Chương V: Bên Kia Cửa Tử – Bác Sĩ Đến Từ Lhasa – Lobsang Rampa

Ông lão Tsong-tai đã chết, nằm cuộn tròn như thể đang ngủ. Tất cả chúng tôi đều đau lòng. Phòng bệnh bao trùm trong sự tiếc nuối. Cái chết chẳng xa lạ gì với chúng tôi, chúng tôi đối diện với cái chết và khổ đau cả ngày, và đôi khi là cả đêm nữa. Nhưng ông lão Tsong-tai đã chết.

Tôi nhìn xuống khuôn mặt nâu sạm và nhăn nheo của ông, nhìn xuống lớp da như giấy căng trên khuôn, như dây buộc diều trong gió. Ông Tsong-tai là một quý ông hào hiệp. Tôi nhìn xuống khuôn mặt gày gò, mái đầu tao nhã của ông, và những sợi râu trắng thưa thớt. Nhiều năm trước, ông từng là một quan chức cao cấp tại Tử Cấm Thành ở Bắc kinh. Sau này, khi cách mạng bùng nổ, ông bị xua đuổi do hậu quả khủng khiếp của chiến tranh và của cuộc nội chiến. Ông đến Trùng Khánh, làm một lão nông, bắt đầu lại từ đầu, kiếm sống từ lớp đất cứng nơi đây. Ông là một người có học, một người nói chuyện rất có duyên. Giờ đây giọng nói của ông đã vĩnh viễn câm lặng. Chúng tôi đã cố hết sức để cứu ông.

OLD Tsong-tai was dead, curled up as if he were asleep. We were all sick at heart. The ward was hushed with sympathy. We knew death, we were facing death and suffering all day long, sometimes all night long too. But old song-tai was dead.

I looked down at his lined brown face, at the skin drawn tight like parchment over a framework, like the string drawn tight on a kite as it hummed in the wind. Old Tsong-tai was a gallant old gentleman. I looked down at this thin face, his noble head, and the sparse white hairs of his beard. Years before he had been a high-ranking official at the Palace of the Emperors in Peking. Then had come the revolution and the old man had been driven away in the terrible aftermath of war and of civil war. He had made his way to Chungking, and had set up as a market gardener, starting again from the bottom, scratching a bare existence from the hard soil. He had been an educated old man, one to whom it was a delight to talk. Now his voice was stilled forever. We had worked hard to save him.

Cuộc sống vất vả mà ông trải qua có lẽ đã quá sức với ông. Một ngày như mọi ngày, ông đang làm việc trên cánh đồng thì ngã gục. Ông nằm đó nhiều giờ, quá yếu để tự di chuyển, quá yếu để cầu cứu sự trợ giúp. Cuối cùng, khi người ta đưa ông đến cho chúng tôi thì đã quá muộn. Chúng tôi đưa ông lão tới bệnh viện và tôi đã chăm sóc ông, người bạn của tôi. Giờ thì tôi chẳng thể làm gì hơn nữa, ngoài việc đảm bảo rằng ông được chôn cất theo cách mà ông muốn và người vợ già của ông không phải lâm vào cảnh túng thiếu.

The hard life which he had had, had proved too much for him. One day he had been working in his field, and he had dropped. For hours he had lain there, too ill to move, to ill to call for assistance. They had come for us eventually, when it was too late. We had taken the old man to the hospital and I had tended him, my friend. Now there was nothing more that I could do except see that he had burial of the type that he would want to have, and to see too that his aged wife was freed from want.

Tôi âu yếm vuốt mắt cho ông, đôi mắt không còn nhìn tôi một cách tinh nghịch mỗi khi tôi dồn dập hỏi ông muôn vàn câu hỏi của mình. Tôi kiểm tra xem băng đã được thắt chặt xung quanh quai hàm để miệng ông không bị chảy xệ, khuôn miệng đã cho tôi biết bao lời động viên, đã dạy tôi biết bao điều về Trung Quốc và lịch sử Trung Quốc, mỗi lần tôi ghé thăm ông vào buổi tối, mang cho ông những thứ quà nhỏ nhặt, và trò chuyện như hai người đàn ông với nhau. Tôi kéo tấm vải phủ lên ông và phủi phẳng nó. Ngày đã qua lâu rồi. Đã quá giờ về thường lệ nhiều tiếng và tôi đã làm việc hơn mười bảy giờ, cố gắng để giúp đỡ, cố gắng để chữa trị.

I lovingly closed his eyes, the eyes that would no longer gaze at me quizzically as I plied him with questions. I made sure that the bandage was tight around his jaws so that his mouth would not sag, the mouth that had given me so much encouragement, so much teaching in Chinese and Chinese history, for it had been my wont to call upon the old man of an evening, to take him little things, and to talk with him as one man to another. I drew the sheet over him and straightened up. The day was far advanced. It was long past the hour at which I should have left, for I had been on duty for more than seventeen hours, trying to help, trying to cure.

Tôi đi dọc con đường dẫn lên phía đồi, đi ngang qua các cửa hàng được thắp sáng rực rỡ vì trời đã tối. Tôi đi ngang qua ngôi nhà cuối cùng. Bầu trời thật nhiều mây. Phía dưới bến cảng, sóng vỗ vào bờ đê và những con tàu lắc lư những phao neo giữ chúng.

I made my way up the hill, past the shops so brightly lighted, for it was dark. I went on past the last of the houses. The sky was cloudy. Below in the harbor the water had been lashing up at the quay side and the ships were rocking and tossing at their moorings.

Gió thở dài rền rĩ qua rặng thông khắp con đường đưa tôi trở về lạt ma viện. Vì lý do nào đó, tôi rùng mình. Tôi bị đè nặng bởi một nỗi sợ hãi kinh hoàng. Tôi chẳng thể gạt bỏ suy nghĩ về cái chết khỏi tâm trí. Tại sao con người lại phải chết đau đớn như vậy chứ? Những đám mây trên đầu hối hả bay qua hệt như những người đang mải mê với công việc của mình, che khuất mặt trăng, chỉ để lọt ánh trăng chiếu rọi những cây linh sam đen. Rồi những đám mây lại tụ lại lần nữa, ánh sáng bị che khuất, và tất cả lại trở nên ảm đạm và tăm tối, báo trước sự chẳng lành. Tôi rùng mình.

The wind moaned and sighed through the pine trees as I walked along the road toward the lamasery. For some reason I shivered. I was oppressed with a horrid dread. I could not get the thought of death out of my mind. Why should people have to die so painfully? The clouds overhead scurried swiftly by like people intent on their business, obscuring the face of the moon, blowing clear, allowing shafts of moonlight to illuminate the dark fir trees. Then the clouds would come together again and the light would be shut off, and all would be gloomy, and dark, and foreboding. I shivered.

Tôi đi trên đường vắng, những bước chân vọng lại trống rỗng trong tĩnh lặng như thể có ai đó đang bám theo tôi. Tôi cảm thấy không thoải mái, rồi lại rùng mình lần nữa và kéo cái áo choàng quanh người chặt hơn. “Mình đang bất an vì điều gì đó,” tôi tự nhủ. “Cảm giác thật kỳ lạ. nhưng mình không thể nghĩ ra đó là gì.” vừa lúc tôi đi đến lối vào con đường mòn nhỏ đi qua rừng cây, con đường nhỏ dẫn lên đồi tới lạt ma viện. Tôi rẽ phải, rời con đường chính.

Tôi đi dọc trên đường một lúc, cho tới khi đến một khoảng trống nhỏ bên vệ đường nơi có một cái cây đổ kéo theo những cây khác cũng đổ rạp. Lúc này, cái cây nằm sõng soài trên mặt đất trong khi những cây khác nằm ngả nghiêng theo những góc kỳ quặc. Tôi nghĩ “Mình cần ngồi xuống một lát. Không biết có chuyện gì đang xảy ra.” Tôi tự nhủ. Nghĩ thế, tôi liền rẽ vào khoảng đất trống và tìm một chỗ sạch trên thân cây. Tôi ngồi xuống và kéo áo choàng xung quanh chân để che mình khỏi cơn gió lạnh. Thật là kỳ lạ. Tất cả những âm thanh nho nhỏ của màn đêm ùa đến, những tiếng run rẩy kỳ lạ, những tiếng rít, tiếng xào xạc. Vừa lúc đó những đám mây trên đầu tan rã, ánh trăng rực rỡ tràn xuống khoảng rừng trống, chiếu sáng như thể ban ngày.

Điều này thật lạ lùng với tôi, ánh trăng sáng tựa ánh nắng mặt trời những ngày gắt nhất. Tôi rùng mình, rồi lập tức nhảy dựng lên hốt hoảng. Một người đàn ông đang tiến đến sau lùm cây phía bên kia khoảng trống. Tôi nhìn chằm chằm đầy ngờ vực. Đó là một vị Lạt Ma Tây Tạng. Vị Lạt Ma đang tiến về phía tôi, máu ứa ra từ ngực ông, vấy đầy áo choàng, và tay ông cũng dính đầy máu đỏ đang nhỏ giọt. Ông đi về phía tôi còn tôi loạng choạng lùi lại và vấp chân vào một thân cây. Tôi ngồi sụp xuống và nhìn một cách khiếp sợ.

– Lobsang, Lobsang, con sợ Thầy hay sao?

Một giọng nói thân thuộc vang lên, tôi vùng đứng dậy, dụi mắt nhìn, rồi vội vàng lao về phía thầy.

– Dừng lại! Con không thể chạm vào ta. Ta đến để nói lời tạm biệt với con, hôm nay ta đã hoàn thành phần đời của mình trên trái đất, và đã tới lúc ta lên đường. Chúng ta ngồi xuống nói chuyện chứ?

Tôi quay lại lễ phép ngồi xuống chỗ của mình trên thân cây đổ, lòng vừa đau đớn vừa choáng váng. Trên đầu những đám mây cuộn xoắn, lá trên cây xào xạc, một con chim đêm lượn lờ trên cao tìm thức ăn, mải miết kiếm mồi không buồn bận tâm đến chúng tôi, và những gì chúng tôi đang làm. Ở đâu đó phía cuối khúc cây nơi chúng tôi ngồi, một sinh vật nhỏ cựa quậy, phát ra những tiếng cọt kẹt khi nó đục khoét thân cây để tìm mồi. Nơi đây, trên khoảng đất trống lộng gió và ảm đạm này, tôi ngồi nói chuyện với một bóng ma, bóng ma của Thầy tôi, Đại Đức Lạt Ma Minh Gia, người đã quay về từ Thế giới bên kia để trò chuyện với tôi.

As I walked along the road my footsteps echoed hollowly in the silence, echoed as if someone were following me close behind. I was ill at ease, again I shivered and drew my robe more tightly around me. “Must be sickening for something,” I said to myself. “I really feel most peculiar. Can’t think what it can be.” Just then I came to the entrance of the little path through the trees, the little path which led up the hill to the lamasery. I turned right, away from the main road. For some moments I walked along until I came to a little clearing at the side of the path where a fallen tree had brought others crashing down. Now, one was flat upon the ground and the others lay at crazy angles. “I think I’ll sit down for a moment. Don’t know what’s happened to me,” I said to myself. With that I turned into the clearing and looked for a clean place upon the trunk of a tree. I sat down and tucked my robes around my legs to protect me from the chill wind. It was eerie. All the small sounds of the night broke in upon me, queer shudders, squeaks, and rustles. Just then scurrying clouds overhead parted, and a brilliant beam of moonlight flooded into the clearing, illuminating all as if in the clearest day. It seemed strange to me, light, moonlight as bright as that, as bright as the brightest sunlight. I shivered, then jumped to my feet in alarm. A man was approaching through the trees at the other side of the clearing. I stared in utter incredulity. It was a Tibetan lama. A lama was coming toward me with blood pouring from his chest, staining his robes, his hands too were covered with blood, dripping red. He walked toward me, and I reeled back and almost tripped over the bole of a tree. I sank down and sat in terror. “Lobsang, Lobsang, are you afraid of ME?” a well-known voice exclaimed. I stood up, rubbed my eyes, and then rushed toward that figure. “Stop!” he said. “You cannot touch me. I have come to say goodbye to you, for this day I have finished my span upon the earth, and I am about to depart. Shall we sit and talk?” I turned, humbly, heart-broken, stunned, and resumed my seat upon the fallen tree. Overhead the clouds whirled by, the leaves of the trees rustled, a night bird flitted overhead intent only on food, upon prey, oblivious to us, and our business. Somewhere at the end of the trunk upon which we sat some small creature of the night rustled and squeaked as it turned over rotting vegetation in search of food. Here in this desolate clearing, wind-swept and bleak, I sat and talked with a ghost, the ghost of my Guide, the Lama Mingyar Dondup, who had returned from beyond Life to talk to me.

Thầy ngồi xuống bên cạnh tôi như Thầy vẫn thường làm rất nhiều lần trước đây ở Lhasa. Thầy không chạm vào tôi mà ngồi cách chừng ba mét.

– Trước khi con rời Lhasa, Lobsang, con đã hỏi thầy khi nào quãng đời của thầy trên trái đất này kết thúc. Bây giờ là lúc kết thúc. Thế nên thầy ở đây.

Tôi nhìn Thầy, người Thầy mà tôi biết rõ hơn tất cả. Tôi nhìn Thầy và ngay cả với tất cả những kinh nghiệm của tôi– vẫn khó có thể tin rằng người đàn ông này không còn trong thân xác nữa, mà đang là một linh hồn, rằng sợi chỉ bạc của Thầy đã bị cắt đứt, và bát vàng đã vỡ tan tành. Với tôi, Thầy trông vững vàng và toàn vẹn như tôi vẫn luôn biết về Thầy. Thầy mặc áo choàng, chiếc áo thầy tu màu đỏ gạch cùng với khăn choàng màu vàng. Thầy trông có vẻ mệt mỏi như thể vừa đi một hành trình dài và vất vả. Tôi có thể thấy rõ rằng trong quãng thời gian dài vừa qua Thầy đã quên mình trong việc phụng sự người khác. “Trông Thầy tiều tụy đi biết bao,” tôi nghĩ. Thầy xoay mình, theo một thói quen mà tôi nhớ rất rõ, và khi Thầy làm vậy tôi nhìn thấy một con dao cắm trên lưng Thầy.

Thầy khẽ nhún vai và ngồi thẳng đối diện với tôi. Tôi cứng người vì sợ hãi khi nhìn thấy đầu lưỡi dao găm nhô ra từ ngực Thầy, máu ứa ra từ vết thương, chảy xuống thấm đẫm chiếc khăn choàng màu vàng.

Lúc trước nó chỉ lờ mờ không rõ, tôi chỉ thấy một vị Lạt ma bị chảy máu trên ngực và trên tay, nhưng giờ thì tôi có thể nhìn được rất gần.

Đôi bàn tay trước mắt tôi nhuốm máu nơi Thầy đã cầm vào khi con dao găm đi xuyên qua lồng ngực. Tôi rùng mình và thấy máu đông cứng bên trong người. Thầy nhìn thấy ánh mắt tôi, thấy nỗi kinh hoàng trên khuôn mặt tôi, Thầy nói:

– Thầy cố ý đến như thế này, Lobsang, để cho con biết những gì đã xảy ra. Con đã thấy ta như vậy, giờ hãy thấy ta như ta thực sự là.

Những vết máu biến mất trong nháy mắt, trong một tia chớp vàng, và được thay thế bằng một hình dáng vẻ đẹp và tinh khiết phi thường. Đây là một Người đã tiến xa trên con đường tiến hóa. Một người đã đạt được quả vị Phật.

He sat beside me as he had sat beside me so many times before away in Lhasa. He sat not touching me, perhaps three yards’ distance from me. “Before you left Lhasa, Lobsang, you asked me to tell you when my span upon earth had finished. My span has now finished. Here I am.” I looked at him, the man I knew above all others. I looked at him and I could hardly believe—even with all my experience of such things—that this man was no longer of the flesh, but a spirit, that his silver cord had been severed, and the golden bowl shattered. He looked to me to be solid, entire, as I had known him. He was dressed in his robes, in his brick red cassock with the golden cloak. He looked tired as if he had traveled far and painfully. I could see well that for a long time past he had neglected his own welfare in the service of others. “How wan he looks,” I thought. Then he partly turned, in a habit that I so well remembered, and as he did so I saw a dagger in his back. He shrugged slightly and settled himself, and faced me. I froze with horror as I saw that the point of the dagger was protruding from his chest, and the blood had poured from the wound, had run down and saturated the golden robe. Before it had been as a blur to me, I had not taken in the details, I had just seen a lama with blood on his chest, blood on his hands, but now I was gazing more closely. The hands I saw were blood-stained where he had clutched himself as the dagger came through his chest. I shivered and my blood ran cold within me. He saw my gaze, he saw the horror in my face, and he said, “I came like this deliberately, Lobsang, so that you could see what happened. Now that you have seen me thus, see me as I am.” The blood-stained form vanished in a flash, a flash of golden light, and then it was replaced by a vision of surpassing beauty and purity. It was a Being who had advanced far upon the path of evolution. One who had attained Buddhahood.

Sau đó, trong trẻo như tiếng chuông chùa, giọng nói của Thầy vọng tới tôi, nhưng không phải tới đôi tai vật lý của tôi mà tới phần tâm thức bên trong tôi. Một giọng nói đẹp, sang sảng, đầy nội lực, đầy sức sống, Sức sống Vĩnh hằng.

– Ta không có nhiều thời gian, Lobsang, ta phải mong chóng lên đường, có nhiều người đang chờ đợi ta. Nhưng con, người bạn của ta, người đồng hành với ta trong biết bao cuộc phiêu lưu, ta phải đến thăm con trước tiên, để động viên con, để giúp con vững lòng, và để nói lời “Tạm biệt” trong một thời gian ngắn. Lobsang, trước đây chúng ta đã cùng nói với nhau về vấn đề này. Ta nhắc lại với con một lần nữa, con đường của con sẽ rất dài, rất khó khăn, rất nguy hiểm, nhưng con sẽ thành công bất chấp tất cả, bất chấp sự phản đối và ghen tị của những người phương Tây.

Chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc lâu; nói về những điều rất riêng tư để có thể viết ra ở đây. Tôi cảm nhận được sự ấm áp và thoải mái, khoảng rừng trống quanh chúng tôi tràn ngập trong ánh sáng vàng, rực rỡ hơn cả ánh mặt trời rực rỡ nhất, và ấm áp như cái nóng của buổi trưa hè. Tôi được đắm mình trong tình yêu thực sự. Thế rồi, Thầy của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức yêu quý của tôi, đứng dậy mà chân không chạm đất.

Thầy đưa tay lên trên đầu tôi và ban phước cho tôi, Thầy nói:

– Ta sẽ dõi theo con, Lobsang, để giúp đỡ con hết mức ta có thể, nhưng con đường còn khó khăn, thử thách sẽ còn nhiều và trước khi ngày hôm nay kết thúc, con sẽ còn nhận thêm một tin buồn nữa. Hãy rắn rỏi, Lobsang, hãy rắn rỏi như con vẫn làm trong suốt thời gian qua. Ta sẽ phù hộ cho con.

Tôi ngước mắt nhìn, trước cái nhìn của tôi Thầy mờ dần và biến mất, ánh sáng vàng tắt hẳn, bóng tối tràn về, gió lạnh trở lại. Trên đầu những đám mây bay hỗn loạn. Những sinh vật nhỏ của đêm kêu xào xạc. Có một tiếng kêu rít kinh hoàng của nạn nhân nào đó của một kẻ săn mồi vừa trút hơi thở cuối cùng.

Then as clear as the sound of a temple bell, his voice came to me, not perhaps to my physical ears but to my inner consciousness. A voice of beauty, resonant, full of power, full of life, Greater Life. “My time is short, Lobsang, I must soon be on my way, for there are those who await me. But you, my friend, my companion in so many adventures, I had to visit you first, to cheer you, to reassure you, and to say ‘Farewell’ for a time. Lobsang, we have talked so long together in the past on these matters. Again I say to you, your way will be hard, and dangerous, and long, but you will succeed in spite of all, in spite of the opposition and the jealousy of the men of the West.”

For a long time we talked, talked of things too intimate to discuss. I was warm and comfortable, the clearing was filled with a golden glow, brighter than the brightest sunlight, and the warmth was the warmth of a summer noon. I was filled with true Love. Then, suddenly, my Guide, my beloved Lama Mingyar Dondup, rose to his feet, but his feet were not in contact with the earth. He stretched out his hands above my head and gave me his blessing, and he said, “I shall be watching over you, Lobsang, to help you as much as I can, but the way is hard, the blows will be many and even before this day has ended you will receive yet another blow. Bear up, Lobsang, bear up as you have borne up in the past. My blessing be upon you.” I raised my eyes, and before my gaze he faded and was gone, the golden light died and was no more and the shadows of night rushed in and the wind was cold. Overhead the clouds raced by in angry turmoil. Small creatures of the night chattered and rustled. There was a squeak of terror from some victim of a larger creature as it breathed its last.

Trong một thoáng tôi đứng sững sờ, rồi ngã quỵ xuống đất bên thân cây, bám vào lớp rêu phong, trong một thoáng tôi chẳng còn là mình, bất chấp tất cả những gì tôi đã được huấn luyện, bất chấp tất cả những gì tôi đã biết. Bỗng tôi nghe thấy bên trong mình giọng nói thân yêu đó một lần nữa.

– Hãy vững lòng, Lobsang của thầy, hãy vững lòng vì đây chưa phải là hồi kết, vì tất cả những gì mà chúng ta đang làm là quan trọng và sẽ thành công. Đây không phải là kết thúc.

Thế là, tôi run rẩy đứng lên, sắp xếp những ý nghĩ của mình, phủi chiếc áo choàng, và lau sạch bùn đất trên tay.

Một cách chậm rãi tôi tiếp tục hành trình của mình trên con đường mòn, lên đồi, tới tu viện lạt ma. “Cái chết,” tôi nghĩ, “mình đã từng sang bên kia cửa tử, nhưng mình đã trở về. Còn Thầy đã đi mà không trở lại, đã vượt quá tầm tay của mình. Thầy đã ra đi và mình phải ở lại một mình, chỉ có một mình.” Với những ý nghĩ miên man, tôi về đến lạt ma viện. Tại lối vào có một số nhà sư cũng vừa trở về từ những con đường khác. Tôi đi ngang qua họ mà chẳng để ý và đi tiếp vào bóng tối của ngôi chùa nơi những pho tượng thiêng nhìn tôi chăm chú, dường như thể hiện sự thấu hiểu và thương cảm trên gương mặt của họ. Tôi nhìn lên những tấm bài vị của Tổ tiên, những tấm gỗ đỏ với chữ vàng, nhìn lên đám hương trầm dường như không bao giờ tắt ở đây, làn khói thơm đang cuộn lại như một đám mây lững lờ ở phía trên đầu.

Tôi đến ngồi ở một góc xa, một góc riêng biệt, và tôi lại nghe thấy lần nữa:

– Hãy vững lòng, Lobsang con, hãy vững lòng, vì đây không phải là hồi kết và vì những điều chúng ta đang làm là quan trọng và sẽ thành công. Hãy vững lòng.

Tôi ngồi xuống trong tư thế hoa sen, đắm mình vào trong suy nghĩ về quá khứ và hiện tại. Tôi ngồi như vậy không biết bao lâu. Thế giới đang đảo lộn xung quanh tôi. Những khó khăn đang đè nặng lên tôi. Người Thầy yêu quý của tôi đã rời khỏi thế giới này, vậy mà Thầy lại dặn tôi, “Đây không phải là hồi kết, mọi công sức bỏ ra đều xứng đáng.” Xung quanh tôi các nhà sư vẫn làm những công việc của họ: lau chùi, dọn dẹp, tụng kinh, thắp những nén hương mới, chẳng ai đến làm phiền để tôi được ở một mình với nỗi buồn của mình.

For a moment I stood as if stunned. Then I flung myself to the ground beside the tree trunk, and clawed at the moss, and for a time I was not a man in spite of all my training, in spite of all I knew. Then I seemed to hear within me that dear voice once again. “Be of good cheer, my Lobsang, be of good cheer for this is not the end, for all that for which we strive is worthwhile and shall be. This is not the end.” So I rose shakily to my feet, and I composed my thoughts, and I brushed off my robe, and wiped my hands from the mud on the ground.

Slowly I continued my journey up the path, up the hill, to the lamasery. “Death,” I thought, “I have been to the other side of death myself, but I returned. My Guide has gone beyond recall, beyond my reach. Gone, and I am alone, alone.” So, with such thoughts in my mind I reached the lamasery. At the entrance were a number of monks who had just returned by other paths. Blindly I brushed by them, and made my way along into the darkness of the temple where the sacred images gazed at me and seemed to have understanding and compassion on their carven faces. I looked upon the Tablets of the Ancestors, the red banners with the golden ideographs, upon the ever-burning incense with its fragrant swirl of smoke hanging like a somnolent cloud between the floor and the high ceiling far overhead. I made my way to a distant corner, to a truly sacred spot, and I heard again, “Be of good cheer, Lobsang, be of good cheer, for this is not the end and that for which we strive is worthwhile and shall be. Be of good cheer.” I sank down in the lotus position, and I dwelt upon the past and upon the present. How long I stayed thus I do not know. My world was toppling around me. Hardships were pressing upon me. My beloved Guide had gone from this world, but he had told me, “This is not the end, it is all worthwhile.” Around me monks went about their business dusting, preparing, lighting fresh incense, chanting, but none came to disturb my grief as I sat alone.

Buổi đêm cứ thế tiếp diễn, các nhà sư chuẩn bị cho buổi lễ cầu nguyện. Các nhà sư Trung Quốc trong áo choàng đen, đầu cạo trọc với những đốm hương đốt trên đỉnh đầu, trông giống như những bóng ma trong ánh sáng của những ngọn đèn bơ nhấp nháy. Vĩ chủ tọa đội mũ Liên Hoa bắt đầu tụng kinh khi tiếng kèn và tiếng chuông bạc được cất lên. Tôi chậm rãi đứng lên và miễn cưỡng tới gặp Hòa thượng trụ trì.

Tôi kể cho ông về những gì đã xảy ra, và xin phép được miễn tham gia buổi lễ cầu nguyện lúc nửa đêm, với lý do đang quá đau buồn và không muốn để mọi người trong tu viện phải nhìn thấy nỗi buồn của mình. Ông nói:

– Không, người anh em của tôi. Anh có lý do để vui mừng. Anh đã từng vượt qua cái chết và trở về, và ngày hôm nay anh đã nghe từ Người Thầy của anh, và anh đã nhìn thấy bằng chứng về quả vị Phật của Thầy. Anh không nên đau buồn vì sự chia ly chỉ là tạm thời. Hãy tham gia lễ cầu nguyện lúc nửa đêm, người anh em, và hãy vui mừng vì anh đã thấy điều mà nhiều người không thấy.

The night wore on. Monks made preparation for a service. The Chinese monks in their black robes with their shaven heads with the incense marks burned into their skulls, looked like ghosts in the light of the flickering butter lamps. The priest of the temple in his five-faced Buddha crown came chanting by as the temple bugles were sounded and the silver bells were rung. I slowly rose to my feet and made my reluctant way to the Abbot. With him I discussed what had happened, and asked to be excused from the midnight service, saying that I was too sick at heart, too unwilling to show my grief to the world of the lamasery. He said, “No, my brother. You have cause to rejoice. You have passed beyond death and returned, and this day you have heard from your Guide, and you have seen the living proof of his Buddhahood. My brother you should not feel sorrow, for the parting is but temporary. Take the midnight service, my brother, and rejoice that you have seen that which is denied to so many.”

“Sự huấn luyện của tôi thật sự rất kỹ càng,” tôi nghĩ. “Tôi cũng biết rằng sự chết trên trái đất có nghĩa là sự sinh ra ở Cuộc sống phía bên kia. Tôi biết rằng không có cái chết, rằng đây là thế giới của ảo ảnh, và rằng sự sống thật sự sẽ đến khi chúng ta rời khỏi cơn ác mộng này, rời khỏi trái đất này, nơi đây chỉ là trường học mà chúng ta đến để học những bài học của mình. Cái chết ư? Không có cái gì là cái chết. Vậy tại sao tôi lại chán nản?” Câu trả lời đến với tôi gần như ngay lập tức.

Tôi đau buồn bởi vì tôi ích kỷ, bởi vì tôi đã mất đi người mà tôi yêu quý, bởi vì người mà tôi yêu quý bây giờ đã vượt quá tầm tay tôi. Tôi thực sự ích kỷ, bởi vì Thầy đã ra đi để đến với một cuộc sống vinh quang, trong khi tôi vẫn còn bị mắc kẹt trong cuộc sống cực nhọc trên trái đất, bị bỏ lại để tiếp tục khổ đau, tiếp tục phải phấn đấu, để thực hiện nhiệm vụ mà  tôi cần hoàn thành như một người sinh viên đến trường cần phấn đấu cho tới khi vượt qua kỳ thi tốt nghiệp của anh ta. Sau đó, với trình độ mới, anh ta lại có thể tiếp tục lên đường để lại học hỏi tất cả lần nữa. Tôi ích kỷ, tôi biết, vì tôi muốn giữ người Thầy yêu quý của mình ở lại đây, trên trái đất khủng khiếp này vì lợi ích cá nhân của riêng tôi.

“Training is all very well,” I thought. “I know as well as any that death on earth is birth into the Greater life. I know that there is no death, that this is but the World of Illusion, and that the real life is yet to come, when we leave this nightmare stage, this earth, which is but a school to which we come to learn our lessons. Death? There is no such thing. Why then am I so disheartened?” The answer came to me almost before I asked myself the question. I am despondent because I am selfish, because I have lost that which I love, because that which I love is now beyond my reach. I am selfish indeed, for he who has gone has gone to glorious life, while I am still ensnared in the toils of the earth, left to suffer on, to strive on, to do that task for which I came in the same way as a student at a school has to strive on until he has passed his final examinations. Then with new qualifications he can set forth unto the world to learn all over again. I am selfish, I said, for I would keep my beloved Guide here upon this terrible earth for my own selfish gain.

 

Cái chết ư? Chẳng có gì đáng sợ ở cái chết cả. Chính cuộc sống mới là điều chúng ta nên sợ, bởi vì cuộc sống có thể khiến chúng ta phạm rất nhiều sai lầm.

Không cần phải sợ cái chết. Không cần phải lo sợ việc kết thúc cuộc đời này để đi tới Sự sống bên kia. Không cần phải sợ địa ngục, vì chẳng có nơi nào như vậy cả, không có cái gọi là Ngày Phán Xét. Chỉ có con người tự phán xét chính mình, và không có sự phán xét nào nghiêm khắc nào hơn chính bản thân mình phán xét nhược điểm và sự yếu đuối của mình khi người ấy rời cuộc sống trên trái đất và khi mà những giá trị sai lầm đã được bỏ lại và người ấy có thể nhìn thấy Sự thật. Vậy nên, tất cả những ai sợ chết hãy ghi nhớ điều này từ một người đã từng trải qua cái chết và đã quay trở lại. Sợ hãi là vô ích. Không có Ngày Phán Xét ngoại trừ việc chính mình tự phán xét mình. Càng không có địa ngục. Tất cả mọi người, bất kể họ là ai, bất kể họ đã làm gì, đều được trao cho cơ hội. Không có ai bị tiêu diệt mãi mãi. Không có ai quá xấu xa để không được trao cho một cơ hội khác. Chúng ta sợ cái chết của người khác bởi vì nó tước đi những người thân yêu của chúng ta, bởi vì chúng ta ích kỷ, và chúng ta sợ cái chết của chính mình bởi vì đó là một hành trình tới một nơi xa lạ, và chúng ta không biết cái gì, không hiểu cái gì thì chúng ta sợ cái đó.

Nhưng không có cái chết, mà chỉ có sự sinh ra ở Sự sống phía bên kia. Trong thủa sơ khai của tất cả các tôn giáo, đó là lời dạy; không có cái chết, chỉ có sự sinh ra trong Sự sống Vĩnh hằng. Trải qua hết thế hệ tu sĩ này đến thế hệ tu sĩ khác, lời dạy nguyên thủy đã bị thay đổi, bị sai lạc, và rồi họ hù dọa tín đồ với sự sợ hãi, lưu huỳnh và độc tố, và những câu chuyện về địa ngục. Họ làm tất cả những điều này để vơ vét quyền lực cho cá nhân họ, để nói rằng, “Chúng ta là tu sĩ, chúng ta có chìa khóa vào thiên đường. Hãy tuân theo chúng ta nếu không ngươi sẽ xuống địa ngục.” Nhưng tôi đã đến phía bên kia cái chết và đã quay trở lại, cũng như nhiều vị Lạt Ma khác. Chúng tôi biết sự thật. Chúng tôi biết rằng luôn luôn có hy vọng, bất kể một người đã làm những gì, bất kể người ấy mặc cảm tội lỗi như thế nào, người ấy vẫn phải tiếp tục phấn đấu bởi vì luôn luôn có hy vọng.

Death? There is nothing to be afraid of in death. It is life of which we should be afraid, life which enables us to make so many mistakes.

There is no need to fear death. There is no need to fear the passing from this life to the Greater Life. There is no need to fear hell, for there is no such place, there is no such thing as a Day of Judgment. Man judges himself, and there is no sterner judge than man of his own infirmities, his own weakness, when he passes beyond life on earth and when the scales of false values drop from his eyes and when he can see Truth. So all you who fear death know this from one who has been beyond death, and has returned. There is naught to fear. There is no Day of Judgment except that which you make yourself. There is no hell. Everyone, no matter who they are, nor what they have done, is given a chance. No one is ever destroyed. No one is ever too bad to be given another chance. We fear the death of others because it deprives us of their well loved company, because we are selfish, and we fear our own death because it is a journey into the Unknown, and that which we do not understand, that which we do not know, that we fear. But—there is no death, there is only birth into a Greater Life. In the early days of all religions that was the teaching; there is no death, there is only birth into the Greater Life. Through generation after generation of priests the true teaching has been altered, corrupted, until they threaten with fear, with brimstone and sulfur, and tales of hell. They do all this to boost up their own power, to say, “We are the priests, we have the keys of heaven. Obey us or you will go to hell.” But I have been to the other side of death and have returned, as have many lamas. We know the truth. We know that always there is hope. No matter what one has done, no matter how guilty one may feel, one must strive on for there is always hope.

Thầy trụ trì của tu viện nói với tôi:

– Hãy tham gia lễ cầu nguyện lúc nửa đêm, người anh em của tôi, và nói về những gì anh đã thấy ngày hôm nay.

Điều này làm tôi sợ. Đây thực sự là một thử thách đối với tôi, tôi vẫn còn cảm thấy vô cùng đau đớn. Nỗi niềm nặng trĩu đang đè lên tôi, và tôi trở về một góc riêng tư của ngôi chùa để thiền định. Buổi tối đáng sợ đó vẫn cứ tiếp diễn, mỗi phút dài tựa hàng giờ, mỗi giờ dài tựa cả ngày, và tôi cứ ngỡ mình chẳng thể sống qua. Các nhà sư đến rồi đi. Các hoạt động bên trong ngôi chùa vẫn diễn ra xung quanh tôi, nhưng tôi chỉ có một mình với những suy nghĩ, nhớ về quá khứ, và lo sợ cho tương lai.

Nhưng điều đó cuối cùng không xảy ra. Tôi không tham gia lễ cầu nguyện đêm đó. Đúng như lời cảnh báo trước đó của Thầy tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại đức, buổi tối vẫn còn một đòn giáng nữa trước khi hết ngày, một đòn khủng khiếp. Tôi đang ngồi thiền trong góc yên tĩnh của mình, nghĩ về quá khứ và tương lai. Tầm mười một giờ đêm, khi tất cả xung quanh đã trở nên yên tĩnh, tôi nhìn thấy một bóng người tiến lại gần. Đó là một vị Lạt Ma già, một người thuộc tầng lớp tinh hoa của các đền thờ ở Lhasa, một vị Phật sống già cỗi, người sẽ chẳng còn ở trên trái đất này bao lâu nữa. Ngài bước ra từ khoảng tối nơi ánh sáng của những ngọn đèn bơ nhấp nháy không chiếu tới. Ngài đến gần, và xung quanh Ngài là ánh sáng xanh. Xung quanh đầu là quầng sáng vàng rực rỡ. Ngài đến bên tôi, vươn cánh tay ra và nói:

– Con trai, con trai, ta có tin quan trọng cho con. Đức Thái Tuế, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba, người cuối cùng trong dòng dõi của Ngài, đang chuẩn bị rời khỏi thế giới.

Vị Lạt Ma già đến gặp tôi, nói với tôi rằng sự kết thúc của một chu kỳ đến gần, và rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma cần phải ra đi. Ngài nói với tôi rằng tôi phải nhanh chóng trở về Lhasa để kịp gặp Đức Thầy trước khi quá muộn. Sau đó Ngài nói:

– Con cần phải nhanh hết sức. Hãy làm bất kỳ mọi thứ mà con có thể để trở về. Con cần phải lên đường ngay đêm nay.

Ngài nhìn tôi, và tôi đứng lên, rồi bóng Ngài mờ dần, chìm vào bóng tối và không còn thấy gì nữa. Linh hồn của Ngài đã trở về với cơ thể, có lẽ ở tận Jo Kang tại Lhasa.

The Abbot of the lamasery had told me, “Take the midnight service, my brother, and tell of that which you have seen this day.” I dreaded it. It was indeed an ordeal for me. I felt sick at heart. The terrible oppression sat upon me, and I returned to a secluded corner of the temple to my meditation. So that terrible evening wore on, with the minutes feeling like hours, with the hours like days, and I thought I should never live through it. The monks came and went. There was activity around me in the body of the temple, but I was alone with my thoughts, thinking of the past, dreading the future.

But it was not to be. I was not to take the midnight service after all. As my Guide, the Lama Mingyar Dondup had warned me earlier in the evening another blow was yet to fall before the day was ended, a terrible blow. I was meditating in my quiet corner, thinking of the past and of the future. At about 11 o’clock of that night when all was quiet around me, I saw a figure approaching. It was an old, old lama, one of the élite of the temple of Lhasa, an old living Buddha who had not much longer to live on this earth. He approached from the deeper shadows where the flickering butter lamps did not penetrate. He approached, and about him was a bluish glow. Around his head the glow was yellow. He approached me with his hands outstretched, palm up, and said, “My son, my son, I have grave tidings for you. The Inmost One, the 13th Dalai Lama, the last of his line, is shortly to pass from this world.” The old man, the lama who visited me, told me that the end of a cycle was approaching, and that the Dalai Lama was to leave. He told me that I should make full haste and return to Lhasa so that I could see him before it was too late. He told me that, then he said, “You must make all haste. Use whatever means you can to return. It is imperative that you leave this night.” He looked at me, and I rose to my feet. As I did so he faded, he merged back into the shadows and was no more. His spirit had returned to his body which even then was at the Jo Kang in Lhasa.

Mọi việc xảy đến quá nhanh. Bi kịch tiếp nối bi kịch, sự kiện nối tiếp sự kiện. Tôi cảm thấy mình choáng váng. Sự huấn luyện của tôi giờ đây thực sự rất khó khăn. Tôi đã được học về sự sống và cái chết, học để không biểu lộ cảm xúc, nhưng một người có thể làm gì khi những người thân yêu của mình liên tiếp ra đi? Liệu người ấy có nên giữ trái tim cứng như đá, vẻ mặt lạnh như băng để mình không bị vướng bận, hay người ấy nên có cảm xúc nồng ấm? Tôi yêu những người đàn ông này. Ông già Tsong – tai, Thầy của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba, trong cùng một ngày, trong vòng có vài giờ tôi nghe tin người này nối tiếp người kia lần lượt ra đi.

Hai người đã chết, và người thứ ba … còn bao lâu nữa trước khi Ngài cũng ra đi nốt? Một vài ngày nữa thôi. Tôi phải gấp rút, tôi nghĩ, và tôi quay lại, rời hậu cung để đi tới khu nhà chính của lạt ma viện. Tôi đi dọc theo hành lang lát đá về phía căn phòng nhỏ của Hòa thượng trụ trì. Vừa đến gần chỗ rẽ vào phòng của Thầy trụ trì, tôi nghe thấy tiếng động bất ngờ và một tiếng ngã uỵch. Tôi vội vã chạy đến.

Jersi, một Lạt Ma khác cũng đến từ Tây Tạng, nhưng không phải từ Lhasa mà là từ Chambo, cũng nhận được một thông điệp bằng thần giao cách cảm từ một vị Lạt ma khác. Anh cũng đã được thúc giục rời khỏi Trùng Khánh và trở về cùng với tôi như một người hộ tống. Anh đã học về xe hơi, và những dạng phương tiện đi lại tương tự. Anh đã đi rất nhanh; ngay khi người đưa tin vừa đi mất, anh đã đứng dậy và chạy dọc hành lang đá về phía căn phòng của Thầy trụ trì. Anh không nhìn thấy góc quanh mà trượt chân trên vết bơ bị đổ từ ngọn đèn của một nhà sư bất cẩn.

Anh bị trượt chân và ngã rất nặng nề, bị gãy một chân và một tay, khi tôi rẽ nơi góc hành lang thì thấy anh nằm đó, thở hổn hển, với một trục xương nhô ra.

Thầy trụ trì ra khỏi phòng khi nghe thấy tiếng ồn. Chúng tôi cùng quỳ xuống bên người huynh đệ bị ngã. Thầy trụ trì giữ vai trong khi tôi nắn cổ tay của anh để cố định lại chỗ xương bị gãy. Rồi tôi gọi người lấy nẹp và băng, Jersi nhanh chóng được nẹp và băng bó ở vùng cánh tay và chân. Cái chân lại là một vấn đề khác bởi vì nó bị gãy phức tạp và chúng tôi phải đưa anh tới căn phòng nhỏ để nắn lại. Sau đó tôi để anh lại đó cho người khác chăm sóc.

Events were happening too quickly for me. Tragedy after tragedy, event after event. I felt dazed. My training had been a hard one indeed. I had been taught about life and about death, and about showing no emotion, yet what can one do when one’s beloved friends are dying in quick succession? Is one to remain stony hearted, frozen faced, and aloof, or is one to have warm feelings? I loved these men. Old Tsong-tai, my Guide, the Lama Mingyar Dondup, and the 13th Dalai Lama, now in one day within the space of a few hours I had been told one after the other was dying. Two already were dead, and the third . . . how long before he too went? A few days. I must make haste, I thought, and I turned and made my way from the inner temple into the main body of the lamasery. I went along the stone corridors towards the cell of the Abbot. As I was almost at the turning for his room I heard a sudden commotion and a thud. I hastened my footsteps.

Another lama, Jersi, also from Tibet, not from Lhasa but from Chambo, had had a telepathic message too, by a different lama. He, too, had been urged to leave Chungking and to return with me as my attendant. He was a man who had studied motor vehicles and similar forms of transit. He had been rather too quick; immediately his messenger had departed he had jumped to his feet and raced down the stone corridor towards the Abbot’s cell. He had not negotiated the corner but had slipped upon some butter which had been spilled from a lamp by a careless monk. He had slipped and fallen heavily. He broke a leg and an arm, and as I turned the corner I saw him lying there, gasping, with a shaft of bone protruding.

The Abbot came out of his cell at the noise. Together we knelt beside our fallen brother. The Abbot held his shoulder while I pulled on his wrist to set the broken bone. Then I called for splints and bandages, and soon Jersi was splinted and bandaged—arm and a leg. The leg was rather a different matter because it was a compound fracture and we had to take him to his cell and apply traction. Then I left him in the care of another.

Hòa thượng trụ trì và tôi đi đến căn phòng của ông, ở đó tôi nói với ông về thông điệp mà tôi mới nhận được. Tôi mô tả cho ông về điều mình nhìn thấy, và ông cũng đã có ấn tượng tương tự như vậy. Vì vậy, chúng tôi đồng ý rằng tôi nên rời khỏi lạt ma viện ngay. Thầy trụ trì nhanh chóng cử một người đưa tin ra ngoài kiếm một con ngựa, và phi nước đại vào Trùng Khánh cho nhiệm vụ này. Tôi chỉ dừng lại để lấy thực phẩm đã được chuẩn bị cho mình. Tôi lấy chăn và áo choàng để thay, sau đó tôi đi bộ xuống con đường mòn, đi qua khoảng rừng trống nơi mà tối hôm đó tôi đã có một kỷ niệm đáng nhớ, nơi tôi gặp Thầy của mình, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức lần cuối cùng. Tôi bước đi, cảm thấy nhói đau, cố gắng kiểm soát cảm xúc của mình, cố gắng duy trì vẻ mặt điềm tĩnh của một Lạt Ma. Thế rồi tôi đã đến cuối nơi con đường mòn gặp con đường cái. Tôi đứng và chờ đợi.

The Abbot and I went to his cell where I told him of the message I had received. I described to him the vision, and he, too, had had a similar impression. So it was agreed that I should leave the lamasery then, at that instant. The Abbot quickly sent for a messenger who went out at a run to get a horse, and to gallop full speed into Chungking on a mission. I stopped only to take food and to have food packed for me. I took spare blankets, and spare robe, then I made my way on foot down the path, past the clearing where earlier that evening I had had such a memorable experience, where I had seen for the last time my Guide, the Lama Mingyar Dondup. I walked on, feeling a sharp pang of emotion, fighting to control my feelings, fighting to maintain the imperturbable mien of a lama. So I came to the end of the path where it joined the road. I stood and waited.

Đằng sau tôi, tôi nghĩ, những chiếc chiêng đồng trong chùa chắc hẳn đang gọi các nhà sư đến dự lễ cầu nguyện. Tiếng kêu leng keng của những chiếc chuông bạc đang hối thúc hòa điệu với tiếng sáo và tiếng kèn đang ngân vang. Chẳng mấy chốc, không khí của màn đêm bị xé rách bởi tiếng động cơ mạnh mẽ, từ ngọn đồi phía xa rọi lại các chùm sáng bạc của đèn pha. Một chiếc xe ô tô đang lao nhanh về phía tôi và dừng lại với tiếng kêu rít của lốp xe miết trên mặt đường. Một người đàn ông nhảy xuống xe.

– Xe của Ngài, thưa Ngài Lobsang Rampa đáng kính. Tôi có nên quay xe trước không ạ?

Tôi trả lời:

– Không. Đi xuống đồi, về phía bên trái.

Tôi ngồi vào bên cạnh người lái xe. Nhà sư được Thầy trụ trì giao nhiệm vụ đã gấp rút đến Trùng Khánh để tìm một tài xế và một chiếc xe có động cơ khỏe.

Đây thực sự là một chiếc xe khỏe, một con quái vật màu đen đến từ nước Mỹ. Tôi ngồi bên cạnh tài xế và chúng tôi đi xuyên đêm trên con đường đến Chengtu, cách Trùng Khánh gần hai trăm dặm. Phía trước chúng tôi là những vòng ánh sáng được chiếu ra từ chiếc đèn pha, để lộ mặt đường gập gềnh, chiếu sáng những hàng cây bên đường, và tạo ra những cái bóng kỳ quặc như thể đang thách thức chúng tôi tới bắt chúng, như thể thúc giục chúng tôi đi nhanh hơn và nhanh hơn nữa. Người lái xe, Ejen, là một tài xế giỏi, được đào tạo tốt, lái vững và an toàn. Nhanh hơn nữa, hơn nữa chúng tôi lao trên con đường mờ mịt. Tôi ngồi dựa lưng, đắm chìm trong suy nghĩ.

Behind me, I thought, in the temple the deep bronze gongs would be calling the monks to service. The tinkle of silver bells will punctuate the responses and the flutes and the trumpets will be sounding. Soon upon the night air came the throb of a powerful motor and over the distant hill came the bright silver beams of headlamps. A racing car tore toward me and stopped with a squeal of tires on the road. A man jumped out. “Your car, Honourable Lobsang Rampa. Shall I turn it first?” “No,” I replied. “Go down the hill toward the left.” I jumped in beside the driver. The monk who had been summoned by the Abbot had rushed off to Chungking to obtain a driver and powerful car. This was indeed a powerful vehicle, an immense black American monster. I sat beside the driver and we sped through the night on the road to Chengtu, two hundred miles from Chungking. Ahead of us great pools of light raced from headlamps, showing up the unevenness of the road, illuminating the trees by the side, and making grotesque shadows as if daring us to catch them, as if urging us on faster and faster. The driver, Ejen, was a good driver, well trained, capable and safe. Faster and faster we went with the road a mere blur. I sat back, and thought and thought.

Tôi nghĩ về người Thầy thân yêu của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, về cách mà Thầy đã huấn luyện tôi, về tất cả những gì Thầy đã làm cho tôi. Thầy đối với tôi còn hơn cả cha mẹ. Tôi cũng nghĩ về người lãnh đạo yêu quý của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba, người cuối cùng trong dòng dõi của ông, vì lời tiên tri trước đây đã phán rằng với sự ra đi của Ngài, một trật tự mới sẽ đến với Tây Tạng. Năm 1950 Trung Quốc bắt đầu cuộc xâm lược Tây Tạng, nhưng trước đó họ đã đến Lhasa. Tôi nghĩ về tất cả những điều này mà tôi đã biết trước sẽ xảy ra, tôi biết về nó vào năm 1933, và trước cả năm 1933, bởi vì tất cả những sự kiện này xảy ra chính xác theo lời tiên tri.

I had in my mind the thought of my beloved Guide, the Lama Mingyar Dondup, and the way he had trained me, all that he had done for me. He had been more to me than my own parents. I had in my mind also the thought of my beloved ruler, the 13th Dalai Lama, the last of His line, for the old prophecy said that the 13th Dalai Lama would pass and with His passing would come a new order to Tibet. In 1950 the Chinese Communists began their invasion of Tibet, but before this the Communist Third Column had been in Lhasa. I thought of all this which I knew was going to happen, I knew this in 1933, I knew it before 1933 because it all followed exactly according to the prophecy.

Vậy là chúng tôi chạy đua suốt đêm qua hai trăm dặm[1] để đến Chengtu. Tại đó chúng tôi duỗi đôi chân trong mười phút, trong lúc nạp thêm xăng và thực phẩm. Rồi chúng tôi lại tiếp tục lên đường, chạy đua điên cuồng qua màn đêm, xuyên qua bóng tối từ Chengtu đến Ya-an, hơn một trăm dặm đường nữa, vừa đến đó kịp lúc bình minh hừng sáng, những vệt nắng đầu tiên chiếu rọi bầu trời, con đường kết thúc ở đây, chiếc xe không thể đi xa hơn nữa. Tôi đã đến một tu viên lạt ma bằng thần giao cách cảm, ở đó họ đã nhận được thông điệp về việc tôi đang trên đường đến.

Một con ngựa đã được chuẩn bị sẵn sàng, một con vật năng nổ, nó đá và hí, nhưng trong tình trạng khẩn cấp này tôi chẳng có thời gian để chiều theo nó. Tôi nhảy lên lưng, ngồi trên đó, và con ngựa vâng lệnh tôi như thể nó biết về nhiệm vụ cấp bách của chúng tôi. Người giữ ngựa thả dây cương và thế là chúng tôi lao vọt trên con đường, hướng về phía Tây Tạng. Chiếc xe trở về Trùng Khánh, giờ thì người tài xế có thể có một chuyến đi êm ái và nhẹ nhàng, trong khi tôi phải ngồi trên yên ngựa gỗ, phóng đi và phóng đi, thay ngựa sau khi kết thúc mỗi chặng đường, chọn những con ngựa tốt nhất và tràn đầy sức mạnh bởi vì tôi đang rất vội vàng.

So we raced on through the night two hundred miles to Chengtu. At Chengtu we got more petrol, we stretched our legs for ten minutes, and had food. Then on we went again, the wild drive through the night, through the darkness from Chengtu to Ya-an, a hundred miles further on, and there, as dawn was breaking, as the first streaks of light were shining in the sky, the road ended, the car could go no further. I went to a lamasery where by telepathy, the message had been received that I was on my way. A horse was ready, a high-spirited horse, one that kicked and reared, but in this emergency I had no time to pander to a horse. I got on, and stayed on, and the horse did my bidding as if it knew of the urgency of our mission. The groom released the bridle and off we shot, up the road, onwards on the way to Tibet. The car would return to Chungking, the driver having the pleasure of a soft speedy ride, while I had to sit in the high wooden saddle and ride on and on, changing horses after the end of a good run, changing always to high-spirited animals which had plenty of power because I was in a hurry.

Chẳng cần phải nói về những thử thách của hành trình này, những khó khăn gian khổ của một kỵ sĩ đơn độc. Cũng chẳng cần nói về vượt qua dòng nước Trường Giang, tới vùng Thượng lưu sông Salween. Tôi cưỡi ngựa liên tục. Thật là khó nhọc khi phải cưỡi ngựa kiểu này, nhưng tôi đã đến vừa kịp lúc. Tôi đi qua một lối mòn trên núi, và một lần nữa được ngắm nhìn những mái vàng của cung điện Potala. Tôi chăm chú nhìn những mái vòm nơi cất giữ thi hài của các Đức Đạt Lai Lạt Ma, và tự hỏi còn bao lâu trước khi có thêm một mái vòm để cất giữ một thi hài khác.

There is no need to tell of the trials of that journey, the bitter hardships of one solitary horseman. No need to tell of the crossing of the Yangtse river, and on to the Upper Salween. I raced on and on. It was grueling work riding like this, but I made it in time. I turned through a pass in the mountains, and once again gazed upon the golden roofs of the Potala. I gazed upon the domes which hid the earthly remains of other bodies of the Dalai Lama, and I thought how soon would there be another dome concealing another body.

Tôi cưỡi ngựa đi tiếp, vượt qua dòng sông Hạnh phúc một lần nữa. Nhưng lần này tôi chẳng cảm thấy hạnh phúc. Tôi vượt qua và đi dọc theo con sông, và tôi đã về đúng lúc. Hành trình khó khăn, gấp gáp đã không vô ích. Tôi đã có mặt trong toàn bộ nghi lễ và tham gia một cách tích cực trong đó. Nhưng tôi vẫn còn có một điều khó chịu nữa. Một người ngoại quốc cũng đã ở đó, hắn ta muốn tất cả mọi người phải quan tâm đến hắn. Hắn nghĩ rằng chúng tôi chỉ là những người bản xứ, còn hắn là ông hoàng của tất cả mọi thứ mà hắn đang do thám. Hắn muốn đứng ở hàng đầu, được tất cả chú ý, và vì tôi không giúp đỡ cho mục đích ích kỷ của hắn – hắn đã cố gắng hối lộ tôi và một người bạn những chiếc đồng hồ đeo tay! – hắn ta coi tôi là kẻ thù từ đó, và hắn đã làm nhiều điều, những điều rất cực đoan để làm hại tôi. Dù sao thì điều đó cũng chẳng đáng quan tâm, ngoại trừ việc nó chỉ ra rằng các Thầy đã đúng biết bao khi cảnh báo tôi về tính ghen tị.

I rode on, and crossed again the Happy River. It was not happy for me this time. I crossed it and went along and I was in time. The hard, rushed journey had not been in vain. I was there for all the ceremonials and I took a very active part in them. There was, for me, a further unpleasant incident. A foreigner was there who wanted all consideration for himself. He thought that we were just natives, and that he was lord of all he surveyed. He wanted to be in the front of everything, noticed by all, and because I would not further his selfish aim—he tried to bribe a friend and me with wrist watches!—he has regarded me as an enemy ever since, and has indeed gone out of his way—has gone to extreme lengths—to injure me and mine. However, that has nothing to do with it, except that it shows how right were my Tutors when they warned me of jealousy.

Đó là những ngày thực sự đau buồn đối với chúng tôi, và tôi không có ý định viết về những nghi lễ cũng như về việc xử lý thi hài của Đức Đạt Lai Lạt ma. Chỉ cần nói rằng thi hài của Ngài đã được bảo quản theo đúng phương pháp truyền thống của chúng tôi, và được đặt ở tư thế ngồi, hướng về phía Nam theo phong tục. Không biết bao nhiêu cái đầu quay về hướng Đông. Nhiều người coi đây là lời gợi ý của người đã khuất, nói rằng chúng tôi phải nhìn về hướng Đông. Thế đấy, những tên xâm lược Trung Quốc đã đến từ phía Đông để tàn phá Tây Tạng. Việc quay sang phía Đông này thực sự là một dấu hiệu, một lời cảnh báo. Giá mà chúng tôi đã chú ý đến nó!

They were very sad days indeed for us, and I do not propose to write about the ceremonial nor about the disposal of the Dalai Lama. It will suffice to say that his body was preserved according to our ancient method, and placed in a sitting position, facing the South as demanded by tradition. Time after time the head would turn toward the East. Many consider this to be a pointer from beyond death, saying that we must look toward the East. Well, the Chinese invaders came from the East to disrupt Tibet. That turning to the East was indeed a sign, a warning. If only we could have heeded it!

Tôi trở về nhà cha mẹ đẻ. Ông Tzu đã chết. Nhiều người trong số những người tôi biết đã thay đổi. Ở đây mọi thứ đều xa lạ. Nó không còn là nhà của tôi. Tôi chỉ là một người khách, một người lạ, một Lạt ma cao cấp, một quan chức của chùa, tạm thời trở về từ Trung Quốc. Tôi đã phải chờ đợi để gặp cha mẹ mình. Cuối cùng thì tôi cũng được dẫn đến gặp họ. Câu chuyện gượng gạo và không khí thì miễn cưỡng. Tôi không còn là con trai của gia đình, mà là một người lạ. Nhưng không hẳn là một người lạ theo ý nghĩa thông thường, vì cha tôi dẫn tôi vào phòng riêng của ông, ở đó ông lấy ra từ hộp kín Gia phả của dòng họ chúng tôi, và cẩn thận lấy nó ra khỏi hộp mạ vàng. Không nói một lời, tôi ký tên mình vào mục cuối cùng. Tôi ký tên, cấp bậc và trình độ mới của mình là một bác sĩ và nhà giải phẫu. Sau đó, Cuốn Gia phả được bọc lại cẩn thận và đặt vào chỗ kín bên dưới sàn nhà. Chúng tôi cùng nhau quay lại căn phòng nơi mẹ và chị gái tôi đang ngồi. Tôi nói lời chào từ biệt và ra đi. Trên sân, những người trông ngựa đang giữ con ngựa của tôi. Tôi trèo lên lưng ngựa và đi qua cái cổng lớn lần cuối cùng. Trái tim nặng trĩu khi tôi trở ra con đường Lingkhor và đi đến Menzekang, bệnh viện chính của Tây Tạng.

Tôi đã từng làm việc ở đây và giờ đây tôi đến thăm vị sư già cao lớn người đứng đầu nơi này, Ngài Chinrobnobo, tôi biết ông rất rõ, một ông già tốt bụng. Ông đã dạy tôi rất nhiều sau khi tôi rời khỏi viện y Núi Sắt. Ông mời tôi vào phòng và hỏi tôi về y học Trung Hoa. Tôi nói:

– Ở Trung Quốc, họ cho rằng họ là những người đầu tiên sử dụng phương pháp châm cứu và cứu ngải, nhưng con biết không phải vậy. Con đã nhìn thấy các tài liệu cổ nói về hai phương pháp chữa bệnh này được mang từ Tây Tạng sang Trung Quốc từ rất, rất nhiều năm về trước.

Ông rất hứng thú khi tôi nói rằng các chính quyền Trung Quốc và phương Tây cũng đang nghiên cứu tỉ mỉ tại sao hai phương pháp này lại có kết quả, bởi vì rõ ràng là chúng rất công hiệu.

Châm cứu là một phương pháp đặc biệt khi dùng những cây kim thật mảnh châm vào những bộ phận khác nhau của cơ thể. Chúng mảnh đến mức không tạo cảm thấy đau. Khi các mũi kim này được châm vào, chúng kích thích các phản ứng chữa bệnh khác nhau. Phương Tây sử dụng những chiếc kim bằng radium, và cho nó là phương pháp chữa trị tuyệt vời, nhưng người phương Đông chúng tôi đã sử dụng phương pháp châm cứu trong nhiều thế kỷ và cũng thành công không kém. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp cứu ngải. Đây là phương pháp điều chế các loại thảo dược khác nhau thành dạng một cái ống nhang và đốt một đầu để nó nóng rực. Đầu ống nhang đã được đốt nóng được đưa đến gần vùng da và mô mắc bệnh, thảo dược sẽ tác động trực tiếp đến các mô tế bào mang lại tác dụng chữa lành. Hai phương pháp này đã được chứng minh hết lần này đến lần khác, nhưng nguyên lý hoạt động của chúng chính xác ra sao thì chưa được xác định.

I went again to the home of my parents. Old Tzu had died. Many of the people that I had known were changed. All was strange there. It was not a home to me. I was just a caller, a stranger, a high lama, a high dignitary of the temple who had returned temporarily from China. I was kept waiting to see my parents. At last I was conducted to them. Talk was forced, the atmosphere was strained. I was no longer a son of the house, but a stranger. But not quite a stranger in the sense that is usually meant, for my father conducted me to his private room, and there he took from its safe stronghold our Record, and carefully unwrapped it from its golden covering. Without a word I signed my name, the last entry. I signed my name, my rank, and my new qualifications as a qualified doctor and surgeon. Then the Book was solemnly re-wrapped and replaced in its hiding place beneath the floor. Together we returned to the room in which my mother and my sister sat. I made my farewells and turned away. In the courtyard the grooms were holding my horse. I mounted and passed through the great gates for the last time. It was with a heavy heart that I turned into the Lingkhor Road and made my way to Menzekang, which is the main Tibetan hospital. I had worked here and now I was paying a courtesy call to the huge old monk who was in charge, Chinrobnobo; I knew him well, a nice old man. He had taught me a lot after I had left Iron Hill Medical School. He took me into his room and asked me about Chinese medicine. I said, “They claim in China that they were the first to use acupuncture and moxibustion, but I know better. I have seen in the old records how these two remedies were brought from Tibet to be used in China years and years ago.” He was most interested when I told him that the Chinese, and Western powers too, were investigating why these two remedies worked, because work they assuredly did. Acupuncture is a special method of inserting extremely fine needles into various parts of the body. They are so fine that no pain is felt. These needles are inserted and they stimulate various healing reactions. They use radium needles, and claim wonderful cures for it, but we of the East have used acupuncture for centuries with equal success. We have also used moxibustion. This is a method of preparing various herbs in a tube and igniting one end so that it glows red. This glowing end is brought near to a diseased skin and tissue, and in heating that area the virtue of the herbs passes direct to the tissues with curative effect. These two methods have been proved again and again, but how precisely they work has not been determined.

Tôi liếc nhìn nhà kho lớn lần nữa nơi có chứa vô vàn các loại thảo dược, hơn sáu ngàn loại khác nhau. Hầu hết trong số đó chưa được biết đến ở Trung Quốc, chưa được biết đến với phần còn lại của thế giới. Tatura chằng hạn, là một loại rễ cây, một chất gây mê cực mạnh, nó có thể gây mê hoàn toàn một người trong vòng mười hai giờ liên tục, và, trong tay một thầy thuốc giỏi, sẽ không có bất cứ tác dụng phụ nào. Tôi nhìn quanh, và không thể tìm được điều gì để chê, bất chấp những tiến bộ hiện đại của Trung Quốc và Mỹ. Các phương pháp chữa trị cổ xưa của Tây Tạng vẫn thật tuyệt vời.

I looked again into the great storehouse in which were kept the many, many herbs, more than six thousand different types. Most of them unknown to China, unknown to the rest of the world. Tatura, for instance, which is the root of a tree, was a most powerful anaesthetic, and it could keep a person completely anaesthetized for twelve hours at a stretch, and, in the hands of a good practitioner, there would be no undesirable after effects whatever. I looked around, and I could find nothing with which to find fault in spite of all the modern advances of China and America. The old Tibetan cures still were satisfactory.

Đêm đó tôi ngủ ở chỗ cũ của mình và như thời còn là một học trò, tôi tham dự các buổi lễ cầu nguyện. Tất cả những điều này đưa tôi trở về ngày trước. Biết bao nhiêu kỷ niệm được lưu giữ trong từng viên đá này! Buổi sáng, khi mặt trời chiếu rọi, tôi leo lên nơi cao nhất của Núi Sắt, và ngắm nhìn cung điện Potala, khu vườn Rắn, thành phố Lhasa, và những ngọn núi phủ tuyết bao quanh. Tôi ngắm nhìn thật lâu, sau đó trở lại trường Y, nói lời tạm biệt và cầm lấy túi bánh tsampa của mình. Rồi sau đó, cuốn chăn và áo choàng đặt đằng trước, tôi lại leo lên lưng ngựa và đi theo con đường xuống đồi.

That night I slept in my old place, and as in the days when I was a pupil I attended the services. It all carried me back. What memories there were in every one of those stones! In the morning when it was light I climbed to the highest part of Iron Mountain, and gazed out over the Potala, over the Serpent Park, over Lhasa, and into the snow-clad mountains surrounding. I gazed long and then I went back into the Medical School and said my farewells and took my bag of tsampa. Then with my blanket rolled and my spare robe in front of me I remounted my horse and made my way down the hill.

Mặt trời ẩn mình phía sau đám mây đen khi tôi đi đến cuối con đường và ngang qua ngôi làng Sho. Người hành hương ở khắp mọi nơi, họ đến từ mọi miền của Tây Tạng, và ngoài Tây Tạng, họ đến để tưởng niệm tại cung điện Potala. Những người xem tử vi ở đó đang rao bán các món nghề của họ, những người bán thuốc và bùa phép thuật cũng đang buôn bán náo nhiệt. Những nghi lễ gần đây đã thu hút các thương nhân, nhà buôn, người bán hàng rong và ăn xin đủ loại đổ về Con đường thiêng. Gần đó, một đàn bò yak chở đầy hàng hóa, đang đi vào qua Cổng phía Tây, về các chợ của Lhasa. Tôi dừng lại ngắm nhìn, nghĩ trong đầu rằng có lẽ tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thấy cảnh tượng thân thương này nữa, và cảm thấy đau nhói trong tim trước ý nghĩ phải ra đi.

Có tiếng sột soạt phía sau tôi.

– Xin hãy ban phước cho tôi, Ngài Lạt ma tôn kính! – một giọng nói cất lên.

Tôi quay lại và thấy một trong những người âm công, một trong những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu và giải phẫu cơ thể con người theo lệnh của Đức Đạt Lai Lạt ma thứ mười ba. Đây là người đã nghiên cứu cùng với tôi. Khi tôi có thể vượt qua định kiến lâu đời về việc mổ xẻ các tử thi, tôi, với nhiệm vụ đặc biệt, đã được cung cấp mọi điều kiện thuận lợi để giải phẫu tử thi, và đây là một trong những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong công việc đó. Tôi ban phước cho ông, thực sự cảm thấy vui mừng khi vẫn còn có người nhận ra mình. Tôi nói:

– Những chỉ dẫn của ông rất tuyệt vời. Ông đã dạy tôi nhiều hơn cả trường Đại học y Trùng Khánh.

Ông có vẻ hài lòng, và thè lưỡi[2] ra chào tôi theo cách của một người bậc dưới. Ông đi lùi theo truyền thống, và hòa vào đám đông tại cổng.

The sun hid behind a black cloud as I reached the bottom of the path and passed by the village of Shö. Pilgrims were everywhere, pilgrims from all parts of Tibet, and from beyond, come to pay their respects at the Potala. Horoscope vendors were there crying their wares, and those who had magic potions and charms were doing a brisk trade. The recent ceremonials had brought merchants, traders, hawkers and beggars of all description to the Sacred Road. Nearby a yak train was coming in through the Western Gate, laden with goods for the markets of Lhasa. I stopped to watch, thinking that I might never again see this so familiar sight, and feeling sick at heart at the thought of leaving. There was a rustle behind me. “Your blessing, Honourable Medical Lama,” said a voice, and I turned to see one of the Body Breakers, one of the men who had done so much to help me when, by order of the 13th Dalai Lama, he whose body I had just seen, I had studied with. When I had been able to get past the age-old tradition that bodies might not be dissected, I, because of my special task, had been given every facility to dissect bodies, and here was one of those men who had done so much to help me. I gave him my blessing, glad indeed that someone from the past recognised me. “Your teaching was wonderful,” I said. “You taught me more than the Medical School of Chungking.” He looked pleased, and put out his tongue to me in the manner of the serf. He backed away from me in the traditional manner, and mingled with the throng at the Gate.

Trong một lúc lâu tôi đứng bên con ngựa của mình lặng ngắm cung điện Potala, ngắm Núi Sắt, rồi sau đó tôi lên đường, băng qua sông Kyi, đi qua nhiều đồng cỏ tươi đẹp. Mặt đất ở đây bằng phẳng và xanh mướt với màu xanh của cỏ mới được tưới nước, một vườn địa đàng cao bốn ngàn mét so với mực nước biển, bao quanh là những dãy núi cao hơn sáu ngàn mét nữa, rải rác là rất nhiều các lạt ma viện lớn nhỏ, và những am thất biệt lập được xây dựng chênh vênh trên những mỏm núi đá rất khó tiếp cận. Độ dốc của con đường tăng dần để chuẩn bị nối vào đường mòn trên núi.

Con ngựa của tôi mới toanh, được chăm sóc cẩn thận và ăn uống đầy đủ. Nó sốt sắng lên đường, còn tôi thì nấn ná. Các nhà sư và lái buôn đi qua, một vài người trong số họ nhìn tôi tò mò bởi vì tôi đang đi ngược truyền thống và cưỡi ngựa một mình để đi được nhanh hơn. Cha tôi không bao giờ cưỡi ngựa mà không có một đoàn tùy tùng đông đúc phù hợp với chức vị của ông, nhưng tôi là người của thời hiện đại. Vì vậy những người lạ nhìn tôi một cách tò mò, nhưng một vài người quen đến chào một cách thân thiện. Cuối cùng tôi và chú ngựa đã lên đến đỉnh núi, và chúng tôi đã đến tháp đá lớn, nơi cuối cùng còn có thể nhìn thấy thành phố Lhasa. Tôi xuống ngựa và buộc con ngựa lại, sau đó ngồi lên một mỏm đá thuận tiện nhìn sâu vào thung lũng.

For a few moments more I stood beside my horse, looking at the Potala, at the Iron Mountain, and then I went on my way, crossing the Kyi River, and passing many pleasant parks. The ground here was flat and green with the green of well-watered grass, a paradise twelve thousand eight hundred feet above sea level, ringed by mountains rising yet another six thousand feet, liberally speckled with lamaseries both large and small, and with isolated hermitages perched precariously on inaccessible rock spurs. Gradually the slope of the road increased, climbing to meet the mountain passes. My horse was fresh, well cared for and well fed. He wanted to hurry, I wanted to linger. Monks and merchants rode by, some of them looking at me curiously because I had departed from tradition and I was riding alone for greater speed. My father would never have ridden without an immense retinue as befitted his station, but I was of the modern age. So strangers looked at me curiously, but others whom I had known called a friendly greeting. At last my horse and I breasted the rise, and we came level with the great chorten of stones which was the last place from which Lhasa could be seen. I dismounted and tethered my horse, then sat on a convenient rock as I looked long into the valley.

Bầu trời xanh thẳm, màu xanh chỉ thấy được ở độ cao này. Những đám mây trắng như tuyết trôi uể oải phía trên đầu. Một con quạ đáp phịch xuống bên cạnh tôi và tò mò mổ vào áo choàng của tôi.  Như một hành động sau cùng, tôi thêm một viên đá vào tháp đá lớn bên cạnh tôi theo phong tục, tháp đá này được đắp lên qua nhiều thế kỷ bởi những người hành hương, bởi đây là vị trí mà từ đó khách hành hương có thể nhìn thấy hoặc nhìn lần đầu hoặc lần cuối Thành phố Linh thiêng.

The sky was a deep blue, the deep blue that is only seen at such altitudes. Snow-white clouds drifted lazily overhead. A raven flopped down beside me and pecked inquiringly at my robe. As an afterthought I added a stone as custom demanded to the huge pile beside me, the pile which had been built up by the work of centuries of pilgrims, for this was the spot from whence pilgrims obtained their first and last view of the Holy City.

Phía trước tôi là cung điện Potala, với những bức tường nghiêng vào trong so với phần đáy. Các cửa sổ, cũng vậy, nghiêng từ dưới lên trên, tạo thêm hiệu ứng. Cung điện trông giống như một tòa lâu đài được các vị thần chạm khắc từ đá. Tu viện Chakpori của tôi đứng cao hơn cả điện Potala nhưng không hề lấn át nó. Xa hơn, tôi nhìn thấy những mái vàng của ngôi đền Jo Kang một nghìn ba trăm năm tuổi, bao quanh là các tòa nhà hành chính. Tôi thấy con đường chính xuyên thẳng qua, những hàng liễu, những đầm lầy, đền thờ Rắn, và tòa nhà rất đẹp đó là điện Norbu Linga và khu vườn Lạt Ma dọc theo bờ sông Kyi Chu.

Những mái nhà vàng của cung điện Potala rực sáng dưới ánh nắng mặt trời, phản chiếu những tia màu đỏ vàng, và tất cả các màu sắc của quang phổ. Nơi đây, bên dưới những mái vòm là nơi an nghỉ của thi hài của các Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tòa tháp cất giữ thi hài của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba ở cao nhất, khoảng hơn hai mươi mét – cao ba tầng – và được bao phủ bởi một tấn vàng ròng tinh khiết. Bên trong lăng mộ đó là những đồ trang sức, đá quý, vàng bạc, một kho báu được đặt bên cạnh lớp vỏ trống rỗng của người chủ nhân đã ra đi. Tây Tạng bây giờ không có Đạt Lai Lạt Ma, vị cuối cùng đã ra đi, và một người khác sẽ đến, mà theo lời tiên tri, sẽ là một người phục vụ cho ngoại bang, một người sẽ bị Trung Quốc sai khiến.

Before me was the Potala, with its walls sloping inwards from the base. The windows, too, sloped from the bottom to the top, adding to the effect. It looked like a building carved by Gods from the living rock. My Chakpori stood even higher than the Potala, without dominating it. Further I saw the golden roofs of the Jo Kang, the thirteen-hundred-year-old temple, surrounded by the administrative buildings. I saw the main road straight through, the willow grove, the swamps, the Snake Temple, and the beautiful patch which was the Norbu Linga, and the Lama’s Gardens along by the Kyi Chu. But the golden roofs of the Potala were ablaze with light, catching the brilliant sunlight, and throwing it back with gold red rays, with every colour of the spectrum. Here, beneath these cupolas rested the remains of the Bodies of the Dalai Lama. The monument containing the remains of the 13th was the highest of the lot, some seventy feet—three stories high—and covered with a ton of purest gold. And inside that shrine were precious ornaments, jewels, gold and silver, a fortune rested there beside the empty shell of its previous owner. And now Tibet was without a Dalai Lama, the last one had left, and the one yet to come, according to prophecy, would be one who would serve alien masters, one who would be in thrall of the Communists.

Bên sườn thung lũng là các lạt ma viện rộng lớn Drepung, Sera và Ganden. Một nửa bị che khuất trong một bụi cây tu viện Nechung lấp ló các mảnh màu trắng và vàng, đây là nơi ở của các nhà tiên tri của Lhasa, các nhà tiên tri của Tây Tạng. Chùa Drepung trông giống một núi gạo trắng trải dài xuống sườn núi. Sera, còn được biết với tên gọi Trại hoa hồng, và Ganden, còn gọi là Chùa Vui vẻ; Tôi ngắm nhìn những ngôi chùa này và nhớ về những ngày tôi từng ở đó, ở bên trong những bức tường này, bên trong những thị trấn nhỏ có tường bao quanh. Tôi hướng mắt nhìn vô số những tu viện nhỏ hơn, rải rác ở khắp nơi, trên những sườn núi, trong những khu rừng nhỏ; và còn các am thất rải rác ở những nơi khó tiếp cận nhất, và ý nghĩ của tôi hướng đến với những người bên trong đó, những người sống đơn độc, có lẽ là sống trong bóng tối mà không có một chút ánh sáng nào, mỗi ngày chỉ ăn một lần, trong bóng tối, không bao giờ trở ra bên ngoài trong thân xác vật lý, nhưng bằng phương pháp tu luyện đặc biệt họ có khả năng di chuyển bằng thể vía, có thể nhìn thấy thế giới bên ngoài khi hồn lìa khỏi xác.

Ánh mắt tôi tha thẩn ngắm nhìn; dòng sông Hạnh Phúc uốn khúc chảy qua những chỗ giao nhau và những vùng đầm lầy, ẩn sau những rừng cây, rồi lại xuất hiện trở lại ở những vùng thoáng đãng. Tôi ngắm nhìn và thấy ngôi nhà của cha mẹ tôi, một khu bất động sản đồ sộ nhưng chưa bao giờ là nhà của tôi. Tôi nhìn những người hành hương kéo đến chật ních những con đường, rồng rắn như một đoàn xiếc. Rồi từ một vài tu viện ở phía xa, tôi nghe trong gió thoảng đưa tiếng chiêng chùa và tiếng kèn, tôi thấy cổ họng mình nghẹn lại và cảm giác cay cay nơi sống mũi. Điều này thật quá khó với tôi. Tôi quay lưng và leo lên ngựa, rồi tiếp tục lên đường đến những miền xa lạ.

To the sides of the valley clung the immense lamaseries of Drepung, Sera, and Ganden. Half hidden in a clump of trees gleamed the white and gold of Nechung, the Oracle of Lhasa, the Oracle of Tibet. Drepung indeed looked like a rice heap, a white pile sprawled down the mountain side. Sera, known as the Wild Rose Fence, and Ganden the Joyous; I looked upon them and thought of the times I had spent within their walls, within their walled townships. I looked, too, at the vast number of smaller lamaseries, perched everywhere, up the mountain sides, in groves of trees; and I looked too at the hermitages dotted in places most difficult of access, and my thoughts went out to the men within, immured, perhaps, for life in darkness with no light at all, with food but once a day, in darkness, never to come out again in the physical, but by their special training able to move in the astral, able to see the sights of the world as a disembodied spirit. My gaze wandered; the Happy River meandered along through cuts and marshlands, hiding behind the skirts of trees, and reappearing in the open stretches. I looked and I saw the house of my parents, the large estate which had never been home to me. I saw pilgrims thronging the roads, making their circuits. Then from some distant lamasery I heard on the mild breeze the sound of the temple gongs, and the scream of the trumpets, and felt a lump rising in my throat and a stinging sensation in the bridge of my nose. It was too much for me. I turned and remounted my horse, and rode on, into the unknown.

Tôi băng qua những vùng đất càng lúc càng trở nên hoang vu hơn, băng qua những đồng cỏ tươi đẹp, những vùng cát phủ, những ngôi nhà nhỏ, tới những núi đá lởm chởm, những khe núi với nước chảy qua không ngừng, làm đầy không khí với âm thanh róc rách, và làm tôi ướt sũng với vô vàn tia nước bắn. Tôi tiếp tục lên đường, nghỉ đêm tại các lạt ma viện như trước đây. Lần này tôi là vị khách được đón chào cực kỳ nồng nhiệt bởi tôi là người đầu tiên có thể cung cấp thông tin về tang lễ đau buồn mới đây tại Lhasa, bởi tôi là một trong những người đã có mặt, một trong những quan chức. Chúng tôi đều đồng ý rằng đây là sự kết thúc của một kỷ nguyên, một thời kỳ buồn đau sẽ đến trên đất nước chúng tôi. Tôi được cung cấp thực phẩm đầy đủ và những con ngựa mạnh khỏe, và sau vài ngày đi đường tôi lại đến Ya-an, tôi vui mừng vì ở đó chiếc xe hơi to lơn, do Jersi lái, đang đợi tôi. Tin về việc tôi đang trên đường đã đến trước, và Thầy trụ trì già cả ở Trùng Khánh đã ân cần gửi xe đến đón tôi.

Tôi đã thực sự vui mừng bởi vì cơ thể tôi đã quá đau nhức do cưỡi ngựa, và mệt lử vì chặng đường dài. Thật tuyệt vời khi thấy chiếc xe to lớn sáng bóng, một sản phẩm của một nền khoa học khác, một phương tiện sẽ đưa tôi băng qua nhanh chóng chỉ trong vài giờ quãng đường mà bình thường tôi phải mất vài ngày để hoàn thành. Vì vậy, tôi lên xe với lòng biết ơn vì vị Hòa thượng của ngôi chùa ở Trùng Khánh là bạn của mình và đã dành sự quan tâm tới sự dễ chịu và thuận tiện của tôi sau chuyến đi gian khổ rời xa quê nhà Lhasa của tôi. Ngay sau đó, chúng tôi tăng tốc dọc theo con đường đến Changtu. Chúng tôi nghỉ đêm ở đó. Không cần phải vội vã trở về Trùng Khánh trong vòng vài giờ, nên chúng tôi đã nghỉ lại qua đêm, sáng hôm sau chúng tôi đi thăm thú và mua sắm ở khu vực lân cận. Sau đó chúng tôi lại lên xe đi dọc theo con đường về Trùng Khánh.

I went on with the country becoming wilder, and wilder. I passed from pleasant parklands and sandy soil, and small homesteads, to rocky eminences, and wild gorges through which water rushed continuously filling the air with sound, drenching me to the skin with the spray. I rode on, staying the nights as before at lamaseries. This time I was a doubly welcome guest for I was able to give first hand information about the recent sad ceremonials at Lhasa, for I was one of the men there, one of the officials. We all agreed that it was the end of an era, a sad time would come upon our land. I was provided with ample food and fresh horses, and after days of travel I again arrived at Ya-an, where, to my joy, the big car was waiting with Jersi, the driver. Reports had filtered through that I was on my way, and the old Abbot at Chungking had thoughtfully sent it for me. I was glad indeed because I was saddle-sore, and travel-stained, and weary. It was a pleasure indeed to see that gleaming great vehicle, the product of another science, a product which would bear me along swiftly, doing in hours what I would normally take days to accomplish. So I got in the car, thankful that the Abbot of the lamasery in Chungking was my friend and had so much thought for my comfort and my pleasure after the long arduous journey from my home in Lhasa. Soon we were speeding along the road to Chengtu. There we stayed the night. There was no point in hurrying and getting back to Chungking in the small hours, so we stayed the night, and in the morning we looked around the place and did some local shopping. Then off we went again along the road to Chungking.

Một cậu bé đang đỏ mặt cày ruộng, chỉ mặc mỗi chiếc quần ngắn màu xanh. Chiếc cày do một con trâu vụng về kéo. Chúng đắm mình trong bùn, cố gắng lật đất lên để trồng lúa. Chúng tôi tiếp tục tăng tốc nhanh hơn nữa, những con chim phía trên đầu đang gọi nhau, thỉnh thoảng lại đột ngột sà xuống hoặc liệng vòng như thể quá vui vì được có mặt trên đời. Chẳng bao lâu chúng tôi đã đến vùng ngoại ô Trùng Khánh.  Chúng tôi đi dọc theo con đường, hai bên là những hàng cây bạch đàn màu trắng bạc, những bụi cây xanh có gai, và những cây thông xanh. Chẳng mấy chốc chúng tôi tới con đường nhỏ, tôi xuống xe ở đó và đi bộ theo con đường mòn dẫn tới lạt ma viện. Lại một lần nữa tôi đi qua khoảnh rừng trống có cái cây đổ cùng những cây khác nằm nghiêng ngả, tôi nghĩ về những sự kiện đáng nhớ từ lúc tôi ngồi trên thân cây này và nói chuyện với Thầy tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức. Tôi nán lại một lát trong chiêm nghiệm, rồi lại nhặt gói đồ và tiếp tục đi đến lạt ma viện.

The red-faced boy was still at his plough, clad only in blue shorts. The plough drawn by the ungainly water buffalo. They wallowed through the mud trying to turn it over so that rice could be planted. We sped on faster, the birds overhead calling to one another, and making sudden swoops and darts as if for the sheer joy of living. Soon we were approaching the outskirts of Chungking. We were approaching along the road lined with the silver eucalyptus trees, with the limes, and the green pine trees. Soon we came to a little road at which I alighted and made my way on foot up the path to the lamasery. As I once again passed that clearing with the fallen tree and the trees lying at crazy angles I thought how memorable the events since I sat upon the bole and talked with my Guide, the Lama Mingyar Dondup. I stopped awhile in meditation, then I picked up my parcels once again and made my way on into the lamasery.

Vào buổi sáng mà tôi về Trùng Khánh, tiết trời thật nóng nực, oi bức và ngột ngạt. Ngay cả những phu kéo xe lẫn khách ngồi trên xe đều có vẻ ủ rũ và mệt mỏi trước cái nóng không tài nào chịu nổi. Tôi, một người vừa rời khỏi không khí mát lành ở Tây Tạng, cảm thấy gần như chết dở, nhưng vì là một Lạt Ma tôi phải giữ phong thái để làm gương cho những người khác. Trên phố Bảy Ngôi Sao tôi bắt gặp Huang đang bận rộn mua sắm, và tôi chào cậu vì cậu là một người bạn.

– Nè Huang, tôi nói, tất cả những người này đang làm gì ở đây vậy?

– Sao vậy, Lobsang, cậu trả lời, họ đến từ Thượng Hải. Tình trạng hỗn loạn do người Nhật gây ra ở đó khiến các thương nhân phải đóng cửa hiệu của họ và đến Trùng Khánh này. Tớ nghe nói một vài trường đại học cũng đang tính đến chuyện đó, à nhân tiện, cậu nói tiếp, tớ có một lời nhắn dành cho cậu, Tướng quân (nay là Nguyên Soái) Feng Yuhsiang muốn gặp cậu. Ông ấy nhờ tớ chuyển lời cho cậu. Hãy đến gặp ông ấy ngay khi cậu trở lại.

– Được thôi, tôi nói, cậu có thể đi cùng tớ không?

Cậu đồng ý đi cùng tôi. Chúng tôi thong thả mua sắm, thời tiết quá nóng để vội vàng, và sau đó chúng tôi trở về lạt ma viện. Khoảng một hai giờ sau đó chúng tôi đến một ngôi chùa gần nhà vị Tướng quân, và gặp ông tại đó. Ông kể cho tôi rất nhiều về người Nhật, và tình trạng rối loạn họ đang gây ra ở Thượng Hải.

Ông kể cho tôi rằng Tô giới đã tuyển dụng lực lượng cảnh sát, gồm toàn những kẻ tội phạm và lừa đảo, những kẻ không hề có ý định khôi phục lại trật tự. Ông nói:

– Chiến tranh đang đến, Rampa, chiến tranh đang đến rồi. Chúng tôi cần tất cả mọi bác sĩ, và những bác sĩ kiêm phi công. Chúng tôi rất cần có họ.

Ông đề bạt tôi một vị trí trong quân đội Trung Quốc, và ngỏ ý rằng tôi có thể bay bao nhiêu tùy thích.

In the morning I went to Chungking and the heat was like a living thing, sweltering, stifling. Even the rickshaw-pullers and the passengers who rode with them were looking wilted and jaded, in the intolerable heat. I, from the fresh air in Tibet, felt more than half dead, but I as a lama had to keep erect as an example to others. In the Street of the Seven Stars I came across friend Huang busy shopping, and I greeted him as the friend he was. “Huang,” I said, “what are all these people doing here?” “Why, Lobsang,” he answered, “people are coming from Shanghai. The trouble there with the Japanese is causing traders to shut up their shops and to come here to Chungking. I understand that some of the Universities are seriously thinking of it as well, and by the way,” he went on, “I have a message for you. General (now Marshal) Feng Yu-hsiang wants to see you. He asked me to give you the message. Go and see him as soon as you return.” “All right,” I said, “how about you coming up with me?” He said that he would. We did our leisurely shopping, it was far too hot to hurry, and then we went back to the lamasery. An hour or two later we made our way up to the temple near where the General had his home, and there I saw him. He told me much about the Japanese and the trouble they were making in Shanghai. He told me how the International Settlement there had recruited a police force of thugs and crooks who were not really trying to restore order. He said, “War is coming Rampa, war is coming. We need all the doctors we can, and doctors who are also pilots. We must have them.” He offered me a commission in the Chinese army, and gave me to understand that I could fly as much as I should like.

Tướng quân là một người đàn ông vạm vỡ, cao hơn một mét tám, có bờ vai rộng và một cái đầu lớn. Ông đã tham gia nhiều chiến dịch, và trước khi người Nhật gây rối loạn, ông đã nghĩ rằng những ngày làm lính của mình đã qua. Ông còn là một nhà thơ, và sống gần đền Ngắm Trăng. Tôi thích ông ta, ông là một người mà tôi cảm thấy ăn nhập, và lại là một người thông minh nữa. Ông cho tôi biết rằng rõ ràng người Nhật đã mượn một sự việc để làm cớ xâm lược Trung Quốc. Một nhà sư người Nhật Bản đã bị giết do tai nạn, và các nhà chức trách Nhật Bản đòi thị trưởng thành phố Thượng Hải phải cấm việc tẩy chay hàng hóa Nhật Bản, giải thể Hiệp hội Giải cứu Hàng hóa Quốc gia, bắt giữ những nhà lãnh đạo của phong trào tẩy chay, và bồi thường về cái chết của nhà sư. Ông Thị trưởng, một phần muốn gìn giữ hòa bình và một phần e ngại lực lượng đông đảo của người Nhật, đã chấp nhận thỏa thuận vào ngày 28 tháng Một năm 1932. Nhưng ngay 10:30 đêm hôm đó, sau khi ông Thị trưởng chính thức chấp nhận thỏa thuận, thì hải quân Nhật đã bắt đầu chiếm đóng một số lớn các đường phố trong Tô giới, và như vậy, mở đường cho cuộc chiến tranh thế giới tiếp theo. Tất cả những điều này hoàn toàn mới với tôi. Tôi không hề hay biết về chúng bởi vì tôi đã đi vắng.

The General was an immense man, well over six feet tall, with broad shoulders and a huge head. He had been in many campaigns, and now he had thought, until the Japanese difficulty, that his days as a soldier were over. He was a poet, too, and he lived near the Temple for Viewing the Moon. I liked him, he was a man with whom I could get on, a clever man. Apparently, so he told me, one incident in particular had been sponsored by the Japanese to give them a pretext for invading China. Some Japanese monk had been killed by accident, and the Japanese authorities demanded that the mayor of Shanghai should prohibit the boycott of Japanese goods, disband the Association for National Deliverance, arrest the leaders of the boycott, and guarantee compensation for the killing of that monk. The Mayor, to preserve the peace and thinking of the overwhelming force of the Japanese, accepted the ultimatum on the 28th January, 1932. But at 10:30 that night, after the Mayor had actually accepted the ultimatum, the Japanese marines began occupying a number of streets in the International Settlement, and so paving the way for the next world war. This was all news to me. I knew nothing at all about it because I had been travelling elsewhere.

Trong khi chúng tôi đang nói chuyện thì có một nhà sư mặc áo màu xám đen đi tới để nói với chúng tôi rằng vị Sư trưởng cao nhất T’ai Shu đang ở đây, và chúng tôi cũng cần phải gặp ông ấy. Tôi kể với ông về những sự kiện ở Tây Tạng, về nghi lễ cuối cùng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba yêu dấu. Về phần mình, ông nói với tôi về nỗi sợ hãi của ông và những người khác về sự an toàn của Trung Quốc.

– Không phải chúng tôi sợ kết quả cuối cùng, ông nói, mà là sự hủy diệt, chết chóc và đau khổ sẽ đến trước đó.

Vì vậy, một lần nữa, họ thúc ép tôi chấp nhận vị trí trong quân đội Trung Quốc, để cho họ tùy ý sử dụng sự đào tạo của tôi. Và sau đó là phát súng cuối cùng .

– Anh phải đến Thượng Hải, Tướng quân nói. Sự giúp đỡ của anh thực sự rất cần thiết ở đó, và tôi đề nghị rằng bạn anh, Po Ku, sẽ đi cùng với anh. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ, chỉ chờ anh, và anh ấy, nhận lời.

– Thượng Hải ư? tôi nói. Đó là một nơi khủng khiếp. Tôi thực sự không đánh giá cao nó. Tuy nhiên, tôi biết rằng tôi cần phải đến đó, và vì vậy tôi sẽ nhận lời.

As we were talking a monk came, dressed in a grey-black gown, to tell us that the Supreme Abbot T’ai Shu was here, and we had to see him as well. I had to tell him about events in Tibet, about the last ceremonies of my beloved 13th Dalai Lama. He in turn told me of the grave fears which he and others had for the safety of China. “Not that we fear the final outcome,” he said, “but the destruction, the death, and the suffering which will come first.”

So they pressed me again to accept a commission in the Chinese forces, to place my training at their disposal. And then came the blow. “You must go to Shanghai,” said the General. “Your services are very much needed there, and I suggest that your friend, Po Ku, goes with you. I have made preparations already, it is but for you, and he, to accept.” “Shanghai?” I said. “That’s a terrible place to be in. I really do not think much of it. However, I know that I must go, and so I will accept.”

Chúng tôi trò chuyện quên thời gian, và bóng chiều len lỏi dần dần bao trùm lên chúng tôi, ngày đã chuyển xế chiều, cuối cùng cũng đến lúc chúng tôi phải chia tay. Tôi đứng dậy, đi ra ngoài sân, nơi cây cọ đơn độc đang héo dần trước cái nóng, với những chiếc lá rũ xuống và ngả màu nâu. Huang đang kiên nhẫn chờ đợi tôi, ngồi bất động và tự hỏi sao cuộc nói chuyện lại dài đến vậy. Cậu đứng lên và chúng tôi lặng lẽ đi xuống con đường mòn, băng qua hẻm núi dốc, qua cây cầu đá nhỏ, về phía lạt ma viện của chúng tôi.

We talked on and on, and the evening shadows gradually crept in upon us, and the day turned to dusk, so that eventually we had to part. I rose to my feet, and made my way out into the courtyard, where the solitary palm was looking faded, and wilted in the heat, with its leaves hanging down, and turning brown. Huang was sitting patiently waiting for me, sitting immobile, wondering why the interview was so long. He, too, rose to his feet. Silently we made our way down the path, past the rushing gorge, and over the little stone bridge, down toward our own lamasery.

Có một tảng đá lớn ngay trước lối vào con đường mòn của chúng tôi. Leo lên đó, chúng tôi có thể nhìn ra con sông lúc này đang hoạt động nhộn nhịp. Những con tàu hơi nước nhỏ đang di chuyển chậm chạp dọc theo sông. Khói bốc lên từ ống khói được gió cuốn đi thành những dải khói đen dài. Phải rồi, bây giờ có nhiều tàu hơn so với trước khi tôi mới rời khỏi Tây Tạng để đến đây. Những người tị nạn đến đất này mỗi ngày một nhiều, giao thông cũng nhiều hơn, những người có thể nhìn trước tương lai, sẽ thấy cuộc xâm lược của Trung Quốc thực sự là gì. Vậy là lại thêm sự tắc nghẽn trong một thành phố vốn đã tắc nghẽn.

There was a large rock before the entrance to our path and we climbed upon it, where we could look out over the rivers. There was much activity nowadays. Little steamers were chugging along. Flames of smoke rising from their funnels being caught by the wind, were being blown off into a black banner. Yes, there were more steamers now than ever before I left for Tibet. Refugees were coming in more every day, more traffic, people who could see into the future, and see what the invasion of China would really mean. There was more congestion in a city already congested.

Ngắm nhìn bầu trời đêm, chúng tôi thấy mây đen đang tụ lại thành những đám lớn, và chúng tôi biết rằng chỉ lát nữa thôi, trong đêm nay, sẽ có một cơn bão trút xuống từ trên núi, mang tới những nơi mưa xối xả và làm điếc tai chúng tôi với những tiếng vang và tiếng sấm ầm ầm. Phải chăng đây là điềm báo cho những phong ba sắp sửa ập đến với đất nước Trung Quốc? Ít nhất thì những gì trước mắt có vẻ như vậy, không khí thật căng thẳng và đầy náo động. Cả hai chúng tôi cùng thở dài khi nghĩ về tương lai của mảnh đất này, nơi mà cả hai cùng yêu mến. Nhưng màn đêm đã bao trùm chúng tôi. Những giọt mưa nặng hạt đầu tiên rơi xuống và làm ướt chúng tôi. Chúng tôi cùng quay lại và đi về phía ngôi chùa, nơi Thầy trụ trì đang đợi chúng tôi, nóng lòng được nghe tất cả những điều đã xảy ra. Tôi rất mừng khi được gặp Thầy, được trao đổi về các vấn đề, và được Thầy khen ngợi về công việc mà tôi đã đồng ý đảm nhận.

As we looked up into the night sky we could see the great storm clouds piling up, and we knew that later in the night there would be a thunder-storm rolling down from the mountains, swamping the place with torrential rain and deafening us with the echo and rumbles. Was this, we thought, a symbol of the troubles to come upon China? It certainly seemed so, the air was tense, electric. I think we both sighed in unison to think of the future of this land of which we were both so fond. But the night was upon us. The first heavy drops of the rainstorm were coming down and wetting us. We turned together, and made our way into the temple to where the Abbot was waiting for us, agog to be told all that had happened. I was glad indeed to see him, and to discuss matters, and to receive his praise for the course which I had agreed to undertake.

Chúng tôi trò chuyến đến rất khuya, thỉnh thoảng lại bị ù tai vì tiếng sấm và tiếng mưa đổ sầm sập trên mái chùa. Cuối cùng, chúng tôi trở về chỗ ngủ của mình trên sàn và chìm vào giấc ngủ. Sáng ra, sau buổi lễ cầu nguyện đầu tiên trong ngày, chúng tôi chuẩn bị để khởi hành lên đường, bắt đầu một chương mới của cuộc đời, một chương có lẽ sẽ không hề dễ chịu.

Far into the night we talked, and talked, deafened at times by the roaring thunder, and by the rushing of the rain upon the temple roof. Eventually we made our way to our beds upon the floor, and went to sleep. With the coming of the morning, after the first service, we made our preparations to set off again on the start of yet another phase of life, an even more unpleasant stage.

[1]1 dặm (mile) tương đương với 1,61 km.

[2] Ở Tây Tạng, người ta chào nhau bằng cách thè lưỡi ra ngoài.

Dịch và biên tập : Cộng đồng Thiền Việt Nam VMC