‘Một con VIRUS là quá nhỏ bé để có thể nhìn thấy qua kính hiển vi và những sinh vật sống như virus, vi khuẩn,… thường trú trên da người còn đông hơn cả số người sống trên Trái đất. Có khoảng bốn nghìn sinh vật như thế trong mỗi centimet vuông trên tay, và trên đầu, nách, háng con số này có thể tới hơn hai triệu.’
Virus Vera[1] ngồi trong Thung Lũng Lỗ Chân Lông của cô và suy tư về tất cả những vấn đề đang bao vây những cư dân của thế giới gọi là Cơ Thể Con Người. Cạnh cô là Brunhilde[2], cô bạn virus thân nhất đang ngồi. Họ run lên vui vẻ như chỉ những con virus mới có thể làm thế. Rồi Vera nói: “Ồ, mình đang trong trạng thái lẫn lộn quá, mình đang phải làm một thống kê quan trọng và làm thế nào mình có thể làm cho mọi người biết rằng mình là một con virus cao 25 nanomet kiêu hãnh cơ chứ? Sao ta không đổi sang hệ mét và làm việc đó nhỉ, thế có phải đơn giản hơn bao nhiêu không.’
A VIRUS is too small to be seen through a microscope and there are more living organisms, viri, bacteria, etc., resident on the skin of a human being than there are humans alive on the Earth. About four thousand of these organisms are crowded into every square centimetre of the arms, and on the head, armpits and groin the figure may be in excess of two million.
Vera Virus sat in her Pore Valley thinking of all the problems which beset the people of the world called human. Beside her Brunhilde, her closest virus friend, sat. They quivered pleasantly as only jelly-like viri could do. Then Vera said, ‘Oh, I am in such a state of confusion, I have been asked for my vital statistics and how can I get over to the people that I am a glorious 25nm? Oh, why don’t we change to the metric system and have it done with, that would be so much simpler.‘
Brunhilde lắc lư dữ dội, đó có nghĩa là cô đang cười. Rồi cô nói: “Ừ, bạn chỉ cần nói với mọi người cái thống kê quan trọng của bạn về nanomet. Chỉ cần nói với họ rằng một nanomet là một phần tỷ của một mét, và nếu họ vẫn quá ngốc để biết một mét là gì – thì chúng ta đều biết đó là cái mà ông thợ điện vẫn đọc – chỉ cần nói rằng nó bằng một millimicron. Thành thật mà nói, Vera ạ, tớ nghĩ cậu đang đắp một quả núi trên một ngọn đồi đấy.’
‘Sao cậu có thể ngu ngốc vậy chứ Brunhilde’ Vera vặn lại với vẻ đầy bực bội, ‘cậu biết là ở đây làm gì có đồi, nốt ruồi thì may ra, thật tốt là họ chưa phát hiện ra.’ Cô khịt khịt – như thể một con virus có thể khịt khịt vậy – và chìm trở lại vào trạng thái im như tượng.
Brunhilde wobbled violently and that was meant to be a laugh. Then she said, ‘Well, you just need to tell people the vital statistics of the nm. Just tell them that one nm is a billionth of a meter, and if they are still so stupid that they don’t know what a meter is – we all know it is a thing the electricity man reads – just say that it is equal to one millimicron. Frankly, Vera, I think you are making a mountain out of a molehill.‘
‘How can you be so asinine, Brunhilde?‘ retorted Vera with very considerable acerbity, ‘you know there are no molehills here, and as for moles, well, they haven’t been invented yet.‘ She sniffed – if a virus can sniff – and relapsed into jelly-like silence.
Thế giới Cơ Thể Con Người là một nơi vô cùng đặc biệt. Tất cả các cư dân của thế giới ấy đều sống trong những thung lũng hay những cái lỗ, mà vì những lý do đáng lưu ý nào đó chẳng ai hiểu được, thế giới ấy luôn được che lại, trừ một số chỗ nhất định, bằng một tấm chăn rất lạ hay một đám mây, hay cái gì đó. Nó được đan bằng những cái cột to lớn với những khoảng không ở giữa, mà bất cứ con virus nhanh nhẹn nào cũng phải mất hàng năm trời mới có thể trèo qua cái rào chắn đó để nhìn vào không gian trên bề mặt của cái vật liệu kỳ lạ này. Nhưng thực sự rất đáng lưu ý vì thường xuyên khi không có cái rào đó thì cả thế giới của chúng phải chịu những trận Lũ. Hàng triệu cư dân virus bị chết đuối và chỉ còn lại những con virus như Vera, Brunhilde, và một số bạn bè nhất định của chúng, những kẻ khôn ngoan nấp trong những thung lũng lỗ chân lông là sống sót.
Trận lũ thường là một cảnh tượng tàn phá để kéo các ăng-ten trên những thung lũng lên và làm sạch tất cả những khoảng không giữa các thung lũng. Nhưng chẳng ai có thể giải thích được đó là cái gì. Chỉ biết rằng cứ đến một khoảng thời gian xác định, cái rào chắn to lớn che phủ hầu hết cả thế giới ấy lại được gỡ bỏ và rồi đến những trận Lũ, rồi lại có một cái rào chắn khác được thay vào với những hành vi đầy bạo lực, và tiếp đó là khoảng thời gian thanh bình.
Virus Vera và các bạn của cô đang ngồi trong Thung Lũng Lỗ Chân Lông của chúng, một nơi không bao giờ bị cái rào chắn che lại, từ đó chúng có thể ngắm nhìn bầu trời trên cao, và Vera, lúc này đây đang nhìn lên đó nói: ‘Mình thường vẫn tự hỏi, Brunhilde ạ, liệu có có bất kỳ thế giới nào khác bên cạnh thế giới của chúng ta không? ‘
The world called human was a very peculiar place. All the inhabitants of the world lived in the valleys or pores because, for some remarkable reason which none could ever understand, the world was covered except for certain places with a very strange blanket or cloud or something. It seemed to be immense pillars criss-crossed with such space between it that any agile virus, given a few years, could climb straight up through that barrier and look at space from the surface of this strange material. But it was truly remarkable because every so often the whole world would endure a Flood. Millions of virus people would be instantly drowned and only people like Vera, Brunhilde, and certain friends of theirs who had seen the wisdom of living in pore valleys survived.
It used to be a devastating sight to raise one’s antenna above the valley and look at all the bodies littering the plane between adjacent valleys. But no one could ever explain what it was. They knew that at certain intervals of time the great barrier covering most of the world would be removed and then would come the Flood, and then would come another barrier which was violently agitated. After that there would come yet another barrier, and for a time peace. Vera Virus and her friends were sitting in their Valley of the Pore in a site which was never covered by this barrier, they could look up at the skies above, and Vera, looking up on this occasion, said, ‘I often wonder, Brunhilde, if there are any other worlds besides ours?‘
Một giọng nói lạ xen vào, một chàng virus lịch thiệp tên là Bunyanwera[3] đến từ nền văn hoá Uganda, hoặc ít nhất đã từng ở chủng tộc đó theo trí nhớ về tổ tiên anh ta, bây giờ anh ta chỉ là một cư dân của thế giới Cơ Thể Con Người. Anh ta nói, “Ồ vô nghĩa, Vera, vô nghĩa, cô biết rất rõ có hàng ngàn, hàng triệu cái thế giới như của chúng ta mà. Chẳng phải chúng ta đã nhìn thấy chúng ở gần chúng ta vài lần sao? Nhưng rồi chẳng phải ta đã băn khoăn không biết liệu có bất kỳ sự sống nào trên đó không sao? ”
Một giọng nói thứ tư kêu lên: ‘Vâng, tôi nghĩ rằng thế giới này đã được tạo ra đặc biệt dành cho chúng ta. Chẳng có thế giới nào khác tồn tại sự sống như của chúng ta đâu. Tôi nghĩ toàn bộ thế giới này được Thượng đế tạo ra chỉ cho những con virus chúng ta thôi, hãy nhìn sự ưu việt của chúng ta này, chẳng có hình thái sự sống thông minh nào khác có thể so với chúng ta cả, chúng ta có những cái thung lũng đặc biệt nằm rải rác và nếu chúng không được tạo ra đặc biệt dành cho chúng ta thì còn để làm gì khác?’ Kẻ vừa lên tiếng, Catu Guama[4], một con virus uyên bác, nó đã từng đi đây đó chút ít và có thể di chuyển từ Thung Lũng Lỗ Chân Lông này sang thung lũng khác, vì thế mọi người rất lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nó. Nhưng rồi đột nhiên Bunyanwera sôi lên, “Ồ, chả có ý nghĩa gì cả, chẳng có ý nghĩa gì hết, chẳng có cái gọi là Thượng đế, tất nhiên là chẳng có Thượng đế rồi. Tôi đã từng cầu nguyện biết bao lần cho một chút ước muốn nhỏ bé thôi, và nếu như có Thượng đế, anh có nghĩ rằng Ngài sẽ để cho một đứa con nhỏ bé của mình phải chịu khổ sở chăng? Hãy nhìn tôi xem, một phần thân thể của tôi bị nghiền nát đây này, nó xảy ra khi tôi bò lên quá gần miệng Thung lũng và một mảnh rào cạo vào lưng tôi. Không, tất nhiên là chẳng có Thượng đế rồi, nếu có thì Ngài đã chữa lành cho tôi.’
A new voice broke in, a gentleman virus called Bunyanwera who had been born from a Ugandan culture, or at least that had been in the racial memory of his ancestors, now he was just another inhabitant of the world called human. He said, ‘Oh nonsense, Vera, nonsense, you know perfectly well there are thousands, millions, of worlds like ours. Haven’t we glimpsed them in the distance at times? But then, we don’t know if they have any life upon them, do we?‘
A fourth voice called out, ‘Well, I think this world was made especially for us. There is no other world in existence with life on like ours. I think the whole world was made by God just for us viruses, look at the advantages we have, there is no form of intelligence to be compared with ours, we have special valleys dotted about and if they are not made especially for us how did they come about?‘ The speaker, Catu Guama, was an erudite sort of fellow, he had been around a bit, he had even moved as far as the next Valley of the Pore, so the others listened to his opinion with respect. But then suddenly Bunyanwera burst out, ‘Oh nonsense, nonsense, there’s no such thing as a God, of course there isn’t a God. I’ve prayed time after time for little things to be done for me, and if there was a God do you think He would allow one of his children to suffer? Look at me, I’ve got part of my jelly crushed, it happened when I got too close to the top of the Valley and a piece of the barrier scraped my backside. No, of course there isn’t a God, if so He would have healed me.‘
Một chút im lặng đầy bối rối, và rồi Vera lên tiếng: ‘À ừ, tôi không biết về điều đó, tôi cũng cầu nguyện nhưng tôi chưa bao giờ nghe tiếng đáp cho lời cầu của tôi hết, và tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy những con virus thiên thần xuất hiện trong không trung cả. Thế ông đã thấy bao giờ chưa?’ Những kẻ còn lại ngồi trong im lặng một lúc, rồi tiếp đó là một thảm hoạ khủng khiếp nhất xảy ra. Từ trên không trung, một cái gì đó khổng lồ nhào xuống và cạo đi tất cả những cái trụ lớn chúng đang bám vào. ‘Ôi trời ơi, ôi trời ơi,’ Brunhilde kêu lên khi cái gì đó cạo tới, ‘đó là con dao cạo phải không? Thế này thì chúng ta bị xoá sổ mất thôi!’
Bỗng một lối thoát khỏi cảnh nguy hiểm xuất hiện từ trên không trung – đó chắc hẳn là một UFO, chúng nghĩ – nhưng lại là một vấn đề khác xảy đến. Một trận lụt cay xè đột ngột ập lên chúng và mùi khử trùng bao trùm, vậy là sau tất cả những bất ngờ, Vera, Brunhilde, Bunyanwera và Catu Guama đã không còn tồn tại trên thế giới Cơ Thể Con Người khi anh ta thấm nước cạo râu trên mặt mình.
There was an embarrassed silence for some time, and then Vera said, ‘Well, I don t know about it, I’ve prayed too but I’ve never heard an answer to my prayers and I’ve never seen any angel-viruses floating about in the air. Have you?‘ The others sat in silence for a moment, and then a most dreadful catastrophe occurred; from out of space a great ‘something‘ swooped down and scraped all the great pillars on which they relied for shade. ‘Oh my goodness me, my goodness me,‘ said Brunhilde as the great ‘something‘ swept by, ‘that was a close shave, wasn’t it? We were nearly wiped out that time!‘
But having escaped one danger from outer space – it must have been a U.F.O., they thought – another matter happened. A sudden stinging flood fell upon them and they had a shockingly antiseptic smell pour over them, and all of a sudden Vera, Brunhilde, Bunyanwera and Catu Guama ceased to exist as the world called human dabbed astringent on his face.
***
Nàng Kiến ngồi điềm tĩnh trên một hòn đá lớn. Cô chải râu một cách cẩn thận để chắc chắn rằng tất cả các chân của mình được sạch sẽ và ngăn nắp. Cô phải đảm bảo rằng cô trông thực sự hoàn hảo nhất có thể bởi cô chuẩn bị đi dạo với một chàng lính kiến đang có kỳ nghỉ đột xuất. Quay sang cô bạn, Bertha Blackbeetle, người đang tranh thủ ngủ một giấc giữa cái nóng của mặt trời ban trưa. ‘Bertha, cậu đúng là vô dụng!’ cô nói, ‘Cậu có thể kiểm tra hộ mình được không? Hãy chắc chắn mọi thứ là tốt nhất có thể ấy.’
Bertha thức dậy và hé một mắt, cô quan sát Nàng Kiến một cách chăm chú. ‘Ôi, bạn của tôi, mình chắc chắn là bạn trông rất tuyệt.’ cô nói ,’anh chàng lính của chúng ra sẽ bị đốn ngã ngay tức thì khi thấy cậu. Nhưng giờ còn sớm quá, cậu thấy đấy, hãy ngồi xuống đây và tận hưởng ánh mặt trời nào.’
Miss Ant sat placidly on a great stone. Carefully she brushed her antennae and made sure that all her legs were clean and tidy. She had to be sure she was looking absolutely as perfect as she could be because she was going out walking with a soldier ant who had been given unexpected leave. She turned to her friend, Bertha Blackbeetle, who was snoozing in the heat of the noonday sun. ‘Bertha, you great oaf!‘ she said, ‘give me a good examination, will you? Make sure everything is as it should be.‘
Bertha roused up and opened one eye, and looked with care at Miss Ant. ‘My, oh my, you sure do look swell.‘ she said, ‘our soldier boy will be knocked straight off his legs when he sees you. But it’s too early, you know, sit down and enjoy the sunlight.‘
Họ cùng ngồi xuống và nhìn ra thế giới hoang vu trước mặt. Có những tảng đá to lớn, cao đến hai mươi lần chiều cao của Nàng Kiến, giữa chúng là những vùng đất khô, khô đến nối chẳng thấy một ngọn cỏ nào cả, không một chút cỏ dại, chẳng có gì hết ngoài dấu vết rõ ràng của sự tàn phá rộng lớn trên đất đai.
Nàng Kiến nhìn lên bầu trời và nói, ‘Bertha, cả đời mình luôn muốn có một anh chàng kiến của riêng mình, và mình cũng cầu nguyện để có một người bạn thực sự. Bạn có nghĩ rằng lời khẩn cầu của mình đã được đáp ứng chăng?’
Bertha ngó ngoáy một cái râu và một cách thận trọng, chậm rãi, cô nói, ‘Khỉ thật, mình chẳng biết, mình không tin là có Thượng đế. Nếu có thì Ngài sẽ chẳng bao giờ làm tổn thương một lời cầu nguyện nào của mình. Khi mình còn rất nhỏ, thực ra lúc ấy mình mới chỉ là một ấu trùng thôi, mình vẫn thường cầu nguyện Thượng đế nhưng lời cầu của mình chưa bao giờ được đáp lại. Và mình đã đi đến một kết luận là – à ừ, cậu biết đấy – chỉ là phí thời gian của mình thôi. Có lợi ích gì khi tin vào Thượng Đế đâu khi mà Ngài chả đủ phép thần thông để cho chúng ta một chút gì gọi là bằng chứng? Đó là những gì mình nghĩ.’ Cô quay vu vơ một vòng rồi lại ngồi xuống.
Together they sat and looked out on the desolate world before them. There were great boulders, immense boulders which reared up twenty times the height of Miss Ant, and in between there was dry, dry earth, not a blade of grass was to be seen, not a bit of weed, nothing but desolation and vast peculiar marks in the soil.
Miss Ant looked up at the sky and said, ‘Bertha, all my life I have wanted a soldier boy of my own, and I prayed that I should have such a friend. Do you think my prayer has been answered?‘
Bertha wobbled one of her antennae, and then said slowly and carefully, ‘Gee, I don’t know, I don’t believe in a God myself. If there is one He’s never heard any of my prayers. When I was much younger, in fact when I was in the grub stage, I often used to pray to a God I had been told about but the prayers were never answered, and I came to the conclusion that I was – well, you know – wasting my time. What’s the good of believing in a God if He is not godlike enough to give us a bit of proof? That’s what I say.‘ Idly she turned a complete circle and sat down again.
Nàng Kiến trịnh trọng đan chân trước vào nhau và nói, ‘Đó thực sự là một vấn đề đấy, cậu biết không, Bertha, thực sự là vấn đề. Mình cứ tự hỏi rằng liệu tất cả những đốm sáng chúng mình nhìn thấy ban đêm có phải là những thế giới khác không và chúng có tồn tại sự sống không? Thật là nực cười nếu đây là thế giới duy nhất và chúng ta là những công dân duy nhất sống trên nó. Cậu nghĩ thế nào hả?’
Bertha thở dài bực bồi, rồi cô nói, ‘Ừ, mình không biết là có những thế giới khác hay không. Mình nghĩ mọi thứ khá đơn giản. Mình đã gặp một chàng côn trùng khác vài tháng trước và anh ta nói – à anh ta là loài côn trùng có cánh – rằng anh ta đã bay xa, rất xa và rồi anh ta tới một cái cột khổng lồ, một cái cột to đến mức anh ta bảo mình không thể hình dung được ấy. Và anh ta nói rằng cứ đến một lúc nào đó nhất định vào buổi tối là đỉnh của cái cột ấy lại phát sáng. Giờ mình chả tin rằng lại có một thế giới mà chỉ phát sáng lúc thế giới của chúng ta bắt đầu tối. Cậu nghĩ sao?’
Miss Ant carefully knitted with her front legs, and then said, ‘It really is a problem, you know Bertha, it really is a problem. I wonder if all those points of light we see at night are other worlds, and if they are other worlds do you think anyone lives on them? Funny to think if this is the only world and we are the only people on it. What do you think, eh?‘
Bertha heaved a sigh of exasperation, and then said, ‘Well, I don’t know that there are other worlds or not. I think it’s something quite different. I met another insect some months ago and he said – he was a winged insect – that he had flown a long, long way and then he came to a tremendous pillar, oh such a vast pillar that I couldn’t even believe what he was telling me. And he said that at a certain time every night the top of the pillar went bright. Now I can’t believe that there would be a world which only came bright when our world was getting dark. What do you think?‘
Nàng Kiến lại càng trở nên bối rối. ‘Ừ, mình luôn được dạy rằng thế giới này là được tạo ra cho chúng ta. Mình luôn được dạy rằng không có hình thái của sự sống nào vĩ đại hơn loài côn trùng chúng ta cả. Đó là cậu và mình, Bertha ạ. Vì thế nếu điều đó là đúng, nếu những vị tu sĩ của chúng ta đúng, thì chắc hẳn là không thể nào có bất kỳ loài nào thông minh hơn chúng ta được, và những sinh vật ở thế giới cậu nói hẳn phải thông minh hơn chúng ta rất nhiều nếu họ có thể xoay cái thế giới của họ tồn tại chỉ khi thế giới của chúng ta vào đêm. Mình chẳng biết tin vào cái gì nữa, nhưng mình tin rằng có một MỤC TIÊU vĩ đại đằng sau tất cả, và giống như cậu, mình bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với việc cầu nguyện Thượng đế, người mà chẳng buồn trả lời bao giờ.’
Thời gian vẫn trôi và những cái bóng bắt đầu dài ra. Từ cách đó không xa có tiếng gọi của một chị kiến, ‘Này, Nàng Kiến, Nàng Kiến, em ở đâu? Chị có tin báo cho em đây.’ Nàng Kiến liền đứng dậy và trèo lên mép của một hòn sỏi to. ‘Em đây, em đây, có chuyện gì thế?’ Cô nói vọng xuống và đưa mắt nhìn chị kiến đứng cách đó một quãng.
Miss Ant was getting more and more confused. ‘Well, I always was taught that this world was made for us insects. I was always taught that there is no form of life greater than us insects. That’s you and me, Bertha. So if that is true, if our priests are right, then surely there can’t be anything more clever than us, and they’d have to be a lot more clever than us if they could turn their world to existence only when this world went dark. I don’t know what to believe, but I think there is a big Purpose behind it all, and, like you, I am getting a bit tired of praying to a God who never bothers to answer.‘
Time went on and the shadows began to lengthen. From a short distance away an ant-voice called out, ‘Hey, Miss Ant Miss Ant, where are you? I’ve got a message for you.‘ Miss Ant got to her legs and moved forward over to the edge of the big stone. ‘Yes, yes, what is it?‘ she called down looking at another ant standing some distance away.
Chị Kiến ngước nhìn lên và lắc hai chiếc râu, đoạn chị nói, ‘Anh chàng lính kiến đã đi rồi và quyết định bỏ em. Anh ta nói rằng, cuối cùng anh ta nghĩ em không phải là cô nàng phù hợp với anh ta, cho nên anh ta đã đi với một em kiến trẻ tinh ranh sống phía trên kia,’ rồi chị quay ra chỉ.
Nàng Kiến ngồi phịch xuống, toàn thế giới như sụp đổ trước mắt cô. Cô đã hằng cầu nguyện để chàng lính trở về và làm tình với cô, rồi họ có thể cùng nhau làm tổ. Nhưng giờ đây – cuộc sống đâu còn ý nghĩa gì với cô nữa?
Bỗng Nàng Kiến và cô bạn Bertha bỗng cảm thấy mặt đất rung chuyển, sự chấn động như sắp có một trận động đất vậy. Họ cố đứng vững bằng tất cả các chân của mình để xem chuyện gì xảy ra, nhưng trước khi họ có thể di chuyển được thì một vật tối đã đè lên khoảng không chỗ họ đứng, Nàng Kiến, bạn cô và chị Kiến đưa tin, tất cả đã bị đẫm nát khi những cậu bé vừa tan trường trên đường về nhà và chạy ngang qua chỗ họ.
The other ant looked up and wiggled with her two antennae, and then she said, ‘Your soldier boy has gone and left you. He said that after all he thought you weren’t the right ant-girl for him, so he’s gone off with that fast young hussy who lives way up there,‘ and she turned pointing. Miss Ant sat down with a thud, her whole world collapsed about her. She had been praying for a soldier boy to come and make love to her, and then they would make a nest together. But now – what did life have for her now?
Miss Ant and Bertha started suddenly as a tremendous thudding came along the ground, thudding like an approaching earthquake. They stood to the full extent of their legs trying to see what was happening, but before they could move dark shapes swooped out of the distance and Miss Ant and her friend and the messenger ant, too, were squashed into pulp as schoolboys just leaving afternoon classes swept across their playground on their way home.
***
Xa hơn phía làng quê, những ngọn cỏ vươn cao. Nó thật là đẹp, cả đồng cỏ xanh mướt, mặt trời sưởi ấm cho nó, những trận mưa nuôi dưỡng nó, và giờ đây nó là cánh đồng hân hoan đầy sức sống.
Sâu trong sâu thẳm của cánh đồng, nơi mà dương như là một khu rừng thực sự cho hai công dân nhỏ bé của nó, đó là hai anh chàng chuột đồng đang chơi đùa giữa những ngọn cỏ, trên mặt đất, rồi chúng trèo lên một thân cây to hơn và nhảy từ chỗ này sang chỗ kia. Một con nhảy thật cao lên trúng ngọn cỏ. Khi nó đang nhảy xuống với những tiếng la hét vui vẻ, nó cảm thấy tiếng chân của một con chuột già, rất già. ‘Cẩn thận, anh chàng cầu thủ trẻ,’ con chuột già nói, ‘trông cậu quá phấn khích đấy, cậu biết không. Chẳng có sự vui vẻ như thế trong thế giới này đâu. Một điều BÍ ẨN lớn sắp xảy ra rồi, toàn bộ khu rừng này sẽ bị đốn ngã bởi một cái Máy khổng lồ mà không ai trong chúng ta đoán được nó là cái gì. Với tình trạng của cánh đồng cỏ này, ta có thể thấy là chẳng còn lâu nữa đâu, vì vậy tốt nhất là chúng ta nên trở về hang.’ Bà chuột già khôn ngoan quay lưng và lững thững ra về. Hai anh chàng chuột trẻ nhìn nhau rồi lại nhìn bà ta – nhìn cái dáng đang đi xa dần của bà. Rồi một con nói, ‘Ồ, chẳng phải bà lão khốn khổ ấy làm hỏng hết cả buổi chơi thể thao sao?’, con kia đáp. ‘Ừ, mình đoán là bà ấy không thích bọn trẻ, bà ấy chỉ muốn giữ chúng ta như những kẻ nô lệ bê hạt dẻ hay đại loại là một công cụ như thế, mà chả được tích sự gì cả.’
Away in the country the grass was standing tall. It was beautiful there, healthy grass as green as green could be, the suns had warmed it, the rains had nourished it, and now it was a field worthy of anyone’s delight.
Deep in the depths of a field which seemed to be a veritable forest to its inhabitants two little field mice played about among the stalks of grass, played about on the earth, and then ran up the thicker stalks and jumped from one to the other. One jumped high and leapt right up above the top of the grass. As he came tumbling down with shrieks of merriment he fell at the feet of an old, old mouse. ‘Be careful, youngster,‘ the old mouse said, ‘you’re being too gay, you know. There’s no gaiety like that in this world. Soon a great Mystery will occur, all our forest will tumble down before the onslaught of such a vast Machine that none of us can even guess what it is. By the state of this grass I can see that we haven’t much longer, so we’d better return to our burrows.‘ The old mouse, a wise old she-mouse, turned and toddled off. The two young mice looked at each other and then looked at her – looked at her retreating form. Then one said, ‘Oh, isn’t she a miserable old spoil sport.‘ The other said, ‘Yes, I guess she doesn’t like children, she wants to keep us as slaves bringing nuts and stuff like that, and getting nothing for it.‘
Những chú chuột đồng con vui chơi với nhau thêm một lát, rồi một cơn gió lạnh xào xạc trong không nhắc chúng rằng trời đã bắt đầu tối, chúng giật mình nhìn lên bầu trời đã đen kịt và vội vã chạy về nhà. Đôi bạn tiếp tục ngồi trong bóng tối ở cửa hang và trò chuyện thân mật, nhấm một mảnh cỏ, rồi thỉnh thoảng lại nhìn lên để chắc chắn những con cú không nhìn thấy mình. Chẳng mấy chốc, mặt trăng tròn như một quả cầu bạc lướt ngang trên bầu trời tối. Một con nói với con kia, ‘Tớ băn khoăn không biết có gì ở trên kia? Tớ đang tự hỏi rằng liệu có con chuột đồng nào trên cái thứ to tròn chúng mình thường thấy kia không nhỉ?’ ‘Ồ đừng có ngớ ngẩn thế chứ’, con chuột kia đáp, ‘tất nhiên là chẳng có gì khác ngoại trừ cái thế giới này đâu.’ Rồi nó nói thêm vào với giọng không chắc chắn, ‘Ồ đúng thế mà, tớ cũng thường nghĩ giống cậu, tớ thường nghĩ rằng, à, chắc chắn phải có những thế giới những con chuột đồng khác cùng tồn tại với thế giới này. Tớ biết các tu sĩ của chúng ta nói rằng thế giới này được tạo ra đặc biệt cho loài chuột đồng và không có một hình thái sự sống nào khác cao hơn là loài chuột đồng cả.’
For some time the young field mice played about together, and then a rustling chill in the air reminded them that evening was starting, so with one startled glance up at the darkened sky they hurried along together to their home.
They sat in the dusk at the mouth of their burrow communing in spirit, nibbling a piece of grass, looking up occasionally to be very sure that night owls did not see them. After a time the round orb of the silvery moon started its glide across the dark sky. One little mouse said to the other, ‘Wonder what it’s like up there? I wonder if there are any field mice on that big thing that we see so often?‘ ‘Oh don’t be stupid,‘ said the other field mouse, ‘of course there is nothing except this world.‘ Then he added with a note of uncertainty in his voice, ‘Oh yes, I often think the same as you, I often think, well, there must be worlds with field mice on besides this world. I know our priests tell us that this world was made especially for field mice and there is no higher form of life than us field mice.‘
‘À đúng thế,’ con chuột đồng thứ nhất lên tiếng, ‘các tu sĩ cũng nói rằng chúng ta nên cầu nguyện. Ôi trời ơi, tớ đã cầu nguyện chăm chỉ quá đủ rồi, tớ đã cầu nguyện để có những miếng pho-mat tươi ngon và những thứ tương tự thế, nhưng chưa bao giờ, chưa bao giờ lời cầu của tớ được đáp trả. Tớ nghĩ nếu có Thượng đế thì đâu có khó gì để hàng ngày Ngài gửi xuống một miếng pho-mat tươi ngon cho một con chuột bé bỏng cơ chứ. Cậu nghĩ sao hả?’ Nó quay sang cậu bạn đồng hành chờ đợi, nhưng con kia lên tiếng, ‘À, tớ chẳng biết, tớ không chắc lắm. Tớ cũng đã cầu nguyện nhưng chẳng có bất kỳ minh chứng nào cho sự tồn tại của Ngài Thượng Đế Chuột Đồng, cũng như tớ chưa từng nhìn thấy một thiên thần chuột đồng nào bay lượn cả.’
‘Không’, con kia nói, ‘chỉ có những con cú đêm và những kẻ tương tự thôi.’ Với suy nghĩ nghiêm trang đó, chúng ngay lập tức quay người và lặn vào hang.
‘Ah yes,‘ said the other field mouse, ‘but then the priests tell us we should pray. Well, goodness me, I prayed hard enough, I prayed for fresh cheese and things like that, but never, never have I had a prayer answered. I think if there had been a God then it would be such a simple matter to put down a bit of fresh cheese for a young field mouse every so often. What do you think?‘ He turned to his companion expectantly, but the other said, ‘Well, I don’t know, I’m sure. I prayed as well but I’ve never had any proof that there is a field mouse God nor have I ever seen any field mice angels flying about.‘
‘No,‘ said the other, ‘only these night owls and people like that.‘ On that solemn thought they turned on the instant and dived down into their burrow.
Đêm vẫn trôi và vô số những sinh vật của bóng tối lần mò đi kiếm thức ăn, nhưng bọn chuột đồng con vẫn ẩn mình an toàn trong hang của chúng. Rồi buổi sớm mai tươi sáng đến với sự ấm áp trong không khí. Bọn chuột con lại quay về với công việc thường nhật. Chúng rời hang và bò tới cánh đồng cỏ xanh mướt để tìm thức ăn cho ngày hôm đó.
Bỗng một sự đột ngột làm tất cả bọn chúng chúi xuống đất, máu trong người chúng tưởng như đông cứng. Một con vật kinh hoàng nhất địa ngục gầm rú tiến về phía chúng, tiếng của nó ồn đến nối lũ chuột chưa từng nghe thấy bao giờ. Chúng sợ hãi đến mức không thể bước nổi. Một con thì thào với con bên cạnh, ‘Nhanh lên, nhanh lên, hãy cầu nguyện để được che chở, hãy cầu nguyện để được cứu rỗi.’ Đó là những lời cuối đôi chuột đồng bé nhỏ thốt lên, bởi người nông dân đã lái cái máy cắt cỏ của ông ta đâm thẳng vào chúng, xác chúng bị cắt ra từng mảnh và ném vào giữa đám cỏ đã xén.
The night wore on and various creatures of the darkness came out looking for food, but the little field mice were safely hidden in their burrow. In the morning the day dawned bright and there was warmth in the air. The little field mice set about their daily task. They left their burrow and off they went into the green forest of grass to see what food they could get for the day.
All of a sudden they crouched against the earth, their blood feeling as if it had turned to ice within them. A most hellish unearthly uproar was coming toward them, a noise such as they had never heard before. They were too frightened to move. One whispered hurriedly to the other, ‘Quick, quick, let us pray for protection, let us pray for salvation.‘ And those were the last words the little field mouse said because the farmer with his reaping machine drove straight over them and their bodies were cut to shreds and flung among the cut grass.
***
Từ ngọn tháp vĩ đại với mái phẳng và các tháp chuông tứ phía, phát ra những tiếng kèn đồng, âm thanh của chúng vang vọng và lặp lại khắp thung lũng dưới chân ngôi đền, nơi linh thiêng mà nó đang toạ lạc.
Mọi người nhìn nhau sợ hãi. Họ muộn chăng? Cái gì xảy ra vậy? Một sự ồn ào như vậy chỉ xảy ra trong những lần khủng hoảng hoặc khi những vị tu sĩ cẩu thả to béo có gì đó muốn rao giảng cho mọi người. Chỉ với một hồi kèn, họ bỏ lại những gì đang làm và nhanh chóng chạy theo con đường mòn dẫn đến chân ngôi đền. Ở đây có những bậc rất rộng, có lẽ là một phần ba con đường dẫn lên đền, và tất cả những con đường xung quanh có những chỗ lồi ra, mở rộng, gần giống như những cái ban công, hay có thể gọi là cái tường thành, dọc theo tường thành hay những cái ban công này, các tu sĩ đã đứng sẵn ở đó, không phải để chơi. Họ đi hàng đôi, tay chắp sau lưng hoặc giấu trong tay áo choàng rộng. Họ đi hàng đôi, và suy tư về những lời của Thượng Đế, cân nhắc về những bí ẩn của Vũ trụ. Nơi đây, trong không khí sạch sẽ của dãy núi cao Andes rất dễ ngắm nhìn những ngôi sao đêm, rất dễ tin vào sự tồn tại của những thế giới khác, các cư dân của thung lũng giờ đang kéo từng nhóm tới, bước lên những bậc lớn và ùn ùn vào phần chính trong Ngôi đền.
From the great pyramid with its flat top and turreted sides came the blare of trumpets, their brazen voices echoing and re-echoing through the valley at the foot of the pyramid, which was indeed a holy temple.
People looked at each other in affright. Were they late? What was happening? Such a blaring occurred only in times of crisis or when the fat slovenly priests had something to say to the people. With one accord they dropped what they were doing and hastened along the well-trodden path leading to the plinth of the pyramid. Here there were broad, broad steps leading perhaps a third the way up the pyramid, and all the way around there were extrusions, extensions, almost like balconies, or perhaps a better term would be walled walks, and along these walled walks or balconies the priests were wont to take their leisure. Two by two they would go along, hands clasped behind their backs or held within their ample sleeves. Two by two they went along thinking of the words of God, pondering upon the mysteries of the Universe. Here in the clear atmosphere so high up in the Andes it was so easy to see the stars at night, so easy to believe in other worlds, but the population of the valley was now coming in force up the great steps and surging into the main body of the Temple.
Giữa những bức tranh tường mờ ảo đắt giá, nhiều người ho đôi chút vì khói hương, đây đó một vài dân địa phương chỉ quen với không khí trong lành nhất, dụi mắt khiến nó chảy nước khi bị khói cay tấn công.
Ánh đèn mờ ảo, ở đầu kia của đền thờ là một bức tượng thần bằng đồng to lớn bóng loáng trong tư thế người ngồi – ồ không – đó không hẳn là người, đó là một sự ‘khác biệt’ theo một cách tinh tế nào đó. Đó là một siêu nhân, nó cao nhiều tầng và những người đang đi lại dưới chân nó chỉ với tới nửa đầu gối bức tượng.
Đoàn người đã vào trong. Khi vị tu sĩ phụ trách thấy Hội trường lớn đã đông chật người, một tiếng chiêng vang lên sâu thẳm. Những đôi mắt tinh thường không bị ảnh hưởng bởi khói hương đều nhìn thấy một cái chiêng lớn rung lên bần bật trên cánh tay phải của một bức tượng thần. Tiếng vang vẫn tiếp tục ngân lên dù không ai gõ chiêng cả, không ai làm gì trong vòng một thước quanh nó, nhưng tiếng vang vẫn kéo dài. Và rồi, dù không thấy có cánh tay nào kéo nhưng những cánh cửa lớn của ngôi đền được đóng lại. Trong khoảnh khắc, sự im lặng bao trùm, bỗng trên đầu gối của bức tượng xuất hiện vị Tu Sĩ Trưởng trong một chiếc áo choàng dài. Tay ông giơ lên trên đầu, ông nhìn xuống mọi người và nói, ‘Thượng đế đã có thông điệp cho chúng ta, rằng Ngài không hài lòng với những gì chúng ta cống hiến cho Ngôi đền. Rất nhiều trong số các người đã giữ lại một phần mười cho riêng mình, Thượng đế sẽ nói chuyện với các người.’ Sau câu nói đó, ông ta quay người và quỳ xuống quay mặt vào phía thân của bức tượng.
Within the dim interior so highly charged with incense smoke people coughed a little, and here and there a country- man used only to the freshest of fresh air rubbed his eyes as they started to water and smart as the acrid smoke of the incense attacked them.
The lights were dim, but at one end of the Temple stood a vast idol of polished bronze, a sitting human figure, and yet no – it was not quite a human, it was ‘different‘ in subtle ways. It was super-human, but it towered many stories high, and the people at its base walking about could only reach up to half knee height.
The congregation entered, and then when the priest in charge saw that the great Hall was almost full there came the deep booming of a gong. Sharp eyes, unaffected by the incense smoke, could see the great gong quivering, quivering at the right hand of the godlike figure. The booming continued, but no one was hitting the gong, no one was doing anything within yards of it, but the booming continued. And then, without human hands, the great doors of the Temple closed. For a moment there was silence, and then upon the knee of the God there appeared the High Priest clad in flowing robes. His hands and arms were raised above his head, he looked down at the people and said, ‘God hath spoken to us, God is dissatisfied with the help you give your Temple. So many of you withhold your tithe, God will speak to you.‘ With that he turned and went on his knees facing the torso of the great figure.
Rồi cái miệng của bức tượng há ra và từ đó phát ra một tiếng ầm ầm. Mọi người vội quỳ sụp xuống, nhắm mắt lại và nắm chặt hai tay vào nhau, sau tiếng ầm là một giọng nói to, rõ ràng, ‘Ta là Thượng đế của các ngươi,’ bức tượng nói. ‘Ta rất thất vọng vì sự thiếu tôn trọng với những tôi tớ của ta, là thầy tu của các ngươi, ngày càng tăng. Trừ khi các ngươi biết vâng lời hơn, rộng rãi hơn trong việc cúng tiến, còn không ta sẽ giáng tai ương, bệnh dịch, và nhiều sự đau đớn và giận dữ nữa, cây trồng sẽ khô héo trước mắt các ngươi. Hãy tuân theo thầy tu của các ngươi. Họ là tôi tớ của ta, là con cái của ta. Hãy tuân theo, tuân theo, tuân theo.’ Tiếng nói nhạt nhoà dần và cái miệng của bức tượng ngậm lại. Tu Sĩ Trưởng đứng lên và quay mặt lại đám đông. Rồi ông ta đưa ra một loạt những yêu cầu mới, cần dâng thêm thực phẩm, thêm tiền bạc, thêm sự phục vụ, thêm những cô gái trinh cho Đền Trinh Nữ. Và ông ta biến mất. Ông ta không quay người, cũng không bỏ đi, mà ông ta biến mất, cánh cửa của Ngôi đền Vĩ đại lại mở ra. Bên ngoài, hai hàng tu sĩ đứng hai bên, mỗi người cầm một cái bát ăn xin trên tay.
Then the mouth of the figure opened and from it came a booming. People dropped to their knees, people closed their eyes and clasped their hands together, and then the booming gave way to a strong, strong voice, ‘I am your God,‘ said the figure. ‘I am disappointed at the increasing lack of respect shown to my servants, your priests. Unless you are more obedient and more generous in your offerings you will be afflicted with plagues, with murrains, and with many sores and boils, and your crops shall wither before your eyes. Obey your priests. They are my servants, they are my children. Obey, obey, obey.‘ The voice faded out and the mouth closed. The High Priest got to his feet again and turned to face his congregation. Then he presented a fresh set of demands, more food, more money, more services, more young women for the Temple Virgins. Then he disappeared. He did not turn and walk away, he disappeared, and the Great Temple doors opened again. Outside there were lines of priests on each side, and each had a collecting bowl in his hands.
Ngôi đền giờ trống không. Bức tượng thần nằm im lặng. Nhưng không, không thật là im lặng vì một vị tu sĩ viếng thăm ngôi đền đang được dẫn đi thăm quan quanh đó bởi một người bạn rất thân thiết. Từ trong bức tượng vang lên tiếng thì thầm và xào xạc, và vị tu sĩ đến thăm đang nhận xét về nó. Bạn của ông ta đáp lại, ‘Ồ đúng thế, họ vừa mới có một cuộc kiểm tra âm lượng. Anh chưa bao giờ vào trong bức tượng phải không? Hãy đi theo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh xem.’
Hai vị tu sĩ đi đến phía sau bức tượng, vị tu sĩ của ngôi đền ấn tay trên một hình trang trí. Một cánh cửa bí mật mở ra và họ bước vào trong. Bức tượng rỗng gồm một loạt phòng. Họ đi sâu hơn và trèo lên nhiều bậc thang đến khi tới tầng ngang ngực bức tượng. Đó là một căn phòng thực sự khác lạ. Có một cái ghế băng dự phòng và một chỗ ngồi phía trước nó, trước nữa là một bộ phận chuyển dẫn âm thanh qua những cái ống nhỏ phức tạp đến cổ họng bức tượng.
The Temple was empty. The idol lay silent. But no, no, not so silent because a visiting priest in the Temple was being shown around by a very, very close friend. From the idol came whisperings and rustlings, and the visiting priest commented upon it. His friend replied, ‘Oh yes, they are just giving a check of the acoustics. You haven’t seen inside our idol, have you? Come along and I’ll show you.‘
Together the two priests moved to the back of the idol and the resident priest pressed his hands in a certain pattern on an ornamentation. A hidden door opened and the two priests entered. The idol was not solid, it was a series of chambers. They went in and climbed a series of stairways until they got up to chest level. Here was a very strange room indeed; there was a bench and a seat before it, and in front of the seat there was a mouthpiece which led to a series of tubing’s intricately convoluted which led upwards to the throat.
Có hai cái ghế và hai chiếc đòn bẩy ở mỗi phía. Tu sĩ của ngôi đền nói, ‘Hai cái đòn bẩy này được vận hành bởi hai tu sĩ, họ kích hoạt hàm của bức tượng và chúng tôi phải thực hành rất nhiều để cái hàm mở ra khớp với lời nói.’ Anh ta đến phía kia và nói, ‘Từ đây nhìn ra, người nói có thể nhìn thấy toàn thể đám đông mà không ai nhìn thấy anh ta.’
Người khách đi theo và nhìn qua những cái khe hẹp trên con mắt bức tượng. Anh ta có thể nhìn thấy toàn thể Ngôi đền, thấy người quét dọn đang bận làm sạch sàn. Rồi anh ta quay lại xem bạn mình đang làm gì. Bạn anh ta đang ngồi chỗ cái loa, nói, ‘Chúng tôi có một vị tu sĩ đặc biệt, ông ta có một giọng nói đầy uy quyền. Ông ta không bao giờ được ra chỗ đông người vì giọng nói của ông ta được dùng để giả giọng Thượng Đế. Chúng tôi cho ông ta ngồi ở đây và đọc thông điệp qua cái loa này. Đầu tiên, ông ta bỏ những cái tấm này ra và khi đó giọng ông ta sẽ phát qua miệng bức tượng, chỉ cần chắn những cái tấm này ở đây thì bên ngoài không thể nghe được trong này.’
At one side there were two seats and a series of levers. The resident priest said, ‘Those two levers are operated by two priests, they activate the jaws and we have had so much practice that we can move the jaws exactly in time with the speech.‘ He moved over and said, ‘Look out here, the speaker can see the congregation at all times without being seen himself.‘
The visitor moved over and looked out through narrow eye slits. He could see the Great Temple, he could see cleaners busy sweeping the floors. Then he turned to see what his friend was doing. His friend was sitting in front of the mouthpiece, he said, ‘We have a special priest who has a very authoritative voice, he is never allowed out to mix with other people because he is the voice of our God. When required he sits here and he says his message through this mouthpiece. First of all he removes the slide here and then his voice goes out through the mouth and so long as this slide is in place nothing one says here can be heard outside.‘
Rồi họ lại cùng nhau trở xuống phần thân bức tượng, nói chuyện không ngừng. Vị tu sĩ của ngôi đền nói, ‘Chúng tôi phải làm thế, anh biết đấy. Tôi không biết có Thượng Đế hay không, tôi vẫn thường băn khoăn nhưng tôi cam đoan là Ngài không đáp trả lời cầu của chúng ta. Tôi đã ở đây bốn mươi năm rồi và tôi chưa từng thấy một lời cầu nào được ứng đáp, nhưng chúng tôi phải giữ quyền lực.’
Vị khách trả lời, ‘Vâng, tôi cũng từng đứng trên những ngọn đồi cao chỗ chúng tôi vào đêm và nhìn lên bầu trời thấy những đốm sáng li ti, rồi tôi tự hỏi liệu đó có phải là những lỗ hổng trên tầng thiên đàng không hay tất cả chỉ là tưởng tượng? Đó có phải là thiên đàng không? Hay những cái đốm sáng li ti ấy là những thế giới khác? Nếu có thế giới khác thì làm thế nào họ đến được đó?’ Vị tu sĩ của ngôi đền trả lời, ‘Đúng thế, tôi cũng đã nghi ngờ chính mình, phải có một cái gì đó điều khiển toàn thể vũ trụ, nhưng dường như là theo kinh nghiệm của chính tôi thì Ngài chưa bao giờ ứng đáp lời cầu nguyện. Đó là lý do tại sao hàng ngàn năm trước đây hoặc hơn thế bức tượng kim loại này đã được xây dựng, và chúng ta những tu sĩ, có thể duy trì được quyền lực, nắm giữ nó trên muôn người, và có thể giúp họ ở nơi mà Thượng đế bỏ rơi họ.’
Together they moved down into the main body of the Temple again, talking all the time. The resident said, ‘We have to do this, you know. I don’t know if there is a God or not, I often wonder, but I am very sure that God does not answer our prayers. I have been here now for forty years and I have never yet known a prayer answered, but we have to keep our authority.‘ The visitor replied and said, ‘Yes, I stand upon our high peak at night and I look up at the sky, and I see all the little pinpoints of light, and I wonder if they are holes in the floor of heaven or if it’s all imagination. Is there heaven? Or are those pinpoints of light other worlds? And if there are other worlds then how do they go on there?‘
The resident replied, ‘Yes, I have many doubts myself, there must be some controlling entity but it does seem to me from my own experience that he never answers prayers. That is why a thousand years or more ago this metal figure was built, so that we priests could maintain our power, our hold, over people, and possibly help them where God ignored them.‘
***
TÔI TIN rằng tất cả sự sống được hình thành từ những rung động, và mỗi rung động chỉ là một chu kỳ. Chúng ta hãy nói về một vật dao động. Vâng, vậy có nghĩa là nó đi lên và đi xuống, rồi lại lên và xuống. Nếu bạn kẻ một đường trên giấy, rồi vẽ một đường cong đi lên từ đầu mút của đường thẳng, uống cong đi xuống, rồi lại đi lên đến đúng đường kẻ với khoảng cách đều nhau. Vậy là bạn có một chu kỳ[5], một rung động, sơ đồ hình ảnh của một rung động tương tự như được dùng để biểu thị nhịp sinh học hay ký hiệu dòng điện xoay chiều. Nhưng cuộc sống là như vậy. Nó đung đưa như một con lắc, đu từ bên này của điểm cân bằng sang bên kia cùng một biên độ rồi lại đu ngược lại. Và rồi con lắc cứ đu theo một phương thức như vậy ngày này qua ngày khác. Tôi TIN là toàn thể thiên nhiên vận động qua những chu kỳ như thế. Tôi tin mọi thứ đều tồn tại một rung động, đan xen giữa lên và xuống, tích cực và tiêu cực, tốt và xấu, nếu bạn bắt đầu suy nghĩ về điều đó, bạn sẽ thấy không có xấu thì cũng chẳng thể có tốt, bởi tốt là điểm đối lập của xấu và ngược lại.
I BELIEVE that all life is made up of vibrations, and a vibration is just a cycle. We say a thing shakes. Well, we mean it goes up and it goes down, and it goes up and it goes down. If you draw a line on a piece of paper then you can draw another line curving up from your first line, curving over, and coming down again and going the same distance down before turning to go up. Here we have a cycle, a vibration, a pictorial diagram of a vibration similar to that used in biorhythm or in symbols for electric current of the alternating variety. But all life is like that. It is like the swinging of a pendulum. It goes from one side of a neutral point, through the neutral point, and up an equal distance to the other side. And then the pendulum swings again and goes through the procedure time after time after time.
TÔI TIN vào Thượng đế. Tôi tin một cách chắc chắn vào Thượng đế. Nhưng tôi cũng tin rằng Thượng đế quá bận rộn để có thể giải quyết cho từng người một. Tôi tin rằng nếu ta cầu nguyện là ta cầu nguyện tới Chân Ngã của chúng ta, hay có thể gọi là phần linh hồn trên cao của chúng ta, nhưng đó không phải là Thượng Đế.
Tôi tin rằng có hai Thượng đế, Thượng đế Tốt – cho cái tích cực và Thượng đế Xấu – cho cái tiêu cực, mà sau này ta gọi là Sa-tăng. Tôi tin rằng theo một chu kỳ xác định – tại một đầu mút của vòng quay con lắc, Thượng đế Tốt cai trị Trái đất và toàn thể những tạo vật sống, cái đó ta gọi là Kỷ Nguyên Vàng. Nhưng rồi con lắc dịch chuyển, chu kỳ biến đổi và quyền lực của Thượng đế Tốt, phía tích cực, bị hết thời và khi qua điểm cân bằng, nơi mà cái tốt và cái xấu ngang nhau, nó đi lên phía bên kia, phía cái xấu, Sa-tăng. Và rồi ta có cái thường được gọi là Kỷ Nguyên Đen Tối, kỷ nguyên của sự chia rẽ, kỷ nguyên của những điều sai trái. Hãy nhìn vào Thế giới ngày nay, những kẻ phá hoại, chiến tranh, chính trị gia, bạn có thể chối bỏ rằng ta đang ở trong Kỷ Nguyên Đen Tối chăng? Chúng ta đang ở trong chu kỳ đó. Chúng ta đang đi đến đỉnh điểm của vòng lắc và mọi thứ sẽ trở nên tồi tệ nhất, tồi tệ chừng nào con lắc vẫn ở điểm đầu mút của cái xấu. Chiến tranh, đình công, động đất, và tội ác không được kiểm soát. Và rồi, theo đúng chu kỳ, con lắc sẽ đổi hướng, nó rơi xuống và cái ác mất đi sức mạnh, sự hồi sinh của cái tốt lại được thấy trên Thế giới. Một lần nữa điểm cân bằng khi cái tốt và xấu ngang nhau sẽ được đạt tới và đi qua. Con lắc lại đi lên phía tốt, và trong khi nó đi lên thì mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn. Có lẽ khi ta ở trong Kỷ Nguyên Vàng, Thượng đế của Vũ trụ sẽ có thể lắng nghe những lời cầu nguyện của chúng ta và, có thể Ngài sẽ ban cho chúng ta những bằng chứng rằng Ngài vẫn luôn chăm sóc những kẻ đang mắc kẹt ở đây, trên thế giới này.
I BELIEVE that all Nature goes through cycles. I believe that everything that exists is a vibration, alternating from up to down, from positive to negative, from good to bad, and, if you come to think about it, without having bad there would be no good because good is the opposite of bad as bad is the opposite of good. I believe in a God. I believe very firmly in a God. But I also believe that the God may be too busy to deal with us on an individual basis. I believe that if we pray we pray to our Overself, to our superior soul, if you like, but that is not God.
I believe that there are two Gods, the God of Good – positive, and the God of Bad – negative. The latter we call Satan. I believe that at very definite intervals – at opposite swings of the pendulum – the good God rules the Earth and all things living and then we have a Golden Age. But the pendulum swings, the cycle moves on and then the power of the good God, the positive side, wanes and after it passes a neutral point where the powers of good and bad are equal then it goes up to favour the other side of the swing, the bad, Satan. And then we have what is so often called the Age of Kali, the age of disruption, the age when everything goes wrong, and looking about the Earth today at vandals, wars, politicians, can you deny that we are now in the Age of Kali? We are. We are coming up to the peak of the swing and conditions will get worse and worse until at last the swing will be at its topmost point for bad and conditions will be very bad indeed. Wars, strikes, earthquakes, the powers of evil let loose unchecked. And then, as always, the pendulum will change direction, will fall, and the powers of evil will wane and there will be a resurgence of better feeling upon the Earth.
Once again the neutral point when good and bad are equal will be reached and passed, and the pendulum will climb up to good, and as it climbs up things will be better and better. Perhaps then when we have a Golden Age the God of this Universe will be able to listen to our prayers and will, maybe, afford us some proof that He does care about those lodged down here on this world.
Tôi tin là hiện nay, những báo chí, thiết bị đa phương tiện, truyền hình và một loạt những thứ như thế tiếp tay cho việc tội ác ngày một lan rộng bởi chúng ta đọc trên báo chí rằng làm thế nào một đứa trẻ bẩy tuổi được dạy để giết người, rằng đứa trẻ mười tuổi thành lập những băng nhóm giết người ở Vancouver. Tôi tin là báo chí nên bị giới hạn, và truyền hình, đài phát thanh, và phim ảnh nên được kiểm duyệt.
Về Thượng đế, vâng, tôi tin là có một Thượng đế, tuy nhiên thực sự thì tôi tin có nhiều lớp các vị Thần, ta gọi họ là những vị Bàn Cổ (Manus). Những ai không quen với khái niệm Thần có thể nhìn hình dung tình huống quản lý một cái kho rộng. Không quan trọng bạn gọi tên cái kho là gì, hãy tưởng tượng một chuỗi lớn các kho ở siêu thị vậy. Trên cùng bạn có một vị Thần là Chủ tịch hay Tổng Giám Đốc – tuỳ cách gọi của đất nước bạn đang sống – người đứng đầu nắm giữ toàn bộ quyền lực và là người quyết định sẽ làm cái gì. Tuy nhiên, người này quá bận rộn bởi quyền hành quá rộng lớn nên ông ta không có thời gian để đối phó với anh chàng nhân viên văn phòng nhỏ nhất hoặc nhân viên bán hàng nhỏ nhất, người bỏ thực phẩm vào túi cho khách. Con người đặc biệt này, cũng giống như người đứng đầu siêu thị, là ví dụ cho Thượng đế, Ngài đứng đầu các vị Bàn Cổ trong Vũ trụ của chúng ta, người điều hành rất nhiều thế giới khác nhau. Ngài quá quan trọng, quá quyền uy và quá bận rộn đến mức không thể đối phó với từng thế giới, từng sinh vật, mà các sinh vật cũng có quyền như con người trong sơ đồ vạn vật.
I believe that at the present time the press, the media, television and all the rest of it contribute very largely to the increase of evil because we read even in the press itself how children of seven years of age are taught to commit murder, children of ten years of age set up murder gangs in Vancouver. I believe that the press should be suppressed, and television, radio, and films should be censored.
But about Gods. Yes, I believe there is a God, in fact I believe there are different grades of Gods. We call them Manus, and people who cannot understand the concept of Gods should look at conditions in a big departmental store. It doesn’t matter what name you choose for the store, let us say a big chain of supermarket stores. At the very top you have God, the President or General Manager – depending on which country you live in and the terminology employed. But the man at the top is the all-powerful one who dictates what shall be done. Yet this man, this Chairman of the Board of Directors or President or General Manager, is so busy with his immense power that he does not have time to deal with the smallest office boy or the smallest minor clerk who hands out food and puts it in bags. This particular man, the God of the supermarket, represents God Himself, the Head Manu of our Universe, the one who has control of many different worlds. He is so important, so powerful, so busy that he is not able to deal with individual worlds, not able to deal with individual countries, and definitely not able to deal with individuals – individual humans, individual animals, for animals have as many rights as humans in the celestial scheme of things.
Người Tổng giám đốc siêu thị không thể tự mình nhìn thấy mọi thứ nên ông bổ nhiệm dưới mình những người quản lý, giám sát và đốc công, và cũng tương ứng như thế trong hệ thống không gian Thượng đế giao quyền cho các Bàn Cổ. Có một Đấng Toàn Năng, và trong sự sắp đặt cho Trái đất của chúng ta, cũng có một Đức Bàn Cổ, một người quản lý chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ hành tinh của chúng ta. Dưới Ngài có những Bàn Cổ Thuộc Cấp, hay bạn có thể gọi là người giám sát cho mỗi lục địa trên Trái đất, rồi các Bàn Cổ cấp quốc gia. Họ hướng dẫn vận mệnh của các quốc gia, họ ảnh hưởng đến các chính trị gia đang làm việc, mặc dù các chính trị gia có thể tạo ra một mớ hỗn độn mà không cần các vị Bàn Cổ giúp họ!
Có một tạo vật được gọi là ‘Con Mắt của Thượng Đế’. Đó là loài mèo. Lũ mèo có thể đến mọi nơi, làm mọi thứ và thấy tất cả, chắc hẳn mọi người đều lưu ý thấy là một con mèo thường hay đi thơ thẩn? Người ta thường nói, ‘Đúng là con mèo, chả có gì cả.’ Và con mèo đến xem rồi nó báo cáo về điều hay dở. Những lực lượng xấu không thể chỉ huy được mèo. Chúng có một vòng chắn thần thánh bảo vệ nó khỏi những ý nghĩ xấu, đó là lý do vì sao ở nước này con mèo được tôn kính như những vị Thần hàng thế kỷ trong khi ở nước khác chúng bị nguyền rủa như những đệ tử của ma quỷ bởi vì những kẻ ác muốn thoát khỏi sự theo dõi của lũ mèo để báo cáo về hành vi xấu xa của chúng, và bọn ma quỷ không thể làm bất cứ điều gì với chúng.
The supermarket President or Manager cannot see to everything himself so he appoints under managers and supervisors and overseers, and that corresponds in the spatial system to Manus. There is God the Almighty, and in our own scheme there is the Manu of Earth, the Manager who is responsible for the overall management of this Earth. Under him there are subordinate Manus, supervisors if you like, of each continent of the Earth. Supervisors or Manus of each country of the Earth. They guide the destiny of the countries, they influence what the politicos are doing although the politicos can make enough mess without any Manus to help them!
There is one creature who is known as ‘the Eye of God‘. The cat. The cat can go anywhere, do anything, see anything, for who takes much notice of a cat strolling around? People say, ‘Oh it’s only the cat, it’s nothing.‘ And the cat goes on watching and reporting good and bad. Evil forces cannot control cats. Cats have a divine barrier which prevents evil thoughts, that is why in one century cats are venerated as Divinities, and in another century they are execrated as disciples of the devil because the devil people want to get rid of cats who report on evil deeds, and there is nothing the devils can do about it.
Hiện tại, vị Bàn Cổ đang điều hành Thế giới là Sa-tăng. Ngày nay, Sa-tăng đang kiểm soát toàn bộ thế giới, không có nhiều điều tốt ở thời gian này. Hãy nhìn quanh chính các bạn sẽ thấy những nhóm Sa-tăng như là Cộng sản. Hãy nhìn vào tất cả các giáo phái với sai lầm ‘tôn giáo’ của họ và cách họ cố gắng để đạt được sự thống trị trên những kẻ đủ dốt nát để tham gia các tà giáo của họ. Nhưng cuối cùng Sa-tăng sẽ bị buộc phải từ bỏ trái đất, buộc phải rút tay sai của mình giống như một doanh nghiệp vận hành không đúng phải đóng cửa. Chẳng bao lâu nữa sẽ đến kỳ mà con lắc chuyển hướng và làm cho cái ác yếu đi, cái tốt mạnh lên, nhưng thời khắc đó chưa đến. Chúng ta đang phải đối mặt với thời của cái ác tăng lên cho đến khi con lắc thực sự chuyển hướng.
Hãy nghĩ về điều này, khi nhìn vào con lắc, bạn nghĩ rằng nó luôn luôn chuyển động, nhưng không phải vậy. Bạn biết không, nó thậm chí không chuyển động cùng một tốc độ, bởi khi ở trên cao, ví dụ bên phải, rồi nó rơi xuống và tốc độ tăng dần đến điểm thấp nhất, đó là điểm nó đạt tốc độ cao nhất. Nhưng sau đó thì quả nặng của con lắc lại trèo lên bên kia kéo cánh tay đòn chậm lại và cuối cùng nó đột ngột dừng lại, khá chắc chắn là con lắc dừng lại một thời gian đáng kể trước khi nó lại rơi xuống và leo trở lại phía kia.
At the present time the Manu controlling the Earth is Satan. At the present time Satan is very well in control of the Earth, not much good can happen at the present time. Look for yourself at that evil Satan-like group, the Communists. Look at all the cults with their misleading ‘religion‘ and how they try to gain dominance over those who are foolish enough to join their evil cults. But eventually Satan will be forced to abandon the Earth, forced to withdraw his minions just as a business which fails has to close down. Soon there will become a time when the pendulum will reverse its direction and with its reverse of direction evil will weaken, good will strengthen, but that time is not yet. We face increasingly bad times until the pendulum really swings.
Think of this; you look at the pendulum, you think it is always moving but it is not, you know, it is not even moving at the same speed because the pendulum is at its height on, let us say, the right side, and then it falls down with increasing speed until it is at its bottom most point. There it has its maximum speed. But then the weight of the pendulum climbing up to the other side slows the arm of the pendulum and at the end of the stroke the pendulum stops, quite definitely the pendulum stops for an appreciable time before falling again to climb up the other side.
Với cách tính thời gian như chúng ta thì có thể nói một con lắc chỉ dừng lại khoảng một phần nhỏ của một giây. Nhưng nếu chúng ta thay thước đo thời gian, với một giây bằng hàng năm, thậm chí hàng nghìn năm, khi đó thời gian con lắc dừng lại có thể là hai nghìn năm. Khi nó dừng ở phía xấu thì vô số những điều xấu diễn ra trước khi nó chuyển sang phía tốt, cơ hội là chia đều.
Kỷ Nguyên Vàng chưa đến đối với những người đang sống hiện nay. Những điều kiện chắc chắn sẽ xấu đi và sẽ tiếp tục xấu đi trong suốt những năm tới để dành khoảng thời gian tốt đẹp cho những công dân ưu tú sau này của chúng ta. Tuy nhiên con cái và cháu chắt của chúng ta sẽ thực sự được sống trong những năm đầu của Kỷ Nguyên Vàng, và họ sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ đó. Nhưng việc lớn cần phải làm từ bây giờ là xem xét lại hệ thống tôn giáo.
Hiện giờ người Thiên Chúa chống lại người Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa Giáo, từ khi nó bị bóp méo khoảng 60 năm trước, đã thực sự trở thành tôn giáo hiếu chiến nhất trong tất cả. Ở phía Bắc, người Công giáo Ai-len và tín đồ Tin Lành đang chém giết lẫn nhau. Rồi chiến tranh giữa người Do Thái và người Hồi Giáo, ‘tôn giáo’ của một người thì đâu có quan trọng gì? Tất cả chỉ nên là những con đường dẫn về Nguồn Cội mà thôi.
Chúng ta có thể phân ra chút ít chỗ này chỗ khác, nhưng tất cả các tôn giáo chỉ nên dẫn đường về Nguồn. Một người Công giáo hay một người Do Thái thì có sao chứ? Nhưng có vấn đề gì đâu khi mà Thiên Chúa Giáo ở thời kỳ Đức Chúa giáng trần từ qua một sự kết hợp của các tôn giáo vùng Viễn Đông? Một tôn giáo phải được phù hợp với nhu cầu của những người mà nó được rao giảng.
Depending upon our time reference we are able to say that with the average clock the stoppage is for a fraction of a second only. But if we go to a different time where seconds are years or perhaps even thousands of years, then the time the pendulum is stopped may itself be two thousand years. And if the pendulum is stopped on the bad side a lot of bad can be done before the pendulum and its cycle goes down, down, down, and up again to the other side to provide good and equal opportunity.
The Golden Age will not be in the time of any who are living now. Conditions will worsen very definitely and will continue to worsen throughout the years left to those of us who are senior citizens. But children or grandchildren will indeed live to see the start of the Golden Age and they will partake of many of the benefits there from. But one of the great things which needs to be done is to overhaul the religious system. Now Christians flight against Christians, and the Christian religion indeed, since it was so distorted in the Year, has been the most warlike religion of all. In Northern Ireland Catholics are murdering Protestants and Protestants are murdering Catholics. Again, there is war between Jews and Moslems, and what does it matter what ‘religion‘ one follows? All paths should lead the same way Home. We may have to diverge a bit here and there, but all religions should lead the same way Home. What does it matter that one person is a Christian and another person is a Jew? What does it matter that the Christian religion as it was in the time of Christ was formed from a combination of Far Eastern religions? A religion should be tailored to the exact need of the people to whom it is going to be preached.
Tôn giáo cần thực sự khác biệt. Nó phải được dạy bởi những người hiểu biết, chứ không phải bởi những người chỉ muốn có một cuộc sống dễ dàng và thu nhập chắc chắn thoải mái như thường thấy bây giờ. Không nên có sự phân biệt giáo phái và cũng không nên có nhà truyền giáo.
Bằng sự trả giá cay đắng của chính mình, tôi biết rằng các nhà truyền giáo là kẻ thù của những người có niềm tin thực sự. Tôi biết ở Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nơi khác – đặc biệt là ở Châu Phi – người ta giả vờ cải sang Thiên Chúa Giáo chỉ bởi vì họ được các nhà truyền giáo cho nhiều thứ miễn phí. Chúng ta cũng phải nhớ rằng những nhà truyền giáo này, với đầu óc bảo thủ khăng khăng bắt các dân tộc bản địa phải mặc thứ vải không phù hợp với họ, những nhà truyền giáo thực sự đem đến bệnh lao và những bệnh đáng sợ khác cho những người trước đây khi sống trong trạng thái tự nhiên họ khá miễn dịch với bệnh tật.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng, có lẽ, Toà án dị giáo Tây Ban Nha, nơi mà những người thuộc tôn giáo khác bị tra tấn, bị thiêu sống, bởi vì họ đã không tin vào những gì người Công giáo tin, hoặc họ chỉ giả vờ tin.
Religion should be very different indeed. It should be taught by dedicated men, not by those who want an easy living and a comfortable sure income as now seems to be the case. There should be no discrimination and definitely no missionaries.
I know to my own bitter cost that missionaries are the enemies of the true believers. I know that in China, India, and many other places – especially in Africa – people pretended to be converted to Christianity just because of the free hand-outs which the missionaries gave. We must also remember that those missionaries with their prudish minds insisted on native peoples being clothed in unsuitable garments, and those missionaries indeed brought tuberculosis and other dread diseases to people who previously in their own natural state were quite immune to such illnesses.
We should also remember, perhaps, the Spanish Inquisition where people of different religions were tortured, burned alive, because they would not believe in the same imaginations as the Catholics believed in, or thought it was policy to pretend to believe in.
Kỷ Nguyên Vàng sẽ đến. Không phải vào thời kỳ của chúng ta, mà là sau này. Có lẽ khi Thượng Đế của thế giới chúng ta sẽ nhàn hơn chút vào chu kỳ tốt, Ngài có thể quan tâm xem xét nhiều hơn đến con người và loài vật. Những Người Làm Vườn của Trái đất đang rất chú tâm và không nghi ngờ gì, nhưng mọi người đều đồng ý rằng vào một số thời điểm, người sở hữu tài sản cần phải bước vào và xem Người Làm Vườn của Ngài đang làm gì, và có lẽ yêu cầu một vài thay đổi đây đó.
Tôi tin vào Thượng Đế. Nhưng tôi cũng tin rằng thật vô ích khi suốt ngày cầu nguyện những mong muốn tầm thường của chúng ta với Ngài. Ngài quá bận rộn, và trong mọi trường hợp, ở giai đoạn này trong chu kỳ của chúng ta, hay là nhịp điệu, hay con lắc đang ở phía tiêu cực, và những khía cạnh tiêu cực, tội ác và cái xấu hoành hành. Và điều đó là – vâng, nếu bạn muốn cầu nguyện điều gì, hãy nói với Chân Ngã của bạn. Và nếu Chân Ngã của bạn thấy điều đó tốt cho bạn – và cũng tốt cho cả Chân Ngã! – bạn có thể đạt được.
The Golden Age will come. Not in our time, but later. Perhaps when the God of our world has more leisure during the period of that good cycle He may consider investigating humans and animals a bit more. The Gardeners of the Earth are well intentioned, no doubt, but everyone will agree that at times it is necessary for the owner of the property to step in and see what his gardeners are doing and perhaps order a change or two here and there.
I believe in God. But I also believe that it is useless to pray and pray and pray for our own trivial wants to God. He is too busy, and, in any case, at this period of time our cycle or rhythm or pendulum is at its negative aspect, and during the negative aspect evil, negativeness, bad is in force. And so it is – well, if you want something pray to your Overself instead. And if your Overself thinks it is good for you – and good for the Overself! – you may get it. By that time you probably will not want it.
[1] Virus Vera gây bệnh đa hồng cầu [Người dịch]
[2] Virus Brunhilde gây bệnh bại liệt [Người dịch]
[3] Loại virus gây bệnh sốt vàng da bắt nguồn từ Châu Phi [VMC]
[4] Loại virus gây sốt, đau đầu, đau cơ và giảm bạch cầu truyền từ ruồi muỗi [VMC]
[5] Hình vẽ một chu kỳ
Dịch và Biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam – VMC