Chương IV: Trước thềm chánh điện – Con mắt thứ ba – Lobsang Rampa

Tôi noi theo con đường đưa đến tu viện Chakpori, tu viện này vừa là một đạo viện vừa là một trường y khoa có tiếng là kỹ luật rất cao. Tôi đi bộ vượt qua mấy cây số đường trường dưới ánh sáng bình minh mỗi lúc càng tỏ rạng. Đến ngoài cổng lớn đưa vào sân mặt tiền của tu viện, tôi gặp hai thiếu nhi khác cũng đến xin được thu nhận. Chúng tôi nhìn nhau một cách dè dặt, nhưng không ai nói với ai một lời nào. Chúng tôi định bụng là hãy tỏ ra lịch sự với nhau nếu chúng tôi sẽ cùng thụ huấn trong một tu viện.

The road led straight ahead to Chakpori Lamasery, the Temple of Tibetan Medicine. A hard school, this! I walked the miles as the day grew lighter and at the gate leading to the entrance compound I met two others, who also desired admission. We warily looked each other over, and I think that none of us was much impressed by what we saw in the others. We decided that we would have to be sociable if we were going to endure the same training.

Chúng tôi gõ cửa một cách e dè cùng một lúc nhưng không ai trả lời. Một bạn đồng cảnh ngộ của tôi lúc ấy cúi xuống lượm một viên đá lớn đập vào cửa cổng để làm cho người ta chú ý. Một vị sư sãi xuất hiện, tay cầm một cây gậy, lúc đó chúng tôi sợ đến nổi tưởng chừng như cây gậy to lớn bội phần. Vị sư sãi cất tiếng hỏi:

– Chúng bây muốn gì, lũ tiểu quỷ? Chúng bây tưởng rằng tao không có việc gì làm khác hơn là phải mở cửa cho những lũ tiểu yêu như tụi bây sao?

Tôi đáp:

– Chúng tôi muốn trở nên tu sĩ.

– A! Tu sĩ? Tụi bây giống như lũ khỉ thì đúng hơn. Hãy đứng đợi tại đây, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp chúng bây khi nào Người có thời giờ.

Cánh cửa lớn đóng sầm lại rất mạnh, và một bạn đồng đội với tôi vô ý đứng gần bên suýt bị té ngã. Chúng tôi ngồi xuống đất vì đứng lâu đã mỏi chân. Lác đác có vài người đã vào tu viện. Một mùi đồ ăn xào nấu ngon lành từ nhà bếp bay lọt ra ngoài cửa sổ và phảng phất trong không khí, làm cho tôi cảm thấy như chịu một cực hình vì cơn đói bụng mỗi lúc càng tăng. Ôi! Thức ăn ngon lành ấy tuy ở gần kề một bên, nhưng đồng thời cũng lại xa cách với chúng tôi biết bao!

For some time we knocked timidly, and nothing happened. Then one of the others stooped and picked up a large stone and really did make enough noise to attract attention. A monk appeared, waving a stick which to our frightened eyes looked as large as a  young tree. “What do you young devils want?” he exclaimed. “Do you think that I have nothing better to do than answer the door to such as you?” “We want to be monks,” I replied. “You look more like monkeys to me,” he said. “Wait there and do not move, the Master of the Acolytes will see you when he is ready.” The door slammed shut, nearly knocking one of the other boys flat on his back, he having moved incautiously near. We sat  upon the ground, our legs were tired with standing. People came to the lamasery, and went. The pleasant smell of food was wafted to us through a small window, tantalizing us with the thought of satisfying our growing hunger. Food, so near, yet so utterly unattainable.

Sau cùng cánh cửa lớn lại mở rộng, và một vị sư sãi dáng cao và gầy ốm xuất hiện. Ông ta quát to:

– Lũ tiểu yêu, chúng bây muốn gì đây, hử?

– Chúng tôi muốn trở thành tu sĩ.

Ông ta nói lớn:

– Lạy trời, đời nay sao có chuyện lạ vậy?

Người tu sĩ ra hiệu cho chúng tôi bước vào bên trong bức tường rào của tu viện. Người ấy hỏi chúng tôi là những thứ gì, chúng tôi là ai, và thậm chí tại sao chúng tôi sinh ra đời để làm gì!

Thật không khó gì mà hiểu rằng chúng tôi không gây ra nơi người ấy một ấn tượng tốt lành nào cả!

Ông ta nói với thiếu nhi đầu tiên, người này tự xưng là con của một người mục đồng:

– Vô đây mau lên. Nếu ngươi vượt qua được những cuộc thử thách, thì ngươi sẽ được thu nhận.

Kế đó ông ta nói với người thiếu nhi kia:

– Còn thằng kia? … sao, mi nói gì? … cha mi làm nghề đồ tể? A! đó là người hàng thịt, một người phạm giới sát sinh và không tuân theo giới luật của Phật. Vậy mà mi còn dám tới đây? Cút đi mau kẻo ta lại cho mi ăn gậy bây giờ!

Nói xong ông ta nhảy tới chụp lấy thằng nhỏ, thằng này thấy thế nguy bèn quên cả sự mệt nhọc và cố gắng thu thập tinh thần. Nhanh như chớp, nó quay đầu trở lại, phóng ra ngoài đường lộ và chạy một mạch vắt giò lên cổ, làm cho đường cái dậy bụi lên từng đợt nhỏ.

At last the door was flung open with violence, and a tall, skinny man appeared in the opening. “Well!” he roared. “And what do you miserable scamps want?” “We want to be monks,” we said. “Goodness me,” he exclaimed. “What garbage is coming to the lamasery nowadays!” He beckoned us to enter the vast walled enclosure which was the perimeter of the lamasery grounds. He asked us what we were, who we were, even why we were! We gathered, without difficulty, that he was not at all impressed with us. To one, the son of a herdsman, he said: “Enter quickly, if you can pass your tests you can stay.” To the next: “You, boy. What did you say? Son of a butcher? A cutter-up of flesh? A transgressor of the Laws of Buddha? And you come here? Be off with you, quickly, or I will have you flogged round the road.” The poor wretched boy forgot his tiredness in a sudden burst of speed as the monk lunged at him. Wheeling in a flash he leaped forward, leaving little scuffs of disturbed dust as his feet touched the ground in his hurry.

Chỉ còn lại một mình tôi. Người tu sĩ quay lại nhìn tôi với cặp mắt hung tợn và tôi cảm thấy sợ sệt đến nỗi chút nữa tôi đã ngất xỉu ngay tại chổ! Ông ta bèn quơ gậy một cách hâm dọa và quát lớn:

– Còn thằng nhỏ này! Mi là ai? … A ha! Con một vị hoàng thân quốc thích mà muốn trở thành tu sĩ. Nhưng trước hết mi phải chứng minh giá trị của mi tới đâu, cùng những gì mi có trong bụng. Đây không phải là chỗ của những con nhà quý tộc ương hèn, nhu nhược. Mi hãy lui lại bốn chục bước và ngồi yên tại chỗ theo tư thế ngồi thiền cho đến khi có lệnh mới. Cấm không được cựa quậy chí đến một sợi lông nheo!

Nói xong, ông ta lui gót đi ngay. Tôi lặng lẽ thu nhặt khăn gói và lùi lại bốn chục bước, ngồi xuống trong tư thế kiết già theo như lời dặn. Tôi ngồi yên như thế suốt ngày không cựa quậy. Những cơn gió lốc hất vào mình tôi những bụi bậm của đường xá, lần lần cát bụi đóng vào mình tôi, chất từng đống nhỏ trên hai bàn tay lật ngửa, trên vai và len lỏi vào tóc tai của tôi.

Now I was left, alone on my seventh birthday. The gaunt monk turned his fierce gaze in my direction, almost causing me to shrivel on the spot with fright. He twitched his stick menacingly “And you? What have we here? Oho! A young prince who wants to turn religious. We must see what you are made of first, my fine fellow. See what kind of stuffing you have; this is not the place for soft and pampered princelings. Take forty paces backwards and sit in the attitude of contemplation until I tell you otherwise, and do not move an eyelash!” With that he turned abruptly and went away. Sadly I picked up my pathetic little bundle, and took the forty steps back. On my knees I went, then sat cross-legged as commanded. So I sat throughout the day. Unmoving. The dust blew against me, forming little mounds in the clips of my upturned hands, piling on my shoulders and lodging in my hair.

Khi ánh sáng mặt trời mỗi lúc càng yếu dần, tôi càng cảm thấy đói khát hơn, một cơn khát nước như cực hình, nó làm khô cuống họng tôi. Từ lúc sáng sớm đến giờ tôi chưa ăn uống gì cả. Những sư sãi trong tu viện rất đông, họ đi qua lại không ngớt, nhưng không ai để ý đến tôi.Vài con chó hoang thỉnh thoảng ngừng lại, đưa mỏ vào mình tôi để đánh hơi một cách tò mò, rồi lại bỏ đi. Một đám trẻ nhỏ đi ngang qua. Một đứa trong bọn chúng không có việc gì làm, chắc hẳn là ngứa tay, bèn ném vào mình tôi một viên sỏi trúng nơi màn tang, máu chảy ròng ròng. Nhưng tôi vẫn không cựa quậy. Tôi đã quá sợ hãi. Nếu tôi thất bại trong cơn thử thách này, cha tôi sẽ không để cho tôi trở về nhà và tôi sẽ không biết phải đi đâu. Tôi không còn có thể làm gì hơn là ngồi yên, âm thầm chịu khổ sở với các bắp thịt đau đớn như dần và những khớp xương tê cứng.

Mặt trời đã khuất dạng sau những dãy núi, và đêm tối đã đến. Các tinh tú chói lập lòe trên nền trời u ám. Hàng nghìn những ngọn đèn nhỏ thắp bằng bơ chiếu sáng ở các cửa sổ của những tu viện. Một ngọn gió lạnh như băng đã dậy lên. Tôi nghe tiếng gió rít lạnh lùng và tiếng lá xào xạc trên những cành liễu cùng với những tiếng động làm thành bản nhạc lạ lùng bí hiểm của ban đêm.

As the sun began to fade my hunger increased and my throat was wracked with the harshness of thirst, for I had had no food or drink since the first fight of dawn. Passing monks, and there were many, took no heed. Wandering dogs paused a while to sniff curiously, then they too went away. A gang of small boys came past. One idly flipped a stone in my direction. It struck the side of my head and caused the blood to flow. But I did not stir. I was afraid to. If I failed my endurance test my father would not allow me to enter what had been my home. There was nowhere for me to go. Nothing that I could do. I could only remain motionless, aching in every muscle, stiff in every joint.

The sun hid behind the mountains and the sky became dark. The stars shone bright against the blackness of the sky. From the lamasery windows thousands of little butter lamps flickered into flame. A chill wind, the leaves of the willows hissed and rattled, and about me there were all the faint sounds which go to make the strange noises of the night.

Dù việc gì đã xảy ra, tôi vẫn ngồi yên bất động, vì hai lý do chính:

Một là vì tôi quá sợ hãi, và hai là tứ chi của tôi đã quá tê cứng để có thể cử động được. Khi đó, tôi nghe có tiếng dép đi trên đất cát. Tôi nhận ra đó là những bước chân của một ông lão đang lần mò tìm đường đi trong bóng tối. Một bóng đen xuất hiện trước mặt tôi, đó là một vị sư sãi già đã còng lưng và mệt mỏi sau bao nhiêu đêm khổ hạnh. Những bàn tay của người đã run, điều này không làm ngạc nhiên khi tôi thấy ông ta làm đổ nghiêng chén trà cầm nơi tay. Trong bàn tay kia, ông ta cầm một bát Tsampa, và đưa cho tôi luôn cả hai thứ. Tôi vẫn ngồi yên không cử động. Ông ta nói:

– Con hỡi, hãy cầm lấy, vì con có quyền cử động trong những giờ ban đêm.

Tôi bèn uống chén trà, và sớt món Tsampa vào cái chén riêng của tôi. Ông lão lại nói:

– Bây giờ con hãy ngủ đi nhưng khi trời hừng sáng, con hãy ngồi lại trong tư thế cũ, vì đây là một cuộc thử thách chứ không phải là một hình phạt vô ích, những kẻ nào vượt qua cuộc thử thách này mới có thể được thu nhận vào dòng tu của chúng ta.

Nói xong, ông lão cầm lấy những chén bát và đi thẳng. Tôi bèn đứng dậy, vươn vai, duỗi thẳng tay chân, rồi nằm xuống nghỉ lưng; tôi vừa nằm nghiêng một bên vừa ăn chén stampa. Quả thật là tôi đã quá kiệt sức. Sau khi ăn no, tôi kê cái gói áo để gối đầu và nằm luôn dưới đất.

I still remained motionless for the strongest of reasons. I was too frightened to move and I was very stiff. Presently came the soft sush-sush of approaching monks’ sandals slithering over the gritty way; the steps of an old man feeling his way in the darkness. A form loomed up before me, the form of an old monk bent and gnarled with the passage of austere years. His hands shook with age, a matter of some concern to me when I saw that he was spilling the tea he was carrying in one hand. In the other hand he held a small bowl of tsampa. He passed them to me. At first I made no move to take them. Divining my thoughts, he said: “Take them, my son, for you can move during the hours of darkness.” So I drank the tea and transferred the tsampa to my own bowl. The old monk said, “Now sleep, but at the first rays of the sun take your stance here in the same position, for this is a test, and is not the wanton cruelty which you may now consider it to be. Only those who pass this test can aspire to the higher ranks of our Order.” With that he gathered up the cup and the bowl and went away. I stood and stretched my legs, then lay upon my side and finished the tsampa. Now I was really tired, so scooping a depression in the ground to accommodate my hip bone, and placing my spare robe beneath my head, I lay down.

Bảy năm của cuộc đời tôi trên thế gian này thật là không được sung sướng chút nào. Cha tôi luôn tỏ ra nghiêm khắc trong mọi việc, nghiêm khắc một cách kinh khủng, tuy vậy đây là lần đầu tiên mà tôi ngủ xa nhà và suốt ngày hôm đó tôi không hề sửa đổi tư thế, hoàn toàn ngồi yên bất động, xác thể bị dày vò vì cơn đói khát. Tôi không biết ngày mai sẽ đưa đến cho tôi số phận như thế nào, và người ta sẽ bắt tôi phải chịu những điều gì nữa. Nhưng bây giờ, tôi phải ngủ, ngủ dưới màn trời lạnh lẽo, cô đơn, một mình với sự sợ hãi bóng tối, một mình với sự sợ hãi những ngày sắp tới.

Dường như tôi chỉ nhắm mắt được không bao lâu thì đã thức giấc vì tiếng kèn thổi vang tai. Tôi vừa mở mắt đã thấy ánh bình minh phản chiếu trên nền trời đằng sau những dãy núi. Tôi hối hả thức dậy và liền giữ lấy tư thế ngồi thiền. Trước mặt tôi, cả tu viện điều đã dần dần thức giấc. Lúc đầu nó giống như một thành phố bị đắm chìm trong giấc ngủ. Kế đó, tiếng động nhẹ ban đầu mỗi lúc càng tăng dần dần và tu viện trở thành ồn ào náo nhiệt như một cái tổ ong vò vẽ trong một ngày mùa hạ. Khi mặt trời ló dạng, những toán sư sãi đầu cạo sạch bóng đi qua lại trong những cửa tu viện.

My seven years had not been easy years. At all times father had been strict, frightfully strict, but even so this was my first night away from home and the whole day had been spent in one position, hungry, thirsty, and motionless. I had no idea of what the morrow would bring, or what more would be demanded of me. But now I had to sleep alone beneath the frosty sky, alone with my terror of the darkness, alone with my terrors of the days to come.

It seemed that I had hardly closed my eyes before the sound of a trumpet awakened me. Opening my eyes, I saw that it was the false dawn, with the first light of the approaching day reflected against the skies behind the mountains. Hurriedly I sat up and resumed the posture of contemplation. Gradually the lamasery ahead of me awoke to life. First there had been the air of a sleeping town, a dead, inert hulk. Next, a gentle sighing, as of a sleeper awakening. It grew to a murmur and developed to a deep hum, like the drone of bees on a hot summer’s day. Occasionally there was the call of a trumpet, like the muted chirp of a distant bird, and the deep growl of a conch, like a bullfrog calling in a marsh. As the light increased, little groups of shaven heads passed and repassed behind the open windows, windows which in the earlier pre-dawn light had looked like the empty eye-sockets of a clean-picked skull.

Mặt trời càng lên cao, tôi càng cảm thấy tê buốt các khớp xương, nhưng tôi không dám cử động; tôi không dám ngủ thêm, vì chỉ một cử động nhẹ là tôi đã thất bại và sau đó tôi biết đi đâu? Cha tôi đã nói rõ ràng: Nếu tu viện không bằng lòng thu nhận tôi, thì cha tôi cũng sẽ không nhận tôi trở về. Từng nhóm nhỏ các sư sãi bước ra khỏi các gian nhà của tu viện để làm công việc hàng ngày. Vài thiếu niên đi rảo ngoài sân; đôi khi chúng nó lấy chân đá một cái, hất văng cát bụi bay mù mịt và những viên sỏi nhỏ về phía tôi ngồi, hoặc chúng đua nhau thốt ra những lời thô bỉ, tục tằn, cố ý nhắm vào tôi làm mục tiêu. Thấy tôi không đáp lại, chúng chán nản bỏ đi tìm những nạn nhân khác dễ chọc ghẹo hơn. Một ngày nữa lại qua mau; lần lần mặt trời lại ngả về tây và những ngọn đèn bơ của tu viện lại được thắp sáng. Trong giây lát, tôi đã ngồi dưới ánh sao, vì đó là ngày thượng tuần, trăng lên hơi muộn.

The day grew older, and I grew stiffer, but I dared not move; I dared not fall asleep, for if I moved and failed my test, then I had nowhere to go. Father had made it very clear that if the lamasery did not want me, then nor did he. Little groups of monks came out of the various buildings, going about their mysterious businesses. Small boys wandered around, sometimes kicking a shower of dust and small stones in my direction, or making ribald remarks. As there was no response from me they soon tired of the abortive sport and went away in search of more co-operative victims. Gradually, as the light at eventide began to fail, the little butter-lamps again flickered into life within the lamasery buildings. Soon the darkness was relieved merely by the faint star-glow, for this was the time when the moon rose late. In our saying, the moon was now young and could not travel fast.

Thình lình, tôi cảm thấy lo sợ; hay là người ta đã quên tôi rồi? Hay đây là một cuộc thử thách, trong khi đó tôi phải chịu nhịn đói? Tôi không hề cử động suốt ngày hôm đó, một ngày kéo dài vô tận, và sự đó khát đã làm cho tôi mệt nhừ. Thình lình, một tia hy vọng nhen nhúm trong lòng tôi và làm tôi muốn nhảy dựng lên. Tôi nghe có tiếng chân đi và một bóng đen tiến về phía tôi. Nhưng than ôi, đó là một con chó ngao lớn và đen đang kéo lê một vật gì. Không một mảy may chú ý đến tôi, nó vẫn tiếp tục đi thẳng, cũng không chút xót thương cho cái tình trạng khó khăn của tôi. Niềm hy vọng của tôi bèn sụp đổ. Tôi cảm thấy muốn khóc để chóng lại sự yếu hèn đó, tôi bèn tự nhắc nhở lấy mình rằng chỉ có đàn bà con gái mới dại dột mà sử sự như thế.

I became sick with apprehension; was I forgotten? Was this another test, one in which I had to be deprived of all food? Throughout the long day I had not stirred, and now I was faint with hunger. Suddenly hope flared in me, and I almost jumped to my feet. There was a shuffling noise and a dark outline approached. Then I saw that it was a very large black mastiff dragging something along. He took no notice of me, but went on his nocturnal mission quite uncaring of my plight. My hopes fell; I could have wept. To prevent myself being so weak I reminded myself that only girls and women were as stupid as that.

Sau cùng, tôi nghe tiếng bước chân của vị sư già. Lần này, ông lão nhìn tôi với đôi mắt dịu hiền và nói:

– Con hỡi, đây là những đồ ăn thức uống cho con, nhưng sự thử thách chưa phải là hết. Còn ngày mai nữa. Con hãy nhớ đừng làm một cử động nào, vì có nhiều người đã thất bại vào giờ phút chót.

Nói xong, ông lão từ biệt đi ngay. Trong khi vị sư già nói chuyện, tôi uống chén trà bơ và một lần nữa, sớt stampa vào cái bát riêng của tôi. Một lần nữa, tôi lại nằm dài dưới đất, thật ra cũng không sung sướng gì hơn đêm trước. Vừa nằm tôi vừa suy nghỉ về cách đối xử bất công này, tôi không còn muốn làm tu sĩ nữa. Người ta không để cho tôi có quyền định đoạt số phận của tôi, chẳng khác nào như tôi là một con lừa bị bắt buộc phải trèo qua một truyền núi, thế thôi. Tôi ngủ thiếp đi trên cái ý nghĩ đó.

At last I heard the old man approaching. This time he gazed more benignly upon me and said: “Food and drink, my son, but the end is not yet. There is still the morrow, so take care that you do not move, for so very many fail at the eleventh hour.” With those words he turned and went away. While he was speaking I had drunk the tea, and again transferred the tsampa to my own bowl. Again I lay down, certainly no happier than the night before. As I lay there I wondered at the injustice of it; I did not want to be a monk of any sect, shape, or size. I had no more choice than a pack animal being driven over a mountain pass. And so I fell asleep.

Ngày hôm sau, cuộc thử thách bước qua ngày thứ ba. Khi tôi ngồi dậy theo tư thế tọa thuyền, tôi cảm thấy yếu sức hơn mọi ngày và đầu óc tôi choáng váng. Tôi thấy tu viện dường như xoay tít trong một khối xa mù gồm những tòa dinh óc, những màu mè sặc sỡ, những đốm đỏ với những núi non và những sư sãi quay cuồng lẫn lộn với nhau một cách vô cùng hỗn độn. Tôi phải làm một cố gắng phi thường để vượt qua được cơn chóng mặt đó. Tôi cảm thấy kinh hoàng với ý nghỉ rằng tôi có thể thất bại sau khi đã chịu tất cả những sự đau khổ trong những ngày qua. Tôi có cảm giác rằng những tảng đá mà tôi ngồi ở trên, lần lần đã trở nên bén nhọn cũng như dao cắt, nó làm cho tôi đau nhức ở những bộ phận nhạy cảm nhất trong mình tôi.

The next day, the third day, as I sat in my attitude of contemplation, I could feel myself becoming weaker, and giddy. The lamasery seemed to swim in a miasma compounded of buildings, bright coloured lights, purple patches, with mountains and monks liberally interspersed. With a determined effort I managed to shake off this attack of vertigo. It really frightened me to think that I might fail now, after all the suffering I had had. By now the stones beneath me seemed to have grown knife edges which chafed me in inconvenient places. In one of my lighter moments I thought how glad I was that I was not a hen hatching eggs, and compelled to sit even longer than I.

Ông mặt trời dường như đứng yên một chỗ; ngày ấy kéo dài như vộ tận. Nhưng sau cùng, ánh nắng bắt đầu dịu bớt, vầng hồng đã xuống thấp và ngọn gió chiều đã thổi phất phơ một sợi lông chim do một con chim én bay qua đã bỏ rớt lại. Lại một lần nữa, những ánh đèn bơ đã lần lượt nối tiếp nhau thấp thoáng qua khung cửa sổ. Tôi thầm nghĩ.

– “Tôi mong sao được chết trong đêm nay, tôi không còn chịu đựng được nữa.”

Ngay lúc ấy, cái bóng đen cao lớn của vị chưởng môn Đoàn Sơ Cơ xuất hiện nơi khung cửa. Ông ta nói:

– Con hỡi, hãy lại đây!

Tôi thử đứng dậy, nhưng hai chân tôi đã chai cứng đến nỗi tôi phải nằm dài trên mặt đất. Người lại nói:

– Nếu con muốn nằm nghỉ, con có thể ở lại đây một đêm nữa. Ta không thể chờ đợi lâu hơn.

Tôi bèn hối hả thu lượm khăn gói và tiến lại gần vị Chưởng Môn với bước đi khập khểnh. Ông ta nói:

– Vào đây. Con hãy dự cuộc lễ tối và sáng mai con hãy đến gặp ta.

The sun seemed to stand still; the day appeared endless, but at long last the light began to fail, and the evening wind commenced to play with a feather dropped by a passing bird. Once again the little lights appeared in the windows, one by one. “Hope I die tonight,” I thought; “can’t stick any more of this.” Just then the tall figure of the Master of the Acolytes appeared in the distant doorway. “Boy, come here!” he called. Trying to rise with my stiffened legs, I pitched forward on to my face. “Boy, if you want a rest you can stay there another night. I shall not wait longer.” Hastily I grabbed my bundle and tottered towards him. “Enter,” he said, “and attend evening service, then see me in the morning.”

Bên trong tu viện, không khí rất ấm áp và mùi hương trầm làm cho tôi cảm thấy khỏe mạnh. Vì quá đói, giác quan nhạy cảm của tôi cho tôi biết rằng cách đó không xa chắc có thức ăn no lòng, tôi bèn đi theo một nhóm sư sãi hướng về phía tay mặt. À, có đồ ăn đây rồi: Tsampa và trà bơ! Tôi ráng chen lên hàng đầu dường như tôi đã quen làm như vậy suốt đời tôi!

Các sư sãi toan nắm chớp tôi khi tôi bò bốn cẳn luồng qua chân họ để đi tới trước nhưng vô ích; tôi đang muốn ăn, và không có gì có thể ngăn cản tôi được nữa. Sau khi đã ăn uống no lòng, tôi theo chân các sư sãi vào trong nội điện để dự cuộc lễ. Tôi đã quá mệt mỏi để có thể hiểu biết những gì xảy ra, nhưng không ai để ý đến tôi. Sau cuộc lễ, khi các sư sãi sắp hàng một đi ra ngoài, tôi mới lẻn ra phía sau một cây cột lớn, nằm dài xuống mặt sàn bằng đá, gối đầu trên cái bọc vải đựng quần áo của tôi và ngủ một giấc ngon lành.

It was warm inside, and there was the comforting smell of incense. My hunger-sharpened senses told me there was food quite near, so I followed a crowd moving to the right. Food—tsampa, buttered tea. I edged my way to the front row as if I had had a lifetime of practice. Monks made ineffectual grabs at my pigtail as I scrambled between their legs, but I was after food and nothing was going to stop me now.

Feeling a little better with some food inside me, I followed the crowd to the inner temple and the evening service. I was too tired to know anything about it, but no one took any notice of me. As the monks filed out I slipped behind a giant pillar, and stretched out on the stone floor, with my bundle beneath my head. I slept.

Tôi đang mơ màng giấc điệp thì những tiếng động chung quanh đánh thức tôi dậy một cách phủ phàng. Có những giọng nói thốt lên:

– À, một con ma mới. Một đứa con nhà giàu. Ta hãy đánh cho nó một trận!

Một chú tiểu Sơ Cơ phất lên trên không cái áo dài thay đổi mà y đã rút ra trong bọc quần áo gói đầu của tôi, một tên khác đoạt lấy đôi giầy ủng của tôi. Một nắm Tsampa mềm và ướt từ đâu ném tới trúng vào giữa mặt tôi. Những cú đấm đá tới tấp như mưa nhắm vào tôi từ tứ phía, nhưng tôi không tự vệ. Đó có thể là một cuộc thử thách để xem tôi có tuân theo hay chăng, lời răn thứ mười sáu nói rằng: “Ngươi hãy chịu đựng sự đau khổ và tai họa một cách kiên nhẫn và an phận.”

A stunning crash—I thought my head had split—and the sound of voices. “New boy. One of the high-born. Come on, let’s scrag him!” One of the crowd of acolytes was waving my spare robe, which he had pulled from under my head, another had my felt boots. A soft, squashy mass of tsampa caught me in the face. Blows and kicks were rained upon me, but I did not resist, thinking it might be part of the test, to see if I obeyed the sixteenth of the Laws, which ordered: Bear suffering and distress with patience and meekness.

Bỗng nghe có tiếng quát lớn: “Có chuyện gì xảy ra ở đây?” kế đó là những tiếng thì thầm sợ hãy:

– À! Vị chưởng Môn đã đến! Chúng ta đã bị bắt quả tang!

Tôi đang lo gỡ miếng Tsampa ra khỏi mắt tôi, thì vị chưởng Môn nhóm Sơ Cơ liền quay về phía tôi, nắm lấy cái bím tóc tôi và kéo tôi đứng dậy.

– Đồ gà mái ướt! Đồ nhu nhược! Mi mà muốn trở thành một nhà lãnh đạo tương lai? Hãy lãnh lấy mấy quả đấm này!

Kế đó, tôi bị đòn dưới một trận mưa quả đấm tàn bạo.

– “Đồ vô dụng, đồ hèn, thậm chí mi cũng không biết tự vệ…” những cú đấm đá vẫn tiếp tục dường như không bao giờ ngừng.

There was a sudden loud bellow: “What’s going on here?” A frightened whisper: “Oh! It’s old Rattlebones on the prowl.” As I clawed the tsampa from my eyes the Master of the Acolytes reached down and dragged me to my feet by my pigtail. “Softly! Weakling! You one of the future leaders? Bah! Take that, and that!” Blows, hard ones, absolutely showered upon me. “Worthless weakling, can’t even defend yourself!” The blows seemed non-ending.

Tôi bèn nhớ lại lời nói của võ sư Tzu lúc ông từ giã tôi:

– “Con hãy làm bổn phận, và hãy nhớ tất cả những gì ta đã dạy con.”

Tôi bèn giữ thế thủ và lừa dịp đưa tay đẩy nhẹ một cái theo một thế võ Tây Tạng mà võ sư Tzu đã dạy tôi. Vị Chưởng Môn, trong lúc bất thần không kịp đỡ, vừa thốt lên một tiếng rên siết vì đau đớn, vừa bay bổng lên khỏi đầu tôi, rơi xuống sàn gạch trong tư thế nằm sắp rồi chùi tới trước trên cái sóng mũi, làm sóng mũi bị lột da, và ngừng lại khi đầu ông ta va vào một cái cột lớn với một tiếng động kinh hồn!

Tôi thầm nghĩ: “Thôi rồi! Phen này mình chắc chết. Âu cũng đành vậy để chấm dứt tất cả mọi nỗi lo âu.” Thế giới dường như ngừng lại. Những thiếu niên Sơ Cơ đều nín thở. Một tiếng hét lớn, trong chớt mắt vị Chưởng Môn cao lớn và xương xẩu đã đứng phắt dậy. Máu từ trong hai lỗ mũi ông ta tuông ra đỏ lờm. Thật là một cảnh tượng quái gở, vì khi đó ông ta cất lên tiếng cười vang trong một chuỗi cười dài cởi mở và thật tình! Ông ta nói với tôi:

– À, vậy mi là một con gà chọi, phải chăng? Gà chọi hay chuột ướt? Mi là giống nào? Để còn xem lại mới biết.

Vị Chưởng Môn bèn quay lại phía một thiếu niên mười bốn tuổi, có một thân xác to lớn rồi đưa tay ra hiệu và nói:

– Nga Quắn, mi là con trâu mộng nặng cân nhất của tu viện này. Mi hãy tỏ cho mọi người thấy rằng con nhà lái buôn có giá trị hơn con nhà vương giả hay chăng trong một cuộc đấu võ.

I fancied I heard Old Tzu’s farewell saying: “Acquit yourself, well, remember all I have taught you.”  Unthinkingly I turned and applied a little pressure as Tzu had taught me. The Master was caught by surprise and with a gasp of pain he flew over my head, hit the stone floor, and skidded along on his nose, taking all the skin off, and coming to rest when his head hit a stone pillar with a loud “onk!” “Death for me,” I thought, “this is the end of all my worries.” The world seemed to stand still. The other boys were holding their breath. With a loud roar the tall, bony monk leaped to his feet, blood streaming from his nose. He was roaring all right, roaring with laughter. “Young gamecock, eh? Or cornered rat; which? Ah, that’s what we must find out!” Turning and pointing to a tall, ungainly boy of fourteen, he said: “You, Ngawang, you are the biggest bully in this lamasery; see if the son of a yak-driver is better than the son of a prince when it comes to fighting.”

Lần đầu tiên trong đời, tôi thầm tạ ơn ông Tzu, vị võ sư già của tôi. Thuở thiếu thời, ông ta từng là một chuyên gia về môn võ thuật Tây Tạng, một tay vô địch xuất xứ từ vùng Kham. Theo lời ông ta nói, ông ta đã truyền lại cho tôi tất cả các thế võ bí truyền, nhờ đó tôi có thể đối địch với cả những người lớn. Tôi đã tiến bộ rất nhiều về môn võ thuật này, trong đó sức mạnh và tuổi tác không có ích lợi gì cả. Vì cuộc đấu võ này quyết định tương lai của tôi, nên sau cùng tôi cảm thấy yên tâm.

For the first time I was grateful to Tzu, the old police monk. In his younger days he had been a champion judo* expert of Kham. He had taught me—as he said—“all he knew”. I had had to fight with fully grown men, and in this science, where strength or age does not count, I had become very proficient indeed. Now that I knew that my future depended on the result of this fight, I was at last quite happy.

Nga Quắn là một thanh niên lực lưỡng và khỏe mạnh, nhưng thiếu lanh lẹ mềm dẻo trong những cử động của y. Hiển nhiên là y đã quen những cuộc đánh đấm hung hăng trong đó bạo lực của y giúp cho y nắm ưu thế. Y lao mình tới trước để nắm lấy tôi và quyết hạ được tôi. Tôi không nao núng, nhờ đã có học võ với ông Tzu và trong huấn luyện, đôi khi ông ta cũng tỏ ra bạo tàn. Khi Nga Quắn khởi thế công, tôi bước qua một bên để tránh và thuận tay tôi vặn một cánh tay của y. Hai chân y bị mất thăng bằng, y lảo đảo xoay nửa vòng trước khi té ngã chúi đầu xuống đất. Y nằm rên một hồi trên sàn gạch, rồi thình lình y đứng dậy và phóng tới tôi. Tôi thụp xuống, ngã mình trên sàn gạch và đưa tay vặn một chân của y vào lúc y sắp sửa đè lên mình tôi. Lần này y xoay trọn một vòng, lảo đảo trên hai chân và té ngã, vai trán nện xuống đất. Nhưng y chưa thật sự đo ván. Y cố gắng đứng lên và đi thận trọng từng bước chung quanh tôi, rồi thình lình nhảy qua một bên, y chụp một cái đỉnh bằng đồng có dây xích và quay tít nó lên trên không. Một khí giới như vậy thật là chậm chạp, nặng nề và dễ tránh. Tôi bước một bước tới trước, luồn mình dưới nách y và đưa một ngón tay nhẹ nhàng điểm vào chỗ nhược ở phía dưới của y, như võ sư Tzu thường chỉ dạy cho tôi về môn điểm huyệt. Y liền ngã lăn xuống đất như một tảng đá hai tay buông sợi dây xúc xích, cái đỉnh đồng bị hất văng vào đám trẻ sơ cơ và nhóm sư sãi đang đứng chung quanh nhìn xem chuộc đấu võ gây lên một cuộc náo động ồn ào.

Ngawang was a strong and well-built boy, but very ungainly in his movements. I could see that he was used to rough-and-tumble fighting, where his strength was in his favour. He rushed at me, intending to grip me and make me helpless. I was not frightened now, thanks to Tzu and his, at times, brutal training. As Ngawang rushed, I moved aside and lightly twisted his arm. His feet skidded from under him, he turned a half-circle and landed on his head. For a moment he lay groaning, then sprang to his feet and leapt at me. I sank to the ground and twisted a leg as he passed over me. This time he spun around and landed on his left shoulder. Still he was not satisfied. He circled warily, then jumped aside and grasped a heavy incense burner which he swung at me by its chains. Such a weapon is slow, cumbersome, and very easy to avoid. I stepped beneath his flailing arms, and lightly stabbed a finger to the base of his neck, as Tzu had so often showed me. Down he went, like a rock on a mountainside, his nerveless fingers relinquishing their grip on the chains, and causing the censer to plummet like a slingshot at the group of watching boys and monks.

Nga Quắn nằm bất tỉnh trong nửa giờ. Sự điểm huyệt đặc biệt đó thường làm cho linh hồn rời khỏi thể xác để đi châu du trên cõi trung giới hoặc để có những hoạt dộng tương tự.

Vị Chưởng Môn Đoàn Sơ Cơ tiến đến gần tôi, vỗ vai tôi một cái thật mạnh làm tôi suýt nữa cũng lại nằm đo ván, và nói:

– Con hỡi, quả thật con là người hùng.

Tôi đánh bạo đáp lại:

– Như vậy bạch sư tôn, con có xứng đáng được ăn uống chút ít gì chăng? Từ mấy ngày nay, con chưa được ăn uống đầy đủ bữa nào.

Vị Chưởng Môn nói:

– Con hỡi, con hãy ăn uống cho thỏa lòng. Sau đó, con hãy bảo một đứa trong nhóm sơ cơ dẫn đường cho con đến gặp ta. Từ nay con sẽ làm trưởng đoàn dể dạy võ nghệ cho chúng nó.

Vị sư già đã đem thêm thức ăn cho tôi hai đêm trước cũng vừa đến ngay khi đó. Ông ta nói:

– Con hỡi, con đã hành động xứng đáng. Nga Quắn đã tỏ ra hống hách đối với nhóm sơ cơ. Con hãy thay chân nó ở chức vụ đoàn trưởng, nhưng con hãy có lòng từ bi nhân hậu trong mọi quyết định. Con đã có một sự giáo dục rất tốt. Con hãy sử dụng tài nghệ của con cho đúng chỗ và chớ nên truyền thụ võ nghệ cho những kẻ không xứng đáng. Bây giờ con hãy theo ta và ta sẽ cho con ăn uống no lòng.

Ngawang was unconscious for about half an hour. That special “touch” is often used to free the spirit from the body for astral traveling and similar purposes.

The Master of the Acolytes stepped forward to me, gave me a slap on the back which almost sent me flat on my face, and made the somewhat contradictory statement: “Boy, you are a man!” My greatly daring reply was: “Then have I earned some food, sir, please? I have had very little of late.” “My boy, eat and drink your fill, then tell one of these hooligans—you are their master now—to show you to me.”

The old monk who had brought me food before I entered the lamasery came and spoke to me: “My son, you have done well, Ngawang was the bully of the acolytes. Now you take his place and control with kindness and compassion. You have been taught well, see that your knowledge is used well, and does not fall into the wrong hands. Now come with me and I will get you food and drink.”

Khi tôi đến tư thất của người, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp đón tôi một cách rất ưu ái. Người nói:

– Con hãy an tọa. Ta muốn biết xem về mặt trí thức con có xuất sắc như về môn võ nghệ không. Con hãy coi chừng, ta sẽ hỏi khó con đấy.

Kế đó, người mới đưa ra cho tôi nhiều câu hỏi, vừa sát hạch, vừa viết tay. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc nệm, và cuộc trắc nghiệm diễn ra suốt sáu tiếng đồng hồ, trước khi người tuyên bố hài lòng về sự giải đáp của tôi. Tôi cảm thấy đã mệt mỏi, người bèn đứng dậy và nói:

– Con hãy theo ta. Ta sẽ đưa con vào trình diện với vị Sư Trưởng. Đó là một cái vinh dự đặc biệt, con sẽ hiểu lý do tại sao.

The Master of the Acolytes greeted me amiably when I went to his room. “Sit, boy, sit. I am going to see if your educational prowess is as good as your physical. I am going to try to catch you, boy, so watch out!” He asked me an amazing number of questions, some oral, some written. For six hours we sat opposite each other on our cushions, then he expressed himself as satisfied. I felt like a badly tanned yak-hide, soggy and limp. He stood up. “Boy,” he said, “follow me. I am going to take you to the Lord Abbot. An unusual honour, but you will learn why. Come.”

Tôi đi theo vị Chưởng Môn qua những hành lang rộng lớn, những văn phòng, những nội điện, những lớp học… Chúng tôi buớc lên một thang lầu, vượt qua những hành lang chằng chịt như mê cung, đi ngang những thánh điện thờ vị Thần và kho chứa các loại thảo dược. Lại lên một cầu thang nữa, sau cùng chúng tôi bươc lên sân thượng, trên nóc bằng của tu viện và đi về phía tịnh thất của vị Sư Trưởng. Đến trước cửa, có một tượng Phật bằng vàng, biểu tượng của ngành Y học; qua khỏi cửa chúng tôi đã bước vào tu thất của Sư Trưởng.

Vị Chưởng Môn dặn tôi:

– Con hãy vái chào đảnh lễ và làm theo ta.

Người liền cúi lạy vị Sư Trưởng sau khi đã chắp tay vái ba lần. Tôi làm theo, trong lòng hồi hộp. Vị Sư Trưởng điềm nhiên nhìn chúng tôi, và nói:

– Các con hãy an tọa.

Through the wide corridors I followed him, past the religious offices, past the inner temples, and the school rooms. Up the stairs, through more winding corridors, past the Halls of the Gods, and the storage places of herbs. Up more stairs, until, at last, we emerged on the flat roof and walked towards the Lord Abbot’s house which was built upon it. Then through the gold-paneled doorway, past the golden Buddha, round by the Symbol of Medicine, and into the Lord Abbot’s private room. “Bow, boy, bow, and do as I do. Lord, here is the boy Tuesday Lobsang Rampa.” With that, the Master of the Acolytes bowed three times, then prostrated himself upon the floor. I did the same, panting with eagerness to do the right thing in the right way. The impassive Lord Abbot looked at us and said: “Sit.” We sat upon cushions, cross-legged, in the Tibetan way.

Chúng tôi ngồi trên những chiếc nệm, hai chân xếp bằng. Vị Sư Trưởng im lặng nhìn tôi một lúc rất lâu. Kế đó người nói:

– Hỡi Lobsang, ta biết tất cả những gì về con, tất cả những gì đã được tiên tri từ trước. Cuộc thử thách mà con đã phải chịu, thật là gian lao. Con sẽ hiểu lý do tại sao trong một vài năm nữa. Nhưng còn bây giờ, con hãy biết rằng trong một ngàn sư sãi, chỉ có một hai người là có khả năng học hỏi những việc cao xa, và có thể đạt tới một trình độ tiến hóa cao, còn bao nhiêu thì chỉ làm những bổn phận thông thường hằng ngày. Họ là những người làm việc bằng tay chân, và lần chuỗi tụng niệm mà thôi, chứ không cần học hỏi gì cả. Ở đây không thiếu những người đó. Chúng ta chỉ thiếu những người giữ gìn cái kho tàng kiến thức Huyền Môn khi xứ này bị nạn ngoại xâm. Con sẽ được thụ huấn đặc biệt, một sự huấn luyện ráo riết để trong vài năm ngắn ngủi con sẽ có nhiều kiến thức hơn là một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một đời. Con đường Đạo sẽ gay go, hiểm trở và thường là dẫy đầy gian khổ. Thật vậy, tu luyện để có được nhãn quang thần thông đòi hỏi nhiều công phu rất khó nhọc, và xuất hồn đi châu du trên cõi trung giới đòi hỏi hành giả phải có một bộ thần kinh hệ vững chắc không gì lay chuyển và một ý chí cứng rắn như sắt đá.

For a long time the Lord Abbot remained looking at me, but not speaking. Then he said: “Tuesday Lobsang Rampa, I know all about you, all that has been predicted. Your trial of endurance has been harsh but with good reason. That reason you will know in later years. Know now that of every thousand monks, only one is fitted for higher things, for higher development. The others drift, and do their daily task. They are the manual workers, those who turn the prayer-wheels without wondering why. We are not short of them, we are short of those who will carry on our knowledge when later our country is under an alien cloud. You will be specially trained, intensively trained, and in a few short years you will be given more knowledge than a lama normally acquires in a long lifetime. The Way will be hard, and often it will be painful. To force clairvoyance is painful, and to travel in the astral planes requires nerves that nothing can shatter, and a determination as hard as the rocks.”

Tôi chăm chú nghe với tất cả tâm hồn, không mất một chữ nào. Những điều đó đối với tôi dường như quá khó khăn. Tôi không có một nghị lực cứng cỏi đến bực đó! Vị Sư Trưởng nói tiếp:

– Ở đây con sẽ học y khoa và khoa chiêm tinh. Chúng ta sẽ giúp đỡ con về mọi mặt. Con cũng sẽ học các pháp môn bí truyền. Con đường của con đã được vạch sẵn, hỡi Lobsang. Tuy con mới có bảy tuổi, ta nói với con như nói với một người lớn, vì vậy con sẽ được giáo dục như một người trưởng thành.

Nói xong, Sư Trưởng khẽ nghiêng đầu, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ bèn đứng dậy và cúi rập mình chào rất lâu. Tôi làm y theo vị Chưởng Môn và chúng tôi cùng lui ra. Khi về đến tư thất, vị Chưởng Môn mới phá tan sự im lặng:

– Con hỡi, con sẽ phải làm việc nhiều. Nhưng chúng ta sẽ giúp đỡ con hết lòng. Bây giờ, con hãy theo ta, để ta chỉ chổ cho con đi cắt tóc.

Ở Tây Tạng, khi một đứa thiếu sinh bước vào tu viện, người ta bắt y cạo hết tóc, chỉ trừ một cái chõm nhỏ ở đỉnh đầu, cái chõm này cũng sẽ được cạo luôn vào ngày mà y nhận được một pháp danh mới và bỏ cái tên cũ.

I listened hard, taking it all in. It all seemed too difficult to me. I was not that energetic! He went on: “You will be trained here in medicine and in astrology. You will be given every assistance which we can render. You will also be trained in the esoteric arts. Your Path is mapped for you, Tuesday Lobsang Rampa. Although you are but seven years of age, I speak to you as a man, for thus you have been brought up.” He inclined his head, and the Master of the Acolytes rose and bowed deeply. I did the same, and together we made our way out. Not until we were again in the Master’s room did he break the silence. “Boy, you will have to work hard all the time. But we will help you all we can. Now I will have you taken to get your head shaved.” In Tibet, when a boy enters the priesthood, his head is shaved with the exception of one lock. This lock is removed when the boy is given the “priest-name”, and his former name is discarded, but more of that a little further on.

Vị Chưởng Môn đưa tôi đi qua một dãy hành lang đến một gian phòng nhỏ, dùng làm nơi hớt tóc, tại đây người ta bảo tôi ngồi xuống đất. Vị Chưởng Môn nói:

– Tâm Chu, ngươi hãy cạo sạch tóc cho người thiếu nhi này. Ngươi cũng cạo luôn cái chõm vì y sẽ nhận pháp danh luôn ngày hôm nay.

Tâm Chu bước tới, với bàn tay mặt y nắm lấy cái bín tóc của tôi, dở hỏng lên, và nói:

– À, à, cậu nhỏ này. Bín tóc đẹp thật, thoa bơ láng bóng và giữ gìn cẩn thận. Cắt nó đi thật là sướng tay xiết bao.

Y bèn lấy một cây kéo rất lớn, giống như loại kéo mà những người nô bộc nhà tôi dùng để xén cây làm vườn, và gọi to:

– Tư Tỷ, lại đây cầm dùm một đầu.

Tư Tỷ, người phụ tá của y, chạy đến và kéo cái bín tóc của tôi mạnh đến nỗi tôi gần bị dở hỏng lên khỏi mặt đất. Miệng há hốc, Tâm Chu bắt tay vào việc với cây kéo cùn. Sau nhiều cơn bực mình và cằn nhằn, cái bín đã cắt xong. Nhưng đó chỉ là mới đầu. Người phụ tá đem tới một thau nước nóng bỏng đến nổi, khi y dội nước lên đầu tôi, tôi đau điếng nhảy nhổm một cái. Người thợ cạo hỏi:

– Có gì không ổn, hử, cậu nhỏ? Phỏng nước sôi chăng?

– Phải đấy, nước nóng quá.

– Đừng sợ, không việc gì, nước nóng như vậy, cạo tóc dễ hơn!

Y vừa đáp vừa lấy con dao ba cạnh, hình tam giác, mà ở nhà tôi người ta thường dùng để cạo sàn gỗ mỗi khi rửa nhà. Sau cùng, sau một thời gian dài dường như vô tận, đầu tôi đã được cạo sạch.

The Master of the Acolytes led me through winding ways to a small room, the “barber shop”. Here I was told to sit on the floor. “Tam-chö,” the Master said, “shave this boy’s head. Remove the name lock as well, for he is being given his name immediately.” Tam-chö stepped forward, grasped my pigtail in his right hand and lifted it straight up. “Ah! my boy. Lovely pigtail, well buttered, well cared for. A pleasure to saw it off.” From somewhere he produced a huge pair of shears—the sort our servants used for cutting plants. “Tishe,” he roared, “come and hold up this end of rope.” Tishe, the assistant, came running forward and held up my pigtail so tightly that I was almost lifted off the ground. With his tongue protruding, and with many little grunts, Tam-chö manipulated those deplorably blunt shears, until my pigtail was severed. This was just the start. The assistant brought a bowl of hot water, so hot that I jumped off the floor in anguish when it was poured on my head. “What’s the matter, boy? Being boiled?” I replied that I was, and he said: “Never mind that, it makes the hair easier to remove!” He took up a three-sided razor, very like the thing we had at home for scraping floors. Eventually, after an eternity, it seemed to me, my head was denuded of hair.

Vị Chưởng Môn bèn gọi tôi vào phòng riêng và đặt cho tôi một pháp danh mới. Đó là một tên Tây Tạng rất dài, nhưng trong quyển sách này, tôi vẫn dùng cái tên cũ cho tiện.

Kế đó, tôi được đưa vào một lớp học. Tôi cảm thấy đầu tôi trơ trẽn như một quả trứng mới đẻ. Vì tôi đã được hấp thụ một nền giáo dục tốt trong gia đình, người ta cho rằng tôi có những kiến thức cao hơn mức trung bình, nên họ xếp tôi vào lớp học của những thiếu niên sơ cơ mười bẩy tuổi. Tôi cảm thấy như một người tí hon sống giữa những người khổng lồ. Những thiếu niên này đã thấy tôi đánh ngã Nga Quắn, nên không ai muốn quấy rầy tôi, trừ ra một đứa lớn xác và ngu xuẩn. Y tiến đến gần từ phía sau lưng tôi và đặt hai bàn tay to lớn và dơ bẩn lên đầu tôi, hãy còn rát và ê ẩm vì mới cạo trọc. Tôi đứng phắt dậy và với một đầu ngón tay, tôi điểm nhẹ vào phía dưới cùi chỏ của y, làm cho y lùi lại thét lên vì đau đớn. Sau vụ ấy, các đứa trẻ khác bèn để tôi yên. Vị Chưởng Môn vừa quay lưng khi đứa trẻ đặt hai tay lên đầu tôi, sau đó mới được biết những gì đã xảy ra. Nhưng kết qủa của vụ xung đột làm cho Vị Chưởng Môn bất giác cười lớn đến nỗi Người vui lòng để cho chúng tôi về sớm.

“Come with me,” said the Master. He led me to his room and produced a big book. “Now, what are we to call you?” He went on mumbling to himself, then, “Ah! here we are: from now on you will be called Yza-mig-dmar Lah-lu.” For this book, however, I shall continue to use the name of Tuesday Lobsang Rampa, as it is easier for the reader.

Feeling as naked as a new-laid egg, I was taken to a class. Having had such a good education at home, I was considered to know more than the average, so was put in the class of the seventeen-year-old acolytes. I felt like a dwarf among giants. The others had seen how I had handled Ngawang, so I had no trouble except for the incident of one big, stupid boy. He came up behind me and put his dirty great hands on my very sore pate. It was just a matter of reaching up and jabbing my fingers into the ends of his elbows to send him away screaming with pain. Try knocking two “funny bones” at once, and see! Tzu really taught me well. The judo instructors whom I was to meet later in the week all knew Tzu; all said he was the finest “judo adept” in the whole of Tibet. I had no more trouble from boys. Our teacher, who had had his back turned when the boy put his hands on my head, had soon noticed what was happening. He laughed so much at the result that he let us go early.

Lúc ấy đã gần tám giờ rưỡi, chúng tôi còn được tự do trong ba khắc đồng hồ trước khi cuộc dự lễ tối đúng chín giờ một khắc. Nhưng tôi đã quá vội mừng. Một vị Lạt Ma ra hiệu cho tôi bước lại gần vào lúc tôi vừa ra khỏi lớp học. Tôi bước đến gần, người nói: “Hãy theo ta.”

Tôi vâng lời đi theo và tự hỏi không biết chuyện gì đang chờ đợi tôi đây. Vị Lạt Ma bước vào một phòng âm nhạc, tại đây có độ hai chục thiếu nhi mới, cũng như tôi. Ba nhạc công sắp sửa chơi nhạc, một người đánh trống, một người thổi tù và, và người thứ ba thổi kèn bằng bạc. Vị Lạt Ma nói:

– Tất cả mọi người cùng hát, để ta có thể sắp đặt giọng hát từng nhóm trong cuộc hợp ca.

Các nhạc công đánh một bản nhạc rất quen thuộc mà ai cũng hát được. Chúng tôi vừa cất tiếng hát… thì cặp chân mày của vị Nhạc Sư đã nhướng lên rất cao! Sự ngạc nhiên hiện trên gương mặt người, kế đó sắc diện người lộ vẻ đau đớn khôn tả. Người đưa hai tay lên tỏ dấu phản đối và kêu to:

– “Ngưng lại! Ngưng lại tất cả! Các em xé cả lỗ tai của đấng Thánh Thần! Hát lại từ đầu và coi chừng!” Chúng tôi hát lại lần nữa, nhưng lần này, người cũng chận chúng tôi lại. Lần này, người bước đến trước mặt tôi và nó:

– Thằng ngốc, mi định chế nhạo ta chăng? Lần này khi nhạc bắt đầu mi sẽ hát một mình vì mi không muốn hòa giọng với những đứa khác. Một lần nữa, các nhạc công lại trổi nhạc, và một lần nữa tôi lại hát. Nhưng không được lâu. Vị Nhạc Sư hoàn toàn thất vọng và giận dữ khoa chân múa tay trước mặt tôi và nói:

– Lobsang, âm nhạc không phải là một trong những tài năng của mi. Trong năm chục năm trời từ ngày ta đến đây, ta chưa bao giờ nghe một giọng hát vụng về như thế. Vụng về ư? Được vậy còn đỡ. Giọng mi hoàn toàn sai, vô phương cứu vãn. Này thằng nhỏ, mi sẽ không được hát nữa. Trong giờ âm nhạc, mi sẽ học một môn khác. Khi dự lễ trong nội điện, mi phải câm miệng lại, không thì mi làm hỏng tất cả. Bây giờ, mi hãy cút đi, thứ lỗ tai trâu!

Thế là, tôi lánh đi chỗ khác chơi.

It was now about eight-thirty in the evening, so we had about three-quarters of an hour to spare before temple service at nine-fifteen. My joy was short-lived; as we were leaving the room a lama beckoned to me. I went to him and he said: “Come with me.” I followed him, wondering what fresh trouble was in store. He turned into a music room where there were about twenty boys whom I knew to be entrants like myself. Three musicians sat at their instruments, one at a drum, one had a conch, and the other a silver trumpet. The lama said: “We will sing so that I may test your voices for the choir,” The musicians started, playing a very well-known air which everyone could sing. We raised our voices. The Music Master raised his eyebrows. The puzzled look on his face was replaced by one of real pain. Up went his two hands in protest. “Stop! Stop!” he shouted, “even the Gods must writhe at this. Now start again and do it properly.” We started again. Again we were stopped. This time the Music Master came straight to me. “Dolt,” he exclaimed, “you are trying to make fun of me. We will have the musicians play, and you sing alone as you will not sing in company!” Once again the music started. Once again I raised my voice in song. But not for long. The Music Master waved to me in a frenzy. “Tuesday Lobsang, your talents do not include music. Never in my fifty-five years here have I heard such an off key voice. Off key? It is no key at all! Boy, you will not sing again. In the singing sessions you will study other things. In the temple services you will not sing, or your disharmony will ruin all. Now go, you unmusical vandal!” I went.

Tôi đi dạo chơi cho đến khi những tiếng kèn điểm giờ hành lễ cuối cùng trong ngày. Chỉ mới ngày hôm qua tôi bước chân vào tu viện, nhưng tôi có cảm tưởng rằng dường như tôi đã có mặt nơi đây từ thuở xa xăm nào! Tôi cảm thấy rằng tôi đi như người mê ngủ và tôi bắt đầu cảm thấy đói. Có lẽ như vậy còn hay hơn, vì nếu lúc ấy tôi no bụng thì chắc là tôi đã ngủ gật. Có người nắm lấy tay áo tôi và nhấc bổng tôi lên trên không. Một vị Lạt Ma cao lớn, vẻ mặt hiền hòa, đặt tôi ngồi trên hai vai rộng của người, và nói:

– Con hỡi, coi chừng con đến trễ giờ dự cuộc lễ tối và con sẽ bị quở. Nếu con đến trễ, con sẽ không được ăn, và chừng đó bụng con sẽ rỗng không như một cái trống!

Khi vị Lạt Ma bước vào nội điện, người vẫn còn khiêng tôi trên vai. Người ngồi ngay phía sau những tấm nệm dành riêng cho đám sơ cơ và cẩn thận đặt tôi ngồi xuống trước mặt người. Người nói:

– Con hãy coi đây, và lập lại những gì ta nói. Nhưng khi ta cất tiếng hát thánh ca, thì con hãy im lặng chớ mở miệng đó nhé, a ha!

Tôi thầm biết ơn vị Lạt Ma đã có lòng ưu ái đối với tôi. Từ trước đến giờ, ít có người đã tỏ ra tốt bụng đối với tôi. Sự giáo dục mà tôi đã hấp thụ được trong quá khứ chỉ là đặt trên một nền tảng quát tháo, thịnh nộ hay đánh đập.

I idled around until I heard the trumpets announcing that it was time to assemble for the last service. Last night—good gracious—was it only last night that I had entered the lamasery? It seemed ages. I felt that I was walking in my sleep, and I was hungry again. Perhaps that was just as well, if I had been full I should have dropped off to sleep. Someone grabbed my robe, and I was swung up in the air. A huge, friendly looking lama had hoisted me up to his broad shoulder. “Come on, boy, you will be late for service, and then you’ll catch it. You miss your supper, you know, if you are late, and you feel as empty as a drum.” He entered the temple still carrying me and took his place just at the back of the boys’ cushions. Carefully he placed me on a cushion in front of him. “Face me, boy, and make the same responses as I do, but when I sing, you—ha! ha!—keep quiet.” I was indeed grateful for his help, so few people had ever been kind to me; instruction I had had in the past had been yelled in one end, or knocked in the other.

Tôi đã ngủ thiếp đi trong một lúc. Khi đó tôi giật mình thức dậy, tôi nhận thấy rằng cuộc lễ tối đã chấm dứt tự bao giờ. Vị Lạt Ma đã cõng tôi đến phòng ăn khi tôi còn đang mê ngủ, và đặt tôi ngồi xuống trước bàn, trên đó người đã đặt sẵn trà bơ, Tsampa và rau đậu nấu chín. Người nói:

– Con hãy ăn no, rồi đi ngủ! Ta sẽ chỉ cho con biết buồng ngủ của con. Đêm nay, con có quyền ngủ thẳng giấc đến năm giờ sáng. Con hãy đến gặp ta khi con thức dậy.

Đó là những lời cuối cùng mà tôi nghe trước khi tôi thức giấc vào lúc năm giờ sáng. Một thiếu niên sơ cơ đã tỏ ra có thiện cảm với tôi từ đêm trước. Đến đánh thức tôi dậy một cách rất khó khăn giữa lúc tôi còn mê man giấc điệp. Khi thức tỉnh tôi mới thấy rằng tôi đã nằm trên tấm nệm giữa một phòng lớn. Người thiếu niên nói:

– Vị Lạt Ma Mingyar Đại Đức đã dặn tôi đến đánh thức sư huynh đúng năm giờ sáng.

Tôi ngồi dậy và xếp ba tấm nệm chồng chất lên nhau sát vách tường theo gương những đứa trẻ khác. Tất cả những trẻ sơ cơ đã ra ngoài; người bạn trẻ của tôi bèn nói:

– Chúng ta hãy ăn điểm tâm; rồi sau đó tôi sẽ đưa sư huynh đến gặp Mingyar Đại Đức.

Khi đó, tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn, không phải tôi thích tu viện hay tôi muốn ở lại đó, mà tôi nghĩ rằng vì không thể làm sao hơn, nên tốt nhất là tôi nên êm thuận và hòa mình với hoàn cảnh.

I must have dozed, because I came to with a start to find that the service had ended and the big lama had carried me, asleep, to the refractory and put tea, tsampa, and some boiled vegetables in front of me. “Eat it up, boy, then get off to bed. I’ll show you where to sleep. For this night you can sleep until five in the morning, then come to me.” That is the last thing I heard until at five in the morning I was awakened, with difficulty, by a boy who had been friendly the day before. I saw that I was in a large room, and was resting on three cushions. “The Lama Mingyar Dondup told me to see that you were awakened at five.” Up I got and piled my cushions against a wall as I saw the others had done. The others were moving out, and the boy with me said: “We must hurry for breakfast, then I have to take you to the Lama Mingyar Dondup.” Now I was becoming more settled, not that I liked the place, or wanted to stay. But it did occur to me that as I had no choice whatever, I should be my own best friend if I settled without any fuss.

Đến giờ ăn điểm tâm, vị sư xướng ngôn đọc bằng một giọng trầm một đoạn kinh rút trong một trăm mười hai quyển của bộ kinh Kangyur của Phật Giáo Tây Tạng. Vị sư hẳn đã nhìn thấy tôi đãng trí và lo ra, vì thình lình người gọi giật tôi lại:

– Này, thằng nhỏ, ta vừa mới nói những gì? Hãy trả lời mau!

Nhanh như chớp và không suy nghĩ một giây đồng hồ tôi đáp ngay:

– Bạch sư ông, ngài vừa nói rằng: Thằng nhỏ này đãng trí không nghe ta đọc kinh, ta phải bắt nó tại trận!

Câu trả lời ấy làm cả cử tọa đều bất giác cười ầm lên, và nhờ đó tôi khỏi bị đòn vì tội vô kỷ luật. Vị sư cũng mỉm cười đó là một việc hiếm có và giải thích rằng người muốn tôi lập lại đoạn kinh người vừa đọc, nhưng thôi, “Lần này thì như vậy cũng được”.

Mỗi bữa ăn, vị sư xướng ngôn đều ngồi trước một bàn nhỏ và đọc những đoạn kinh Phật. Các sư sãi không được phép nói chuyện trong giờ ăn, hoặc nghĩ đến những chuyện riêng tư, mà phải lắng tai nghe đọc kinh. Họ phải tiêu thụ thánh giáo cùng một lượt với thức ăn. Chúng tôi tất cả đều ngồi trên những chiếc nệm đặt dưới đất và ăn trên những chiếc bàn nhỏ cao độ năm tất Tây. Không ai được gây tiếng động hoặc để cùi chỏ lên bàn, vì đó là những điều bị tuyệt đối cấm nhặt.

At breakfast, the Reader was droning out something from one of the hundred and twelve volumes of the Kan-gyur, the Buddhist Scriptures. He must have seen that I was thinking of something else, for he rapped out: “You, small new boy there, what did I say last? Quick” Like a flash, and quite without thinking, I replied: “Sir, you said ‘that boy is not listening, I’ll catch him’!” That certainly raised a laugh and saved me from a hiding for inattention. The Reader smiled—a rare event—and explained that he had asked for the text from the Scriptures, but I could “get away with it this time”.

At all meals Readers stand at a lectern and read from sacred books. Monks are not allowed to talk at meals, nor to think of food. They must ingest sacred knowledge with their food. We all sat on the floor, on cushions, and ate from a table which was about eighteen inches high. We were not permitted to make any noise at meal times, and we were absolutely banned from resting our elbows on the table.

Tại tu viện Chakpori, người ta áp dụng kỹ luật sắt. Danh từ Chakpori có nghĩa là “Thiết Sơn” hay núi sắt. Trong phần lớn các tu viện, kỹ luật thường lỏng lẻo và thời khoá biểu không được áp dụng chặt chẽ. Các sư sãi có thể làm việc hoặc nghỉ ngơi tùy ý. Có thể chỉ có một người trong hàng ngàn sư sãi thật tình muốn tiến bộ tâm linh, và chính người đó mới trở nên một vị Lạt Ma, vì danh từ Lạt Ma có nghĩa là “Thượng Nhân”, và không áp dụng cho tất cả mọi người. Trong tu viện của chúng tôi kỷ luật rất chặt chẽ và thậm chí còn gắt gao là khác. Chúng tôi phải trở thành những người lãnh đạo của giai cấp tu sĩ. Đối với chúng tôi, thì trật tự và giáo dục là tuyệt đối cần thiết. Chúng tôi không được phép mặc áo trắng, là màu áo thông thường của cấp sơ cơ: Áo của chúng tôi mặc phải là màu đỏ sậm như áo của các vị sư sãi. Chúng tôi cũng có những kẻ nô bộc để sai khiến nhưng đó là những sãi lao công, nô bộc, có phận sự quét dọn, lau chùi và coi sóc phần sinh hoạt thực tế của tu viện. Chúng tôi thay phiên nhau làm công việc hèn mọn này, để cho những ý nghĩ tự phụ, kiêu căng không có chỗ mà chen vào đầu óc của mình. Chúng tôi phải luôn luôn nhớ câu sáo ngữ Phật Giáo: “Hãy tự mình nêu gương tốt cho kẻ khác. Hãy làm điều thiện và tránh mọi điều ác. Đó chính là giáo lý của Phật dạy”.

Vị Sư Trưởng của tu viện, tức vị Lạt Ma Champa La, cũng nghiêm khắc như cha tôi và đòi hỏi một sự vâng lời tuyệt đối. Một trong những lời dạy mà người thường hay nhắc đến là: “Ðọc và viết là những then chốt của mọi đức tính”.

Bởi đó, trên lĩnh vực này, chúng tôi có rất nhiều việc phải làm.

The discipline at Chakpori was indeed iron. Chakpori means “Iron Mountain”. In most lamaseries there was little organized discipline or routine. Monks could work or laze as they pleased. Perhaps one in a thousand wanted to make progress, and they were the ones who became lamas, for lama means “superior one” and is not applied to all and sundry. In our lamasery the discipline was strict, even fiercely so. We were going to be specialists, leaders of our class, and for us order and training was considered to be utterly essential. We boys were not allowed to use the normal white robes of an acolyte, but had to wear the russet of the accepted monk. We had domestic workers as well, but these monks were servant-monks who saw to the housekeeping side of the lamasery. We had to take turns at domestic work to make sure that we did not get exalted ideas. We always had to remember the old Buddhist saying: “Be yourself the example, do only good, and no harm, to others. This is the essence of Buddha’s teaching.” Our Lord Abbot, the Lama Cham-pa La, was as strict as my father, and demanded instant obedience. One of his sayings was: “Reading and writing are the gates of all qualities”, so we got plenty to do in that line.

Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt

Biên tập: VMC