mẽ và khôn ngoan hơn đã xuất hiện. Ông nhận ra rằng bộ tộc của ông sẽ mạnh nhất nếu nó có tổ chức. Ông đã thành lập một tôn giáo với quy tắc ứng xử. “Hãy sinh sôi nảy nở”, ông ra lệnh, biết rằng càng sinh nhiều con thì bộ tộc của ông càng lớn mạnh. Ông đã ra lệnh ‘Hãy hiếu kính cha mẹ’, biết rằng nếu ông ta trao quyền cho cha mẹ đối với con cái của họ, ông ta sẽ có quyền đối với các bậc cha mẹ. Cũng biết rằng nếu ông ta có thể thuyết phục trẻ em cảm thấy mắc nợ cha mẹ chúng, kỷ luật sẽ dễ dàng thực thi hơn. Lời sấm truyền của Tiên tri thời bấy giờ là ‘Cấm không được ngoại tình’. Mệnh lệnh thực sự của ông là người trong bộ lạc không được ‘pha trộn’ huyết thống với thành viên của bộ lạc khác, vì trong những trường hợp như vậy, lòng trung thành sẽ bị chia rẽ. Theo thời gian, các tu sĩ nhận thấy rằng có một số người không phải lúc nào cũng tuân theo giáo lý tôn giáo. Sau khi suy nghĩ rất lâu, thảo luận rất nhiều, những tu sĩ đó đã vạch ra một chế độ thưởng phạt. “Thiên đường”, “Miền cực lạc”, hay “Cõi vĩnh hằng”, – thuật ngữ tùy con gọi – dành cho những người tuân theo các tu sĩ. Lửa địa ngục và sự trừng phạt với những đòn tra tấn muôn đời dành cho những ai không vâng lời.”

“In the early days of life upon Earth,” said the Lama, “people were first in little groups, very small tribes. There were no laws, no code of behavior. Strength was the only law; a stronger and fiercer tribe made war upon those weaker. In course of time a stronger and wiser man arose. He realised that his tribe would be the strongest if it were organised. He founded a religion and a code of behavior. ‘Be fruitful and multiply,’ he commanded, knowing that the more babies were born the stronger would his tribe grow. ‘Honour thy father and thy mother’ he ordered, knowing that if he gave parents authority over their children he would have authority over the parents. Knowing too that if he could persuade children to feel indebted to their parents, discipline would be easier to enforce. ‘Thou shalt not commit adultery’ thundered the Prophet of that time. His real command was that the tribe should not be ‘adulterated’ with the blood of a member of another tribe, for in such cases there are divided loyalties. In course of time the priests found that there were some who did not always obey religious teachings. After much thought, much discussion, those priests worked out a scheme of reward and punishment. ‘Heaven’, ‘Paradise’, ‘Valhalla’,—term it what you will—for those who obeyed the priests. Hell fire and damnation with everlasting tortures for those who disobeyed.”

“Vậy Thầy có phản đối các tôn giáo có tổ chức ở phương Tây không, thưa Thẩy?” Tôi hỏi. “Không, chắc chắn là không,” Người trả lời, “nhiều người cảm thấy lạc lõng trừ khi họ có thể cảm nhận hoặc hình dung ra một Người Cha toàn năng đang nhìn xuống họ, với một Thiên thần sẵn sàng ghi nhận mọi việc làm tốt cũng như xấu! Chúng ta là Thượng đế đối với những sinh vật cực nhỏ trong cơ thể chúng ta, và những sinh vật thậm chí còn nhỏ hơn sống trong các phân tử! Về cầu nguyện, Lobsang, con có thường lắng nghe lời cầu nguyện của những sinh vật tồn tại trong các phân tử của con không?” “Nhưng Thầy đã nói rằng lời cầu nguyện luôn có tác dụng mà,” tôi vô cùng ngạc nhiên đáp lời. “Đúng vậy, Lobsang, lời cầu nguyện sẽ rất hiệu quả nếu chúng ta cầu nguyện với Chân ngã của chính mình, với phần chân thực của chúng ta trong một thế giới khác, phần điều khiển ‘dây buộc con rối’ của chúng ta. Việc cầu nguyện rất hữu hiệu nếu chúng ta tuân theo các quy tắc tự nhiên, đơn giản như bản thân nó vậy.”

“Then you are opposed to the organised religions of the West, Sir?” I asked. “No, most certainly not,” replied my Guide, “there are many who feel lost unless they can feel or imagine an all-seeing Father peering down at them, with a Recording Angel ready to note any good deeds as well as bad! We are God to the microscopic creatures who inhabit our bodies, and the even smaller creatures that inhabit his molecules! As for prayer, Lobsang, do you often listen to the prayers of the creatures existing on your molecules?” “But you said that prayer was effective,” I responded with some astonishment. “Yes, Lobsang, prayer is very effective if we pray to our own Overself, to the real part of us in another world, the part which controls our ‘puppet strings’. Prayer is very effective if we obey the simple, natural rules which make it so.”

Người mỉm cười với tôi khi nói, “Con người chỉ là một đốm sáng nhỏ trong một thế giới đầy rắc rối. Con người chỉ cảm thấy an toàn trong một hình thái nào đó của ‘vòng tay Mẹ.’ Đối với những người phương Tây, không được huấn luyện về nghệ thuật chết, ý nghĩ cuối cùng, tiếng gọi cuối cùng, là ‘Mẹ!’ Một người thiếu tự tin cố gắng tỏ ra tự tin sẽ hút xì gà hoặc thuốc lá giống như một đứa trẻ sẽ ngậm núm vú giả. Các nhà tâm lý học đồng ý rằng thói quen hút thuốc chỉ đơn thuần là sự quay trở lại những đặc điểm của thời thơ ấu, khi một đứa trẻ nhận được sự nuôi dưỡng và tin cậy từ người mẹ. Tôn giáo là chỗ dựa. Kiến thức về sự thật của sự sống – và cái chết – thậm chí còn an ủi nhiều hơn. Chúng ta giống như nước khi ở trên Trái đất, như hơi nước khi vượt qua trạng thái ‘chết’ và lại ngưng tụ thành nước khi tái sinh đến thế giới này một lần nữa ”.

He smiled at me as he said, “Man is a mere speck in a troubled world. Man is only comfortable when feeling safe in some form of ‘Mother’s embrace.’ For those in the West, untrained in the art of dying, the last thought, the last cry, is ‘Mother!’ A man who is unsure of himself while trying to give an appearance of confidence will suck a cigar or cigarette just as a baby will suck a dummy. Psychologists agree that the smoking habit is merely a reversion to the traits of early childhood where a baby drew nourishment and confidence from his mother. Religion is a comforter. Knowledge of the truth of life—and death—is of even greater comfort. We are like water when on Earth, like steam when we pass over in ‘death’ and we condense again to water when we are reborn to this world once more.”

“Thưa Thầy!” Tôi thốt lên, “Thầy có nghĩ rằng con cái không cần phải hiếu kính cha mẹ của chúng không?” Thầy nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên; “Ôi trời, Lobsang, tất nhiên con cái phải tỏ lòng hiếu kính với cha mẹ — miễn là cha mẹ xứng đáng. Tuy nhiên, những bậc cha mẹ quá lấn át không được phép làm hỏng con cái của họ, mặc dù vậy, và một ‘đứa trẻ’ trưởng thành chắc chắn có trách nhiệm trước tiên với vợ hoặc chồng của mình. Cha mẹ không được phép áp chế và sai khiến con cái đã trưởng thành của họ. Cho phép cha mẹ hành động như vậy là làm hại cha mẹ cũng như chính mình; nó tạo thành một món nợ mà cha mẹ phải trả trong một kiếp sống khác.” Tôi nghĩ đến bố mẹ mình. Người cha cứng rắn và khắc nghiệt của tôi, một người cha chưa bao giờ là ‘cha’ đối với tôi. Mẹ tôi là người có khuynh hướng về đời sống xã hội. Rồi tôi nghĩ đến Lạt ma Minh Gia Đại Đức, người còn hơn cả một người mẹ và người cha đối với tôi, người duy nhất đã luôn thể hiện sự tử tế và tình yêu thương với tôi.

“Sir!” I exclaimed, “do you think that children should not honour their parents?” My Guide looked at me in some surprise; “Good gracious, Lobsang, of course children should pay respect to their parents—so long as the parents merit it. Over-dominant parents should not be permitted to ruin their children, though, and an adult ‘child’ certainly has first responsibility to his or her wife or husband. Parents should not be permitted to tyrannise and dictate to their adult offspring. To allow parents to act thus is to harm the parents as well as oneself; it makes a debt which the parents must pay in some other life.” I thought of my parents. My stern and harsh father, a father who had never been a ‘father’ to me. My mother whose main thought was of the social life. Then I thought of the Lama Mingyar Dondup who was more than a mother and father to me, the only person who had shown me kindness and love at all times.

Một nhà sư đưa tin vội vàng bước vào và cúi gập người chào. “Thưa Ngài Minh Gia tôn kính,” anh ta nói một cách kính trọng, “Tôi được lệnh chuyển tới ngài sự kính trọng và lời chào của Đấng Thái Tuế và yêu cầu Ngài vui lòng đến gặp Người. Tôi có thể dẫn Ngài đến với Đấng Thái Tuế không, thưa Ngài?” Thầy đứng dậy và đi cùng với sứ giả.

A monk-messenger hastened in and bowed deeply. ”Honourable Lord Mingyar,” he said respectfully, “I am commanded to convey to you the respects and salutations of the Inmost One and to ask you to be good enough to go to Him. May I lead you to Him, Sir?” My Guide rose to his feet and accompanied the messenger.

Tôi bước ra ngoài và leo lên mái nhà của Potala. Cao hơn một chút, Lạt Ma Y Viện Chakpori khuất bóng trong đêm. Bên cạnh tôi, một lá cờ nguyện bay nhè nhẹ trên cột. Đứng bên cạnh cửa sổ, tôi thấy một nhà sư già đang bận rộn xoay Bánh xe Cầu nguyện của mình, tiếng ‘lách cách’ của nó vang lên trong sự tĩnh lặng của màn đêm. Những ngôi sao trải dài trên bầu trời trong đám diễu hành vô tận, và tôi tự hỏi, liệu chúng ta có giống với một sinh vật khác, ở đâu đó không?

I walked out and climbed to the roof of the Potala. Slightly higher, the Medical Lamasery of Chakpori loomed out of the night. By my side a Prayer Flag flapped weakly against its mast. Standing in a nearby window I saw an old monk busily twirling his Prayer Wheel, its ‘clack-clack’ a loud sound in the silence of the night. The stars stretched overhead in endless procession, and I wondered, did we look like that to some other creature, somewhere?

Dịch và biên tập: VMC Việt Nam