Algernon bỗng giật mình vì sốc. Sự kinh hoàng chiếm lấy anh ta. Trong một khắc anh ta nghĩ rằng não anh ta sắp sửa nổ tung ra khỏi hộp sọ.
Xung quanh anh ta màu đen càng ngày càng đen hơn. Mặc dù anh ta không nhìn thấy gì trong một màn đêm hoàn toàn, anh ta có thể CẢM THẤY một cách không thể giải thích nổi có những đám mây trương phình một màu đen hơn cả màu đen đang cuộn lại xung quanh, bọc lấy anh ta.
ALGERNON suddenly shuddered with shock. Panic took hold of him. For a moment he thought that his brain was going to burst out of its skull. About him the blackness grew even blacker.
Although he could not see in the total darkness he could inexplicably FEEL turgid clouds of blacker than blackness swirling around, enveloping him.
Xuyên qua bóng tối dường như anh ta thấy có một tia sáng, mỏng như cây bút chì, tiến lại gần anh ta và chạm vào anh ta, và cùng với tia sáng có chiều dày bằng cây bút chì là ấn tượng ‘Bình an, bình an, yên lặng và chúng ta sẽ nói chuyện với con.’
Bằng một nỗ lực phi thường Algernon cố gắng kìm nén cơn hoảng loạn. Dần dần anh ta bình tĩnh trở lại và một lần nữa chờ đợi một cách điềm tĩnh hơn điều sắp diễn ra. Nó đến khá nhanh; ‘Chúng ta sẵn sàng giúp đỡ con, chúng ta mong muốn được giúp con nhưng con không bằng lòng để chúng ta làm điều đó.’
Through the darkness he seemed to see a brilliant ray of light, pencil-thin, reaching out to him and touching him, and along the pencil-thin ray of light came the impression ‘Peace, peace, be still and we will talk to you.‘
By superhuman efforts Algernon got a grip on his panic. Gradually he calmed down and once again rested more or less placidly awaiting developments. They were swift in coming; ‘We are willing to help you – we are very anxious to help you but you will not let us.‘
Algernon lặp lại điều đó trong đầu. ‘Con không bằng lòng để chúng ta làm điều đó,’ anh ta nghĩ, ‘nhưng mình còn chưa nói gì với họ cả, làm sao họ có thể nói là mình không muốn để họ giúp mình? Mình không biết họ là ai, mình không biết họ sẽ làm gì, mình thậm chí còn không biết mình đang ở đâu. Nếu đây là cái chết,’ anh ta nghĩ, ‘xem nào, đây là cái gì nhỉ? Sự không tồn tại? Sự hư vô? Có phải mình đã bị kết án phải sống vĩnh viễn trong bóng tối như thế này? Nhưng ngay cả vậy,’ anh ta nghĩ, ‘thì lại nảy sinh một vấn đề. Sống? Vậy mình có đang sống không?’ Những ý nghĩ liên tục kéo đến làm đầu óc anh ta rối loạn. Một lời giảng từ khi anh ta còn nhỏ vọng lại: ‘Không có cái chết, Ta là sự hồi sinh, Trong ngôi nhà của Cha ta có rất nhiều chỗ, ta sẽ chuẩn bị một Chỗ cho các con, Nếu các con cư xử tốt các con sẽ được lên Thiên đường, Nếu các con xử sự xấu các con sẽ xuống Địa ngục, Chỉ có những người Công giáo mới có cơ hội lên Thiên đường.’ Quá nhiều lời nói mâu thuẫn, quá nhiều sự hiểu lầm, quá nhiều kẻ mù quáng dạy cho kẻ mù quáng. Các cha sứ và các giáo viên của trường học ngày chủ nhật, họ làm mù mắt mình vá cố gắng dạy cho những người mà họ nghĩ là còn mù hơn cả họ. ‘Địa ngục ư?’ anh ta nghĩ. ‘Địa ngục là gì? Thiên đường là gì? Có thật sự có thiên đường không?’
Algernon rolled the thought around in his brain. ‘You will not let us,‘ he thought, ‘but I haven’t said a word to them, how can they say that I won’t let them help me? I don’t know who they are, I don’t know what they are going to do, I don’t even know where I am. If this is death,‘ he thought, ‘well, what is it? Negation? Nothingness? Am I to be condemned for eternity to live in darkness like this? But even that,‘ he thought, ‘poses a problem. Live? Well, do I live?‘ Thoughts swirled about him and his brain was in turmoil. Teachings of his early youth came to him: ‘There is no death – I am the Resurrection – In my Father’s house there are many mansions, I go to prepare a Way for you – If you behave you will go to Heaven – If you misbehave you will go to Hell – Only Christians have a chance for Heaven.‘ So many contradictory statements, so much misunderstanding, so much of the blind teaching the blind. The priests and the Sunday School teachers, people blind themselves trying to teach others who they thought were even blinder. ‘Hell?‘ he thought. ‘What IS Hell? What is Heaven? IS there Heaven?‘
Một luồng tư tưởng mạnh mẽ vang đến tâm trí anh ta: ‘Chúng ta sẵn lòng giúp con nếu trước hết con chịu chấp nhận cái tiên đề là con đang sống và rằng cuộc sống sau khi chết có tồn tại. Chúng ta sẵn lòng giúp con nếu chịu mở lòng để tin vào chúng ta và tin vào những điều mà chúng ta dạy cho con.’
Đầu óc của Algernon mắng nhiếc cái luồng tư tưởng đó. Chấp nhận giúp đỡ, thật là vớ vẩn làm sao. Và cả chuyện tin tưởng ngu ngốc, vô nghĩa đó nữa. Anh ta có thể tin cái gì đây? Nếu anh ta tin thì có nghĩa là đã có một sự nghi ngờ. Anh ta muốn những cái thực tế, không phải là niềm tin. Thực tế là anh ta đã chết dưới tay chính mình, thực tế thứ hai là anh ta đã chính mắt nhìn thấy xác chết của mình, và thực tế thứ ba là anh ta đang ở trong một bóng tối hoàn toàn, có vẻ như được nhúng trong một thứ chất bầy nhầy, trường phình nào đó rất khó cử động. Và rồi những người ngu ngốc từ một nơi nào đó mà anh ta không biết, gửi những tư tưởng vào đầu anh ta bảo rằng anh ta nên tin. Vậy, anh ta nên tin CÁI GÌ?
A strong thought broke in on his cogitations: ‘We are willing to help you if you will first accept the premise that you are alive and that there is life after death. We are willing to help you if you are prepared unreservedly to believe in us and believe in that which we can teach you.‘
Algernon’s brain railed at the thought. What was this rubbish about accepting help? What was this stupid nonsense about believing? What COULD he believe? If he was to believe then it implied there was a doubt. He wanted facts not beliefs. The facts were that he had died by his own hand, and the second fact was that he had seen his dead body, and the third fact was that he was now in total blackness apparently immersed in some sticky, turgid substance which prevented much movement. And then stupid people from he knew not where were sending thoughts into his head saying that he should believe. Well – WHAT should he believe?
‘Con đang ở giai đoạn tiếp theo sau khi chết,’ giọng nói, hay ý nghĩ, hay ấn tượng, hay là cái gì cũng được, nói với anh ta. ‘Con đã được bảo ban, dạy dỗ và dẫn dắt một cách sai lầm khi con ở trên Trái đất, và nếu con muốn thoát ra khỏi cái nhà tù mà con đã tự áp đặt cho mình thì chúng ta sẽ đưa con ra.’ Algernon im lặng, ngẫm nghĩ về toàn bộ vấn đề, và rồi anh ta trả lời. ‘Vậy,’ anh ta phát ra ý nghĩ trong đầu, ‘nếu các người muốn cho tôi tin thì trước hết hãy nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra cho tôi. Các người nói là tôi đang ở giai đoạn tiếp theo sau khi chết, nhưng tôi đã tưởng là chết là kết thúc của tất cả mọi thứ.’
‘Chính xác!’ ý nghĩ hay giọng nói rất mạnh mẽ đó vang lên. ‘Chính xác! Con đang bị bao phủ bởi những đám mây đen của nghi ngờ và của sự vô minh. Con đang bị bao phủ bởi bóng tối của sự vô tri, và sự cách ly này là do con tự tạo ra, tự áp đặt cho mình và chỉ có con mới có thể phá hủy được nó.’
Algernon không thích điều đó chút nào. Có vẻ như nó đang khiển trách anh ta về mọi thứ. Rồi anh ta nói, ‘Nhưng tôi không có lí do gì để tin cả, tôi chỉ có thể theo những gì tôi đã được dạy. Tôi đã được dạy rất nhiều điều ở nhà thờ, và khi còn là một đứa bé tôi đã được dạy dỗ bởi các giáo viên của trường học ngày chủ nhật và bởi một cô giáo tư. Và bây giờ các người nghĩ là tôi có thể vứt bỏ hết đi những điều đó chỉ vì một vài ấn tượng vô danh, không biết là cái gì đến trong đầu tôi? Hãy LÀM một điều gì đó để chỉ cho tôi thấy là còn có một cái gì đó bên trên bóng tối này.’
‘You are in the next stage after death,‘ the voice, or thought, or impression, or whatever it was, said to him. ‘You have been misinformed, mistaught and misled upon the Earth, and if you want to come out of your self-imposed prison then we will get you out.‘ Algernon rested quietly and thought over the matter, and then he thought back. ‘Well,‘ he thought strongly, ‘if you want me to believe, first of all you should tell me what is happening to me. You say I am in the first stage after death, but I thought death was the end of everything.” Precisely!‘ broke in the thought or the voice very strongly.
‘Precisely! You are surrounded by the black clouds of doubt, by the black clouds of unreason. You are surrounded by the blackness of ignorance, and this isolation is self-made, self-imposed and can only be self-destroyed.‘
Algernon did not like that a bit. It seemed to be blaming him for everything. Then he said, ‘But I have no reason to believe, I can only go by what I have been taught. I have been taught various things in churches, and while a mere boy I was taught by Sunday School teachers and by a Governess, and now do you think I can scrap all that just because some unknown, unidentified impression comes to my mind? DO something to show me that there is something beyond this blackness.‘
Bỗng nhiên bóng tối tách ra. Bóng tối được kéo sang một bên giống như tấm rèm sân khấu được kéo ra để các diễn viên có thể bắt đầu vở diễn. Algernon gần như bị mất cảm giác bởi một luồng sáng chói lòa và bởi những rung động kì diệu trong không khí. Anh ta suýt chút nữa thì hét lên vì ngây ngất trong khoảnh khắc đó, nhưng rồi – nghi ngờ, và với nghi ngờ bóng tối lại trùm lên, và một lần nữa anh ta lại chìm nghỉm trong cái màn đen trương phình. Nghi ngờ, hoảng loạn, tự buộc tội mình, mắng nhiếc những lời rao giảng của thế giới. Anh ta bắt đầu nghi ngờ sự tỉnh táo của mình. Làm sao những điều như thế này lại có thể? Bây giờ anh ta gần như chắc chắn là anh ta đã bị mất trí, chắc chắn rằng anh ta đang bị ảo giác. Tâm trí anh ta quay trở lại cái cây Brazil hiệu nghiệm mà anh ta đã ăn; cho rằng đã có một vài hiệu ứng phụ và rằng anh ta đang chịu những ảo giác không đến ngay lúc đó mà đến sau. Anh ta đã nhìn thấy xác chết của mình trên sàn – nhưng liệu có phải thế không? Làm sao anh ta có thể nhìn thấy mình khi mà anh ta đã chết? Anh ta nghĩ về lúc nhìn từ trên trần xuống, về cái chỗ hói trên chỏm đầu ông quản gia. Vậy, nếu đó là thật, tại sao trước đây anh ta đã không để ý thấy cái chỗ hói đó? Nếu đó là thật, tại sao anh ta đã không nhận ra một điều hiển nhiên là bà vú nuôi đội tóc giả? Anh ta cân nhắc lại vấn đề và giao động giữa ý nghĩ rằng cuộc sống sau khi chết là có thể, và việc anh ta đã bị mất trí một cách không thể chối cãi.
Suddenly a break appeared in the darkness. Suddenly the blackness rolled aside like curtains on a stage rolling aside that the actors could make their debut. Algernon was almost struck senseless by the influx of bright light and by the wondrous vibrations in the atmosphere. He almost screamed in the ecstasy of the moment, and then – doubt, and with the doubt came the rolling in of the blackness again until once more he was engulfed in turgid darkness. Doubt, panic, self-recrimination, railing against the teachings of the world. He began to doubt his sanity. How could things like this be possible? He was certain by now that he was insane, certain that he was suffering hallucinations. His mind went back to that very potent Brazilian plant which he had ingested; supposing there had been side-effects, supposing he was suffering from long-delayed hallucinations. He had seen his dead body on the floor – but had he? How could he see himself if he was dead? He thought of looking down from the ceiling, he thought of the bald spot on the top of the butler s head. Well, if it were true why had he not noticed that bald spot before? If it were true why had he not noticed that the housekeeper obviously wore a wig? He pondered on the problem and wavered between the thought that life after death was possible and the thought that he was undeniably insane.
‘Chúng ta sẽ để con tự quyết định, bởi vì luật là không ai có thể được giúp đỡ trừ phi người đó sẵn sàng nhận sự giúp đỡ. Khi con đã sẵn sàng để nhận sự giúp đỡ, nói lên điều đó thì chúng ta sẽ đến. Và, hãy nhớ rằng, không có bất kì lí do gì để con tiếp tục áp đặt sự tự cô lập này. Bóng tối này là do con tưởng tượng ra.’
‘We will leave you to come to your own decision because the Law is that no person may be helped unless that person is willing to receive help. When you are ready to receive help, say so and we will come. And, remember, there is no reason whatever for you to continue this quite self-imposed isolation. This blackness is a figment of your imagination.‘
Không còn khái niệm thời gian. Những ý nghĩ đến rồi đi. Nhưng Algernon tự hỏi, ý nghĩ có tốc độ như thế nào? Anh ta đã có bao nhiêu ý nghĩ rồi? Nếu như anh ta biết được thì anh ta đã có thể tính được anh ta đã ở trong tư thế này và trong trạng thái này bao lâu rồi. Nhưng không, thời gian không còn có ý nghĩa gì nữa. Chẳng còn gì có ý nghĩa nữa cả. Anh ta đưa tay xuống và không thể cảm thấy gì bên dưới mình. Chậm chạp, với một nỗ lực như vô tận, anh ta nâng cả hai cánh tay lên. Nhưng chẳng có gì cả, chẳng có gì để cảm nhận, chẳng có gì ngoài cái cảm giác kì lạ như thể anh ta đang kéo tay mình trong nước si rô. Rồi anh ta để tay mình lên người và cảm nhận. Đúng vậy, đây là đầu anh ta, đây là cổ, đây là vai, tất nhiên đây là tay anh ta bởi vì anh ta đang dùng tay để sờ. Rồi anh ta nhảy dựng lên. Anh ta đang trần truồng và anh ta đỏ mặt vì ý nghĩ đó. Nếu như có ai đó đi vào và thấy anh ta trần truồng thì sao? Trong xã hội của anh ta thì đơn giản là một người không thể xuất hiện trần truồng được, thế là ‘không được’. Nhưng cho đến giờ thì anh ta có thể nói là anh ta vẫn còn có cơ thể con người. Và rồi những ngón tay đang rò rẫm, tìm kiếm của anh ta đột ngột dừng lại, và anh ta đi đến một kết luận chắc chắn là anh ta đã thật sự bị điên – điên rồi – khi những ngón tay của anh ta chạm phải phần cơ thể đã bị bắn bởi tay bắn tỉa người Boer, và chỗ đã bị con dao của bác sĩ phẫu thuật cắt đi. Anh ta vẫn còn nguyên vẹn. Hiển nhiên đó là trí tưởng tượng. Hiển nhiên là vậy rồi, anh ta nghĩ, anh ta đã nhìn xuồng cơ thể đang chết của mình, anh ta vẫn đang chết. Nhưng anh ta lại nhớ ra rằng anh ta đã nhìn xuống. Vậy, làm sao anh ta có thể nhìn xuống nếu anh ta chính là cơ thể đang chết? Nếu anh ta đã nhìn xuống, vậy hiển nhiên là có một phần của anh ta, linh hồn hay là bất cứ cái gì người ta gọi nó, đã đi ra khỏi cơ thể, và chỉ cái sự thật đơn giản là anh ta có thể nhìn xuống chính mình đã đủ để chỉ ra rằng có một cái ‘gì đó’ sau khi chết.
Time had no meaning. Thoughts came and went. But what, Algernon wondered, was the speed of thought? How many thoughts had he had? If he knew then he could work out how long he had been in this position and in this condition. But no, time no longer had meaning. Nothing had meaning as far as he could see. He reached his hands down and could feel nothing beneath him. Slowly, with infinite effort, he swept his arms up at full length. There was nothing, nothing at all that he could feel, nothing except the strange dragging as if he was pulling his arms through syrup. Then he let his hands rest upon his body and felt. Yes, his head was there, his neck, his shoulders, obviously his arms were there because he was using his hands to feel himself. But then he really jumped. He was naked, and he started to blush at the thought. What if some person should come in and find him naked? In his strata of society one simply did not appear naked, it was ‘not done‘. But so far as he could tell he still had his human body. And then his wandering, probing fingers stopped suddenly and he came to the definite conclusion that he was indeed mad – mad – for his searching fingers encountered parts which had been shot at by that Boer marksman and the remnants removed by the surgeon’s knife. So he was intact again! Obviously it was imagination. Obviously, he thought, he had looked down at his dying body and he was still dying. But then the inescapable thought occurred to him that he had looked down. Well, how COULD he look down if he was indeed the body that was dying? And if he could look down then obviously some part of him, his soul or whatever one calls it, must have got out of the body, and the mere fact that he could look down upon himself indicated that there was ‘something’ after death.
Anh ta nằm đó cân nhắc, cân nhắc, cân nhắc. Não của anh ta dường như đang lạch cạch như một cái máy. Dần dần, từng chút kiến thức được nhặt nhạnh từ nhiều nơi trên thế giới được anh ta tập hợp lại. Anh ta nghĩ về một tôn giáo – nó là gì nhỉ? Đạo Hindu? Hồi giáo? Anh ta không rõ, một trong những tôn giáo ở một nơi khác trên thế giới mà chỉ có những người bản địa mới tin vào, nhưng dù vậy, họ có dạy rằng có cuộc sống sau khi chết, rằng những người đàn ông khi chết đi sẽ đến được một nơi mà có sẵn sàng hàng vô số những cô gái. Tuy anh ta không hề thấy bất kì cô gái nào, nhưng nó đặt anh ta vào một chuỗi suy nghĩ. Chắc hẳn phải có cuộc sống sau khi chết, phải có một cái gì đó, và phải có một ai đó, nếu không làm sao anh ta có thể có những ý nghĩ sáng như đèn pha đó trong đầu? Algernon nhảy lên vì kinh ngạc. ‘Ôi, bình minh đang đến,’ anh ta thốt lên. Trên thực tế bóng tối giờ đây đã bớt tối hơn và bớt phình ra hơn, anh ta thấy mình đang chìm xuống một cách nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, cho đến khi đôi bàn tay đang dang ra bên dưới cơ thể anh ta chạm phải ‘một thứ gì đó’. Trong khi cơ thể tiếp tục chìm xuống thấp hơn, anh ta thấy bàn tay mình đang nắm, không, không thể nào! Nhưng những ngón tay anh đã khẳng định điều đó, đúng vậy, hai tay anh ta đang tiếp xúc với cỏ mềm, và rồi cơ thể không chống cự của anh ta đáp xuống một thảm cỏ mềm được cắt tỉa.
He lay there pondering, pondering, pondering. His brain seemed to be clicking like a machine. Gradually little bits of knowledge picked up in various parts of the world slipped into place. He thought of some religion – what was it? Hindu? Moslem? He didn’t know, one of these outlandish foreign religions which only the natives believed in, but still, they taught that there was life after death, they taught that good men who died went to a place where there were unlimited willing girls available. Well, he could not see any girls available or not available, but it set him on a train of thought. There MUST be life after death, there must be something, and there must be someone otherwise how could he have got such a searchlight – bright thought in his mind?
Algernon jumped with amazement. ‘Oh! The dawn is coming,‘ he exclaimed. Indeed the darkness was less dark now, the turgidity around him was less as well, and he found himself sinking down gently, gently until his outstretched hands hanging down below the body felt ‘something‘. As the body sank even lower he found that his hands were clutching – no, it couldn’t be! But further probings confirmed that, yes, his hands were in contact with soft grass, and then his unresisting body was resting upon short, cropped turf.
Anh ta nhận ra rằng cuối cùng thì anh ta cũng ở trong một nơi hữu hình nào đó, rằng có những thứ khác bên cạnh bóng tối, và cùng với việc anh ta nhận thức được điều đó, bóng tối tan dần đi và anh ta ở trong một vùng ánh sáng đầy sương mù. Qua lớp sương mù anh ta có thể nhìn thấy những hình hài đại khái, không rõ ràng, không đủ để phân biệt những hình hài đó, nhưng đó là những ‘hình hài’.
Ngước nhìn lên, anh thấy bóng của một người đang cúi nhìn mình. Anh có thể nhìn thấy hai bàn tay đưa ra như trong buổi lễ ban phúc, và một giọng nói, lần này không phải là bên trong đầu anh ta, mà là một giọng Anh thứ thiệt không thể lẫn đi đâu được của một người đến từ Eton hoặc Oxford!
‘Hãy đứng lên, con trai ta,’ giọng nói đó nói. ‘Hãy đứng lên và cầm lấy tay ta, cảm nhận rằng cơ thể của ta cũng như của con, và như vậy con sẽ có thêm một bằng chứng nữa cho việc con vẫn còn sống – ở trong một trạng thái khác, nhưng còn sống, và con càng sớm nhận ra rằng mình vẫn còn sống và rằng có cuộc sống sau khi chết thi con sẽ càng sớm có thể đi vào Chân lý vĩ đại’.
The realisation flooded in that he was at last in some material place and there were other things besides darkness, and as he thought, as he realised this, so the darkness became less and he was as one in a light mist. Through the mist he could see vague figures, not clearly, not enough to distinguish what the figures were, but ‘figures‘.
Looking up he found a shadowy figure looming over him. He could just see two hands raised as though in benediction, and then a voice, not a thought inside his head this time, but an undeniable honest-to-goodness English voice obviously from one who had been to Eton or Oxford!
‘Rise to your feet, my son,‘ said the voice. ‘Rise to your feet and take my hands, feel that I am solid like you, and in so feeling you will have one more item of proof that you are alive – in a different state admittedly, but alive, and the sooner you realise that you are alive and that there is life after death then the sooner will you be able to enter the Great Reality.‘
Algernon cố gắng đứng dậy một cách yếu ớt, nhưng dường như mọi thứ đã khác đi, dường như anh ta không thể cử động cơ bắp của mình như trước đây, và rồi giọng nói lại vang lên : ‘Hãy tưởng tượng ra việc con đứng lên, tưởng tượng ra việc con đứng.’ Algernon làm như vậy, và trước sự kinh ngạc của chính mình, anh ta thấy mình đang đứng thẳng, có một hình hài cứ sáng lên rồi tối đi, rồi lại sáng lên rồi lại tối đi, cho đến khi anh ta nhìn thấy trước mặt mình một người đàn ông trung niên, từ ông ta tỏa ra một ánh sáng đặc biệt và ông ta mặc một chiếc ào choàng màu vàng. Algernon quan sát từ đầu đến chân người đó, và anh ta nhìn lại mình. Anh ta thấy mình trần truồng. Ngay lập tức anh ta thét lên một tiếng sợ hãi, ‘Ôi!’ anh ta nói, ‘Quần áo của tôi đâu? Người ta không thể thấy tôi như thế này được!’
Người đó cười với anh ta rồi nhẹ nhàng nói, ‘Quần áo không làm nên con người, bạn của ta. Một người được sinh ra trên Trái đất không có quần áo, thì người đó cũng được tái sinh tại thế giới như vậy. Hãy nghĩ đến những quần áo mà con muốn mặc, rồi con sẽ thấy chúng trên người mình.’
Algernon made feeble attempts to get to his feet, but things seemed to be different somehow, he didn’t seem able to move his muscles as he used to, but then the voice came again: ‘Picture yourself rising, picture yourself standing.‘ Algernon did that and, to his amazement, found that he was standing upright being clasped by a figure which was becoming brighter and plainer and brighter and plainer until he could see before him a middle-aged man of remarkably bright aspect and clad in yellow robes. Algernon gazed down at the length of the figure and then his range of vision encountered himself. He saw that he was naked. Immediately he let out a shriek of fright, ‘Oh!‘ he said, ‘where are my clothes? I cannot be seen like this!‘
The figure smiled at him and gently said, ‘Clothes do not make the man, my friend. One is born to the Earth without clothes, and one is reborn to this world without clothes. Think of the type of clothes you would like to wear and you will find them upon you.‘
Algernon tưởng tượng ra anh ta như một sĩ quan trẻ dưới quyền bị đồng tính, mặc một cái quần màu xanh lính thủy đậm dài đến đúng gót chân, và một cái áo khoác màu đỏ tươi. Xung quanh hông, anh ta tưởng tượng ra một cái thắt lưng trắng sáng lóa với mấy túi đạn dược. Anh ta tưởng tượng ra những nút áo bằng đồng được đánh bóng kĩ lướng đến mức một người có thể thấy gương mặt mình trong đó. Và anh ta tưởng tượng ra trên đầu mình một cái mũ hộp tối màu với một cái quai bằng da vòng từ tai này xuống duới cằm lên tai kia. Anh ta tưởng tượng ra một bao kiếm ở bên hông, và rồi anh ta cười thầm trong bụng khi anh ta nghĩ, ‘Để xem họ làm thế nào!’ Trước sự kinh ngạc không thể nào tả nổi của anh ta, anh ta thấy cơ thể mình bị bó lại bởi bộ đồng phục, bởi cái thắt lưng chặt và đôi ủng quân nhân. Anh ta cảm thấy nặng ở bên hông, còn thắt lưng chỗ cài cái bao kiếm và cái túi da đựng khẩu súng thì bị kéo xuống vì sức nặng. Anh ta cảm thấy bên dưới cằm sức ép của cái quai mũ. Rồi anh ta quay đầu và thấy cái cầu vai lấp lánh trên đôi vai mình. Thế là quá nhiều – quá nhiều. Algernon ngất đi và tí nữa thì ngã vật xuống thảm cỏ nếu như người đàn ông trung niên không dịu dàng đặt anh ta xuống.
Algernon thought of himself as a gay young subaltern clad in dark navy blue trousers, the legs reaching right down to the heels, and a bright red jacket. Around his waist he pictured a dazzlingly white blancoed belt with ammunition pouches. He pictured the brilliant brass buttons polished so sharply that one could see one’s face in each. And then upon his head he pictured the dark pill box hat with the leather strap going down his cheek, beneath his chin, and up the other cheek. He pictured the scabbard at his side, and then he smiled to himself a secret inward smile as he thought, ‘Let them produce THAT!‘ To his ineffable astonishment he found his body constricted by uniform, by the tightness of a belt, by the tightness of military boots. He found the tug at his side where the weight of the scabbard and the weight of the pistol holster tried to drag the belt down. He felt beneath his chin the pressure of the chinstrap. And then, as he turned his head, he could see the glittering epaulets upon his shoulders. It was too much – too much. Algernon fainted and would have tumbled to the turf had not the middle-aged man gently lowered him.
Mí mắt Algernon giật giật và anh ta nói thì thầm một cách yếu ớt, ‘Con tin, ôi Chúa ơi, con tin. Xin hãy tha thứ cho những tội lỗi của con, cho những tội ác mà con đã phạm phải.’
Người đàn ông đi cùng anh ta mỉm cười đôn hậu với anh ta và nói, ‘Ta không phải là Chúa, ta chỉ là một người mang nhiệm vụ giúp cho những ai vừa mới ra khỏi một kiếp sống trên Trái đất tới đây, giai đoạn trung gian, và ta sẵn sàng giúp cho con khi nào con đã sẵn sàng để nhận sự giúp đỡ này.’
Algernon đứng dậy, lần này anh ta không gặp chút khó khăn nào và nói, ‘Con đã sẵn sàng để nhận sự giúp đỡ đó của ngài. Nhưng hãy cho con biết, có phải ngài đã đi đến Eton, có phải ngài đã ở Balliol?’
Người đó mỉm cười và nói, ‘Hãy gọi ta là Người Anh Em, và sau này chúng ta sẽ trả lời câu hỏi đó của con. Bây giờ trước hết con phải đi vào thế giới của mình đã.’
Algernon’s eyelids fluttered and weakly he murmured, ‘I believe, oh Lord, I believe. Forgive me my sins, forgive me the trespasses which I have committed.‘
The man with him smiled benignly upon him, and said, ‘I am not the Lord, I am just one whose task it is to help those who come from the Earth life to this, the intermediate stage, and I am ready to help you when you are ready to receive the proffered help.‘
Algernon rose to his feet, this time without difficulty, and said, ‘I am ready to receive such help as you can give me. But, tell me, did you go to Eton, were you at Balliol?‘
The figure smiled and said, ‘Just call me friend, and we will deal with your questions later. First you have to enter into our world.‘
Người đó quay lưng lại và vẩy tay trong một động tác như thể người đó đang vẽ một tấm rèm, và kết quả đúng là như vậy. Những đám mây của bóng tối tiêu tan, bóng tối biến mất, và Algernon thấy mình đang đứng trên một thảm cỏ xanh rì. Không khí xung quanh anh ta rung lên cùng với sự sống và tràn đầy năng lượng. Không biết từ ở đâu xuất hiện một ấn tượng – không phải tiếng động, mà là một ấn tượng âm nhạc, ‘âm nhạc trong không khí’ anh ta có thể miêu tả như vậy, và anh ta thấy nó đặc biệt nhẹ nhàng.
He turned and waved his hands in a sweeping motion, as if he were drawing curtains, in fact, and indeed the result was the same. The clouds of darkness dissipated, the shadows vanished, and Algernon found that he was standing on the greenest of green grass. The air about him was vibrant with life, pulsating with energy. From unknown sources there came impressions – not sounds, but impressions of music, ‘music in the air‘ he would have described it, and he found it remarkably soothing.
Mọi người đang đi lại giống như người ta đi lại trong công viên. Nó đưa đến cho anh ta một ấn tượng ban đầu là anh ta đang đi dạo trong công viên Green Park hoặc là Hyde Park. Các đôi tình nhân đang ngồi trên ghế, mọi người đi lại, và rồi một lần nữa Algernon lại bị một cú hoảng sợ khi thấy một vài người trong số họ đang di chuyển cách mặt đất vài phân. Một người đang chạy ở độ cao chắc chắn là phải ba mét cách mặt đất và đang bị một người khác đuổi theo, họ cười đùa với nhau một cách hạnh phúc. Algernon cảm thấy hơi lạnh ở sống lưng và anh ta rùng mình, nhưng Người Anh Em của anh ta nhẹ nhàng cầm lấy cánh tay anh ta và nói, ‘Đi nào, chúng ta hãy ngồi đây bởi vì ta muốn nói với con một chút về thế giới này trước khi chúng ta tiến xa hơn, nếu không những điều con sẽ thấy tiếp theo thực tế có thể sẽ cản trở sự hồi phục của con.’
People were walking about just as people would walk about in a public park. It gave him, at first glance, an impression that he could have been walking about in Green Park or Hyde Park, London, but a very specially beautified Green Park or Hyde Park. Couples were sitting on seats, people were walking about, and then once again Algernon had a terrific impulse of fear because some people were moving along inches above the ground! One person was absolutely racing across the countryside at about ten feet above the ground, and was being chased by another person, and there were joyful shouts of happiness coming from both of them. Algernon felt a sudden chill along his spine and he shuddered, but his Friend gently took him by the arm and said, ‘Come, let us sit over here because I want to tell you a little of this world before we go any further otherwise the sights that you will see beyond might indeed impede your recovery.‘
‘Phục hồi,’ Algernon nói. ‘Con không đang phục hồi từ chuyện gì cả, con hoàn toàn khỏe mạnh và bình thường.’ Người Anh Em của anh ta cười dịu dàng và nói, ‘Đi nào, chúng ta hãy ngồi xuống đây, ở chỗ mà chúng ta có thể ngắm bầy thiên nga và những con vịt nước, và chúng ta có thể cho con một cái nhìn sâu sắc về thế giới mới mà con đang thấy trước mắt.’
Một cách hơi miễn cưỡng, và vẫn còn xù lông vì tức giận với ý nghĩ là anh ta ‘bị ốm’, Algernon vẫn đi theo Người Anh Em của anh ta đến chiếc ghế gần đó. Họ ngồi xuống và người đó nói, ‘Hãy ngồi thật thoải mái, ta có nhiều thứ để kể cho con bởi vì bây giờ con đã ở bên trên thế giới kia, bây giờ con đã ở một thể khác của sự tồn tại, và con càng chú ý đến điều ta nói bao nhiêu thì con sẽ càng tiến bộ trong thế giới này bấy nhiêu.’
‘Recovery,‘ said Algernon. ‘Recovery indeed! I am not recovering from anything, I am perfectly healthy, perfectly normal.‘ His Friend smiled gently and said, ‘Come, let us sit over here where we can watch the swans and the other water fowl, and we can give you an insight into the new life which is before you.‘
Somewhat reluctantly, and still bristling with anger at the thought that he was ‘ill‘, Algernon permitted himself to be led to a nearby seat. They sat down and the Friend said, ‘Rest comfortably, I have much to tell you because now you are upon another world, you are now in another plane of existence, and the more attention you pay to me the more easily will you progress through this world.‘
Algernon rất ấn tượng với cái ghế ngồi của công viên, nó rất thoải mái, giống như là vừa khít với người, hoàn toàn không giống với những cái công viên mà anh ta từng biết đến ở Luân Đôn, nơi mà một người không may có thể đạp phải một mảnh sắc khi đi lang thang trong công viên.
Trước mặt họ, mặt nước ánh lên màu xanh và trên đó những con thiên nga trắng muốt đang bơi một cách uy nghiêm. Không khí ấm áp và sống động. Rồi một ý nghĩ đột ngột thoáng qua đầu Algernon, một ý nghĩ quá đột ngột và quá choáng váng đến nỗi anh ta gần như nhảy lên khỏi ghế; không có cái bóng nào! Anh ta nhìn lên và nhận ra cũng không có mặt trời. Cả bầu trời đang phát sáng.
Algernon was highly impressed that the park seat was so comfortable, it seemed to be form-fitting, quite unlike the parks he had known in London where, if one was unfortunate, one could obtain a splinter if one shuffled about on the seat.
Before them the water shone blue and on it dazzling white swans glided majestically. The air was warm and vibrant. Then a sudden thought struck Algernon, a thought so sudden and so shocking that he almost jumped from the seat; there were no shadows! He looked up and found there was no sun either. The whole sky was glowing.
Người Anh Em nói, ‘Bây giờ chúng ta nên nói về mọi thứ vì ta cần phải dạy cho con về thế giới này trước khi con đến Nhà nghỉ dưỡng.’ Algernon nói chen vào, ‘Con hoàn toàn kinh ngạc về việc ngài mặc một chiếc áo choàng màu vàng. Ngài có phải là thành viên của một giáo phái hay một tổ chức, hay là một Hội tôn giáo nào đó không?’
‘Ôi chúa lòng lành, con có một tâm trí thật bất thường! Màu của chiếc áo ta mặc thì có nghĩa lý gì? Cả việc ta đang mặc một chiếc ao choàng thì có nghĩa lý gì? Ta mặc một chiếc áo choàng vì ta muốn mặc một chiếc áo choàng, bởi vì ta thấy nó phù hợp với mình, bởi vì nó là trang phục cho nhiệm vụ ta làm.’ Người đó mỉm cười và chỉ vào trang phục của Algernon. ‘Con mặc một bộ đồng phục với cái quần màu xanh lục thẫm, cái áo màu đỏ tươi, và một cái mũ hộp kì dị trên đầu. Con đeo một cái thắt lưng màu trắng quanh hông. Thế vì sao con lại mặc theo một cách đặc biệt như vậy? Sẽ không có ai ở đây phê bình con vì cái cách con ăn mặc. Tương tự như vậy ta mặc theo cái cách hợp với ta, và bởi vì đây là đồng phục của ta. Nhưng – chúng ta đang lãng phí thời gian.’
The Friend said, ‘Now we should talk about things because I have to teach you about this world before you enter the Rest Home.‘ Algernon broke in, ‘I am absolutely amazed that you should be wearing a yellow robe. Are you the member of some cult or society, or of some religious Order?‘
‘Oh good gracious me, what an extraordinary attitude of mind you have! What does it matter the colour of my robe? What does it matter that I wear a robe? I wear a robe because I want to wear a robe, because I find it suitable for me, because it is a uniform for the task I do.‘ He smiled and pointed at Algernon’s attire. ‘You wear a uniform, dark blue trousers, bright red jacket, and a peculiar pill box hat upon your head. You wear a white belt around your waist. Well, why are you dressed in such a remarkable fashion? You dress as you want to dress. No one here will take you to task for the way you dress. Similarly I dress in the style which suits me and because it is my uniform. But – we are wasting time.‘
Algernon cảm thấy như mình đang bị uốn nắn, rồi nhìn quanh anh ta thấy một vài người mặc áo choàng màu vàng khác đang nói chuyện với những người đàn ông và phụ nữ mặc trên người những bộ trang phục ngoại quốc. Người đồng hành cùa anh tiếp tục nói : ‘Ta phải nói với con,’ người đồng hành của anh nói, ‘rằng trên Trái đất con đã bị dẫn dắt một cách sai lầm nghiêm trọng về bản chất của kiếp sồng và đời sống sau này’. Những người đứng đầu các tôn giáo giống như một nhóm người tụ họp nhau lại, hay là một nhóm những người làm công việc quảng cáo, mỗi người tự quảng cáo về hàng hóa của mình, và mỗi người trong số họ hoàn toàn quên đi bản chất của kiếp sống và đời sống sau này’. Người đó dừng lại, nhìn quanh và tiếp tục nói, ‘Hãy nhìn vào những người ở đây, liệu con có thể nói được ai là người theo đạo Thiên Chúa, đạo Do Thái, đạo Phật hay đạo Hồi? Tất cả họ đều trông giống nhau, phải không? Và thực tế, tất cả mọi người mà con thấy trong công viên này trừ những người mặc áo choàng vàng đều có một điểm chung; họ đều là những người đã tự sát.’
Algernon felt definitely chastened by it, and as he looked about he could see certain other yellow-robed persons in conversation with men and women who wore quite outlandish attire. But his companion was speaking: ‘I must tell you,‘ said his companion, ‘that upon Earth you are gravely misinformed about the truth of life and about the truth of life hereafter. Your religious leaders are like a gang of people who have got together, or like a gang of advertisers, each advertising his own wares and every one of them completely oblivious to the truth of life and after life‘: He paused and looked about, and then continued, ‘Look at all these people here, can you tell who is a Christian, who a Jew, a Buddhist or a Moslem? They all look the same, don’t they? And, in fact, all these people that you see in this park except those with yellow robes have one thing in common; they have all committed suicide.‘
Algernon lùi lại vì choáng váng – tất cả đều tự sát. Rồi anh ta nghĩ, có thể anh ta đang ở trong một cái Trại dành cho những người bị mất trí, và có thể người đàn ông trong chiếc áo choàng vàng là một Quản giáo. Anh ta nghĩ về tất cả mọi chuyện kì lạ đã xảy đến với anh ta, áp đặt lên sự nhẹ dạ của anh ta.
‘Con phải biết rằng tự sát là một tội rất, rất nặng. Không một ai nên tự sát. Không có bất kì lí do nào cho việc tự sát, và nếu như con người biết được họ sẽ phải trải qua những gì sau khi tự sát, họ có thể sẽ sáng suốt hơn.’ người đồng hành nói, ‘Đây là một trung tâm đón tiếp nới những người đã tự sát được phục hồi, nhận được lời khuyên, và trở lại Trái đất trong một thân xác khác. Trước hết ta sẽ nói cho con biết về kiếp sống trên Trái đất và trong cảnh giới này của sự sống.’
Algernon recoiled in shock – all committed suicide- Then, he thought, possibly he was in a Home for the insane and perhaps the man in the yellow robe was a Keeper. He thought of all the strange things that had happened to him and which imposed a strain upon his credulity.
‘You must be aware that to commit suicide is a very, very grave crime. No one should commit suicide. There are no reasons whatever for suicide, and if people knew what they have to endure after suicide they would have more sense. This,‘ the companion said, ‘is a reception centre where those who have committed ‘felo de se’ are rehabilitated, counselled, and returned to Earth in another body. I am going to tell you first about life on Earth and in this plane of existence.‘
Họ ngồi một cách thoải mái hơn trên ghế, và Algernon nhìn những con thiên nga đang lướt nhẹ trên mặt nước. Anh ta để ý thấy có rất nhiều chim trên cây, cả sóc nữa, và anh ta cũng chú ý quan sát những người mặc áo choàng vàng đang nói chuyện với những người mà họ đảm nhận.
They settled themselves more comfortably on the seat, and Algernon watched the swans idly gliding about on the pond. He noted there were many birds in the trees, squirrels too, and he also observed with interest that other yellow robed men and women were talking to their charges.
‘Trái đất là một trường học nơi mà con người học được qua khó khăn chứ không phải qua lòng tốt. Con người đi đến Trái đất giống như con người trên Trái đất đi đến trường. Và trước khi đi xuống Trái đất để nhận lấy một thân xác, người ta nhận được lời khuyên về thân xác và điều kiện thích hợp nhất để họ có thể học được những điều cần học, hay chính xác hơn, vì học nó nên họ xuống Trái đất, bởi vì, tất nhiên, họ đã được khuyên nhủ trước khi đi. Con sẽ tự trải nghiệm điều đó, nên giờ hãy để ta nói với con về cảnh giới này. Ở đây chúng ta ở trong thể được biết đến là thể hạ giới. Những người ở đây chỉ bao gồm những người đã tự sát bởi vì, như ta đã nói, tự sát là một tội lỗi và những người tự sát là những người thần kinh không ổn định. Trong trường hợp của con, con tự sát vì con không có khả năng trở thành một người cha, vì con đã mất đi một phần cơ thể của mình, nhưng đó chính là một điều kiện để mà con xuống Trái đất để chịu đựng và để học vượt qua. Ta đang nói với con một cách nghiêm túc rằng trước khi con xuống Trái đất, con đã sắp xếp việc con sẽ bị mất đi một phần cơ thể, vì vậy điều đó có nghĩa là con đã không vượt qua được bài kiểm tra, có nghĩa là con sẽ phải bắt đầu lại từ đầu và trải qua tất cả những đau đớn đó một lần nữa, có thể là hơn một lần nếu con tiếp tục thất bại.’
‘Earth is a school of learning where people go to learn through hardship when they will not learn through kindness. People go to Earth as people on Earth go to school, and before going down to the Earth the entities who are going to take over an Earth body are advised on the best type of body and the best conditions to enable them to learn that which they have gone to learn, or to be more precise, to learn that for which they are actually going to Earth because, of course, they are advised before departing. You will experience this yourself, so let me tell you about this particular plane. Here we have what is known as the lower astral. Its transient population is made up exclusively of suicides because, as I said, suicide is a crime and those who commit suicide are mentally unstable. In your own case you committed suicide because you were unable to become a father, because you had been mutilated, but that is a condition which you went to Earth to endure and to learn to surmount. I say to you very seriously that before you did go to Earth you arranged that you would be mutilated, and so it means that you have failed your test, it means that you have to start again and go through all that suffering once more, or more than once if you fail another time.‘
Algernon cảm thấy vô cùng buồn rầu. Anh ta đã nghĩ rằng mình đã làm một việc quí tộc khi kết thúc cái anh ta nghĩ là một cuộc sống vô ích. Bây giờ thì người ta nói với anh rằng tự sát là một tội lỗi và anh ta sẽ phải chuộc lại tội lỗi đó. Người đồng hành của anh tiếp tục nói – ‘Thể hạ giới rất gần với thể trên Trái đất. Nó gấn đến mức một người có thể đạt được mà không nhất thiết phải quay trở lại Trái đất. Ở đây chúng ta sẽ để con trong một Nhà nghĩ dưỡng để điều trị. Đó là một cố gắng để ổn định lại trạng thái tinh thần con, để giúp con mạnh mẽ lên cho việc con quay trở lại Trái đất khi nào điều kiện thích hợp. Ở đây trong thể hạ giới này con có thể đi dạo nếu con muốn, hoặc có thể bay trong không khí bằng cách chỉ cần nghĩ đến việc đó. Tương tự, nếu con đi đến kết luận là bộ trang phục của con thật là lố bịch, mà thực tế là nó như vậy, thì con có thể thay đổi trang phục chỉ bằng việc nghĩ đến cái mà con thích mặc.’
Algernon felt decidedly gloomy. He had thought that he was doing the noble thing in terminating what he imagined to be a useless life, and now he was told he had committed a crime and would have to atone for it. But his companion was speaking –
‘This, the lower astral, is very close to the Earth-plane. It is about as low as one can get without actually returning to the Earth. Here we shall place you in a Rest Home for treatment. It will be an attempt to stabilise your mental state, it will be an attempt to strengthen you for your quite definite return to Earth as soon as conditions are suitable. But here on this astral plane you can walk about if you want to, or if you so desire you can fly through the air by merely thinking of it. Similarly if you come to the conclusion that your attire is absurd, as indeed it is, then you can change that dress merely by thinking of what you would like to wear.‘
Algernon nghĩ về một bộ trang phục rất đẹp mà anh ta đã từng nhìn thấy ở một xứ nóng. Hình như là nó màu trắng, rất nhẹ và được cắt may một cách khéo léo. Bất chợt có một tiếng sột xoạt, anh ta nhìn xuống một cách cảnh giác khi bộ đồng phục của anh ta biến mất, để lại anh ta trần truồng. Anh ta nhảy dựng lên và lấy tay che chỗ kín, nhưng ngay lập tức một bộ trang phục khác xuất hiện trên người anh ta, bộ trang phục mà anh ta đã tưởng tượng ra. Ngượng ngùng, đỏ mặt, anh ta lại ngồi xuống.
‘Ở đây con sẽ thấy là con không cần đến thức ăn, nhưng nếu con cảm thấy thèm ăn thì con có thể có thức ăn, bất cứ thức ăn nào con muốn. Con chỉ cần nghĩ đến nó và nó sẽ được tạo ra từ dinh dưỡng trong không khí. Chẳng hạn, hãy nghĩ về món ăn yêu thích của con.’
Algernon thought of a very nice suit which he had once seen in a hot clime. It seemed to be off-white, lightweight and smartly cut. There was a sudden rustle and he looked down in alarm as his uniform vanished from him leaving him naked. With a shout of alarm he jumped to his feet clasping his hands over a strategic area, but no sooner was he on his feet than he found that other clothing adorned him, the clothing of his imagination. Sheepishly, blushing profusely he sat down again.
‘Here you will find that you need no food although if you have gluttonous impulses you can have food, any food you wish. You merely think about it and it is materialised out of the nourishment in the atmosphere. Think, for instance, of your favourite dish.‘
Algernon cân nhắc trong một hay hai thoáng, rồi anh ta nghĩ về món thịt bò nướng, khoai tây nướng. Bánh pudding kiểu Yorkshire, cà rốt, củ cải, bắp cải, một ly rượu táo lớn và một điếu xì gà để kết thúc bữa ăn. Khi anh ta nghĩ về những thứ đó một hình khối lờ mờ xuất hiện trước mặt anh ta, hình khối đó dần cô đặc lại và biến thành một cái bàn trải khăn trắng muốt. Rồi những bàn tay và cánh tay xuất hiện, đĩa được đặt ra trước mặt anh ta, những cái khay bằng bạc, bình pha lê, rồi những cái nắp từng cái từng cái một được nhấc lên khỏi khay và Algernon nhìn thấy – và ngửi thấy – trước mặt anh ta những thức ăn mà anh ta đã chọn. Người đồng hành của anh ta vẫy tay, và tất cả thức ăn và cái bàn biến mất.
Algernon pondered for a moment or two, then he thought of roast beef, roast potatoes, Yorkshire pudding, carrots, turnips, cabbage, a very large glass of cider, and a big cigar with which to end the repast. As he thought about it a vague shape appeared in front of him, solidified and hardened into a table covered with a dazzling white table cloth. Then hands and forearms appeared and dishes were placed before him, silver tureens, crystal decanters, and one by one the lids were lifted from the tureens and Algernon saw before him – and smelled – the food of his choice. His companion just waved his hands, and all the food and table disappeared.
‘Những thứ màu mè đó thật sự không cần thiết, không có nhu cầu về những thức ăn loại thô đó bởi vì ở đây trên thể hạ giới này cơ thể hấp thụ thức ăn từ trong không khí. Như con có thể thấy, không có mặt trời trên bầu trời, nhưng cả bầu trời tỏa sáng và từ bầu trời mỗi người nhận được tất cả các dinh dưỡng cần thiết. Ở đây chúng ta không có người gầy, không có người béo, mà mọi người giống như cơ thể họ yêu cầu.’
Algernon nhìn quanh và thấy điều đó đúng không thể chối cãi được. Không có người béo, không có người gầy, không có người lùn, không có người khổng lồ, tất cả mọi người trông đều đặc biệt khỏe mạnh. Một vài người thơ thẩn đi ngang qua, trán nhăn lại tập trung suy nghĩ, có thể là về tương lai, lo lắng về quá khứ và hối hận về những hành động điên rồ.
‘There really is no need for such theatrical things, there is no need for this coarse type of food because here upon this astral plane the body absorbs food from the atmosphere. There is, as you see, no sun shining in the sky, but the whole sky is glittering and from the sky every person gets all the nourishment needed. Here we have no very thin people, no very fat people, but everyone is as the body demands.‘
Algernon looked about and found that that was undeniably correct. There were no fat people, there were no thin people, there were no dwarfs, there were no giants, everyone appeared to be remarkably well formed. Some of the people strolling by had deep furrows of concentration on their foreheads wondering, no doubt, about the future, worrying about the past, and regretting foolish actions.
Người bạn đồng hành đứng dậy và nói, ‘Bây giờ chúng ta phải đến Nhà nghỉ dưỡng Chúng ta sẽ tiếp tục cuộc nói chuyện trong lúc đi. Việc con đến đây có đôi chút vội vã, mặc dù chúng ta luôn được cảnh báo về việc tự sát, nhưng con đã nghĩ về việc đó trong một thời gian dài nên con – à – đã khiến chúng ta không hay biết khi con cắt nhát dao tuyệt vọng cuối cùng đó.
Algernon đứng dậy và miễn cưỡng đi theo người đồng hành của mình. Họ đi cùng nhau dọc theo con đường ven hồ, qua những nhóm nhỏ đang nói chuyện với nhau. Thỉnh thoàng, một đôi đứng lên và đi giống hệt như Algernon và người đồng hành của anh đã đứng lên và đi.
The companion rose to his feet and said, ‘Now we must go to the Home of Rest. We will continue our talk as we stroll along. Your arrival was somewhat precipitate and, although we are always alert for suicides, you had thought about it for so long that you – ah – took us rather unawares when you made that last desperate gash.‘
Algernon rose to his feet and reluctantly followed his companion. Together they strolled along the path flanking the pond, together they went by little groups of people engaged in conversation. Every so often one pair would rise to their feet and walk off just as Algernon and his companion had risen to their feet and walked off.
‘Ở đây con có những điều kiện dễ chịu, bởi vì ở giai đoạn này con phải được tân trang lại để chuẩn bị cho việc quay trở lại với những khó khăn và chịu đựng trên Trái đất, nhưng con hãy nhớ rằng kiếp sống trên Trái đất chỉ như là một cái nháy mắt trong cái gọi là Thời Gian Thực Sự, và khi con đã hoàn thành kiếp sống của mình trên Trái đất, hoàn thành nó một cách thành công, con sẽ không quay trở lại nơi này nữa mà đến một thể khác của các thể vía, thể đó phụ thuộc vào mức độ tiến bộ của con trên Trái đất. Giống như khi con đi học, nếu con chỉ vừa qua được kì thi thì con sẽ vẫn ở lại lớp cũ, những nếu con có một điểm số cao hơn trong kì thi thì con có thể được lên lớp, và nếu con đạt được cái chúng ta có thể gọi là thứ hạng danh dự, thì lúc đó con có thể được lên luôn hai lớp. Cùng một qui tắc như vậy áp dụng cho các thể vía. Con có thể bị xóa khỏi Trái đất bằng cái mà con gọi là ‘chết’ và được đưa tới một thể vía nhất định, hoặc nếu con làm thực sự tốt thì con có thể được đưa tới một thể vía cao hơn nữa, và tất nhiên, con càng lên cao thì điều kiện càng tốt hơn.’
‘Here you have comfortable conditions because in this stage of the proceedings you have to be, as it were, reconditioned for a return to the hardships and the sufferings of Earth, but remember that life upon Earth is just as the blink of an eyelid in what is actually the Real Time, and when you have completed your life upon Earth, completed it successfully, you will note, you do not return to this place again but you bypass it and go to another phase of the astral planes, a plane depending upon your progress on Earth. Consider going to school on Earth; if you just get through your examinations you may be retained in the same class, but if you make a more successful grade in the examinations then you can be promoted, and if you make what we might term a ‘cum laude’ then, indeed, you might be promoted even two grades. The same applies in the astral planes. You can be removed from the Earth at what you call “death” and taken to a certain astral plane, or if you do extremely well you can be taken to a much higher plane, and, of course, the higher you rise the better the conditions.‘
Sự thay đổi phong cảnh khiến Algernon bị sao lãng. Hai người rời khỏi khu vực hồ nước và chui qua một cái lỗ trên hàng rào. Trước mặt họ là một bãi cỏ xinh đẹp được giữ gìn cẩn thận, và ngồi trên ghế là những nhóm người đang lắng nghe một ai đó trước mặt họ giảng bài. Nhưng người đồng hành của Algernon không dừng lại, người đó tiếp tục đi và họ đi tới một ụ đất nơi họ leo lên đó và trước mặt họ là một tòa nhà đẹp nhất, không phải là màu trắng mà hơi nhuộm màu xanh lá cây, một màu rất thích hợp cho việc nghỉ ngơi, một màu chứa đựng sự tĩnh lặng và bình yên cho tâm hồn. Họ đi tới cửa và cánh cửa tự động mở ra trước mặt họ, và họ đi vào trong một cái sảnh tràn đầy ánh sáng.
Algernon was greatly diverted by the changing scenery. They left the area of the pond and passed through a gap in a hedge. Before them stretched a beautifully kept lawn and sitting in chairs were groups of people listening to someone standing before them and obviously lecturing. But the companion made no pause, he continued straight on and soon they came to a rise in the ground which they ascended, and before them there was a most beautiful building, not white but slightly green-tinted, a restful colour, a colour that engendered tranquillity and peace of mind. They arrived at a door which opened automatically in front of them, and they went into a well-lighted hall.
Algernon nhìn xung quanh với một sự thích thú lớn. Anh ta chưa bao giờ thấy một nơi nào đẹp như vậy, và anh ta, một trong những người thượng lưu trong xã hội Anh, nghĩ rằng anh ta khá là sành sỏi về vẻ đẹp của các tòa nhà. Có những cây cột cao vút và rất nhiều hành lang đi ra từ tiền sảnh dùng làm nơi đón tiếp. Ở giữa phòng là một cái bàn tròn nơi có một vài người đang ngồi. Người đồng hành của Algernon đi thẳng tới đó và nói, ‘Đây là người bạn của chúng ta, Algernon St. Clair de Bonkers. Các vị đang đợi anh ta và tôi nghĩ là các vị đã dành một phòng cho anh ta.’
Algernon looked about him with vast interest. He had never seen such a beautiful place, and he, one of the upper crust of English society, thought he was rather a connoisseur of the beauty of buildings. There seemed to be soaring columns and many corridors leading off this main reception vestibule. In the centre of the space there seemed to be around desk at which a number of people were sitting. The companion with Algernon went forward and said, ‘This is our friend, Algernon St. Clair de Bonkers. You were expecting him and I believe you have assigned a room to him.‘
Một người phụ nữ trẻ sau khi lật qua mấy tờ giấy nói, ‘Vâng, thưa ngài, đúng vậy. Chúng tôi sẽ đưa anh ta đi xem phòng của mình.’ Ngay lập tức một người đàn ông trẻ đứng dậy và đi về phía họ. ‘Tôi sẽ đưa anh về phòng, xin hãy đi theo tôi’ anh ta nói. Người đồng hành của Algernon hơi cúi đầu để chào anh ta rồi quay lưng và rời khỏi tòa nhà. Algernon đi theo người dẫn đường mới của mình dọc theo một hành lang được trải thảm mềm và đi vào một căn phòng rất rộng, trong phòng có một chiếc giường, một cái bàn và thông với hai phòng khác nhỏ hơn.
There was a quick riffling of papers and a young woman said, ‘Yes, that is correct, sir, I will have him shown to his room.‘ Immediately a young man got up and walked towards them. ‘I will take you to your room, please follow me,‘ he said. The companion bowed briefly in Algernon’s direction, turned and left the building. Algernon followed his new guide along a softly carpeted corridor and then turned into a very spacious room, a room which contained a bed, table and had two other smaller rooms adjoining.
‘Bây giờ, thưa ngài, xin ngài hãy nằm lên giường, đội y tế sẽ tới đây và khám cho ngài. Ngài sẽ không được phép rời khỏi căn phòng này cho đến khi bác sĩ cho phép ngài làm như vậy.’ Anh ta mỉm cười và rời khỏi căn phòng. Algernon nhìn xung quanh mình và đi vào hai phòng bên cạnh. Một phòng dường như là phòng khách với một cái sa lông tiện nghi cùng với mấy chiếc ghế, và phòng còn lại – đó chỉ là một căn phòng nhỏ với một cái sàn cứng, một cái ghế và không có gì hơn. Algernon đột nhiên nghĩ, ‘Ồ, có vẻ như là ở đây không có toilet.’ Và rồi anh ta nghĩ tại sao lại cần có toilet – anh ta hoàn toàn không cảm thấy có một nhu cầu sử dụng toilet nào, và có thể là ở nơi này người ta không làm việc đó!
‘Now, sir, you will kindly get into bed and a medical team will come and examine you. You are not permitted to leave this room until the doctor assigned to you so permits.‘ He smiled and left the room. Algernon looked about him, and then went into the other two rooms. One seemed to be a living room with a comfortable couch and chairs, and the other – well – it was a very bare little room with a hard floor and a hard chair, and nothing more. Algernon suddenly thought, ‘Oh, apparently there are no toilet facilities here.‘ And then the thought occurred to him why should there be toilet facilities – he certainly had not felt any urge to use such facilities and perhaps they did not do such things in this place!
Algernon đứng cạnh giường và băn khoăn không biết nên làm gì. Anh ta có nên trốn thoát khỏi nơi này không? Anh ta đi đến cái cửa sổ kiểu Pháp và nhận thấy nó có thể mở ra được, nhưng khi anh ta cố gắng để chui ra ngoài thì có một thanh chắn vô hình chặn anh ta lại. Hoảng loạn, anh ta quay trở lại giường và bắt đầu cởi quần áo ra. Rồi anh ta nghĩ, ‘Mình sẽ làm thế nào đây khi không có đồ ngủ?’. Khi anh ta nghĩ tới chuyện đó, anh ta nghe thấy và cảm thấy một sự xột xoạt, anh ta nhìn xuống và thấy là mình đã ở trong một cái áo ngủ dài màu trắng phù hợp với khi anh ta còn ở trên Trái đất. Anh ta nhíu mày trong sự ngạc nhiên đáng kể, và rồi chậm rãi, cẩn thận, anh ta nằm lên giường. Một vài phút sau có một tiếng gõ cửa khẽ khàng. Algernon nói ‘Mời vào’, và ba người đi vào, hai người đàn ông và một người phụ nữ. Họ tự giới thiệu là thành viên của nhóm phục hồi được cử đến cho anh. Họ ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc của Algernon, họ không dùng tới ống nghe hay sounding sticks, cũng không nghe nhịp tim. Thay vào đó họ chỉ nhìn anh ta và một người bắt đầu nói:
Algernon stood beside the bed and wondered what to do. Should he try to escape from the place? He went to the French windows and found that they would open freely, but when he tried to move out – no – there was some invisible barrier preventing him. Incipient panic departed from him and he moved back to the bed and started to remove his clothing. Then he thought, ‘What shall I do without night attire?‘ As he thought that he heard and felt again that rustling, and looking down he found that he was dressed in a long white nightgown suitable to the period of his sojourn upon Earth. He raised his eyebrows in considerable astonishment, and then slowly, thoughtfully, got into bed. Minutes later there was a discreet knock at the door. Algernon called ‘Come in‘, and three people did so, two men and a woman. They introduced themselves as members of a rehabilitation team assigned to him. They sat down, and to Algernon’s astonishment no stethoscope or sounding sticks were used, no pulse was felt. Instead they just looked at him and one started to talk:
‘Anh ở đây bởi vì anh đã phạm phải một tội nghiêm trọng là tự sát, theo đó toàn bộ kiếp sống của anh trên Trái đất đã bị lãng phí, và vì vậy anh sẽ phải bắt đầu lại và trải qua những kinh nghiệm mới với hy vọng rằng lần sau anh sẽ thành công mà không phạm phải tội tự sát một lần nữa.’ Người đàn ông tiếp tục nói, rằng Algernon sẽ được chiếu một tia sáng mềm đặc biệt với hy vọng rằng sức khỏe của anh sẽ nhanh chóng hồi phục. Người đó nói với Algernon rằng anh ta cần phải quay lại Trái đất càng nhanh càng tốt. Anh ta càng quay lại Trái đất sớm bao nhiêu thì điều đó càng dễ dàng hơn cho anh ta bấy nhiêu.’
‘Nhưng làm sao tôi có thể quay lại Trái đất?’ Algernon thốt lên. ‘Tôi đã chết, hoặc ít nhất là thể xác của tôi đã chết, vậy anh nghĩ làm sao mà anh có thể đặt tôi lại vào đó?’
‘You are here because you have committed the grave crime of suicide whereby the whole of your life upon Earth has been wasted, and so you will have to start again and undergo fresh experiences in the hope that this next time you will succeed without committing the crime of suicide.‘ The man went on to say that Algernon would be subjected to special soothing rays in the hope that his health would speedily improve. He was told that it was necessary for him to return to Earth as quickly as possible. The sooner he returned to Earth the easier it would be for him.
‘But how can I return to Earth?‘ exclaimed Algernon. ‘I am dead, or at least my physical body is dead, so how do you think you can put me back in it?‘
Người phụ nữ trẻ trả lời, ‘Đúng vậy, nhưng anh đang có những quan niệm sai lầm nghiêm trọng bởi những điều hoàn toàn kinh khủng người ta dạy anh trên Trái đất. Thể xác chỉ đơn thuần là một bộ quần áo mà linh hồn mặc vào để có thể thực hiện một vài nhiệm vụ đặc biệt thấp, để những bài học về gian khổ có thể được học, bởi vì bản thân linh hồn không thể trải nghiệm được những rung động thấp đó, vì thế linh hồn cần phải mặc bộ quần áo cho phép linh hồn có thể trải nghiệm được. Anh sẽ đi đến Trái đất và được sinh ra bởi một cặp cha mẹ sẽ được lựa chọn cho anh. Anh sẽ được sinh ra trong những điều kiện sẽ cho phép anh tranh thủ được tốt nhất ích lợi của kinh nghiệm trên Trái đất. Và,’ người đó nói, ‘hãy nhớ là ích lợi mà chúng ta nói đến không nhất thiết là tiền bạc, bởi vì một số người tâm linh trên Trái đất là những người nghèo, trong khi những người giàu có thì lại độc ác. Nó phụ thuộc vào những việc mà một người phải làm. Trong trường hợp của anh, anh đã được nuôi dưỡng trong sự giàu sang, tiện nghi và nó đã làm anh thất bại. Vì vậy lần này anh nên có những điều kiện thiếu thốn hơn.’
The young woman answered, ‘Yes, but you are under grave misconceptions because of the perfectly appalling stuff you have been taught upon the Earth. The physical body is merely a garment which the spirit dons in order that specially low tasks may be accomplished, in order that certain hard lessons may be learned because the spirit itself cannot experience such low vibrations and so has to take on garb which permits it to experience things. You will go to Earth and be born to parents who will be chosen for you. You will be born in conditions which will enable you to most profit by your Earth experience, and,‘ she said, ‘remember that what we imply by profiting does not necessarily mean money because some of the more spiritual people on Earth are poor, while the wealthy are wicked. It depends on what one has to do, and it is thought that in your case you have been brought up to such wealth and comfort and it failed you that this time you should have poorer conditions.‘
Họ tiếp tục nói chuyện thêm một lúc nữa, và Algernon dần dần hiểu được những điều kiện khác nhau từ những thứ mà anh ta đã được dẫn dắt để tin tưởng. Chẳng mấy chốc anh ta có thể nhận ra rằng Thiên chúa giáo chỉ là một cái tên, Do thái giáo chỉ là một cái tên, cũng như những cái tên Phật giáo, Hồi giáo và những tín ngưỡng khác, và thật sự chỉ có duy nhất một tôn giáo, một tôn giáo mà anh ta vẫn chưa hiểu hết.
Ba người đi khỏi, và trong phòng ánh sáng tối dần. Như thể là màn đêm đã buông xuống trên Algernon. Anh ta nằm nghỉ một cách thoải mái, anh ta không còn nhận thức nữa, và anh ta ngủ, ngủ trong bao lâu anh ta không biết, có thể là vài phút, vài giờ hoặc vài ngày. Nhưng Algernon ngủ, và khi anh ta ngủ linh hồn anh ta sống lại và sức khỏe tràn vào trong anh ta.
They talked for some time, and Algernon gradually got a grasp of the very different conditions from those which he had been led to believe. Soon he could realise that Christianity was just a name, Judaism was just a name, as were the names of Buddhism, the Moslem, the Islamic and other beliefs, and really there was only one religion, a religion which as yet he could not comprehend.
The three people departed, and within the room the light faded. It was as though night had closed in on Algernon. He rested comfortably, he lost consciousness, and slept, and slept, and slept for he did not know how long, it may have been minutes, it may have been hours, it may have been days. But Algernon slept, and as he did so his spirit was revived and health flowed into him.
Dịch giả: Cộng đồng thiền Việt Nam
Biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam