Algernon thức dậy vào buổi sáng trong ánh nắng mặt trời rực rỡ và tiếng chim hót trên cây – ánh nắng mặt trời rực rỡ? Algernon giật mình nhớ ra rằng đây không phải là ánh nắng mặt trời. Ở đây không có mặt trời, không khí bản thân nó đang sống. Anh ta đẩy khăn phủ giường sang một bên, đu chân xuống đất và đi về phía cửa sổ. Bên ngoài mọi thứ tươi sáng và vui vẻ giống như ngày hôm qua – có phải đó là ngày hôm qua? Algernon hoàn toàn bị mất phương hướng, không biết liệu ở đây có ngày và đêm không, dường như không có dấu tích gì của việc thời gian trôi đi. Anh ta quay trở lại giường, nằm xuống trên cái khăn phủ giường, tay gối đầu trong lúc suy nghĩ về tất cả những việc đã xảy ra.
ALGERNON awakened in the morning to bright sunshine and the sounds of birds singing in the branches of trees – bright sunshine? Algernon remembered with a start that this was not sunshine. Here there was no sun, the air itself was alive. He pushed aside the coverlet and swung his feet out on to the floor, and walked to the window. Outside everything was as bright and as cheerful as it had been yesterday – WAS it yesterday? Algernon was completely disoriented, he did not know if there were days or nights, there seemed to be no record of the passing of time. He went back to his bed and lay down upon the coverlet with his hands at the back of his head while he thought of all that had happened.
Lại một tiếng gõ khẽ khàng lên cửa, và khi Algernon cho phép thì một người đàn ông bước vào, một người ăn mặc rất nghiêm túc, một người dường như biết rất rõ về nhiệm vụ của mình. ‘Tôi đến để nói chuyện với anh,’ ông ta nói, ‘bởi chúng tôi lo ngại rằng anh đang rất hoài nghi về tính chân thực của những điều anh đang trải nghiệm.’
Algernon đặt hai tay cạnh người và với khóa huấn luyện quân sự mà anh đã trải qua, anh gần như ‘chú ý cao độ’ như thể anh đang ở trong một bệnh viện quân y. ‘Mọi thứ mà tôi nhìn thấy, thưa ngài,’ anh ta nói, ‘mâu thuẫn với những giáo lý của nhà thờ Thiên chúa giáo. Tôi đã trông chờ một thiên thần sẽ đến gặp tôi, tôi đã trông chờ là họ sẽ chơi đàn hạc, tôi đã trông chờ được thấy Cổng Thiên Đàng và các thiên sứ, nhưng thay vào đó tôi thấy nơi này giống như công viên Green Park hay Hyde Park được tô điểm thêm, hay bất cứ công viên nào được chăm sóc cẩn thận. Tôi cũng có thể đã trải qua ảo giác ở công viên Richmond’ anh ta nói.
Again there came a discreet knock at the door, and at his bidding a man entered, a very serious looking man, one who appeared most thoroughly to know his duties. ‘I have come to talk to you,‘ he said, ‘because we fear that you are in grave doubt as to the reality of what you are experiencing.‘
Algernon put his hands by his side and with his military training he almost ‘lay to attention‘ as though he were in a military hospital. ‘Everything I have seen, sir,‘ he said, ‘contradicts the teachings of the Christian Church. I expected to be met by angels, I expected them to be playing harps, I expected to see Pearly Gates and cherubim, but instead I find that the place might well be a glorified Green Park or Hyde Park, or any well-kept park. I might also,‘ he said, ‘have been experiencing hallucinations in Richmond Park.‘
Vị bác sĩ mới đến cười và nói, ‘Anh không phải là một người Công giáo thật mạnh mẽ. Nếu anh, cứ cho là một người Công giáo La mã và anh thực sụ TIN vào tôn giáo của mình, vậy thì anh sẽ thấy các thiên thần khi anh đến đây, và anh sẽ nhìn thấy các thiên thần đó cho đến khi sự ngụy tạo trong bề ngoài của họ khiến anh nhận ra rằng họ chỉ là những bóng ma của trí tưởng tượng của anh. Ở đây chúng ta đang ở trong sự thật. Bởi vì anh là một người đàn ông đã có nhiều trải nghiệm về thế giới, bởi vì anh đã là một người lính và đã nhìn thấy sự sống cũng như cái chết, anh có thể nhìn thấy chúng tôi như chúng tôi thật sự là như vậy.’
Algernon nghĩ về một vài sự việc đã xảy ra trong quá khứ. ‘Cái chết,’ anh ta nói, ‘tôi tò mò nhất về vấn đề này bởi vì cái chết là một thứ rất kinh khủng trên Trái đất, mọi người đều sợ chết một cách tuyệt vọng. Và có một điều vẫn luôn khiến tôi thấy rất khoái trí, đó là một người càng sùng đạo bao nhiêu thì anh ta càng sợ chết bấy nhiêu.’ Anh ta mỉm cười, nắm chặt hai tay và tiếp tục. ‘Tôi có một người bạn rất được tôn kính, một người Công giáo nhiệt huyết nhất. Bất cứ khi nào anh ta nghe thấy có một người bị ốm và sắp chết, anh ta luôn nói rằng anh ta vui làm sao khi người đàn ông tội nghiệp đó đang khỏe ra và trong một trạng thái sức khỏe tốt! Nhưng hãy nói cho tôi biết, thưa ngài,’ Algernon nói, ‘Vì sao mặc dù có cuộc sống sau khi chết nhưng con người vẫn cứ sợ chết?’
The new doctor laughed and said, ‘Well, you are not a particularly strong Christian. If you had been, let us say, a Roman Catholic and you really BELIEVED in your religion then you would have seen angels when you came here, and you would have seen those angels until the falsity of their appearance made you instead realise that they were but phantoms of your imagination. Here we deal in reality. Because you are an experienced man of the world, because you have been a soldier and have seen death as well as life, you could see us as we really are.‘
Algernon thought of some of the scenes from his past. ‘Death,‘ he said, ‘I am most intrigued by this matter because death is such a thing of terror on Earth, people are desperately afraid to die. And a matter which has always amused me greatly is that the more religious a person, the more greatly they feel terror at even the thought of death.‘ He smiled and clasped his hands and continued. ‘I have a very revered friend, a most ardent Catholic, who, whenever he hears that a person is ill and near death will always say how glad he is that poor Mr. So-and-So is getting better and is in such good health! But tell me, sir,‘ said Algernon, ‘why is it that if there is life after death that people fear death?‘
Vị bác sĩ mỉm cười với anh ta một cách dò xét và nói, ‘Tôi đã nghĩ là một người có học vấn, kinh nghiệm và nhận thức như anh có thể nhận ra được câu trả lời. Tuy nhiên anh đã không nhận ra, vậy hãy để tôi giải thích; con người đi xuống Trái đất để hoàn thành một vài việc nhất định, để trải nghiệm một vài khó khăn nhất định, để cho linh hồn, hay tâm hồn, hay Chân ngã – gọi nó là cái gì anh muốn – có thể được tinh lọc và làm cho mạnh mẽ lên. Vì vậy nếu một người tự sát thì người đó đã phạm phải một tội lỗi là chống lại sự sắp xếp, chống lại kế hoạch. Và nếu như con người mà thấy được cái chết là tự nhiên như thế nào, và rằng nó là sự tái sinh vào một giai đoạn khác của sự tiến hóa, tất cả họ đều sẽ muốn được chết và toàn bộ mục đích của Trái đất cũng như các thế giới khác đều sẽ bị mất đi.’
Hiển nhiên đó là một ý nghĩ mới mẻ đối với Algernon mặc dù thực tế là nó logic. Nhưng anh ta vẫn chưa thỏa mãn; ‘vậy thì có phải con nên hiểu là việc sợ chết được gây ra một cách nhân tạo và hoàn toàn phi logic?’ anh ta hỏi.
The doctor smiled at him rather quizzically and said, ‘Well, I should have thought that a man of your education and experience and perceptions would have realised the answer. As obviously you have not, let me explain; people go to Earth to accomplish certain things, to learn certain things, to experience certain hardships that the spirit or soul or Overself – call it what you will – may be purified and strengthened thereby. So if a person commits suicide then it is a crime against the program, against the plan of things. And if people saw how natural death is and how it is just birth into another stage of evolution then they would be wanting to die all over the place and the whole purpose of Earth and other worlds would be lost.‘
Certainly this was a new thought to Algernon although, indeed, a logical one. But still he was not satisfied; ‘Then am I to understand that the fear of death is artificially induced and is wholly illogical?‘ he asked.
‘Đúng, chính là như vậy,’ vị bác sĩ nói. ‘Đó là một sự đề phòng trước của Tự nhiên rằng ai cũng sẽ sợ chết, ai cũng sẽ làm mọi thứ có thể để bảo toàn mạng sống, như vậy những trải nghiệm trên Trái đất sẽ có thể được duy trì và hoàn thành để đạt tới một kết cục logic và đã được xác định trước. Vì vậy nếu một người tự sát thì người đó đã làm cho mọi thứ đi chệch khỏi đường ray. Hãy lưu ý rằng,’ người đó nói, ‘khi mà đã đến lúc cái chết tự nhiên đến, thì bình thường ra sẽ không có sợ hãi, không có đau đớn, bởi vì những người ở một địa hạt khác của thể vía có thể nói khi nào một người đã đến lúc chết, hay như chúng tôi thích gọi theo cách khác, trải qua sự chuyển hóa, và khi lúc đó đến, một dạng gây mê được hình thành và thay vì nỗi thống khổ của cái chết là những ý nghĩ dễ chịu, ý nghĩ của sự siêu thoát, của việc đi về Nhà.’
Algernon phản bác lại. ‘Nhưng không thể nào,’ anh ta nói, ‘người chết thường hay co giật và rõ ràng là họ rất đau đớn.’
‘Yes indeed,‘ said the doctor. ‘It is a provision of Nature that everyone shall fear death, everyone shall do everything they can to preserve life so that the experiences on the Earth may be maintained and carried through to their logical and predetermined result. So if a person commits suicide then they are throwing everything out of gear. Mind you,‘ he said, ‘when the time for a natural death comes there is normally no fear, there is normally no pain because people in another realm of the astral can say when a person is due to die or, as we prefer, undergo transition, and as that time approaches a form of anaesthesia is generated and instead of the pangs of death there are pleasant thoughts, thoughts of release, thoughts of going Home.‘
Algernon started up in some indignation. ‘Oh, but that cannot be,‘ he said, ‘for people who are dying often twitch and thresh about and are obviously in very great pain indeed.‘
Vị bác sĩ lắc đầu một cách buồn rầu; ‘Không, không,’ ông ta nói, ‘Anh nhầm rồi. Khi một người chết đi thì không có đau đớn, mà là giải thoát khỏi đau đớn. Cơ thể có thể co giật, có thể gào lên, nhưng đó chỉ đơn thuần là những phản ứng tự động của hệ thần kinh bị kích thích. Nó hoàn toàn không có nghĩa là người đó đang chịu đau đớn. Người ngoài nhìn vào không thể phán xét về những điều đang diễn ra. Thể trí đang chuẩn bị trải qua sự chuyển hóa đã được tách ra khỏi thân xác chỉ đơn thuần động vật. Vì vậy – đợi đã!’ ông ta nói, ‘khi anh tự sát anh không cảm thấy đau đớn gì phải không?’ Algernon xoa cằm nghĩ ngợi, rồi anh trả lời một cách dè dặt, ‘Không, tôi cho là không. Tôi không thể nhớ là đã cảm thấy bất cứ điều gì ngoại trừ cảm giác cực kì lạnh, và rồi không gì nữa. Không thưa ngài, có lẽ là ngài đúng, giờ khi nghĩ về chuyện này, không, lúc đó tôi không hề cảm thấy đau mà tôi cảm thấy kinh ngạc.’
Vị bác sĩ cười, xoa hai tay và nói, ‘À, anh đã hiểu ra rồi đấy. Anh công nhận là anh đã không cảm thấy đau, tuy vậy anh đã thét lên như là một con lợn bị chọc tiết. Và, nhân tiện đây, trong trường hợp của con lợn bị chọc tiết thì không khí trong phổi nó nhanh chóng bị thoát ra ngoài và làm rung dây thanh quản khiến cho nó rít lên the thé. Anh cũng đã có một phản ứng tương tự, anh cũng đã rít lên một tiếng the thé bị ngắt bởi máu chảy ra ồ ạt từ vết cắt trên cuống họng. Cũng chính tiếng hét chói tai của cô hầu gái không may đã làm cô ta bị ngất xuống sàn.
The doctor shook his head sadly; ‘No, no,‘ he said, ‘you are in error. When the person is dying there is no pain, but release from pain. The body may twitch, the body may groan, but that is merely an automatic reaction from certain stimulated nerves. It does not at all mean that the person is enduring pain. The onlooker usually is no judge of what is going on. The conscious part which is about to undergo transition is divorced from the physical part which is the mere animal being. So – wait!‘ he said, ‘when you committed suicide you felt no pain, did you?‘ Algernon rubbed his chin deep in thought, and then he replied hesitantly, ‘Well, no, I suppose I did not. I cannot remember having felt anything except an extremely cold sensation and then nothing more. No sir, perhaps you are right, come to think of it, no, I did not feel any pain, I felt bemused, I felt wondering.‘
The doctor laughed and wrung his hands saying, ‘Ah, now I have you! You admit you felt no pain, and yet you were screaming like a stuck pig. And, by the way, with a stuck pig all you get is the air in the lungs being expelled rapidly and agitating the vocal chords so that one gets a high pitched squeal. There was the same sort of reaction with you, a long high pitched squeal interrupted by the bubbling of your blood as it emerged copiously from the slash in your throat. It was the high pitched squeal which brought the unfortunate serving maid into the bathroom.‘
Đúng thế, giờ đây mọi thứ đã có vẻ logic. Algernon bắt đầu nhìn ra rằng đây không phải là ảo tưởng mà là thực tế, và rồi anh ta nói, ‘Nhưng theo tôi được biết thì khi một người chết đi, người đó sẽ ngay lập tức được đưa tới trước Chúa để nhận sự phán xét. Anh ta sẽ ngay lập tức nhìn thấy Đức Jesus và có thể là Đức Mẹ đồng trinh và các môn đệ.’
Vị bác sĩ lắc đầu một cách buồn rầu, và trả lời, ‘Anh nói là anh nghĩ mình sẽ gặp Đức Jesus, thế nếu anh là người Do thái thì sao, nếu anh là người Hồi giáo thì sao, nếu anh là người theo đạo Phật thì sao, liệu anh có vẫn mong là sẽ gặp Đức Jesus? Anh có nghĩ là thiên đường cũng được chia ra làm nhiều quốc gia riêng biệt và người của tôn giáo nào thì sẽ đến quốc gia đó? Không, toàn bộ ý tưởng đó là lố bịch, vô lý và điên rồ, và những nhà thuyết giáo điên rồ trên Trái đất thực sự đã gây ô nhiễm loài người với những truyền thuyết kinh khủng của họ. Con người đến đây và người ta nghĩ là đang ở trong địa ngục. Không có địa ngục nào hết – ngoại trừ Trái đất!’
Algernon nhảy dựng. Anh ta cảm thấy cơ thể mình co rúm như thể đang đứng trên lửa. ‘Ôi, vậy có phải là tôi đang ở trên Thiên đàng?’ Anh ta hỏi.
Yes, it seemed logical enough now. Algernon was beginning to see that this was not hallucination but fact, and then he said, ‘But I understood that when a person died he would immediately be taken before God to be judged. He would immediately see Jesus and perhaps the Holy Mother and the disciples.‘
The doctor shook his head sadly, and replied, ‘But you say you thought you would see Jesus; supposing you had been a Jew, supposing you had been a Moslem, supposing you had been a Buddhist, would you still expect to see Jesus or do you think that in Heaven the place is divided up into separate countries where people of each religion go? No, the whole idea is absurd, nonsense, criminal folly, and foolish preachers on Earth really pollute the population with their horrendous legends. People come here and they think they are in hell. There IS no hell – except Earth!‘
Algernon really jumped. He felt his body twitch as though on fire. ‘Oh, then am I in Heaven?‘ he asked.
‘Không, thực tế là không,’ vị bác sĩ trả lời. ‘Không có nơi nào như vậy. Không có Thiên đàng, không có địa ngục, nhưng có tầng hối cải. Tầng hối cải là nơi mà anh thanh lọc tội lỗi của mình, và đó chính là những gì anh đang làm tại đây. Ở đây sắp tới anh sẽ được gặp một Ủy ban sẽ giúp cho anh quyết định anh sẽ làm gì khi quay trở lại Trái đất. Anh sẽ phải quay trở lại Trái đất để hoàn thành kế hoạch mà tự bản thân anh đã đề ra, và thật ra, đó là lí do vì sao tôi tới đây, để xem liệu anh đã sẵn sàng để trình diện trước Ủy ban.’
Algernon cảm thấy hơi lo sợ, anh ta cảm thấy lạnh nơi sống lưng. Nó nghe có vẻ còn tồi tệ hơn cả hội đồng y tế của quân đội trong đó các bác sĩ rà soát, chọc khắp người và hỏi những câu hỏi khiến người ta rất xấu hổ, những câu hỏi về phản ứng của người đó trước chuyện này, chuyện kia, về việc người đó thu xếp thế nào đời sống tình dục, rằng anh ta đã lập gia đình chưa, hay anh ta có bạn gái không? Không, Algernon không thể kêu gọi được một chút nhiệt tình nào cho việc đi trình diện trước một ủy ban về – gì nhỉ?
‘No, indeed not,‘ replied the doctor. ‘There is no such place. There is no Heaven, there is no hell, but there is purgatory. Purgatory is a place where you purge your sins and that is what you are doing here. Here you will shortly be met by a committee who will help you to decide what you are going to do when you return to Earth. You have to return to Earth to live out the plan which you yourself have made, and, actually, that is why I came here now, to see if you are ready to be presented before the committee.‘
Algernon felt a twinge of fear, he felt as though icy fingers were going up his spine. It sounded worse than an army medical board in which doctors probed and prodded and asked the most embarrassing questions about one’s reactions to this and that, and how one was going to manage about a sex life, and was he married, had he a girl friend? No, Algernon could not summon any enthusiasm whatever for going before a board of – what?
‘Vậy,’ anh ta nói, ‘chắc chắn là tôi nên có thời gian để phần nào phục hồi từ chấn thương nghiêm trọng bởi việc đi từ sự sống đến nơi này. Cứ cho rằng tôi tự ý đến đây bởi việc tự sát của mình, việc được coi là một tội ác kinh khủng, nhưng tôi vẫn nghĩ là tôi nên có thêm thời gian để phục hồi và để xem xem tôi muốn làm gì. Và nhân tiện nói về việc này,’ anh ta nói, ‘làm sao tự sát lại là một tội ác kinh khủng nếu người ta không biết là mình đang phạm tội? Tôi luôn được biết rằng nếu một người không nhận thức được anh ta đang làm một việc xấu thì anh ta không thể bị trừng phạt vì làm việc đó.’
‘Ôi thật vô nghĩa!’ vị bác sĩ thốt lên. ‘Anh giống như tất cả loại người cho rằng bởi vì họ xuất thân từ tầng lớp thượng lưu mà họ có thể có những sự xem xét đặc biệt. Anh luôn cố gắng để giải thích một cách duy lí. Đó dường như là tính xấu chung của những người như anh. Anh vẫn luôn biết rất rõ rằng tự sát là sai, ngay cả tôn giáo mà anh được dạy dưới trần cũng luôn nói với anh rằng tự hủy hoại mình là một tội ác chống lại bản thân, chính quyền và nhà thờ.’
‘Well,‘ he said, ‘surely I am to be given time to recover somewhat from the extreme trauma of passing over from life to This. Admitted that I came here of my own volition through committing suicide which appears to be such a heinous crime, but I still think that I should be given some time to recover and to see what I want to do. And while I am on the subject,‘ he said, ‘how can suicide be such a heinous crime if people do not know that they are committing a crime? I always understood that if a person was not conscious of doing ill then he could not be punished for so doing.‘
‘Oh nonsense!‘ exclaimed the doctor. ‘You are like all those of your ilk who think that because you come of a higher class you are entitled to special consideration. You always try to rationalise. It seems to be a vice of your type. You knew perfectly well that it was wrong to commit suicide, even your own peculiar form of religion as taught down there instils in you that self-destruction is a crime against the person, against the state, and against the church.‘
Algernon nhìn trông chua chát một cách đáng sợ và nói, ‘Nếu vậy thì ngài tính thế nào về những người Nhật tự sát nếu mọi thứ của họ trở nên tồi tệ? Nếu một người Nhật nghĩ là anh ta đã bị mất mặt, anh ta sẽ công khai mổ bụng mình. Chẳng phải đó là tự vẫn ư? Chẳng phải anh ta đang làm những gì anh ta tin ư?’
Vị bác sĩ trông vô cùng đau khổ trả lời, ‘Điều đó không làm thay đổi chút nào được việc tự hủy hoại mình thay vì đối diện với sự xấu hổ đã trở thành một tục lệ ở Nhật Bản. Hãy để tôi nói với anh; hãy để tôi in đậm điều này vào tiềm thức của anh; tự sát KHÔNG BAO GIỜ đúng. Tự sát LUÔN LUÔN là một tội ác. Không bao giờ có tình tiết giảm nhẹ nào cho việc tự sát. Nó có nghĩa là một người đã không tiến bộ đủ để tiếp tục cái mà họ đã tự chọn. Nhưng chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa,’ ông ta nói, ‘anh không ở đây để đi nghỉ, anh ở đây để chúng tôi có thể giúp anh định ra phần lớn của kiếp sống sắp tới của anh trên Trái đất. Hãy đến đây!’
Người đó đột ngột đứng lên và đứng cạnh Algernon đang kêu lên một cách oán thán, ‘Tôi không có cả cơ hội để tắm ư? Tôi không được ăn sáng trước khi tôi bị kéo đi sao?’
Algernon looked frightfully sour and said, ‘Then how do you account for Japanese who commit suicide if things go wrong with them? If a Japanese man thinks he has lost face then he disembowels himself publicly. That’s suicide, isn’t it? He is doing what he believes, isn’t he?‘
The doctor looked most distressed and replied, ‘It does not alter the matter in the slightest that it has become a social custom in Japan to destroy oneself rather than face embarrassment. Let me tell you; let me get this rammed into your subconscious; suicide is NEVER right. Suicide is ALWAYS a crime. There are never any extenuating circumstances for committing suicide. It means that a person is not evolved enough to continue that which they took on of their own volition. But let us waste no more time,‘ he said, ‘you are not here for a holiday, you are here so that we may help you make the most of your forthcoming life on Earth. Come!‘
He rose abruptly and stood over Algernon who bleated plaintively, ‘Well, don’t I get a chance to have a bath? Don’t I have any breakfast before I am dragged away?‘
‘Nói bậy!’ vị bác sĩ phát cáu thốt lên. ‘Ở đây anh không cần tắm, ở đây anh không cần tới thức ăn. Anh được rửa sạch và nuôi dưỡng bởi không khí. Anh cầu xin điều đó bởi vì anh có vẻ không phải là một người đàn ông, chỉ là một người cố gắng lẩn tránh trách nhiệm của mình. Hãy đi với tôi.’
Vị bác sĩ quay lưng đi và mở cửa. Rất, rất miễn cưỡng Algernon đứng lên một cách chậm chạp và đi theo ông ta. Vị bác sĩ đi dẫn đường. Họ rẽ phải và đi vào một khu vườn mà Algernon chưa từng bao giờ thấy trước đó. Không khí thật tuyệt vời, chim chóc bay khắp nơi và rất nhiều loại động vật dễ thương xung quanh, và rồi vị bác sĩ và Algernon rẽ vào một góc, một tòa nhà khác hiện ra. Nó trông như thể một thánh đường với những ngọn tháp, và lần này thay vì dốc thì có rất, rất nhiều bậc thang. Họ đi lên trên những bậc thang và đi vào một cái hốc mát mẻ của một tòa nhà đồ sộ. Rất nhiều người đang đứng ở lối vào, có những người đang ngồi trên những băng ghế thoải mái dọc theo tường. Và lần này ở giữa tiền sảnh, lại có một cái bàn giống như bàn tiếp tân, cái bàn cũng hình tròn giống lần trước nhưng lần này ngồi ở đó là những người cao tuổi hơn nhiều. Vị bác sĩ dẫn Algernon đi tới đó và nói, ‘Chúng tôi đến để trình diện trước Hội đồng.’
‘Bosh!‘ exclaimed the doctor in irritation. ‘Here you do not need a bath, here you do not need food. You are cleansed and fed by the atmosphere itself. You are beggaring the question because you appear to be not much of a man, just one who tries to evade all his responsibilities. Come with me.‘
The doctor turned and made for the door. Very, very reluctantly indeed Algernon rose slowly to his feet and followed him. The doctor led the way out. They turned to the right and entered a garden which Algernon had not previously seen. The atmosphere was wonderful, there were birds in the air and many pleasant animals lying around, and then as the doctor and Algernon turned a corner there appeared another building. It looked as though it were a cathedral, there were spires to it, and this time instead of a ramp going up there were many, many steps. They climbed the steps and went in to the cool recesses of a mighty building. Many people occupied the entrance, there were people sitting on comfortable benches around the walls. Again, in the centre of the vestibule, there was what seemed to be a reception desk, circular as before but this time it was staffed by much older people. The doctor led Algernon up and said, ‘We have come to go before the Council.‘
Một trong những người trợ tá đứng dậy và nói, ‘Xin hãy đi theo tôi.’ Vị bác sĩ và Algernon đi theo người trợ tá dẫn đường. Sau khi đi một khúc ngắn dọc theo hành lang, họ rẽ trái và đi vào một phòng đợi. Người trợ tá nói, ‘Xin hãy đợi ở đây,’ trong lúc ông ta đi tiếp, gõ lên một cánh cửa và đi vào khi được sự cho phép. Cánh cửa đóng lại sau lưng ông ta và người ta có thể nghe thấy được những tiếng thì thầm không rõ ràng.
Một lúc sau người trợ tá đi ra giữ cửa và nói, ‘Các vị có thể vào.’ Vị bác sĩ nhảy cẫng lên, cầm một cánh tay của Algernon và dẫn anh ta vào.
Algernon đi vào phòng một cách miễn cưỡng và dừng lại trong sự kinh ngạc. Đó thực sự là một căn phòng rất lớn, và ở giữa là môt quả cầu đang quay chầm chậm, một quả cầu màu xanh lam và xanh lá cây. Theo bản năng Algernon biết là đó là hình ảnh của Trái đất. Anh ta vừa kinh ngạc vừa tò mò khi thấy quả cầu – Trái đất đang quay, quay mà có thể nhận thấy không có bất cứ cái gì hỗ trợ cả. Dường như anh ta đang ở trong không gian nhìn xuống Trái đất được chiếu sáng bởi một mặt trời không nhìn thấy.
One of the assistants rose to his feet and said, ‘Please follow me.‘ With the assistant leading the way, the doctor and Algernon followed. After a short walk down a corridor they turned left into an ante-room. The assistant said, ‘Wait here, please,‘ while he continued and knocked on a door and entered when bidden to do so. The door closed behind him and there could be heard the very faint murmur of voices.
Some moments later the assistant came out again and held the door open, saying, ‘You may enter now‘ The doctor jumped to his feet and took Algernon by an arm and led him in.
Involuntarily Algernon stopped in astonishment when he entered the room. It was a very large room indeed, and in the centre there was a globe slowly turning, a globe with blues and greens. Instinctively Algernon knew that this was a simulacrum of the Earth. He was both fascinated and intrigued to see that the Earth-globe was turning, turning without visible means of support. He seemed to be in space gazing down upon the Earth which was illuminated by some unseen sun.
Có một chiếc bàn dài, được đánh bóng rất kĩ và chạm khắc một cách khó hiểu, và ở một đầu của chiếc bàn là một người đàn ông rất già râu tóc bạc phơ đang ngồi. Người đó trông thật nhân từ nhưng đầy nghiêm nghị. Thậm chí trong hoàn cảnh cần thiết, ông thực sự có thể là một người rất cứng cỏi.
Algernon đảo mắt nhìn quanh, có tám người đang ngồi tại bàn, bốn người đàn ông và bốn người phụ nữ. Vị bác sĩ dẫn anh ta đến một chiếc ghế ở chân bàn. Chiếc bàn, Algernon nhìn thấy, được sắp xếp và tạo hình hoàn hảo đến mức mỗi thành viên có thể nhìn anh ta mà thậm chí không cần phải quay lưng trên ghế, và anh ta thoáng băn khoăn về người thợ nào có thể làm ra được một cấu trúc phức tạp như vậy.
Vị bác sĩ nói, ‘Đây là Algernon St. Clair de Bonkers. Chúng tôi xác định anh ta đã đạt tới trạng thái hồi phục cho phép anh ta có thể tiếp nhận lời khuyên của hội đồng. Tôi xin được giới thiệu Algernon St. Clair de Bonkers.’
Người đàn ông cao tuổi ngồi ở đầu bàn gật đầu nhẹ ra hiệu cho họ ngôi xuống. Rồi người đó nói, ‘Algernon St. Clair de Bonkers, anh ở đây bởi vì anh đã phạm tội tự sát. Anh đã tự giết mình bất chấp kế hoạch anh đã định ra và coi thường Luật Tối Cao. Trước hết anh có muốn nói gì để biện minh cho mình?
There was a long table, very highly polished, very intricately carved, and at one end of the table a very old man was sitting, white-haired, white-bearded. He looked benign but yet at the same time he gave an impression of sternness. He gave the impression that should the occasion warrant it he could be a very tough person indeed.
Algernon took a fleeting glance, and there seemed to be eight other people sitting at the table, four were men and four were women. The doctor led him to a seat at the foot of the table. The table, Algernon saw, was so arranged, so shaped that the other members could all see him without even turning in their chairs and briefly he wondered at the craftsmanship which could have worked out such intricate geometry. The doctor said, ‘This is Algernon St. Clair de Bonkers. We have determined that he has reached a state of recovery which will enable him to profit by your advice. I present to you Algernon St. Clair de Bonkers.‘
The old man at the head of the table nodded briefly for them to sit down. Then he said, ‘Algernon St. Clair deBonkers you are here because you have committed the crime of suicide. You killed yourself in spite of the plans you had made and in defiance of Higher Law. Do you wish to say anything in your defence first?‘
Algernon hắng giọng và rùng mình. Vị bác sĩ ngả người sang thì thầm, ‘Hãy đứng dậy!’ Miễn cưỡng Algernon đứng dậy và nói một cách có phần bướng bỉnh, ‘Nếu tôi đã sắp xếp để làm một nhiệm vụ nhất định, và nếu các điều kiện mà tôi không mong muốn khiến cho tôi không thể hoàn thành nhiệm vụ đó, thì rõ ràng, cuộc sống của tôi thuộc về tôi, tôi có mọi quyền để kết thúc nó nếu tôi chọn làm như vậy. Tôi không quyết định là sẽ đến nơi này. Tôi chỉ đơn thuần quyết định kết thúc cuộc đời mình.’ Nói xong anh ta ngồi bịch xuống một cách thách thức.
Vị bác sĩ buồn rầu nhìn anh ta. Người đàn ông cao tuổi ở đầu bàn nhìn anh rất phiền muộn, còn bốn người đàn ông và bốn người phụ nữ thì nhìn anh ta với một lòng thương cảm như thể họ đã được nghe tất cả những điều đó trước đây. Rồi người cao tuổi nói, ‘Anh đã làm ra kế hoạch cho mình, nhưng cuộc sống của anh không phải của mình anh. Cuộc sống của anh thuộc về Chân ngã của anh – đó là cái mà anh gọi là linh hồn – và anh đã làm tổn thương Chân ngã của mình bằng cái tính ngoan cố và cái phương pháp điên rồ để tước đọat Chân ngã khỏi con rối thân xác của nó. Bởi vì thế anh sẽ phải quay lại Trái đất lần nữa và bắt đầu sống từ đầu, và lần này hãy chắc chắn rằng anh sẽ không tự sát nữa. Bây giờ anh phải quyết định thời điểm tốt nhất để anh quay lại, và những điều kiện tốt nhất cho anh, và lựa chọn bố mẹ phù hợp với mình.’
Algernon cleared his throat and shivered. The doctor leaned across and whispered, ‘Stand up!‘ Reluctantly Algernon got to his feet and said rather defiantly, ‘If I made an arrangement to do a certain task, and if conditions not of my choosing made it impossible for me to do that task then surely, my life being my own, I have every right to terminate it if I so choose. I did not decide to come to this place. I decided merely to terminate my life.‘ So saying he sat down with a defiant thump.
The doctor looked at him sadly. The old man at the head of the table looked at him with great sorrow, and the four men and the four women looked at him with compassion as if they had heard it all before. Then the old man said, ‘You made your plan, but your life is not your own. Your life belongs to your Overself – that which you call your soul – and you have injured your Overself by your recalcitrance and by your foolish method of depriving your Overself of its puppet. Because of this you will have to return to Earth and live a whole life again, and this time be sure you do not commit suicide. Now we have to decide the best time for you to return, and the best type of conditions for you, and to find suitable parents.‘
Có nhiều tiếng giấy sột soạt, rồi một thành viên đứng dậy và đi lại phía quả cầu. Trong một lúc người đó đứng đó nhìn vào quả cầu nhưng không nói gì cả. Rồi, vẫn im lặng, người đó quay trở lại chỗ của mình và ghi chép lên trên giấy.
‘Algernon,’ người cao tuổi nói, ‘Anh đã xuống Trái đất trong những điều kiện rất thoải mái. Anh đã xuống một gia đình có tryền thống nơi mà tất cả những tiện nghi vật chất của anh đều đầy đủ. Anh đã có mọi đặc ân. Tiền không phải là vấn đề với anh. Sự giáo dục anh nhận được thuộc loại tốt nhất trong nước. Nhưng anh có nghĩ về những tổn hại mà anh đã gây ra trong cuộc sống của mình không? Anh có nghĩ về sự tàn bạo, về cái cách anh đối xử với người hầu không? Anh có nghĩ về những cô hầu gái trẻ đã bị anh quyến rũ không?’
Algernon nhảy lên phẫn nộ. ‘Thưa ngài!’ anh ta nóng nảy nói, ‘Tôi luôn được bảo rằng những cô hầu gái ở đó là để phục vụ cho những người chàng trai chưa lập gia đình, để làm đồ chơi anh ta, để anh ta học về tình dục. Tôi đã không làm gì sai cả bất kể tôi có quyến rũ bao nhiêu cô hầu gái đi chăng nữa!’ Anh ta ngồi xuống, khá sôi sục vì phẫn nộ.
There was considerable rustling of papers, and one member rose from his seat and moved closer to the globe. For some moments he stood there looking at the globe but saying nothing. Then, still silent, he moved back to his place at the side of the table and made a notation on his papers.
‘Algernon,‘ said the old man, ‘you went down to Earth in conditions of great comfort. You went down to an old established family where all your creature comforts were attended to. You had every possible consideration. Money was no object. Your education was of the very best obtainable in your country. But have you thought of the harm that you have done in your life? Have you thought of the brutality, have you thought how you used to strike servants? Have you thought of the young maid servants you have seduced?‘
Algernon jumped to his feet in indignation. ‘Sir!‘ he exclaimed heatedly, ‘I was always told that the maid servants were there for an unmarried son’s convenience, to be his playthings, to learn about sex. I have done no wrong no matter how many maid servants I have seduced!‘ He sat down, fairly seething with indignation.
‘Algernon, anh biết rõ hơn thế,’ người cao tuổi nói, ‘bản thân anh biết rằng sự phân loại đó, cái mà anh tin vào, chỉ đơn thuần là do con người tạo ra. Trong thế giới của anh, nếu một người có tiền và đến từ một gia đình lâu đời được ân sủng thì người đó sẽ có rất nhiều quyền lợi. Trong khi đó, những người nghèo và phải làm việc cho một trong những gia đình này thì bị từ chối mọi quyền lợi và bị đối xử như những sinh vật hạ đẳng. Anh biết rõ điều đó như bất kì ai, bởi vì anh đã sống qua rất nhiều kiếp và anh có tất cả những kiến thức đó trong tiềm thức của mình.’
Một trong những người phụ nữ ngồi ở chiếc bàn mắm môi như thể vừa ăn một quả lý gai rất chua, rồi người đó nói một cách nghiêm nghị, ‘Tôi muốn được đề vào ghi chép ý kiến của mình, rằng người đàn ông trẻ này nên bắt đầu lại cuộc sống như một trong những người kém may mắn. Anh ta đã từng có mọi thứ. Tôi nghĩ anh ta nên bắt đầu lại với tư cách là con trai của một người lái buôn nhỏ, hay thậm chí là con trai của một người chăn bò.
‘Algernon, you know better,‘ said the old man, ‘you know yourself that class, as you believe in it, is merely an artificial thing. On your world if a person has money or comes from an old family which has been favoured then they have a lot of concessions. Whereas if a person is poor and has to work for one of these other families they are denied concessions and treated as inferior creatures. You know the law as well as anyone, for you have lived many times and you have all this knowledge within your subconsciousness.‘
One of the women sitting at the table pursed her lips as though she had just tasted an extremely sour gooseberry, and she said primly, ‘I wish to put on record my opinion that this young man should restart his life as one of the under-privileged. He has had everything his own way. I think he should start again as the son of a lesser trades manor even the son of a cowherd.‘
Algernon nhảy lên vì giận dữ. ‘Sao bà lại dám nói những điều như vậy!’ anh ta hét lên. ‘Bà có biết rằng dòng máu quí tộc đang chảy trong người tôi? Bà có biết rằng tổ tiên của tôi đã tham gia vào cuộc thập tự chinh? Gia đình tôi là một trong những gia đình được kính trọng nhất.’ Anh ta đang nói thì bị ngắt giữa chừng, lần này là một người chủ tọa cao tuổi lên tiếng. ‘Bây giờ chúng ta hãy đừng tranh luận ở đây. Nó không tốt cho anh chút nào. Nó sẽ chỉ tăng thêm gánh nặng mà anh phải mang. Chúng ta đang cố gắng giúp đỡ anh, không phải là làm cho nghiệp của anh nặng lên mà là giúp anh làm nhẹ nó đi.’
Algernon bùng lên giận dữ, ‘Tôi không bao giờ cho phép ai nói xấu về tổ tiên của mình. Tôi cho là tổ tiên của bà,’ anh ta chỉ tay giận dữ về phía người phụ nữ vừa lên tiếng, ‘là chủ nhà chứa hay quản lí lầu xanh, hay cái gì đó. Pah!’
Vị bác sĩ nắm chặt cánh tay của Algernon kéo anh ta ngồi xuống ghế và nói, ‘Trật tự, anh như một thằng hề, anh đang làm cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn với mình. Anh không biết tí gì về nơi này hết, hãy yên lặng và lắng nghe.’
Algernon jumped to his feet in fury. ‘How dare you say things like that!‘ he shouted. ‘Do you know that blue blood runs in my veins? Do you know that my ancestors went on the Crusades? My family is one of the most respected families.‘ He was interrupted in midstream of his speech, as it were by the elderly chairman who said. ‘Now, now, let us not have arguments here. It will do you no good at all. It will merely add to the load which you have to bear. We are trying to help you, not to add to your Kharma, but to help you to lessen it.‘
Algernon broke in truculently, ‘Well, I am not having anyone say things about my forebears. I suppose yours,‘ pointing an irate finger at the woman who had spoken, ‘came from brothel keepers or whore house managers, or something. Pah!‘
The doctor firmly grasped Algernon’s arm and pulled him down into the chair, saying, ‘Be quiet, you clown, you are making things so much worse for yourself. You don’t know the first thing about this place yet, keep quiet and hear what is said.‘
Algernon lặng đi với ý nghĩ rằng anh ta thật sự đang ở tầng hối cải như người ta đã nói với anh, nhưng rồi anh nghe thấy vị chủ tọa nói, ‘Algernon, anh đang đối xử với chúng tôi như thể chúng tôi là kẻ thù của anh. Không phải như vậy. Anh biết đấy, anh không ở đây như một khách mời danh dự. Anh ở đây vì anh đã phạm tội ác, và trước khi chúng ta đi xa hơn trong vấn đề này tôi muốn làm rõ ràng; không có cái gọi là dòng máu quí tộc. Không có cái gọi là cấp bậc, hay giai cấp, hay địa vị được truyền từ đời này sang đời khác. Anh đã bị tẩy não, anh đã bị làm mờ mắt vì những truyền thuyết hay những câu chuyện cổ tích mà người ta đã kể cho anh.’ Người đó dừng lại để nhấp một ngụm nước, rồi nhìn những thành viên khác của Hội đồng trước khi tiếp tục.
Algernon subsided with the thought that he was indeed in purgatory as he had already been told, but then he listened to the chairman who said, ‘Algernon, you are treating us as though we were your enemies. Such is not the case. You are not here as an honoured guest, you know. You are here as one who has committed a crime, and before we go any further in this matter there is one thing I want to make clear; there is no such thing as blue blood in one’s veins. There is no such thing as inheriting class or caste or status. You have been brainwashed, you are bemused by the legends and fairy tales that you have been told.‘ He stopped for a moment to take a sip of water, and then he looked at the other members of the Board before continuing.
‘Anh phải có trong đầu một suy nghĩ thật, thật rõ ràng rằng các thực thể từ rất, rất nhiều thế giới, rất, rất nhiều thể của sự tồn tại đi xuống Trái đất, một trong những thế giới thấp nhất, để học qua gian khổ, những thứ mà họ dường như không thể học được qua lòng tốt. Và khi một người đi xuống Trái đất, họ nhận lấy cơ thể phù hợp nhất để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nếu anh là một diễn viên thì anh có thể nhận ra rằng anh chỉ là một người, một diễn viên, và anh có thể được yêu cầu diễn rất, rất nhiều vai trong cả đời người. Vì vậy trong cả đời diễn viên của mình, anh có thể sẽ phải ăn mặc như một hoàng tử, một vị vua, hay một người ăn mày. Là một vị vua anh có thể sẽ phải giả vờ rằng anh có dòng máu hoàng gia, nhưng đó chỉ là giả vờ mà thôi. Mọi người trong nhà hát đều biết rất rõ điều đó. Một vài diễn viên đã đem theo quá nhiều từ vai diễn – giống như anh – đến mức họ thật sự tin rằng họ là hoàng tử hay vua, nhưng họ không bao giờ muốn là ăn mày. Bây giờ bất kể anh là ai, bất kể anh đã tiến hóa cao thế nào, khi anh đến đây điều đó có nghĩa là anh đã phạm phải một tội ác, và nó thật sự là một tội ác, việc tự sát. Anh đến đây để anh có thể chuộc lại tội lỗi của mình. Anh đến đây để chúng tôi, có liên hệ với các thể cao hơn, và cũng có liên hệ với Trái đất, có thể gợi ý cách nào tốt nhất để sự chuộc tội có thể được hoàn thành.’
‘You must have in your mind the definite, definite thought that entities from many, many worlds, from many, many planes of existence go down to Earth, one of the lowest of the worlds, to learn by hardship that which they seem incapable of learning by kindness. And when one goes down to the Earth one adopts the body most suited for the fulfilment of one’s task. If you were an actor you would realise that you are just a man, the actor, and you may be called upon to play many, many parts in a lifetime. So during a lifetime as an actor you may have to dress as a prince or a king or as a beggar. As a king you may have to pretend that you are of the Blood Royal, but it is pretence only. Everyone in the theatre really knows it. Some actors get carried away so much – as you have – that they really believe they are princes or kings, but they never want to be beggars. Now no matter who you are, no matter how high your degree of evolution, when you come here it is because you have committed the crime, and indeed a crime it is, of suicide. You come here so that you can atone for your crime. You come here so that we, in touch with higher planes, and also in touch with the Earth itself, can suggest how best that atonement may be fulfilled.‘
Algernon trông không vui chút nào. ‘Vậy, làm sao mà tôi biết được tự sát là sai trái, và ông sẽ nói gì về những người Nhật tự sát cho danh dự?’ anh ta hỏi, vẫn có phần hùng hổ. Vị chủ tọa nói, ‘Tự sát không bao giở là một việc đúng đắn. Kể cả những thầy tu theo đạo Phật hay đạo Shinto đã tự thiêu, tự mổ bụng hay nhảy từ trên vực xuống cũng là không đúng. Những luật lệ do con người tạo ra không bao giờ có thể vượt lên trên qui luật của Vũ trụ. Nhưng hãy nghe ta nói.’
Vị chủ tọa nhìn xuống giấy tờ của mình rồi nói, ‘Anh đáng lẽ sẽ sống đến một tuổi nhất định, nhưng anh đã kết thúc cuộc sống của mình trên Trái đất ba mươi năm trước đó, vì thế anh sẽ phải quay lại Trái đất để sống ba mươi năm đó và chết trên Trái đất, và hai cuộc sống, cuộc sống mà anh đã kết thúc và cuộc sống mà anh sắp bắt đầu sẽ chỉ được tính là một – ta sẽ gọi nó là gì nhỉ? Hãy gọi nó là một buổi học.’
Algernon did not look at all happy. ‘Well, how did I know it was wrong to commit suicide, and what are you going to say about the Japanese who commit suicide for honour?‘ he asked, still with considerable truculence. The chairman said, ‘Suicide is never the correct thing to do. It is not even correct when Buddhist priests or Shinto priests set themselves on fire or disembowel themselves or throw themselves off cliff tops. Manmade laws can never override the laws of the Universe. But listen to me.‘
The chairman looked down at his papers and said, ‘You were going to live until you were a certain age, and you ended your life on Earth thirty years before that age, and thus it is that you have to return to Earth to live thirty years and then die to the Earth, and the two lives, the one which you terminated and the one to which you are now going, will merely count as one – what shall I call it? Let us call it a class session.‘
Một người phụ nữ khác vẫy tay để làm người chủ tọa chú ý; ‘Vâng, thưa bà?’ người đó hỏi. ‘Bà có nhận xét?’
‘Vâng, thưa ngài’, người đó nói. ‘Tôi nghĩ là người đàn ông trẻ này không hề nhận ra vị trí của mình. Anh ta nghĩ rằng anh ta thượng đẳng hơn tất cả mọi người khác. Tôi nghĩ có thể anh ta nên được kể về những cái chết anh ta đã gây nên. Tôi nghĩ chúng ta nên nói với anh ta nhiều hơn về quá khứ của anh ta.’
‘Vâng, vâng, nhưng bà cũng biết rõ rằng anh ta sẽ nhìn thấy quá khứ của mình tại Sảnh Kí Ức,’ vị chủ tọa có phần hơi bực mình nói.
‘Nhưng thưa ngài chủ tọa,’ người phụ nữ đó nói, ‘Sảnh Kí Ức là sau này, còn bây giờ thì chúng ta muốn người đàn ông trẻ này lắng nghe một cách đúng mực – nếu điều đó là có thể với anh ta,’ người đó nói, ném cho Algernon một cái nhìn tăm tối. ‘Tôi nghĩ là chúng ta nên nói cho anh ta nhiều hơn về vị trí của anh ta ngay bây giờ.’
Vị chủ tọa thở dài, nhún vai và nói, ‘Được thôi, nếu bà muốn thì chúng ta có thể thay đổi thủ tục. Tôi đề nghị chúng ta đưa người đàn ông trẻ này tới Sảnh Kí Ức ngay bây giờ để anh ta có thể thấy điều gì khiến chúng ta không hề phải lòng trước nhưng thành tựu của anh ta.’
Another of the women fluttered a hand to attract the chairman’s notice; ‘Yes, madam?‘ he queried. ‘You have a comment?‘
‘Yes I do, sir,‘ she said, ‘I think the young man doesn’t at all realise his position. He thinks he is so terribly superior to everyone else. I think perhaps he should be told of the deaths he has caused. I think he should be told more of his past.‘
‘Yes, yes, but as you are so very well aware, he is going to see his past in the Hall of Memories,‘ said the somewhat irritated chairman.
‘But Mr. Chairman,‘ said the woman, ‘the Hall of Memories interlude comes after, and we want this young man to listen to us now sanely – if such a thing is possible in such a young man,‘ she said, darting a dark glance at Algernon. ‘I think that he should be told more of his position now.‘
The chairman sighed, shrugged his shoulders, and said, ‘Very well, as it is your wish we will alter our routine and I suggest that we take the young man to the Hall of Memories now so that he can see what makes us less than enamoured of his self-styled attainments.‘
Có tiếng kéo ghế và các thành viên của Hội đồng đứng dậy. Vị bác sĩ cũng hoảng hốt đứng lên và nói với Algernon, ‘Đi nào, chính anh đã yêu cầu nó,’. Algernon nhìn một cách phẫn nộ từ người này sang người khác và nghiến răng nói, ‘Tôi không yêu cầu được đến nơi này. Tôi không hiểu điều gì khiến cho các người cứ loạn hết lên. Nếu tôi phải quay lại Trái đất thì hãy để cứ tôi quay lại và hòa nhập với nó.’
Vị chủ tọa nói, ‘Bây giờ chúng ta sẽ đi cùng anh đến Sảnh Kí Ức. Ở đó anh sẽ có đủ khả năng để phán xét xem liệu chúng ta có đang vượt quá quyền hạn của mình như anh tưởng tượng không, hay là chúng ta đang nhân từ với anh. Hãy đến đây!’ Nói vậy người đó quay đi và dẫn đường để đến một phòng lớn, rồi lại ra bên ngoài. Không khí thật là trong lành bên ngoài, không khí của sự sống, những chú chim và những chú ong thân thiện đang bay tạo ra những tiếng vo vo. Ở đây không có những loại côn trùng cắn người hay phá hoại, mà chỉ có những côn trùng bổ sung cho môi trường xung quanh cái mà người ta có thể gọi là một thứ âm nhạc thân thiết.
There was a shuffling of chairs as they were pushed back, and the members of the Board rose to their feet. The doctor also rose in some dismay and said, ‘Come on, you’ve asked for it,‘ to Algernon. Algernon looked quite indignantly from one to the other and rasped, ‘Well, I didn’t ask to come to this place. I don’t know what you are all making such a commotion for. If I have to get back to Earth let me get back and get on with it.‘
The chairman said, ‘We will now accompany you to the Hall of Memories. There you will be able to judge whether we are exceeding our authority as you seem to imagine, or whether we are being lenient. Come!‘ So saying he turned and led the way out of the large chamber, and into the open again. It was so refreshing out in the open, the living atmosphere, the birds and the friendly bees which went buzzing by. Here there were no insects to bite or to pester, but only insects which added what one might term a familiar music to the surroundings.
Vị chủ tọa và những thành viên khác của Hội đồng đi trước, gần giống như giờ ngoại khóa ở trường, Algernon nghĩ, ngoại trừ việc không có việc gì cho anh ta. Rồi anh ta nhìn sang vị bác sĩ bên cạnh và nói, ‘Này, có phải ngài là cai ngục của tôi?’ Vị bác sĩ không trả lời. Thay vào đó ông nắm chặt cánh tay Algernon hơn nữa và cùng nhau họ bước đi.
Chẳng mấy chốc họ đã đến một tòa nhà khác. Algernon vừa nhìn thấy đã thốt lên, ‘Ôi, sảnh Albert Hall, làm cách nào mà chúng ta đã quay trở lại Luân Đôn vậy?’ Vị bác sĩ cười – ông ta thật sự thích thú – ‘Đây không phải là sảnh Albert Hall,’ ông ta nói, ‘hãy nhìn vào sự khác biệt trong kiến trúc. Nới này thật đẹp!’
Họ cùng nhau đi vào bên trong sảnh, và đúng như vị bác sĩ nói lúc nãy, nó rất ‘đẹp’. Vị chủ tọa dẫn đường đến một cái mật thất. Dựa theo thời gian mà họ đã đi, Algernon đoán rằng họ đang ở chính giữa của tòa nhà. Rồi một cánh cửa mở ra và Algernon giật mình lùi lại vội đến mức đâm sầm vào vị bác sĩ. Vị bác sĩ cười và nói, ‘Ôi không, đây không phải là mép của Vũ trụ, anh không thể rơi được, nó hoàn toàn bình thường. Hãy bình tĩnh lại, không có gì nguy hiểm cả.’
Vị chủ tọa quay sang nói với Algernon, ‘Hãy đi đến phía trước, chàng trai trẻ, đi đến phía trước, anh sẽ biết được khi nào nên dừng, và hãy thật chú ý.’
Trong một lúc, Algernon đứng im vì sốc, thật sự sợ hãi việc anh ta sẽ rơi từ mép của Vũ trụ và ngã xuống những hành tinh bên dưới chân mình. Rồi một cái đẩy kiên quyết dúi anh ta về phía trước, và bắt đầu bước đi thì anh ta nhận ra rằng mình không dừng lại được.
The chairman and the other members of the Board let the way, almost like a school treat, thought Algernon, except that it’s no treat for me. And then he glanced sideways at the doctor and said, ‘It seems you are my gaoler, eh?‘ The doctor did not reply. Instead he just grasped Algernon’s arm more firmly and together they walked on.
Soon they came to another building. Algernon at first sight exclaimed, ‘Oh, the Albert Hall, how did we get back in London?‘ The doctor laughed – he really was amused – ‘This is no Albert Hall,‘ he said, ‘look at the difference in architecture. This place is BEAUTIFUL!‘
Together they entered the Hall, and it was, as the doctor had said, ‘beautiful‘. The chairman led the way in to some inner recesses. Algernon guessed from the time that they were walking that they must be right in the heart of the building. Then a door was opened and Algernon gasped and drew back in such a hurry that he bumped into the doctor who laughed and said, ‘Oh no, this is not the edge of the Universe, you can’t fall, it’s perfectly normal. Just compose yourself, there is nothing dangerous to happen.‘
The chairman turned to Algernon and said, ‘Walk forward, young man, walk forward, you will know when to stop, and pay great attention.‘
For a moment Algernon stood stock still, really frightened that he was going to fall over the edge of the Universe and tumble down along the stars at his feet. Then a very firm push in the small of his back propelled him forwards, and having started he found he couldn’t stop.
Algernon bước tới trước, bị đẩy bởi một lực nằm ngoài tầm hiểu biết của anh ta. Anh ta di chuyển và khi anh ta làm như vậy thì những cái bóng, hình dạng và màu sắc trượt qua anh ta, những cái bóng trở nên đặc hơn và cuối cùng thì tắc lại. Anh ta đã đến điểm tận cùng, một lần nữa lại nằm ngoài ý muốn anh ta. Anh ta nhìn quanh bối rối, và rồi một giọng nói cất lên. ‘Vào đi’, Một lần nữa không với bất cứ nỗ lực nào từ phía Algernon, anh ta di chuyển lên phía trước và đi xuyên qua cái dường như một bức tường bất khả xâm phạm. Anh ta rơi xuống và có cảm giác bị chấn thương nặng. Rồi dường như Algernon đã hồn lìa khỏi xác, anh ta đang nhìn xuống một khung cảnh. Một cô y tá đang đưa một đứa bé vừa mới sinh cho mẹ nó. Một người đàn ông quí tộc có vẻ ngoài dữ tợn đang nhìn xuống đứa trẻ, rồi bỗng nhiên ông ta mân mê bộ râu quai nón của mình và nói với cô y tá, ‘Hừm, một sinh vật bé nhỏ kinh khủng, phải không? Trông giống như một con chuột bị chết đuối hơn là cái mà ta hy vọng sẽ trở thành một người đàn ông. Được rồi, y tá, mang nó đi.’ Khung cảnh cuộn xoáy lại, và rồi Algernon nhìn thấy mình đang ngồi trong lớp học được dạy bởi một gia sư.
Anh ta thấy mình đang chơi khăm thầy giáo bằng những trò hèn hạ, và thầy giáo thì không thể làm gì được vì cha của Algernon là một quí tộc vô cùng độc đoán, kẻ coi gia sư và tất cả người làm công là những kẻ hầu người hạ đáng khinh. Trong sự kinh hoàng Algernon nhìn thấy một vài việc mà anh ta đã làm, những việc khiến anh ta đỏ mặt. Rồi hình ảnh lại thay đổi. Bây giờ anh ta đã lớn hơn, có thể là mười bốn – anh ta đoán là giữa mười bốn và mười lăm tuổi – và anh ta thấy mình đang nhìn một cách lén lút ra bên ngoài cánh cửa của một phần khá vắng vẻ trong trang viên gia đình. Một cô hầu gái xinh đẹp đi đến làm Algernon lùi lại, và khi cô ta đi ngang qua cánh cửa thì anh ta nhảy ra và bịt miệng cô, kéo cô vào trong phòng. Anh ta nhanh chóng khóa cửa lại và vẫn bịt miệng cô hầu gái để cô không thể hét lên được anh ta xé quần áo của cô. Algernon cảm thấy nóng bừng về việc anh ta đã làm. Rồi một lần nữa khung cảnh lại thay đổi. Anh ta đang đứng trong phòng làm việc của cha mình, cô hầu gái cũng đang đứng đó khóc lóc. Cha của Algernon mân mê bộ râu quai nón của mình trong lúc nghe cô hầu gái nói, rồi ông ta cười phá lên một cách thô bỉ nói ‘Lạy chúa, đàn bà, chẳng nhẽ ngươi không hiểu được rằng một quí ông trẻ tuổi cần phải tìm hiểu về tình dục, vì sao mà ngươi nghĩ ngươi ở đây? Nếu ngươi không thể chấp nhận một việc cỏn con như vậy thì hãy ra khỏi nhà của ta!’ Một cách hống hách ông ta đưa tay lên và cho cô hầu gái một cái bạt tai. Cô ta quay lưng, khoc lóc chạy ra khỏi phòng. Người cha quay sang Algernon và nói, ‘Hừm, con đã bị kích động, chàng trai trẻ, con không còn là trai tân nữa hả? Tốt, hãy tiếp tục như vậy, hãy tiếp tục thực hành. Ta muốn nhìn thấy những đưa con trai khỏe mạnh được sinh ra trong ngôi nhà này trước khi ta từ giã cõi đời.’ Nói xong ông ta ra hiệu cho Algernon đi ra.
Algernon walked forward, propelled by some force beyond his ken. He moved and as he did so shadows, forms and colours slid by him, shadows becoming more solid until in the end there was a definite obstruction. He came to a dead stop, again of no volition of his own. He looked about him in some confusion, and then a voice said, ‘Enter.‘ Again through no conscious effort on his part Algernon moved forward and through what had seemed to be an impenetrable wall. There was a terrible traumatic feeling of falling. Then Algernon seemed to be disembodied, he was looking down at a scene. A nurse was holding out a baby which had just been delivered of his mother. A fierce looking gentleman was looking down at the baby, and then suddenly he twirled his moustaches and said to the nurse, ‘Hmm, horrible little creature, isn’t it? Looks more like a drowned rat than what I hope will be a man. All right, nurse, take him away.‘ The scene swirled, and then Algernon saw himself in a classroom being taught by a tutor. He saw himself playing rather mean tricks on the tutor who could not say much about it because Algernon’s father was an extremely autocratic aristocrat who regarded tutors and governesses and all employed people as menials beneath contempt. Algernon looked down with horror at some of the things he had done, things which made him blush now. Then the picture changed again. He was older now, perhaps fourteen – he guessed himself to be between fourteen and fifteen – and he saw himself looking somewhat furtively out of a doorway in what was a fairly deserted part of the family manor. A pretty young maid servant came along and Algernon ducked back, and as she passed the door he leapt out and grabbed her around the throat, dragging her into the room. Quickly he locked the door and, still holding the maidservant by her throat to stop her from screaming, he ripped off her clothing. Algernon grew hot at the thought of what he had done. Then again the scene changed. He was standing in his father’s study, the weeping maidservant was standing there as well. Algernon’s father was twirling his moustaches and listening to what the girl had to say, and then he laughed harshly and said ‘My good heavens, woman, don’t you understand that a young gentleman has to find out about sex, why do you think you are here? If you cannot accept a little thing like that get out of my house!‘ Imperiously he raised his hand and slapped the girl across the face. She turned and ran weeping from the room. The father turned to Algernon and said, ‘Hmm, so you’ve been blooded, young man, you are no longer a virgin, eh? Well, keep up the good work, get in your practice. I want to see many strong sons born to this house before I depart this world.‘ So saying the father dismissed Algernon at a gesture.
Hình ảnh thay đổi và thay đổi. Eton, chèo thuyền trên sông. Oxford, quân đội, những người đàn ông đang luyện tập, và rồi đi ra nước ngoài, Chiến tranh chống lại người Boer. Trong sự kinh hoàng anh ta thấy mình đang ra lệnh cho binh lính thảm sát những gia đình sợ sệt, không chống cự và không làm gì sai ngoại trừ việc họ không hiểu một mệnh lệnh bằng tiếng Anh vì họ chỉ nói tiếng Afrikaans. Anh ta thấy những xác người bị ném vào mương bên cạnh đường, và anh ta thấy mình cười một cách nhẫn tâm khi một cô gái trẻ bị một lưỡi lê đâm xuyên qua người và bị ném sang một bên.
Những hình ảnh vẫn tiếp tục. Anh ta tắm trong mồ hôi lạnh. Anh ta cảm thấy bệnh, anh ta cảm thấy muốn nôn nhưng không thể. Anh ta nhìn thấy toàn bộ một bãi thây người, bảy mươi, bảy mươi tư, bảy mươi tám. Bảy mươi tám người chết, và ngay khi anh ta chuẩn bị giết chết người thứ bảy mươi chín thì một tay súng đứng lên và bắn Algernon khiến cho anh ta không còn là đàn ông nữa.
Những hình ảnh tiếp tục cho đến khi chúng dường như không còn ý nghĩa gì nữa với Algernon. Anh ta chao đảo và đứng dựa vào tường, rồi không biết bằng cách nào, mặc dù không làm gì hết anh ta lại thấy mình đứng giữa vị bác sĩ và các thành viên của Hội đồng. Họ nhìn anh ta một cách dò xét, rồi gương mặt của vị chủ tọa biểu lộ một chút thương cảm. Nhưng người đó chỉ nói, ‘Chúng ta hãy quay lại với cuộc nói chuyện.’ Người đó quay đi, dẫn đường ra khỏi Sảnh Kí Ức và quay lại phòng Hội đồng.
The picture changed, and changed again. Eton, rowing on the river. Oxford, the Army, drilling men, and then overseas. War against the Boers. Algernon looked with horror at the pictures, he saw himself giving orders to his men to mow down a defenceless frightened family who did nothing but fail to understand an order in English because they spoke only Afrikaans. He saw the bodies flung in the ditch at the side of the road, and he saw himself laughing callously as a young girl was speared through the abdomen with a bayonet and tossed aside.
The pictures continued. Algernon was bathed in cold perspiration. He felt sick, he felt the most urgent desire to vomit but could not. He saw the total of deaths mount, seventy, seventy-four, seventy-eight. Seventy-eight deaths, and then just as he was going to kill the seventy-ninth another man, a sniper rose up and shot Algernon so that he was no longer a man.
The pictures went on until they seemed to have no more meaning for Algernon. He reeled away and leaned against a wall, and then without knowing how, without having made a movement of his own volition, he found himself again in company of the doctor and the members of the Board. They looked at him quizzically and then for a moment a flicker of compassion crossed the face of the chairman. But he merely said, ‘Well, let us get back to our discussion.‘ He turned and led the way out of the Hall of Memories and back to the Board Room.
Một lần nữa khi đã ở trong phòng vị chủ tọa nói, ‘Anh đã thấy những tình tiết của cuộc đời mình. Anh đã thấy rằng, dù là máu quí tộc hay dân thường, anh đã phạm phải rất nhiều tội ác mà cuối cùng là tội tự sát. Bây giờ chúng ta phải quyết định, đúng hơn là chúng tôi giúp anh quyết định lối đi nào là tốt nhất để anh có thể chuộc lại những tổn thất mà anh đã gây ra trong sự độc ác của chiến tranh, và tội đã tự sát. Anh có ý tưởng gì cho việc đó không?’
Algernon đã bị trừng trị. Anh ta cảm thấy rất lung lay, anh ta chưa bao giờ cảm thấy tồi tệ như vậy. Anh ta chống khuỷu tay lên bàn và hai tay ôm đầu. Căn phòng im ắng, hoàn toàn im ắng. Algernon ngồi đó trong một khoảng thời gian vô tận nghĩ về tất cả những gì anh ta đã nhìn thấy, tệ hơn nữa, nghĩ về tất cả những gì anh đã thấy về những hành động mà anh ta đã gây ra. Và anh ta cân nhắc xem mình nên làm gi? Anh ta nghĩ rằng có thể anh ta nên trở thành một tu sĩ, một mục sư, có thể là một giám mục, và với đôi chút ảnh hưởng thậm chí anh ta có thể tiến lên làm tổng giám mục. Nhưng rồi từ đâu đó anh ta có một cảm giác thôi thúc rằng không nên, vì thế rất nhanh anh ta chuyển suy nghĩ sang hướng khác.
Again in the room the chairman said, ‘You have seen incidents of your life. You have seen that, blue blood or red blood, you have committed many crimes ending up by the crime of suicide. Now we have to decide, or rather we have to help you to decide what will be the best vocation by which you can atone for the harm that you have done in the viciousness of war and the crime which you have committed in suicide. Do you have any ideas what you would like to be?‘
Algernon was very chastened. He felt very shaky, he felt worse than he could ever remember feeling before. He took his head in his hands and leaned his elbows on the table. The room was silent completely silent. Algernon sat there for an indefinite time thinking of all that he had seen, worse, thinking of all the things that he had seen of the acts which he had done, and he pondered what should he be? The thought occurred to him that possibly he should become a priest, clergyman, possibly a bishop, and with a bit of influence he might even rise to be an archbishop. But then from somewhere he got such an impelling feeling of negation that he changed his line of thinking very quickly.
Một bác sĩ thú y, anh ta nghĩ. Nhưng không, anh ta không thích động vật đến thế, và làm bác sĩ thú y thì cũng không có nhiều địa vị, phải không? Đó sẽ là một sự thụt lùi, anh ta nghĩ, từ một người của tầng lớp anh ta trở thành một bác sĩ thú y tầm thường.
Anh ta có ấn tượng từ đâu đó có những tiếng cười im lặng, những tiếng cười chế giễu anh ta, những tiếng cười chỉ ra cho anh ta rằng anh ta đang đi sai đường. Và rồi anh ta nghĩ rằng anh ta nên trở thành một bác sĩ, một bác sĩ thời thượng, anh ta sẽ làm việc trong giới quí tộc, và anh ta có thể sẽ cứu sống được bảy mươi hay tám mươi người trong sự nghiệp của mình, và khi đó anh ta sẽ có một lý lịch trong sạch để bắt đầu một kiếp sống khác sau khi kiếp sống đang treo lơ lửng trước mắt kết thúc.
Một trong những người đàn ông lần đầu tiên lên tiếng. ‘Chúng ta, tất nhiên, vẫn đang quan sát suy nghĩ của anh qua quả cầu này,’ người đó chỉ vào một quả cầu ở trên bàn mà Algernon đã không nhìn thấy trước đó vì nó bị che lại, nhưng bây giờ thì nó đang phát sáng và chỉ ra suy nghĩ của Algernon. Vì mặt Algernon đỏ ửng vì xấu hổ khi nhận ra rằng tất cả suy nghĩ của anh ta đều bị phát giác, hình ảnh trong quả cầu cũng trở thành ửng đỏ như vậy.
Vị chủ tọa nói, ‘Đúng, ta hoàn toàn khuyến khích việc anh trở thành một bác sĩ nhưng ta không khuyến khích chút nào việc anh trở thành một bác sĩ của tầng lớp thượng lưu. Đây là kế hoạch mà ta đề nghị cho trường hợp của anh.’
A veterinarian, he thought. But no, he did not like animals that much, and there wasn’t much status in being a veterinarian, was there? It would be such a come-down, he thought, to one of his caste to be a mere veterinarian.
From somewhere he got the impression of silent laughter, laughter which mocked him, laughter which indicated to him that he was still on the wrong track. And then he thought that he would become a doctor, a fashionable doctor, he would work among the nobility, and possibly he could save seventy or eighty lives in his career and then he would have a clean sheet with which to start another life at the end of this, the impending one.
One of the men spoke for the first time. ‘We have, of course, been watching your thoughts in this globe,‘ and he gestured to a globe let in to the table which Algernon had not seen before because it had been covered up, but now it was glowing and showing Algernon’s thoughts. As Algernon blushed deeply at the realisation that all he had thought had been revealed so the image in the globe blushed deeply also. The chairman spoke, ‘Yes, I can thoroughly recommend that you become a doctor but I do not at all recommend that you become a society doctor. This is the plan which I would recommend in your case‘.
Vị chủ tọa dừng lại, lật qua vài tờ giấy rồi nói, ‘Anh đã lấy đi mạng sống và làm bị thương người khác.’ Algernon đứng bật dậy. ‘Không! Tôi không làm bị thương ai cả-’ Vị chủ tọa ngắt lời anh ta ‘Đúng thế, anh đã ra lệnh giết và làm bị thương người khác, vì vậy anh cũng đáng trách như người đã thi hành những hành động đó. Nhưng anh đang nghe ta nói, tốt hơn là anh hãy lắng nghe chăm chú những điều ta nói bởi vì ta sẽ không nhắc lại. Anh nên trở thành một bác sĩ, nhưng là bác sĩ trong một khu nghèo nơi anh làm việc giữa những người nghèo, và anh sẽ bắt đầu kiếp sống của mình trong những điều kiện nghèo nàn, anh sẽ không còn là thành viện của giới thượng lưu nữa mà sẽ là một người phải tự bươn trải để vươn lên. Và trong năm thứ ba mươi của cuộc đời mình, cuộc sống của anh sẽ chấm dứt, anh sẽ quay trở lại đây nếu anh tiếp tục tự sát, hoặc nếu không anh sẽ lên một tầng cao hơn của thể vía, nơi tương ứng với những gì anh sẽ thể hiện trên Trái đất trong kiếp sống mà anh sắp sửa trải qua.’
Họ tiếp tục nói chuyện trong một lúc, rồi vị chủ tọa gõ cái búa của mình và nói, ‘Chúng ta sẽ gặp lại nhau để sắp xếp về cặp cha mẹ anh sẽ có, về vùng đất nơi anh sẽ được sinh ra, và ngày tháng của việc đó. Cho đến lúc đó anh có thể quay lại Nhà nghỉ dưỡng. Buổi nói chuyện dừng tại đây.’
Algernon và vị bác sĩ bước đi một cách ủ rũ dọc theo con đường trong vườn không nói một lời nào, rồi vị bác sĩ đưa Algernon về Nhà nghỉ dưỡng, chỉ cho anh ta một phòng thích hợp và nói, ‘Tôi sẽ quay lại gặp anh khi nào tôi được chỉ thị làm như vậy.’ Với một cái gật đầu nhẹ ông ta quay lưng và bỏ đi, còn lại Algernon ngồi trên ghế hai tay ôm đầu một cách khổ sở, nghĩ về tất cả những gì anh ta đã thấy, những gì anh ta đã gây ra, và anh ta nghĩ, ‘Nếu đây là tầng hối cải, tạ ơn Chúa là không có địa ngục!’
The chairman stopped and riffled through some papers, and then said, ‘You have taken life you have maimed and mutilated others.‘ Algernon rose to his feet. ‘No! I have not maimed, I have not mutilated –‘ The chairman interrupted, ‘Yes, by your orders others have been killed, others have been maimed and mutilated, and you bear the blame quite as much as the persons who actually did the acts. But you are listening to me, and you had better listen carefully for I shall not repeat what I am saying. You should become a doctor, but a doctor in a poor district where you can work among the poor, and you will start your life under poor conditions, no longer a member of the aristocracy but one who has to claw his way up. And in the thirtieth year of that life your life will be ended and you will return here if you repeat your suicide, or, if not you will go to a higher plane of the astral where you will be prepared according to how well you have performed in the life which you are about to undergo.‘
There was considerable discussion for some time, and then the chairman knocked with his gavel and said, ‘We will meet again to plan the parents you will have, to plan the area to which you shall be born, and to arrange the date. Until that time you may return to the House of Rest. The meeting is now adjourned.‘
Algernon and the doctor walked sombrely along the garden paths, neither saying a word, and then the doctor took Algernon into the House of Rest and showed him a suitable room, saying, ‘I will come back for you later when I am so instructed.‘ With the briefest of nods he turned away and left, and Algernon sat in a chair with his head in his hands, the picture of misery, thinking of all that he had seen, thinking of all that he had done, and thinking, ‘Well, if this is purgatory thank goodness there is no hell!‘
Dịch giả: Cộng đồng thiền Việt Nam
Biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam