Chương V- Câu chuyện của Rampa – Losang Rampa

Chiếc xe chạy bon bon với một sức mạnh mà không ngọn núi nào có thể ngăn cản được. Vị khách ngồi im lặng bên cạnh tôi, thỉnh thoảng cất tiếng để chỉ cho tôi những danh lam thắng cảnh có vẻ đẹp khác thường. Chúng tôi đến vùng ngoại ô của Martigni và ông ta nói. “Một người sắc sảo như anh, chắc hẳn đã đoán được rằng tôi là công chức Nhà Nước. Anh sẽ nhận lời ăn tối với tôi chứ?”

“Rất hân hạnh, thưa ngài” Tôi nói. “Tôi định đi thẳng đến Aigle, tuy nhiên tôi sẽ dừng lại ở lại thị trấn này”.

THE car droned on, surging with power that no mountainous pass could halt nor impede. My passenger sat silently by me, only occasionally speaking to point out landmarks of surpassing beauty. We approached the environs of Martigny and he spoke. “As an astute man like you will have guessed I am a Government official. Will you give me the pleasure of your company at dinner?”

“I should be delighted, sir,” I replied. “I had intended to drive on to Aigle before stopping, but I will stay at this town instead.”

Chúng tôi đi tiếp, với ông ấy chỉ đường cho đến khi chúng tôi tới một khách sạn thật sang trọng. Hành lý của tôi được mang lên, còn tôi lái xe vòng ra gara và chỉ dẫn cho người phục vụ cách bảo dưỡng xe.

Bữa tối thật tuyệt vời, vị khách của tôi, giờ là chủ nhà, một người nói chuyện rất thú vị, vì giờ ông ấy đã bỏ qua sự xét nét ban đầu đối với tôi. Một câu ngạn ngữ cổ của người Tây Tạng có nói “Người nào lắng nghe nhiều nhất sẽ học hỏi được nhiều nhất”, nên tôi cứ để ông ấy nói. Ông nói về những vụ ở Hải quan, kể cho tôi một câu chuyện gần đây về một chiếc xe đắt tiền có những ngăn giả ở phía sau chứa ma túy. “Tôi chỉ là một du khách bình thường” tôi nói, “và một trong những thứ mà tôi không ưa nhất trong cuộc đời là ma túy. Ông có thể kiểm tra chiếc xe tôi lái có những ngăn bí mật trong đó không? Ông vừa nói với tôi về trường hợp người ta lắp thêm mà chủ xe không biết”. Khi tôi vẫn kiên quyết, chiếc xe được đưa tới đồn cảnh sát địa phương và để lại đó suốt đêm để họ kiểm tra.  Đến sáng tôi được chào đón như một người bạn cũ đáng tin cậy. Họ kiểm tra kỹ lưỡng chiếc xe và thấy rằng nó nghiêm chỉnh. Tôi thấy cảnh sát Thụy Sĩ rất nhã nhặn, niềm nở và rất sẵn lòng giúp đỡ du khách.

We drove on, he directing me, until we arrived at a most excellent hotel. My luggage was carried in, I drove the car round to the garage and gave instructions for servicing.

Dinner was a most enjoyable meal, my ex-passenger, now host, was an interesting conversationalist, now that he had overcome his initial suspicion of me. On the old Tibetan principle that “He who listens most learns most,” I let him do all the talking. He discussed Customs cases, and told me of a recent case where an expensive car had false panels behind which were stored narcotics. “I am an ordinary tourist,” I said, “and one of the major dislikes in my life is drugs. Will you have my car examined to see if any false panels are in it? You have just told me of a case where they were installed without the owner’s knowledge.” At my insistence, the car was driven to the local Police headquarters and left overnight for them to examine. In the morning I was greeted as an old and trusted friend. They had examined every inch of the car and had found it to be innocent. The Swiss Police, I found, were courteous and affable, and very ready to assist a tourist.

Tôi lái xe đi, đơn độc với những tư tưởng của mình và tự hỏi tương lai sẽ đem đến cái gì đây. Sẽ vất vả và rắc rối hơn, đó là những gì tôi biết, vì các nhà Tiên tri đã không ngừng nhồi điều đó vào đầu tôi! Đằng sau tôi, trong khoang hành lý, là đồ đạc của người đàn ông trên giấy tờ tôi được giao. Anh ta không có người thân thích, và giống tôi, anh ta dường như lẻ loi trong thế giới này. Trong vali của anh ấy, mà bây giờ là của tôi, anh ta đã để vài quyển sách về máy móc của ngành hàng hải. Tôi dừng xe và lấy quyển sách hướng dẫn ra. Trong khi lái xe, tôi đã học thuộc lòng các qui tắc mà khi làm thợ máy trên tàu tôi sẽ cần phải biết. Tôi cũng có ý định sẽ lên một con tàu ở một tuyến nào đó nằm ngoài các tuyến trong Sổ Nhật kỹ Hành trình thủy thủ của anh kỹ sư này, để đỡ bị phát hiện.

I drove on, alone with my thoughts, wondering what the future had in store for me. More trouble and hardship, that I knew, for all the Seers had simply drummed that into me! Behind me in the luggage compartment I had the luggage of a man whose papers I had taken over. He had no known relatives, like me he seemed to have been alone in the world. In his—or mine, now—cases he had a few books on marine engineering. I stopped the car, and took out the Manual. As I drove I recited to myself various rules which, as a Ship’s Engineer, I should have to know. I planned to get a ship of a different Line; the Discharge Book would show me which Lines to avoid for fear of being recognized.

Xe tôi lăn qua nhiều dặm đường. Qua Aigle, Lausanne, rồi vượt qua biên giới vào Đức. Lính biên phòng Đức rất cẩn trọng, kiểm tra kỹ lưỡng mọi thứ, kể cả động cơ và bánh xe. Họ cũng rất nghiêm túc và nghiêm khắc.

Tôi lại lái tiếp. Khi đến Karlsruhe, tôi tới địa chỉ đã cho, và được biết rằng người đàn ông mình đang tìm kiếm hiện ở Ludwigshafen. Vậy là tôi lại đi tiếp đến Ludwigshafen và ở đó, tại một khách sạn sang trọng bậc nhất, tôi đã tìm thấy sếp người Mỹ của tôi. “Ái chà anh bạn,” ông ta nói, “tôi không thể lái chiếc xe đó vượt qua đường núi được, thần kinh tôi không tốt. Tôi uống nhiều quá, chắc là thế”. Tôi cũng nghĩ vậy. Phòng của ông ta trong khách sạn trông giống như một quầy bar thực thụ, lại thêm cả một cô hầu bàn! Cô này đẹp hơn, và cũng ăn mặc hở hang hơn cả cô gái ông ta để lại bên Ý. Cô ta chỉ có ba suy nghĩ trong đầu, đó là tiền Mark của Đức, rượu và tình dục, theo đúng trình tự như vậy. Người Mỹ rất hài lòng với hiện trạng của chiếc xe, không một vết xước hay một vết bẩn nào. Ông ta thể hiện sự biết ơn của mình bằng một món quà tiền đô la Mỹ hậu hĩnh.

The miles reeled out beneath me. Aigle, Lausanne, and across the frontier into Germany. The German Frontier Guards were very thorough, checking everything, even engine and tire numbers. They were also completely humourless and dour.

On and on I drove. At Karlsruhe I went to the address which I had been given and was told that the man whom I was to see was at Ludwigshafen. So on I drove to Ludwigshafen and there, at the best hotel, I found the American. “Aw, Gee Bud,” he said, “I could not take that auto over the mountain roads, my nerves are bad. Too much booze, I guess.” I “guessed” so, too. His room at the hotel was like a remarkably well-equipped bar, complete with barmaid! This one had more to show, and showed more, than the one he had left in Italy. She had just three thoughts in her head, German marks, drink, and sex, in that order. The American was very pleased with the condition of the car, not a scratch and spotlessly clean. He marked his appreciation by a substantial gift of American dollars.

Tôi làm việc cho ông ấy đã thêm ba tháng nữa, lái những chiếc xe tải lớn đến nhiều thành phố và chở về những chiếc xe con để mông má lại. Tôi không biết đằng sau những hoạt động đó là gì, bây giờ cũng vẫn chưa biết, nhưng tôi đã được trả công hậu hĩnh, và tôi cũng có thêm thời gian để nghiên cứu những cuốn sách về công nghệ hàng hải. Ở những thành phố khác nhau tôi đã tham quan nhiều viện bảo tàng địa phương và xem xét cẩn thận tất cả các mẫu tàu và mẫu động cơ.

Sau ba tháng, người Mỹ đến căn phòng trọ nhỏ bé tồi tàn của tôi, ngồi phịch lên giường ngủ của tôi, trên người còn vương mùi xì gà làm hôi hám cả căn phòng. Ông ta nói : “Này, anh bạn, cậu đúng là chả biết hưởng thụ! Căn phòng này còn tệ hơn cả nhà tù ở Mỹ. Tôi có một kèo cho cậu, kèo này to đấy. Cậu có muốn không?”

“Nếu như kèo đó sẽ đưa tôi đến gần biển, đến Le Havre hoặc Cherbourg,” tôi nói.

“Được, cậu sẽ đến Verdun và hoàn toàn hợp pháp. Tôi có một chiếc xe bánh nó còn nhiều hơn số chân trên một con sâu. Lái nó cũng rất khó đấy. Nhưng mà nhiều tiền lắm.”

“Ông nói thêm về việc đó đi,” tôi trả lời. “Tôi đã nói với ông là tôi có thể lái được bất cứ xe gì. Ông đã có đủ giấy tờ thông quan để vào Pháp chưa?”

“Có rồi”, ông ta nói. “Tôi đã phải chờ cả ba tháng để có nó. Chúng tôi đã cho cậu tạm nghỉ để cậu có thể kiếm ít tiền tiêu vặt. Nhưng mà tôi cũng không thể ngờ cậu lại sống trong cái đống rác như thế này.”

For three months I worked for him, driving immense trucks to various cities and bringing back cars which had to be reconditioned or rebuilt. I did not know what it was all about, I still do not, but I was well paid, and I was having time to study my marine engineering books. In the various cities I visited the local museums and carefully examined all the ship models, and models of ship engines.

Three months later the American came to the poor little room I had rented, and flopped down on my bed, reeking cigar fairly stinking out the place. “Gee, Bud,” he said. “You sure don’t go in for luxury! A U.S. prison cell is more comfortable than this. I gotta job for you, a big job. Want it?”

“If it will get me nearer the sea, to Le Havre or Cherbourg,” I said.

“Well, this will take you to Verdun and it is quite legitimate. I gotta rig with more wheels than a caterpillar has legs. It’s a crazy thing to drive. There’s a lot of dollars in it.”

“Tell me more about it,” I answered. “I told you I could drive anything. Have you got clearance papers for it to enter France?”

“Yep,” he said. “Been waiting three months to get them. We have been keeping you on ice and letting you earn some pocket money. Guess I never thought you were living in a dump like this, though.”

Ông ta đứng dậy và ra hiệu cho tôi đi theo ra ngoài. Ngoài cửa là chiếc xe của ông ta và cô bạn gái. “Cậu lái đi,” ông ta nói và ngồi xuống ghế sau cùng với cô gái. “Tôi sẽ chỉ đường cho cậu”. Chúng tôi dừng lại ở một sân bay có vẻ như đã bị bỏ hoang ở ngoại ô Ludwigshafen. Ở đó, trong một nhà kho lớn, là một cỗ xe kỳ dị nhất mà tôi đã từng thấy. Nó trông dường như là những chiếc trục màu vàng nằm trên những bánh xe cao 8 feet. Tít trên cao là chiếc buồng lái kính nhỏ xíu. Gắn chặt vào sau chiếc xe kỳ quái này là toàn bộ những cái cọc và một chiếc xẻng thép khổng lồ. Tôi thận trọng trèo lên ghế lái. “Này”, ông ta la lên, “cậu không định xem sách hướng dẫn à?” rồi trèo lên và đưa cho tôi cuốn sách hướng dẫn sử dụng chiếc xe. Ông ta nói: “Tôi đã từng có một cậu lái xe được giao di chuyển một chiếc xe quét đường mới tinh. Cậu ta đã không đọc hướng dẫn và khi đưa được chiếc xe đến địa chỉ giao hàng thì mới nhận thấy rằng cậu ta đã để chiếc chổi quét suốt chặng đường, và cái chổi đã mòn hết. Tôi cũng không muốn cậu phá đường từ đây đến Verdun đâu.”

He got up and motioned for me to follow him out. At the door he had his car, complete with girl-friend. “You drive,” he said, getting in the back with the woman. “I will direct you.” At what appeared to be an abandoned airfield outside Ludwigshafen we stopped. There, in a huge shed, was the weirdest machine that I had ever seen. It seemed to be mainly yellow girders supported on a whole series of eight-foot wheels. Ridiculously high off the ground was a small glassed-in enclosure. Fixed on the back of the contraption were a whole series of lattice girders, and an immense steel scoop. Gingerly I climbed up to the seat. “Sa-ay,” yelled the American, “Don’t you want the handbook?” He reached up, and passed me a Manual dealing with these contraptions. “I had a guy,” he said, “who was delivering a street sweeping truck, a new one. He would not read the book and when he got to his destination he found that he had had the brushes sweeping all the time and he had worn them out. I don’t want you wrecking the road from here to Verdun.”

Sau khi lướt nhanh cuốn sách, tôi nổ máy. Nó gầm lên như máy bay cất cánh. Một cách thận trọng, tôi nhả phanh tay, và chiếc xe khổng lồ trườn ra khỏi nhà kho, tới nơi đã từng là đường băng. Tôi chạy xe vài vòng để làm quen với nó, và khi quay lại nhà kho thì có một chiếc xe cảnh sát Đức đi tới. Viên cảnh sát bước ra, một người trông hung ác như thể đã từng làm việc cho Cảnh sát Mật (Gestapo). “Anh lái không có phụ xe,” anh ta gắt.

“Phụ xe?” tôi nghĩ, “ông ta cho rằng tôi cần phải có người để quản lý mình à?” Tôi chạy xe lên cạnh anh ta. “Này, anh có vấn đề gì à?”, tôi quát lên. “Đây là đất tư nhân. Biến ngay!” Ngạc nhiên thay, anh ta lên xe của mình rồi lái ra khỏi khu đất đó.

Fingering through the book I soon had the engine running. It made a roar like a plane taking off. Gingerly I let in the clutch and the mammoth machine lumbered out of the shed and on to what had once been a runway. I drove up and down a few times to become accustomed to the machine’s controls, and as I turned to go back to the shed a German Police car drove up. A policeman got out, a savage looking fellow who appeared as if he had just shed the Gestapo badge. “You are driving that without an attendant,” he barked.

“Attendant?” I thought, “Does he think I need a Keeper?” I drove up alongside him. “Well, what is the trouble with you?” I shouted. “This is private property. Get off!” To my utter surprise he did! He got in his car and just drove outside the grounds.

Người Mỹ bước lại chỗ anh ta và hỏi, “Này anh bạn, có vấn đề gì thế?”

“Tôi chỉ đến đây để nói với ông rằng chiếc xe này chỉ được chạy trên đường khi có phụ xe ngồi phía sau để quan sát giao thông. Nó chỉ được chạy vào ban đêm, trừ khi có xe hai xe cảnh sát kẹp phía trước và sau”. Trong một thoáng, tôi nghĩ anh ta chuẩn bị nói “Heil, Hitler”. Anh ta quay lại, chui vào xe, và lái đi.

“Trời,” người Mỹ nói, “Không thể tin được. Không thể nào! Tôi có một người Đức tên là Ludvig, người này…”

“Không hợp với tôi”, tôi nóng nảy la lên, “Không phải là người Đức, đối với tôi họ quá khó tính.”

“Được rồi, anh bạn, được rồi. Không thích Đức khựa à. Bình tĩnh đi, đừng nổi giận nữa. Tôi biết một tên người Pháp mà cậu sẽ thích. Tên hắn là Marcel. Đi thôi. Chúng ta sẽ đi gặp anh ta.” Tôi cất xe vào trong nhà kho, nhìn quanh xem mọi thứ đã tắt hết chưa, rồi đi bộ ra ngoài và khóa cửa.

“Cậu không sao chứ?” người Mỹ nói, “tốt nhất là cậu lái xe nhé.”

The American walked over to him. “What’s biting you, Bud?” he said.

“I have come to tell you that that machine can only be driven on the roads when accompanied by an attendant on the back to watch for overtaking traffic. It can only be driven at night, unless you have a police car at front and rear.” For a moment I thought he was going to say “Heil, Hitler.” Then he turned, got in his car and drove off.

“Gee,” said the American. “That sure beats cockfighting. It sure do! I got a German named Ludvig who . . .”

“Not for me,” I exclaimed fervently. “Not a German, they are too stodgy for me.”

“Okay, Bud, okay. So no Kraut. Take it easy, don’t get riled up. I got a Franchie who you’ll like. Marcel. C’mon. We will go see him.” I parked the machine in the shed, looked over it to see that everything was shut off, and sauntered out, locking the door. “Don’t you ever get rattled?” said the American. “Guess you better drive us.”

Chúng tôi phải lôi Marcel ra khỏi một quán bar. Thoạt nhìn tôi nghĩ mặt anh ta như bị ngựa đạp. Nhìn lần thứ hai thì tôi kết luận rằng mặt anh ta mà bị ngựa dẫm lên thì còn đẹp hơn. Marcel rất xấu trai. Anh ta xấu một cách đau đớn, nhưng anh ta có cái gì đó khiến tôi thích ngay từ cái nhìn ban đầu. Chúng tôi ngồi trong xe một lúc, thảo luận về các điều khoản, rồi tôi trở về bên cỗ máy trong sân bay để điều khiển và làm quen với nó. Khi tôi đang đi quanh đường băng thì thấy một chiếc xe cũ nát chạy tới. Marcel nhảy xuống vẫy tay rối rít. Tôi giảm tốc độ và dừng lại bên anh ta. “Tôi có đây rồi, tôi có đây rồi”, anh ta kêu lên phấn khích. Anh ta khoa tay múa chân rối rít quay về xe và suýt va đầu vào chiếc cửa thấp. Anh ta xoa đầu, lẩm bẩm chửi rủa nhà sản xuất đã cho ra đời chiếc những chiếc xe nhỏ như vậy, lục lọi chiếc ghế sau rồi quay ra với một gói lớn.

“Bộ đàm đây rồi,” anh ta hét lớn. Anh ta luôn hét lên ngay cả khi chỉ đứng cách người khác chỉ vài inch. “Bộ đàm, chúng ta nói chuyện, được không? Cậu ở kia, tôi ở đây, giữa hai chúng ta có dây dẫn, chúng ta có thể nói chuyện bất cứ lúc nào. Hay không?” Gân cổ lên mà hét, anh ta nhảy lên chiếc xe xúc đất, rải dây khắp mọi nơi. “Cậu có cần tai nghe không?” anh ta lại hét lên. “Cậu sẽ nghe tôi nói rõ hơn nhiều. Còn tôi, tôi có mic rồi.” Qua cách nói chuyện ồn ào của anh ta, tôi rút ra kết luận rằng chẳng cần bộ đàm để làm gì. Giọng của anh ta còn át cả được cả tiếng gầm đinh tai của cỗ xe khổng lồ.

Marcel had to be fished out of a bar. At first sight of him I thought his face had been stepped on by a horse. A second glance convinced me that his face would have been better if he had been stepped on by a horse. Marcel was ugly. Painfully ugly, but there was something about him which made me like him on sight. For some time we sat in the car discussing terms, then I returned to the machine to drive it and so become accustomed to it. As I lumbered round the track I saw a battered old car drive up. Marcel jumped out, waving frantically. I eased the machine to a standstill beside him. “I’ve got it, I’ve got it,” he cried, all excitement. With much gesticulation he turned to his car—and nearly brained himself on the low-roofed door. Rubbing his head, and muttering fearsome imprecations against the makers of small cars, he rummaged on the back seat and came out with a large parcel. “Intercom,” he shouted. He always shouted, even when standing just a few inches from one. “Intercom, we talk, yes? You there, me here, wire between, we talk all time. Good?” Shouting away at the top of his voice, he jumped on to the Earthmover, trailing wires and bits all over the place. “You want headset, no?” he yelled. “You hear me so much better. Me. I have mike.” From the uproar he was making, I came to the conclusion that no intercom was necessary. His voice carried well above the throbbing of the mighty engine.

Tôi quay lại với việc lái xe, thực hành quay xe, làm quen với mọi thứ. Marcel nói luôn mồm và đi nghênh ngang từ phía trước đến bên cạnh xe, quấn dây vào những cái cột. Đi đến “tháp chỉ huy” của tôi, anh ta thò tay qua cửa sổ, thụi vào vai tôi rồi hét tướng lên, “cậu phải đeo tai nghe vào, hiểu chưa? Như thế mới nghe rõ.  Đợi chút, tôi sẽ quay lại!” Anh ta lon ton đi dọc thành xe, ngồi phịch xuống chiếc ghế ở cuối xe và hét to vào mic. “Cậu nghe rõ không? Rõ hả? Tôi đến đây!” Anh ta hồ hởi mà quên mất rằng tôi cũng có mic. Gần như trước khi tôi kịp trấn tĩnh thì anh ta đã quay lại, đập mạnh vào cửa sổ nói “Nghe được không? Nghe tốt hả?”

“Này,” Ông người Mỹ nói: “Các cậu lên đường tối nay đi. Tất cả giấy tờ ở đây rồi. Marcel biết đường đến Paris, và cũng biết cách kiếm thêm tiền trên đường đến đó. Thật vui khi được quen các cậu.” Người Mỹ bước đi, biến mất khỏi cuộc đời tôi. Có thể ông ấy sẽ đọc được những dòng này và liên hệ với tôi qua nhà xuất bản. Tôi trở lại căn phòng hiu quạnh của mình. Marcel cũng đi đến một tiệm nước ở gần đó. Thời gian còn lại trong ngày tôi lăn ra ngủ.

I drove along again, practicing turns, getting used to the thing. Marcel pranced and chattered from front to rear of the machine, twisting the wires around the girders. Coming to my “conning tower” he thrust an arm through the open window, thumped me on the shoulder, and bellowed, “The headset, you put her on, yes? You hear so good. Wait—I go back!” He scuttled along the girders, plonked into his seat at the far end of the machine, and shrieked into the microphone. “You hear good? Yes? I come!” In his exuberance he had forgotten that I too had a microphone. Almost before I could collect my wits he was back, hammering at the window, “Good? Good? You hear good?”

“Say,” said the American. “You guys take off tonight. All the papers are here. Marcel knows how to get you to Paris, with the chance of earning francs on the way. Sure been nice knowing you.” The American walked away, out of my life. Perhaps he will read this and get in touch with me through the publishers. I went off to my solitary room. Marcel went off to the local place of refreshment. For the rest of the day I slept.

Khi trời bắt đầu nhập nhoạng, tôi ăn tối rồi đi taxi ra nhà kho. Đồ đạc của tôi bây giờ giảm gọn nhẹ đến tối thiểu, được xếp gọn vào sau chỗ ngồi. Tôi khởi động máy, áp suất tốt, kim đồng hồ xăng chỉ đầy, đèn làm việc tốt. Tôi lăn bánh ra đường băng và lái xe quanh sân để làm nóng máy. Trăng càng lúc càng lên cao. Không thấy Marcel đâu. Tôi tắt máy và nhảy xuống đi bộ loanh quanh. Lát sau một chiếc xe chạy vào sân và Marcel bước ra. “Liên hoan”, anh ta nói oang oang, “liên hoan chia tay. Chúng ta đi bây giờ nhỉ?”

Khó chịu, tôi khởi động máy, bật đèn và lăn bánh ra đường lớn. Marcel cứ hò hét mãi nên tôi chỉ để tai nghe quanh cổ và rồi quên luôn anh ta. Đi được vài dặm thì có một chiếc xe cảnh sát Đức dừng lại ngay trước xe tôi. “Người phụ xe của anh đang ngủ. Anh đã không tuân thủ qui định phải có phụ xe trông chừng phía sau.” Marcel chạy ngay lại, “Tôi á? Buồn ngủ á? Ông lại chả nhìn thấy cái gì ngài cảnh sát ạ. Chỉ vì tôi ngồi thoải mái nên ông mới hách dịch.” Viên cảnh sát tiến lại gần và cẩn thận kiểm tra hơi thở của tôi. “Không, cậu ấy như thánh ấy,” Marcel nói. “Cậu ấy không uống rượu. Mà cũng không gái gú gì cả,” anh ta nói thêm, sau một giây phút nghĩ ngợi.

“Giấy tờ của anh đâu!” viên cảnh sát hỏi. Anh ta soi kỹ, cố bắt lỗi để gây chuyện. Anh ta nhìn thấy giấy chứng nhận kỹ sư tàu biển Mỹ của tôi. “Vậy anh là người Mỹ à? Ok, chúng tôi không muốn có rắc rối với lãnh sự Mỹ. Anh đi đi.” Dúi trả đống giấy tờ như sợ có vi trùng gây bệnh, anh ta vội vã quay về xe của mình và phóng đi. Sau khi mắng mỏ Marcel, tôi bảo anh ta về chỗ ngồi rồi lái xe xuyên đêm.

With the coming of darkness I had a meal and took a cab out to the shed. My luggage, now reduced to a bare minimum, I stowed in the space behind my seat. Engine started, pressures satisfactory. Fuel gauge reading Full. Lights working normally. I trundled the machine out in the open and drove around the track to warm it up. The moon rose higher and higher. No sign of Marcel. With the engine off I got out and walked around. At long last a car drove into the grounds, and Marcel got out. “Party,” he roared. “Farewell party. We go now, yes?”

Disgustedly I restarted the engine, switched on the powerful lights, and rolled out into the road. Marcel was yelling so much that I just put the earphones around my neck and forgot all about him. Miles farther on a German police car pulled to a halt in front of me. “Your look-out is asleep. You are breaking Regulations by driving without a man keeping watch behind.” Marcel came bounding up, “Me? Asleep? You do not see straight, Policeman. Because I sit in comfort you become officious.” The policeman came closer and smelled my breath carefully. “No, he is a saint,” said Marcel. “He does not take drink. Nor women,” he added as an afterthought.

“Your papers!” said the policeman. Carefully he examined them, looking for any excuse to make trouble. Then he saw my American Ships’ Engineer papers. “So. You are an American? Well, we want no trouble with your Consul. On your way.” Pushing back the papers as if they were contaminated with the plague, he hurried back to his car and sped away. Telling Marcel what I thought of him, I sent him back to his seat, and we drove on through the night. 

Với tốc độ hai mươi dặm một giờ, tốc độ tối đa cho phép lái chiếc xe này, thì bẩy mươii dặm đến biên giới Pháp dường như dài vô tận. Gần đến Saarbrucken chúng tôi dừng lại, đánh xe ra khỏi làn đường để không cản trở giao thông rồi chuẩn bị nghỉ ban ngày. Ăn xong, tôi lấy giấy tờ rồi đến đồn cảnh sát địa phương để xin giấy phép qua biên giới. Với một cảnh sát đi xe máy đằng trước và đằng sau, xe chúng tôi lăn từ từ trên đường cho tới khi đến trạm hải quan.

Marcel rất hào hứng nói chuyện với những người đồng hương từ Pháp. Tôi nghe loáng thoáng rằng chính anh ta và một nhân viên hải quan mà anh ta đã gặp ở “quân đội Kháng Chiến” (La Resistance), hầu như đã tự mình mang lại chiến thắng trong cuộc chiến tranh! Với giấy tờ đã được kiểm tra, chúng tôi được phép đi vào lãnh thổ Pháp. Một nhân viên Hải quan thân thiện đã đưa Marcel đi cả ngày, còn tôi nằm cuộn tròn bên cạnh dầm máy ngủ.

Marcel về rất muộn, được dìu bởi hai viên cảnh sát Pháp. Nháy mắt với tôi, họ trói anh ta, dường như đã ngất xỉu vì say, vào ghế, rồi vui vẻ vẫy tay chào tôi. Tôi lại rồ máy đi trong màn đêm, ngồi trên một cỗ máy khổng lồ, với một phụ xe say rượu ngồi đằng sau. Lúc nào tôi cũng phải cẩn thận để ý xem có chiếc xe cảnh sát nào đang lảng vảng ở quanh đây không. Thế rồi một chiếc vượt lên, viên cảnh sát thò đầu ra ngoài cửa sổ, làm động tác nhạo báng Marcel, giơ tay chào rồi phóng vọt đi.

At twenty miles an hour, the speed at which we were instructed to travel, the seventy miles to the French border seemed endless. Just short of Saarbrucken we stopped, pulled off the road so as not to impede traffic, and prepared to spend the day. After a meal I took our papers and went to the local police station in order to obtain clearance across the border. With a police motor cyclist at front and rear, we crept along side roads until we reached the Customs post.

Marcel was in his element talking to his French compatriots. I gathered that he and one of the Customs men whom he had met in “the Resistance” had, almost alone, won the war! With our papers checked, we were allowed to move into French territory. The friendly Customs man took Marcel off for the day, and I curled up beside the girders of the machine and went to sleep.

Very, very late indeed Marcel returned in charge of two French policemen. With a wink at me, they strapped him in his seat, dead to the world, and cheerily waved me on my way. I roared on into the darkness, a mighty machine beneath me, a drunken “lookout” behind me. The whole time I kept careful watch for any prowling police cars. One came whizzing up, a policeman leaned out of his window, made a derisory gesture towards Marcel, waved his hand in greeting—and whizzed on.

Thị trấn Metz đã lùi xa, còn Marcel thì như chết rồi, tôi đỗ xe vào lề đường, nhảy xuống và đi lại phía sau để kiểm tra. Anh ta đang ngủ say. Không một sự rung lắc nào có thể đánh thức được anh ta, thế là tôi lại lái tiếp. Khi bình minh vừa hé rạng thì tôi đã chạy trên đường phố Verdun, tiếp tục tới một khu đỗ xe rộng lớn, đó chính là điểm đến của tôi.

“Lobsang”, giọng nói ngái ngủ từ phía sau.” Nếu cậu không khởi hành thì chúng ta sẽ muộn đấy.”

“Muộn á?” tôi nói. “Chúng ta đã đến Verdun rồi!”.

Marcel im phăng phắc, rồi bật ra: “Verdun?”

“Nghe này, Marcel”, tôi nói.” Người ta mang cậu về với tôi trong trạng thái say mèm và không biết gì. Cậu bị trói vào chỗ ngồi. Tôi đã phải làm mọi thứ, phải tự tìm đường. Bây giờ thì cậu phải đi mua đồ ăn sáng cho tôi. Vận động đi.” Một Marcel đã tỉnh ngủ loạng choạng đi ra phố và cuối cùng trở về với gói đồ ăn sáng.

Năm tiếng sau một người đàn ông lùn, da ngăm đen lái một chiến Renault cũ đến. Không nói lời, nào ông ta đi quanh chiếc xe ủi, xăm soi khắp nơi, tìm xem có vết xước hay bất cứ cái gì để có thể chê bai. Cặp lông mày rậm của anh ta trông như một chiếc gậy bắc qua cây cầu là chiếc mũi, một chiếc mũi bị sứt sẹo và được đặt không đúng chỗ. Cuối cùng anh ta đến chỗ chúng tôi và hỏi :”Ai trong các anh là lái xe?”

“Là tôi đây.” Tôi nói.

“Cậu hãy mang nó trả về Metz”, anh ta nói.

“Không,” tôi trả lời, “Tôi đã được trả tiền để mang nó đến đây. Tất cả giấy tờ đây. Tôi đã hoàn thành công việc rồi”.

With Metz well behind me, and no sign of life from Marcel, I pulled into the side of the road, got out and walked behind to look at him. He was fast asleep. No amount of shaking would rouse him, so I drove on again. As dawn was breaking I drove through the streets of Verdun, on, and into the large car park which was my destination.

“Lobsang”, called a sleepy voice from the back. “If you don’t get started we shall be late.”

“Late?” I said. “We are at Verdun! ”

There was a dead silence. Then an explosive “Verdun?”

“Listen, Marcel,” I said. “You were brought to me drunk and incapable. You were strapped in your seat. I had to do all the work, I had to find my way. Now you get going and bring me breakfast. Get moving.” A very chastened Marcel tottered off down the street to eventually return with breakfast.

Five hours later a short swarthy man drove up in an old Renault. Not a word to us, he walked round the Earthmover, carefully inspecting it, looking for scratches, looking for anything at which to complain. His thick eyebrows met like a bar across the bridge of his nose, a nose which had been broken at some time and badly set. At last he came up to us. “Which of you is the driver?”

“I am,” I said.

“You will take this back to Metz,” he said.

“No,” was my answer, “I have been paid to bring it here. All the papers are made out for here. I have finished with it.”

Anh ta đỏ mặt tức giận, bỗng tôi giật mình khi thấy anh ta rút từ trong túi ra 1 con dao cán gập. Tôi dễ dàng khống chế anh ta, con dao bay qua vai tôi và anh ta ngã ngửa xuống đất. Tôi nhìn quanh và ngạc nhiên thấy một đám đông công nhân kéo đến. “Anh ta đã quật ngã Đại Ca,” một người nói; “Chắc anh ấy bị bất ngờ thôi”, người khác nói khẽ. Gã da đen đứng bật dậy như quả bóng cao su. Hắn lao vào trong phân xưởng chộp lấy một cái gậy sắt có móc, thường dùng để mở thùng bao bì. Hắn lao ra, chửi thề rồi lao đến bên tôi cố gắng bổ vào cổ tôi. Tôi thụp xuống, ôm lấy gối anh ta và đẩy mạnh. Anh ta rú lên và ngã xuống đất với chân trái bị gãy, đánh rơi chiếc móc sắt khiến nó kêu loảng xoảng đâu đó.

“Hay lắm Đại Ca ạ”, tôi vừa đứng dậy vừa nói. “Nhưng có vẻ anh không phải là Đại Ca của tôi? Bây giờ xin lỗi tôi một cách lịch sự đi, hay anh thích tôi cho một trận nữa. Anh vừa cố giết tôi đấy”.

“Gọi bác sỹ đi, gọi bác sỹ đi, tôi sắp chết rồi,” hắn rên rỉ.

“Xin lỗi trước đã”, tôi hùng hổ nói, “hay anh muốn tôi gọi người chôn anh”.

“Có chuyện gì ở đây thế? Cái gì vậy?” Hai viên cảnh sát Pháp len vào đám đông, nhìn vào “Đại Ca” đang nằm trên mặt đất, rồi cười ầm ĩ. ”Hố! Hố”, một viên cảnh sát nói lớn. “Vậy là cuối cùng hắn ta đã gặp được người mạnh hơn mình rồi! Cũng đáng cho những rắc rối mà hắn đã gây ra.” Viên cảnh sát nhìn tôi một cách kính nể và đề nghị xem giấy tờ. Hài lòng với chúng và nghe mọi người xung quanh kể đầu đuôi sự việc, họ quay ra và bước đi. Gã “Đại Ca” xin lỗi tôi, khóc lóc đau đớn, thấy vậy tôi ngồi xuống xếp lại cái chân bị gãy và buộc cố định 2 thanh gỗ lấy từ thùng bao bì ra để làm nẹp. Marcel thì đã chuồn đi mất. Anh ta đã chạy khỏi rắc rối, và biến mất khỏi cuộc đời tôi.

His face flushed with rage, and to my consternation he drew from his pocket a spring-loaded knife. I was easily able to disarm him, the knife flew over my shoulder, and the swarthy man was flat on his back. To my surprise, as I looked around, I saw that quite a crowd of workmen had arrived. “He’s thrown the Boss,” said one; “He must have been taken by surprise,” muttered another. Violently the swarthy man erupted from the ground, like a rubber ball bouncing. Dashing into the workshop he picked up a steel bar with a claw on the end, a bar used for opening packing cases. Rushing out, yelling oaths, he swung at me, trying to rip my throat. I fell to my knees and grabbed his knees and pushed. He screamed horribly, and fell to the ground with his left leg broken. The steel bar left his nerveless hand, skidded along the ground, and clanged against metal somewhere.

“Well, Boss,” I said, as I rose to my feet. “You are not Boss of me, eh? Now apologize nicely, or I will beat you up some more. You tried to murder me.”

“Get a doctor, get a doctor,” he groaned, “I’m dying.”

“Apologize first,” I said fiercely, “or you will want an undertaker.”

“What’s going on here? Eh? What is it?” Two French policemen pushed into the throng, looked at “the Boss” on the ground, and laughed uproariously. “Haw! Haw! ” roared one. “So he has met a better man at last! This is worth all the trouble we have had with him.” The policemen looked at me with respect, and then demanded to see my papers. Satisfied on that point, and having heard the reports of the bystanders, they turned and walked away. The ex-Boss apologized, tears of mortification in his eyes, then I knelt beside him, set his leg, and fixed two boards from a packing case as a splint. Marcel had disappeared. He had run from trouble and out of my life.

Hai chiếc vali của tôi rất nặng. Lấy chúng xuống từ chiếc xe ủi, tôi đi bộ vào trong phố và bắt đầu cho giai đoạn tiếp theo hành trình của mình. Tôi không có việc làm và không quen biết ai. Marcel đã chứng minh mình là một người không thể trông cậy được với cái đầu luôn say xỉn. Verdun không có gì hấp dẫn tôi vào lúc này. Tôi dừng lại hỏi hết người này đến người khác đường ra ga tàu để tôi có thể gửi lại hành lý tại đó. Mọi người dường như nghĩ rằng tôi đang tìm đường ra trận hơn là tìm đường ra ga, nhưng cuối cùng thì tôi cũng đã hỏi được đường. Tôi lê bước nặng nhọc dọc theo phố Poincare, liên tục dừng lại nghỉ và tự hỏi có nên vứt bớt cái gì đi để làm nhẹ cái vali không. Sách à? Không, tôi phải giữ chúng rất cẩn thận. Đồng phục trên tàu à? Chắc chắn là cái cần thiết. Buồn bã, tôi đi đến kết luận rằng tôi cũng đang chỉ giữ những thứ thiết yếu với mình. Tôi lê bước trên quảng trường Chevert. Rẽ sang phải đến bến tàu Cộng hòa. Trong lúc nhìn tàu bè qua lại trên sông Meuse và băn khoăn về chúng, tôi quyết định ngồi xuống nghỉ một lát. Một chiếc Citroen lớn lặng lẽ lướt qua, giảm tốc độ rồi cuối cùng dừng lại bên cạnh tôi. Một người đàn ông cao, tóc đen nhìn tôi một lát rồi bước ra. Bưới tới phía tôi, ông ta nói. “Cậu là người mà chúng tôi biết ơn vì đã hạ được Đại Ca phải không?”

My two suitcases were heavy. Taking them from the Earthmover I walked out into the street on another stage of my journey. I had no job and knew no one. Marcel had proved to be a broken reed with his brains pickled in drink. Verdun did not attract me at all at that moment. I stopped passer-by after passer-by for directions on how to get to the railway station so that I could leave my suitcases. Everyone seemed to think that I would be better off looking at the battlefields than looking for a station, but eventually I succeeded in obtaining the directions. Along the Rue Poincaré I plodded, resting every so often and wondering what I could throw away to lighten my cases. Books? No, I had to keep those very carefully. Merchant Navy uniforms? Definitely a “must”. Reluctantly I came to the conclusion that I had only essentials with me. On to the Place Chevert I trudged. Turning right I arrived at the Quai de la Republique. Looking at the traffic on the River Meuse and wondering about ships I decided to sit a while and rest. A large Citroen slid silently along, slowed up, and finally stopped by me. A tall, dark-haired man looked at me for some moments and then got out. Walking towards me, he said, “You are the man who earned our gratitude by beating up ‘The Boss’?”

“Tôi đây”, tôi trả lời. “Hắn ta lại muốn đánh nhau nữa à?”

Người đàn ông cười và nói, “Hắn ta hoành hành khu vực này trong nhiều năm rồi, đến cảnh sát cũng phải sợ gã. Gã từng có thành tích trong chiến tranh”, ông ta nói. “Bây giờ cậu muốn có việc làm không?”

Tôi thận trọng nhìn người đàn ông rồi trả lời. “Có, tôi muốn, nếu nó là hợp pháp.”

“Công việc mà tôi giới thiệu cho cậu hoàn toàn hợp pháp.” Ông ta ngừng lại và cười với tôi. “Cậu thấy đấy, tôi biết tất cả về cậu. Marcel đã được hướng dẫn đưa cậu đến chỗ tôi nhưng anh ta đã chạy mất tiêu rồi. Tôi đã biết về chuyến đi Nga của cậu và hành trình của cậu sau đó. Marcel đã đưa tôi một bức thư của “ông người Mỹ” giới thiệu về cậu và rồi sau đó đã chạy mất khỏi tôi cũng như đã biến khỏi cậu.” Đúng là một mạng lưới, tôi nghĩ. Tuy nhiên, tôi tự an ủi mình, rằng những người châu Âu hành xử theo cách rất khác với chúng tôi ở phương Đông.

“I am,” I replied. “Does he want some more?”

The man laughed and answered, “For years he has terrorized the district, even the police were afraid of him. He did great things in the war, he says. Now, do you want a job?”

I looked the man over carefully before replying. “Yes I do,” I answered, “if it is legitimate!”

“The job I have to offer is very legitimate.” He paused and smiled at me. “You see, I know all about you. Marcel was instructed to bring you to me, but he ran away. I know of your Russian journey and of your travels since. Marcel delivered a letter from ‘the American’ about you and then ran off from me as he did from you.” What a network, I thought. However, I consoled myself, these Europeans did things in a manner different from us of the East.

Người đàn ông ra hiệu cho tôi. “Cho vali lên xe rồi tôi sẽ đưa cậu đi ăn trưa, tại đó chúng ta có thể nói chuyện.” Điều đó thật có ý nghĩa lúc này. Ít nhất nó cũng giúp giải phóng tay tôi khỏi những cái vali nặng khủng khiếp được một lúc. Tôi vui vẻ chất đồ lên cốp xe rồi lên ngồi cạnh ông ta. Ông ta lái xe đến một khách sạn tốt nhất tên là “Coq Hardi” là nơi mà rõ ràng rất quen thuộc với ông ta. Cảm thán trước những yêu cầu khiêm tốn của tôi về nước uống, ông ta đi vào việc chính.

“Có hai người phụ nữ lớn tuổi, một người 84 và người kia 79 tuổi,” ông ta nói với tôi, mắt cẩn thận nhìn xung quanh.” Họ rất muốn thăm con trai của một trong hai người hiện đang sống ở Paris. Nhưng họ sợ bị cướp, người già thường hay sợ vậy, nhất là khi họ đã trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, và họ muốn có một người đàn ông mạnh mẽ có thể bảo vệ được họ. Họ có thể trả hậu hĩnh.”

The man motioned to me. “Put your cases in the car and I will take you off to lunch so that we may talk.” This was sense indeed. At least it would get those horrid cases off my hands for a time. Gladly I put them in the luggage compartment and then got into the seat beside him. He drove off to the best hotel, the Coq Hardi, where he was very obviously well known. With many exclamations at my modest requirements in the refreshment line, he came to the point.

“There are two elderly ladies, one of eighty-four and the other of seventy-nine,” he told me, looking carefully around. “They are most anxious to go to the son of one of them who is living in Paris. They are afraid of bandits—old people have such fears, and they have been through two severe wars—and they want a capable man who is able to protect them. They can pay well.”

Phụ nữ à? Có tuổi à? Vậy là tốt hơn là phụ nữ trẻ, tôi nghĩ. Nhưng tôi vẫn không thích cái ý tưởng này lắm. Rồi tôi nghĩ đến những chiếc vali nặng nề của mình. Tôi đang cân nhắc xem sẽ đến Paris bằng cách nào. “Họ là những người phụ nữ hào phóng”, người đàn ông nói. “Chỉ có một yêu cầu duy nhất, đó là cậu không được chạy quá 35 dặm một giờ.” Thận trọng tôi liếc nhìn xung quanh căn phòng rộng. Có hai bà già đang ngồi cách tôi ba chiếc bàn. “Lạy Phật”, tôi tự nhủ, “Tôi đã làm gì mà phải đến nông nỗi này?” Hình ảnh những chiếc vali lại hiện lên trước mắt tôi. Những chiếc vali nặng nề mà tôi không thể bỏ bớt đi được. Và tiền nữa, có thêm tiền tôi sẽ dễ sống hơn ở Mỹ trong khi đi tìm việc. Tôi thở dài buồn bã và nói, “Ông nói họ trả hậu hĩnh. Vậy xe thì sao? Tôi sẽ không quay lại đây đâu.”

“Đúng thế, anh bạn, họ trả cực kỳ hậu hĩnh. Bà Bá tước là người giàu có. Còn chiếc xe à? Bà ấy sẽ để lại chiếc xe Fiat mới làm quà tặng cho con trai. Nào-đến gặp họ nhé.” Ông ta đứng dậy và đi về phía hai người phụ nữ lớn tuổi. Cúi khom mình thật thấp đến nỗi tôi chợt nhớ đến người hành hương ở Thánh đường ở Lhasa, ông ta giới thiệu tôi. Bà Bá tước nhìn tôi một cách ngạo mạn qua cặp kính cầm tay.

“Vậy là cậu tự tin cho rằng mình có đủ khả năng để lái xe an toàn cho chúng tôi phải không, chàng trai của tôi?”

Women? Old women? Better than young ones, I thought. But I still did not like the idea much. Then I considered my heavy cases. Considered how I was going to get to Paris. “They are generous old ladies,” said the man. “There is only one drawback. You must not exceed thirty-five miles an hour.” Cautiously I glanced round the big room. Two old ladies! Sitting three tables away. “Holy Buddha’s Tooth,” I said to myself. “What have I come to?” A picture of those suitcases rose before my mind’s eye. Heavy cases, cases that I could not lighten. Money, too, the more money I had the easier I would live in America while looking for a job. I sighed dolefully, and said, “They pay well, you said. And how about the car? I am not coming back this way.”

“Yes, my friend, they pay exceedingly well. The Countess is a wealthy woman. The car? She is taking a new Fiat to her son as a gift. Come—meet them.” He rose and led the way to the two old ladies. Bowing so low that I was reminded of a pilgrim in the Holy Way in Lhasa, he introduced me. The Countess looked at me haughtily through her lorgnette.

“So you consider yourself to be capable of driving us safely, my man?”

Tôi nhìn bà ta cũng ngạo mạn không kém và trả lời, “Thưa bà, tôi không phải là ‘chàng trai của bà’. Vấn đề an toàn, tính mạng của tôi cũng đáng quí với tôi như của bà đối với bà vậy. Tôi được đề nghị thảo luận vấn đề lái xe cho bà, nhưng tôi cũng phải thú nhận rằng hiện tôi có chút lưỡng lự.”

Bà  ta lạnh lùng nhìn tôi một lúc lâu, rồi vẻ mặt lạnh lùng như đá giãn ra, bà ta cười phá lên như một cô gái trẻ. “Ái chà!” bà ta thốt lên, “tôi thực sự thích chút cá tính đó. Nó thật hiếm có trong những ngày khó khăn này. Vậy khi nào chúng ta có thể khởi hành?”

“Chúng ta chưa thảo luận về các điều khoản và tôi cũng chưa nhìn thấy xe của bà. Khi nào thì bà muốn đi, nếu tôi đồng ý? Và tại sao bà lại muốn tôi lái cho bà? Rõ ràng là có đầy những người đàn ông Pháp muốn lái cho bà?”

Điều kiện mà bà ta đưa ra rất hào phóng, những lý do bà ta đưa ra rất có lý. “Tôi thích người đàn ông mạnh mẽ, có nghị lực, một người từng trải. Khi nào chúng ta đi à? Ngay khi cậu sẵn sàng.”

I looked at her equally haughtily and replied, “Madam, I am not ‘your man’. As to the question of safety, my life is as valuable to me as yours evidently is to you. I have been asked to discuss this driving matter with you, but I confess that now I have my doubts.”

For long moments she stared icily at me, then the stony rigidity of her jaws relaxed, and she broke into quite a girlish laugh. “Ah!” she exclaimed, “I do like a bit of spirit. It is so rare in these difficult days. When can we start?”

“We have not discussed terms yet, nor have I seen your car. When do you want to go, if I agree? And why do you want me to drive? Surely there are plenty of Frenchmen willing to drive?”

The terms she offered were generous, the reasons she gave were good. “I prefer a bold man, a man of spirit, one who has been places and seen life. When do we leave? As soon as you are ready.”

Tôi cho họ hai ngày, rồi chúng tôi lên đường trên chiếc xe Fiat sang trọng. Chúng tôi thong dong trên con đường đến Reims cách khoảng 80 dặm và buổi đêm chúng tôi nghỉ ngơi ở đó. Chạy nhẩn nha với vận tốc 30 đến 35 dặm một giờ khiến tôi có thời gian ngắm cảnh vùng quê và suy ngẫm, một điều tôi đã không có thời gian để làm trong suốt hành trình của mình. Ngày hôm sau chúng tôi lên đường vào lúc trưa và đến Paris vào giờ uống trà tối. Đến nhà con trai bà ta ở ngoại ô, tôi đỗ xe vào garage, và lại bắt đầu lên đường với hai chiếc vali của mình. Đêm đó tôi ngủ tại một căn nhà trọ rẻ tiền ở Paris. Ngày hôm sau tôi tìm quanh xem có xe đến Cherbourg hoặc Le Havre không.

Two days I gave them, then we started out in a de-luxe Fiat. We cruised along the road to Reims, about eighty miles away, and there we spent the night. Dawdling along at thirty to thirty-five miles an hour gave me time to see the countryside and to collect my thoughts which had hardly time to catch up with my travels. On the following day we started at midday and arrived in Paris in time for tea. At her son’s house in the suburbs I garaged the car, and started off again with my two suitcases. That night I slept in a cheap Paris lodging house. The next day I looked about for anything that would take me to Cherbourg or Le Havre.

Cánh buôn xe là lựa chọn đầu tiên của tôi. Có ai muốn giao xe đến Cherbourg hoặc Le Havre không? Tôi lê chân khắp nơi hỏi hết nhà buôn này đến nhà buôn khác. Nhưng không, chẳng có ai muốn thuê tôi làm dịch vụ. Cuối ngày tôi quay về khu nhà trọ nhỏ bé rẻ tiền và vướng vào một chuyện rắc rối. Một người đàn ông đang được một cảnh sát và một người khách trọ khác dẫn vào. Một chiếc xe đạp bị hỏng, bánh xe trước bị vặn hẳn đi, đang nằm bên vệ đường. Một người đàn ông đi làm về đã ngoái lại nhìn phía sau khiến bánh xe trước bị kẹt vào rãnh nước, còn anh ta thì bị ngã lộn qua tay lái. Mắt cá chân phải của anh ta bị bong gân. “Tôi sẽ bị mất việc mất thôi, Tôi sẽ bị mất việc mất thôi,” anh ta rên rỉ. “Tôi phải đi Caen ngày mai để giao hàng nội thất.”

Caen? Cái tên nghe có vẻ quen quen. Caen? Tôi tra cứu nó. Đó là một thị trấn nhỏ cách Paris khoảng 125 dặm và nằm trên đường đến Cherbourg và cách Cherbourg khoảng 75 dặm. Tôi nghĩ đến điều đó và đi đến bên anh ta. “Tôi muốn đến  Cherbourg hoặc Le Havre,” tôi nói. “Tôi sẽ lái chiếc xe chở hàng thay anh đến đó nếu như có người khác lái về. Anh cứ nhận tiền công của anh. Tôi sẽ rất vui đi thay anh chuyến này.”

Car dealers were my first choice; did anyone want a car delivered in Cherbourg or Le Havre? I trudged miles, from dealer to dealer. No, no one wanted my services. At the end of the day I went back to that cheap little lodging house and walked into a scene of trouble. A man was being carried in by a policeman and another lodger. A wrecked bicycle, the front wheel completely twisted, lay at the side of the road. The man, coming home from work had looked behind over his shoulder, his front wheel had caught in a drain, and he was flung over the handlebars. His right ankle was badly sprained. “I shall lose my job, I shall lose my job,” he was moaning. “I have to go to Caen on a furniture delivery tomorrow.”

Caen? The name was vaguely familiar. Caen? I looked it up. A town some hundred and twenty-five miles from Paris and on the way to Cherbourg, it was roughly seventy-five miles from Cherbourg. I thought it over and went to him. “I want to get to Cherbourg or Le Havre,” I said. “I will go on the furniture van and do your job if there is someone to bring the van back. You can collect the money for it. I will be satisfied with the trip.”

Anh ta nhìn tôi vui sướng. “Được, có thể thu xếp được, bạn tôi là lái xe, chúng ta sẽ chất hàng ở cái nhà to ở đây và chở đến Caen rồi dỡ hàng xuống.” Công việc được thu xếp một cách nhanh chóng. Vậy là ngày mai tôi sắp là trợ lý không công cho một người giao nhận đồ nội thất.

Henri, tay tài xế, nhanh chóng thể hiện sự lười biếng của mình. Về việc này anh ta là bậc thầy. Anh ta tưởng tượng ra bất kỳ lý do gì để thoát khỏi công việc. Vừa khuất bóng ngôi nhà, anh ta đã dừng lại và nói, “Cậu lái đi, tôi mệt rồi.” Anh ta đi xuống phía cuối xe, lăn ra một chiếc ghế thoải mái nhất và ngủ. Còn tôi lái xe.

Đến Caen anh ta nói, “cậu dỡ hàng xuống đi, tôi còn phải đi ký giấy tờ.” Khi anh ta trở lại mọi thứ đã được vận chuyển vào nhà, trừ những đồ cần hai người khiêng. Lượn đi một lần nữa, anh ta trở lại với một người làm vườn, người sẽ giúp tôi mang các thứ vào trong. Anh ta chỉ đạo chúng tôi sao cho không được va vào tường. Dỡ đồ xong tôi trèo lên ghế lái ngồi. Không nghĩ ngợi gì, Henri cũng lên xe ngồi cạnh tôi. Tôi quay xe và chạy đến ga xe lửa mà tôi đã để ý lúc đi đường. Đến đó tôi dừng xe, lấy hai cái vali của mình xuống và nói với Henri. “Bây giờ cậu lái đi!” rồi quay vào trong nhà ga.

He looked at me in joy. “But yes, it can be arranged, my mate drives, we have to load furniture from a big house here and take it to Caen and unload it.” By fast work it was arranged. On the morrow I was going to be a furniture remover’s assistant, unpaid.

Henri, the driver, could easily have obtained a certificate of incompetence. In one thing only was he a past-master. He knew every dodge imaginable to get out of doing work. Just out of sight of the house, he stopped and said, “You drive, I’m tired.” He wandered round to the back, perched on the most comfortable furnishings he could find, and went to sleep. I drove.

At Caen he said, “You start unloading, I must get these papers signed.” Everything except the two-man things were in the house by the time he returned. Slouching off again, he returned with the gardener who helped me carry things in. He “directed” us so that the walls would not be damaged! Unloaded, I climbed into the driver’s seat. Henri unthinkingly climbed up beside me. I turned the van and drove to the railway station which I had noticed some way up the road. There I stopped, took out my two cases, and said to Henri, “Now you drive!” With that I turned and entered the station.

Hai mươi phút nữa sẽ có chuyến tàu đi Cherbourg. Tôi mua vé, ăn tạm cái gì đó và rồi tàu đến. Tàu chạy một mạch đến chập tối. Tới ga thị trấn Cherbourg, tôi gửi lại hai cái vali và lang thang xuống đường bờ sông Entrepot tìm trọ. Cuối cùng tôi cũng đã tìm thấy nó, Nhà nghỉ cho thủy thủ. Tôi bước vào, đặt một phòng rất khiêm tốn, trả tiền trước rồi quay đi lấy vali. Thấm mệt, tôi lên giường rồi ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau, tôi cố gắng giao lưu càng nhiều càng tốt với những thủy thủ đang ở trọ để chờ tàu. Tôi cũng may mắn trong mấy ngày có dịp được tham quan các phòng máy trên tàu đang đậu ở cảng. Trong cả tuần tôi cắm trại ở đại lý tàu biển để tìm một công việc sẽ đưa tôi qua Đại Tây Dương. Các nhân viên xem giấy tờ của tôi, kiểm tra sổ lao động và hỏi, “Vậy là cậu đi nghỉ và tiêu hết tiền rồi à? Và muốn kiếm kèo một chiều? Thôi được, chúng tôi ghi nhận trường hợp của cậu và sẽ báo lại nếu có thông tin.” Tôi lại tiếp xúc thêm với những thuyền viên, học thêm các thuật ngữ và phong cách của họ nhiều nhất có thể. Hơn tất cả, tôi học được một điều, đó là người nào nói càng ít và lắng nghe càng nhiều nhiều, thì sẽ càng được mọi người nhìn nhận là thông minh.

There was a train for Cherbourg in twenty minutes. I bought my ticket, had something to eat, and then the train just pulled in. We rattled off into the growing dusk. At Cherbourg Town Station I left my two cases and wandered off down the Quai de l’Entrepot looking for accommodation. At last I found it, Lodgings for Seamen. I entered, booked a very modest room, paid in advance, and went back for my luggage. Being tired, I went to bed and slept.

In the morning I associated as much as possible with other lodger-seamen who were waiting for ships. By great good fortune I was during the next few days able to visit the engine rooms of vessels at the Port. During the week I haunted the Shipping Agents in search of an appointment which would take me across the Atlantic. The Agents would look at my papers, examine my Discharge Book, and ask, “So you ran out of funds on vacation? And want to work a one-way trick? All right, we will keep you in mind and let you know if anything turns up.” I mixed more and more with seamen, learning their terminology, learning all that I could of personalities. Above all I learned that the less one said and the more one listened, the greater one’s reputation for intelligence became.

Cuối cùng, sau khoảng chục ngày, tôi được gọi lên Văn phòng đại lý tàu biển. Một người đàn ông lùn, mập ngồi bên cạnh viên quản lý. “Cậu có sẵn sàng lên đường đêm nay không, nếu có người thuê?” viên quản lý hỏi tôi.

“Tôi có thể đi ngay bây giờ, thưa ngài.” Tôi trả lời. Ngay lúc đó người đàn ông kia lại gần nhìn tôi. Rồi ông ta bắn ra một loạt các câu hỏi với một chất giọng tôi khó mà hiểu được. “Ngài Sếp đây là người Scotlen, cậu Thợ máy Thứ ba của ông ấy vừa đổ bệnh và đã phải vào viện. Ông ấy muốn cậu đi ra nước ngoài với ông ấy ngay bây giờ,” vị quản lý phiên dịch lại. Rất tập trung, tôi đã hiểu được người đàn ông Scotlen đang nói gì và có thể trả lời các câu hỏi của ông ấy một cách suôn sẻ. Cuối cùng ông ta nói, “Cậu hãy lấy đồ rồi lên tàu.”

Quay trở về nhà nghỉ, tôi nhanh chóng thanh toán tiền phòng, lấy đồ rồi thuê taxi chạy đến bến con tàu. Thật buồn mà nói đó là một con tàu cũ kỹ ọp ẹp , rỉ sét, cần phải sơn lại toàn bộ và quá nhỏ bé để có thể vượt Đai Tây Dương. “Đúng đấy”, một người đàn ông ở bến tàu nói, “con tàu này đã qua thời hoàng kim rồi, biển mà sóng to thì anh chỉ có nôn hết ruột gan ra đấy.”

At last, after some ten days, I was called to a Shipping Agent’s Office. A short, square looking man was sitting with the Agent. “Are you free to sail tonight, if wanted?” asked the Agent.

“I am free to sail now, sir,” I replied. The short, square man was watching me closely. Then he shot out a spate of questions in an accent which I found hard to follow. “The Chief here is a Scotsman, his Third Engineer has fallen sick and has been taken to hospital. He wants you to go aboard with him immediately,” translated the Agent. By great concentration I was able to follow the rest of the Scotsman’s speech and was able to answer his questions satisfactorily. “Get your dunnage,” he said at last, “and come aboard.”

Back at the Lodging House I hastily settled my bill, picked up my cases, and hired a cab to the ship’s side. She was a battered old thing, rust streaked, sadly in need of a coat of paint, and woefully small for Atlantic crossings. “Aye,” said a man on the dockside, “she’s past her prime ye ken, and in a following sea she wallows fit t’ twist yer guts out!”

Tôi bước nhanh lên cầu tầu, để đồ vào khu bếp rồi leo thang sắt xuống phòng máy, nơi Máy trưởng Mac đang đợi. Ông ta giới thiệu máy móc và hài lòng với những câu trả lời của tôi. “OK, chàng trai trẻ,” cuối cùng ông ta nói, “chúng ta ký hợp đồng nhé. Steward sẽ đưa cậu đến phòng của mình.” Chúng tôi vội vàng quay về văn phòng, ký hợp đồng, rồi quay lại tàu. Mac nói: “Chàng trai, lên đường thôi.” Vậy là, có thể lần đầu tiên trong lịch sử, một vị Lạt Ma Tây Tạng, đã đóng giả là người Mỹ, đảm nhiệm vị trí quản lý các thợ máy ở trên tàu. Tám giờ đầu tiên phục vụ trên con tàu đang neo đậu, thực sự là may mắn cho tôi. Việc đọc sách chăm chỉ của tôi bây giờ đã được bổ sung thêm những kinh nghiệm thực tế và tôi hoàn toàn cảm thấy tự tin.

Tiếng chuông ngân vang, tiếng xì xì ồn ào của hơi nước, những thanh sắt sáng loáng di chuyển lên xuống, lên xuống. Những bánh xe quay nhanh dần, nhanh dần đem lại sức sống cho con tàu. Có mùi dầu nóng và hơi nước. Đối với tôi đó là cuộc sống khá kỳ lạ, kỳ lạ như cuộc sống trong tu viện, ở đó Máy trưởng Mac đang đứng vững chãi với chiếc tẩu trên môi, một tay đặt hờ hững lên bánh lái bằng thép sáng lấp lánh. Tiếng chuông lại vang lên và máy truyền tin ra hiệu “lùi”. Chỉ trong nháy mắt Mac đã xoay bánh lái và đánh nhẹ vào cái cần. Tiếng máy tăng lên và toàn bộ thân tàu khẽ rung lên. “Dừng lại!” máy truyền tin ra hiệu, theo sau là tín hiệu “Tốc độ chậm, tiến”. Gần như trước khi Mac kịp xoay bánh lái thì tiếng chuông lại vang lên báo hiệu “Tốc độ tối đa, tiến”. Nhẹ nhàng, con tàu tiến về phía trước. Mac bước về phía tôi nói, “Anh bạn trẻ, cậu đã làm việc suốt tám tiếng rồi đấy. Hãy nghỉ tay đi. Ra nói với cậu bồi tàu là tôi muốn một cốc ca cao.”

I hurried up the gangplank, left my cases by the galley, and clattered down the iron ladder to the engine room where Chief Mac was waiting. He discussed the engines with me and was satisfied with my answers. “Okay, Laddie,” he said at last, “we’ll go an’ sign the Articles. The Steward will show you to your cabin.” We hastened back to the Shipping Office, “signed Articles”, and then returned to the ship. “Ye’re on straight away, Laddie,” said Mac. So, probably for the first time in history, a Tibetan Lama, posing as an American, took his place aboard ship as a watch-keeping engineer. The eight hours I first served, with the ship moored, was a blessing to me. My intensive reading was now supplemented by some practical experience, and I felt fully confident.

With the clanging of bells, and the noisy hissing of steam, the shining steel rods rose and fell, rose and fell. Wheels turned faster and faster, bringing the ship to life. There was the smell of heated oil and steam. To me this was a strange life, as strange as life in a lamasery would be to Chief Mac who now stood so stolidly, pipe between his teeth, one hand resting lightly on a glittering steel control wheel. The bell clanged again and the telegraph dial indicated “half astern”. With scarcely a glance Mac spun the wheel and flicked a lever. The thudding of the engine increased and the whole hull quivered lightly. “Stop!” said the telegraph dial, followed quickly by “half-ahead”. Almost before Mac could spin the controls, the bell clanged again for “full-ahead”. Smoothly the ship forged ahead. Mac stepped forward to me, “Ah, Laddie,” he said, “ye’ve done yer eight hours. Be off with ye. Tell the Steward Ah want ma cocoa as ye step by.”

Ca cao, đồ ăn! Tôi chợt nhớ rằng mình đã không ăn gì trong mười hai giờ qua. Tôi vội leo lên thang sắt lên sàn tàu rồi ra ngoài boong. Nước bắn tung trên mũi tàu, con tàu chúi xuống như thể chúng tôi đang đâm thẳng xuống biển. Phía sau, ánh đèn trên bờ biển Pháp đang mờ dần trong đêm. Một giọng nói the thé phía sau đưa tôi trở về hiện tại: “Cậu là ai vậy, anh bạn?”. Tôi quay lại và thấy Thuyền phó đang đứng cạnh tôi.

“Tôi là Thợ Máy Thứ Ba, thưa ông,” tôi trả lời.

“Vậy tại sao cậu không mặc đồng phục?”

“Thưa ông. Tôi là thợ máy thay thế, mới lên tàu ở Cherbourg và vào làm việc ngay.”

“Hừm,” vị Thuyền phó nói. “Đi mặc đồng phục vào ngay, ở đây chúng ta phải quy củ.” Nói xong ông ta đi khỏi với dáng vẻ như là thuyền phó của một con tàu hoàng gia chứ không phải là của một con tàu cũ nát rỉ sắt như thế này.

Cocoa, food! It reminded me that I had not eaten for more than twelve hours. Hastily I climbed the steel ladders, reaching the deck and the open air. Spray was breaking over the bows, and the ship plunged somewhat as we headed out into open sea. Behind me the lights of the French coast were fading into the darkness. A sharp voice behind me brought me back to the present: “Who are you, my man?” I turned and saw the First Mate standing beside me.

“Third Engineer, sir,” I answered.

“Then why are you not in uniform?”

“I am a relief engineer, sir, joined at Cherbourg and went on watch immediately.”

“Hrrumph,” said the Mate. “Get into uniform right away, we must have discipline here.” With that he stalked off as if he were First Mate on one of the Queens instead of just on a dirty, rusty old tramp ship.

Ở cửa bếp ăn trên tàu, tôi nói lại lệnh của Máy trưởng Mac cho nhân viên. “Cậu là Thợ Máy Thứ Ba mới à?” một giọng nói cất lên phía sau tôi. Tôi quay lại và thấy Thợ Máy Thứ Hai vừa bước vào. “Vâng, thưa ông,” tôi trả lời. “Tôi đang đi lấy đồng phục và sau đó muốn ăn một chút.”

Anh ta gật gù, “Tôi sẽ đi cùng cậu. Thuyền phó vừa phê bình cậu không mặc đồng phục. Ông ấy nghĩ cậu đi lậu vé. Tôi vừa nói với ông ấy là cậu vừa được nhận vào và phải làm việc ngay.” Anh ta đi cùng và chỉ cho tôi thấy phòng tôi chỉ cách phòng anh ta một chút. “Hãy gọi tôi khi nào cậu xong nhé,” anh ta nói, “rồi chúng ta sẽ đi ăn tối”.

Tôi phải sửa bộ đồng phục để vừa với người mình. Bây giờ tôi mặc trông như sĩ quan hải quân, tôi tự hỏi không biết Lạt Ma Minh Gia sẽ nói gì nếu thấy mình. Tôi lặng lẽ cười thầm và nghĩ không biết sẽ cảm thấy thế nào nếu xuất hiện ở Lhasa trong trang phục này. Tôi gọi người Thợ Máy Thứ Hai rồi cùng quay lại phòng sinh hoạt chung để ăn tối. Vị thuyền trưởng đã ngồi ở bàn của ông ấy, cau có nhìn chúng tôi qua đôi mắt núp dưới cặp lông mày rậm rạp.

At the galley door I gave Chief Mac’s order. “You the new Third?” said a voice behind me. I turned and saw the Second Engineer who had just entered. “Yes, sir,” I replied. “I am just on my way to get into uniform and then I want some food.”

He nodded, “I will come along with you. The Mate has just complained that you are out of uniform. Said he thought you were a stowaway. Told him you had just joined and had gone straight on duty.” He walked along with me and pointed out that my cabin was just across the alley from his. “Call when you are ready,” he said, “and we will go for dinner.”

I had had to have the uniforms altered to fit me. Now as I stood dressed as a Merchant Marine Officer I wondered what my Guide the Lama Mingyar Dondup would say if he could see me. It made me chuckle to think what a sensation I would be in Lhasa if I appeared there dressed thus. Calling for the Second Engineer, we walked together back to the Officers’ Mess for dinner. The Captain, already at his table, gave us a scowling glance from beneath his bushy eyebrows.

“Khiếp quá!” Thợ Máy Thứ Hai nói khi món đầu tiên được mang ra. “Vẫn cái thứ cám lợn này suốt ngày, mình không bao giờ được ăn cái gì khác à?”

“Thưa ngài,” Giọng của Thuyền trưởng gần như đánh bật chúng tôi ra khỏi ghế ngồi. “Thưa ngài! Ngài suốt ngày chỉ kêu ca phàn nàn, ngài nên chuyển sang tàu khác khi chúng ta đến New York.”

Có ai đó cười khẩy và rồi chuyển sang ho ngượng ngùng khi thuyền trưởng nhìn anh ta vẻ tức giận. Bữa ăn còn lại trong im lặng cho đến khi Thuyền trưởng ăn xong trước và rời đi. “Con tàu địa ngục,” một thủy thủ nói. “Ông già đó đã từng là Thuyền Phó trong Hải quân Anh Quốc trong thời gian chiến tranh. Giờ ông ta đã làm ở trên tàu vận tải mà không thể bỏ cái tính hách dịch đó được.”

“Các cậu ngốc lắm, lúc nào cũng kêu ca,” một giọng Mỹ vang lên.

“Không phải,” Thợ Máy Thứ Hai thì thầm với tôi, “ông ấy không phải là người Mỹ, chỉ là người Puerto Rico đã xem quá nhiều phim ảnh.”

“Faugh!” said the Second Engineer, when the first course was placed before him. “Same old pig-swill, don’t you ever get a change round here?”

“Mister!” The Captain’s voice nearly lifted us from our seats. “Mister! You are always complaining, you should change to another ship when we get to New York.”

Somebody started to snigger, a snigger which changed to an embarrassed cough as the Captain looked angrily in his direction. The rest of the meal was in silence until the Captain, finished before us, left. “Hell ship,” said one officer. “The Old Man was a Jimmy-the-One (First Mate) in the British Navy during the war. He was on a transport and he cannot get it out of his system.”

“Aw, you guys is nuts, always bellyachin’,” said another voice.

“No,” whispered the Second to me, “he is not American, just a Puerto Rican who has seen too many movies.”

Tôi mệt mỏi đi ra boong tàu trước khi quay về. Bên mạn khuất gió có mấy người đang hất tro nóng xuống biển và giải phóng tàu khỏi đống rác tích tụ trong thời gian neo đậu ở cảng. Con tàu lắc lư một chút, và tôi đi về phòng mình. Bức tường được dán đầy ảnh các cô gái người mẫu, tôi xé bỏ và vứt chúng vào sọt giấy vụn. Khi cởi quần áo rồi lăn ra giường tôi mới biết rằng mình đã có thể làm được việc này.

“Đến giờ rồi!” Một giọng nói vang lên, rồi một bàn tay mở cửa phòng và ấn nhẹ vào công tắc đèn. “Đã đến giờ rồi à?” tôi thầm nghĩ. Sao nhanh thế nhỉ, tôi dường như vừa mới đi ngủ. Tôi liếc nhìn đồng hồ và lăn ra khỏi giường. Rửa mặt, mặc quần áo, tôi đi ra ăn sáng. Lúc này phòng ăn vắng vẻ, tôi ngồi ăn một mình, vội vàng. Nhìn thoáng qua những vệt ánh sáng chiếu từ bên ngoài, tôi vội leo thang sắt xuống phòng máy. “Cậu đúng giờ đấy,” Thợ Máy Thứ Hai nói. “Tôi thích điều đó. Không có gì để báo cáo ngoại trừ có hai cục mỡ trong đường ống. Thôi, tôi đi đây” anh ta vừa nói vừa ngáp rõ to.

I was tired, and went out on deck before turning in. Just off to the lee side the men were dumping the hot ashes in the sea and getting rid of the accumulated garbage of a stay in port. The ship was tossing a bit, and I walked off to my cabin. The walls were plastered with pin-up girls, which I ripped off and tossed into the waste paper basket. As I undressed and tumbled into my bunk I knew that I would be able to carry out my duties.

“Time up!” yelled a voice, and a hand opened the door and flicked on the light switch. “Time already?” I thought to myself. Why, it seemed that I had barely got to sleep. I glanced at my watch, and rolled out. A wash, dressed, and I was on my way to breakfast. The Mess was deserted now, and I ate alone and quickly. With a glance outside at the first streaks of light across the side, I hurried down the steel ladders to the engine room. “You’re punctual,” said the Second Engineer. “That I like. Nothing to report except that there are two greasers in the tunnel. Oh well, I’m going,” he said, yawning heavily.

Tiếng động cơ chạy rầm rầm, nhịp nhàng, đơn điệu, mỗi vòng quay của nó đều mang chúng tôi lại gần New York hơn. Ngoài kia trong hầm lò, nhóm người da đen đang giữ lửa, cào bới đám than cố để giữ kim chỉ hơi nước không chạm đến vạch đỏ. Từ trong hầm lò nơi đặt trục chân vịt có hai người đàn ông nhễ nhại mồ hôi và bám đầy bụi đất xuất hiện. Vận may luôn ở bên tôi, nhiệt độ bình thường, không có gì phải báo cáo. Những tờ giấy bụi bặm được dúi vào tay tôi, đó là lượng than tiêu thụ, hàm lượng CO2 và những số liệu khác. Tôi ký, ngồi xuống, rồi viết vào nhật ký phòng máy cho ca trực của mình. “Máy hoạt động thế nào cậu?” Mac hỏi khi đang bước xuống thang.

“Tốt ạ.” Tôi trả lời. “Mọi thứ vẫn bình thường.”

“Tốt,” Mac nói. “Giá mà tôi có thể làm cho cái ông Thuyền trưởng khùng kia bình thường trở lại. Ông ấy nói chúng ta đã sử dụng quá nhiều than ở chuyến trước. Tôi phải làm gì đây? Bảo ông ấy tự chèo thuyền à.” Ông ta thở dài, đeo chiếc kính gọng sắt, đọc nhật ký và ký vào đó.

The engines thudded on rhythmically, monotonously, every revolution bringing us nearer to New York. Outside in the stokehold the “black-gang” tended their fires, raking and slicing, keeping the head of steam just short of the red line. From out of the tunnel housing the propeller shaft two sweat-stained and dirty men emerged. Fortune was with me, bearing temperatures were normal, there was nothing to report. Grubby papers were shoved at me, coal consumed, CO2 percentages, and other data. I signed, sat down, and wrote up the Engine Room Log for my watch. “How she doin’ Mister?” said Mac as he came clattering down the companionway.

“All right,” I answered. “Everything normal.”

“Good,” said Mac. “I wish I could make that *** Captain normal. He says we used too much coal last trip. What should I do? Tell him to row the ship. He sighed, put on steel-framed glasses, read the Log and signed it.

Con tàu cứ thế tiến lên vượt qua Đại Tây Dương hung dữ. Ngày lại ngày cùng một sự đơn điệu. Đây không phải là con tàu vui vẻ, nhóm Thủy thủ boong thì nhạo báng đám Thợ máy. Thuyền trưởng thì mù mờ nghĩ rằng ông ta đang chỉ huy một con tàu hàng xuyên Đại Tây Dương chứ không phải là một cái bồn tắm cũ kỹ. Thậm chí thời tiết cũng rất xấu. Một đêm tôi không ngủ được vì say sóng, tôi lên boong tàu. Gió rít lên đi qua những trang thiết bị trên tàu như một bài ca não nề buộc tôi nhớ lại thời gian khi đứng trên nóc nhà của Chakpori với Lạt Ma Minh Gia và Jigme, và hòa mình vào vũ trụ.

Ở giữa tàu bên khuất gió có người đứng một mình, tay bám chặt vào lan can một cách tuyệt vọng và cứ chồm lên chồm xuống, như “suýt nôn cả tim ra ngoài” như anh ta sau này kể lại. Tôi hoàn toàn không bị say sóng, và thấy khá thú vị khi chứng kiến cảnh những người làm thủy thủ cả đời bị vật vã như thế. Ánh sáng của chiếc la bàn trên đài chỉ huy hắt lên tia sáng yếu ớt. Trong cabin thuyền trưởng tối om. Sóng đánh ào lên mũi tàu và quét qua chỗ tôi đứng. Con tàu chòng chành lắc lư như phát điên, làm các cột buồm vẽ lên những đường cong điên loạn trên bầu trời đêm. Xa xa phía bên mạn phải có một con tàu khách vượt Đại Tây Dương bật đèn sáng rực đi về phía chúng tôi, xoắn vặn trong trên biển chắc hẳn khiến các hành khách trên tàu đó phải khó chịu. Thuận gió, con tàu lướt nhẹ nhàng, cấu trúc đồ sộ của nó trông như một cánh buồm. “Nó sẽ sớm đến Southampton thôi,” tôi thầm nghĩ và quay về dưới tàu.

The ship forged on through the rough Atlantic. Day followed day in monotonous sameness. This was not a happy ship, the Deck Officers sneered at the Engine staff. The Captain was a gloomy man who thought he commanded an Atlantic liner instead of a wallowing old tub of a freighter. Even the weather was bad. One night I could not sleep for the heaving and tossing, and I went on deck. The wind was howling through the rigging in a depressing threnody, reminding me irresistibly of the time when I had stood upon the roof of the Chakpori with the Lama Mingyar Dondup and Jigme, and went off into the astral. (26/6) At the lee side of the ship, amidships, a lonely figure clutched desperately at the rail and heaved and heaved, almost “bringing his heart up”, as he later said. I was quite immune to seasickness, and found considerable amusement at the sight of life-long sailors being bowled over like this. The binnacle light in the bridge cast the faintest glow upwards. In the Captain’s cabin all was dark. Spray rushed over the bows and swept aft to where I was standing. The ship rolled and tossed like a thing demented, with the masts describing a crazy arc across the night sky. Far off to starboard an Atlantic liner, all lights blazing, came towards us, corkscrewing with a motion which must have left the passengers unhappy. With a following wind she was making good time, her immense superstructure acting as a sail. “She’ll soon be in Southampton Roads,” I thought to myself as I turned to go below.

Vào đỉnh điểm của cơn bão, chiếc bơm nước đáy tàu bị kẹt do một cái gì đó bị bật ra khi tàu bị lắc mạnh, và tôi phải xuống ngay để giám sát những người đang làm việc dưới đó. Tiếng ồn thật khủng khiếp, trục chân vịt rung lên bần bật, cánh chân vịt quay điên cuồng mỗi khi đuôi tàu chổng lên trên không và rung lắc mạnh khi đuôi tàu chìm xuống nước trước khi chồm lên đỉnh con sóng tiếp theo.

Trong hầm tàu, các thủy thủ đang sốt sắng làm việc để khắc phục một thùng máy to đang bị gãy rời ra. Tôi thấy thật lạ là dù có quá nhiều bất đồng trên con tàu này, nhưng tất cả chúng tôi đều đang làm việc hết sức mình. Nếu có người phải làm việc với máy móc trong hầm tàu trong khi người khác thì đứng trên boong, hay trên đài chỉ huy để quan sát nước chạy dọc mạn tàu thì có vấn đề gì?

Công việc? Có đầy việc phải làm ở đây, đại tu máy bơm, sắp xếp lại những thùng hàng phải đóng gói lại, toàn bộ hệ thống phải được kiểm tra cẩn thận, và hệ thống tời phải được bảo dưỡng để chuẩn bị cho tàu cập cảng New York.

At the height of the storm one of the bilge pump intakes clogged on something dislodged by the violence of the ship’s motion, and I had to go right down in the bilge and supervise the men who were working on it. The noise was terrific, the propeller shaft was vibrating as the propeller alternately raced madly when the ship’s stern was in the air, and juddered when the stern dipped in the water before bouncing to the crest of the next wave.

In the holds the deckmen were working feverishly securing a heavy crate of machinery which had broken loose. It seemed to me so strange that there was so much friction on this ship, we were all doing our jobs to the best of our abilities. What did it matter if one man worked among machines in the bowels of the ship, while another walked the deck, or stood in the Docking Bridge to watch the water slide along the side of the ship?

Work? There was plenty of work here, pumps to be overhauled, stuffing boxes to be repacked, glands to be inspected and checked, and the lines to the winches overhauled in preparation for docking at New York.

Bản thân Máy trưởng Mac là một thợ máy giỏi và cũng là người công bằng. Ông yêu quí máy móc ở đây như người mẹ yêu quí đứa con đầu lòng. Một chiều tôi đang ngồi trên lưới sắt chờ đến ca của mình. Những đám mây của một cơn bão nhỏ lướt nhanh trên bầu trời, báo hiệu sắp có mưa to. Tôi ngồi bên trong mái quạt thông gió, đọc sách. Bất chợt một bàn tay nặng nề đạt lên vai tôi, và một giọng nói Scotlen vang lên, “Này, chàng trai trẻ, tôi tự hỏi không biết cậu làm gì với thời gian rỗi rãi. Cái gì đây vậy? Tiểu thuyết Viễn Tây à? Hay là tạp chí con heo?”

Mỉm cười, tôi đưa cuốn sách cho ông ấy. “Máy móc hàng hải” tôi nói. “Nó hấp dẫn tôi hơn tiểu thuyết Viễn Tây – hoặc là tình dục!”

Ông gầm gừ với vẻ đồng tình khi liếc qua cuốn sách trước khi trả lại cho tôi. “Chàng trai, cậu khá lắm”, ông ta nói. “Cậu sẽ trở thành thợ máy giỏi và sẽ sớm thành máy trưởng nếu cậu thực sự gắn bó với công việc này.” Đút chiếc tẩu cũ kỹ mòn vẹt vào mồm, ông ta gật đầu thân thiện với tôi và nói, “Đến ca của cậu rồi đấy, chàng trai.”

Chief Mac himself was a good worker and a fair man. He loved his engines as a mother loves her first born child. One afternoon I was sitting on a grating waiting to go on watch. Light storm-clouds scudded across the sky, and there was a hint of the heavy rain which was to follow. I sat in the shelter of a ventilator, reading. Suddenly a heavy hand descended upon my shoulder, and a booming Scottish voice said, “Ah! Laddie, I wondered what ye did with yer spare time. What is it? Westerns? Sex?”

Smilingly I passed the book to him. “Marine engines,” I said. “More interesting to me than Westerns—or Sex!”

He grunted approvingly as he glanced through the book before passing it back to me. “Guid fer ye, Laddie,” he said. “We’ll make an engineer of ye yet, and ye’ll soon be a Chief yer’sel if ye stick to that.” Pushing his battered old pipe back in his mouth, he nodded amiably to me and said, “Ye can take over now, Laddie.”

Con tàu trở nên ồn ào. “Thuyền trưởng đi kiểm tra,” Thợ Máy Thứ Hai thì thầm với tôi. “Ông ta kỳ cục lắm, cứ nghĩ là mình đang trên một con tàu lớn, đi kiểm tra toàn bộ con tàu, tất cả các phòng và mọi chỗ – chuyến đi nào cũng vậy.”

Tôi đứng bên cạnh giường khi Thuyền trưởng vào, theo sau có Thuyền phó và người thủ quỹ tàu. “Hừm,” Người đàn ông Vĩ đại lẩm bẩm khinh khỉnh nhìn quanh. “Không có ảnh người đẹp à?” ông ta nói. “Tôi cứ tưởng tất cả người Mỹ đều thích chân dài!” Ông ta liếc nhìn vào những cuốn sách kỹ thuật của tôi và mỉm cười hoài nghi. “Liệu có cuốn tiểu thuyết nào ở bên trong cái vỏ kỹ thuật này không?” ông ta hỏi. Không nói một lời, tôi bước lên và giở ngẫu nhiên các cuốn sách cho ông ta xem. Vị thuyền trưởng quệt ngón tay vào chỗ này chỗ kia, vào lan can, cạnh giường và phía trên khung cửa. Nhìn vào những ngón tay còn sạch của mình, ông ta gật đầu ngao ngán bước ra. Thợ Máy Thứ Hai mỉm cười tỏ vẻ hiểu biết, “Lần này cậu đã thắng ông ta rồi đấy, ông là một tên khốn tọc mạch!”

The ship was abustle. “Captain’s Inspection, Third,” whispered the Second. “He’s a crazy guy, thinks he’s on a liner, inspects the whole ship—cabins and all—every trip.”

I stood beside my bunk as the Captain entered, followed by the First Mate and the Purser. “Hum,” muttered the Great Man as he glanced disdainfully around. “No pin-Ups?” he said. “I thought all Americans were leg-crazy!” He glanced at my engineering books, and a cynical smile played round his mouth. “Is there a novel inside that technical cover?” he asked. Without a word I stepped forward and opened every book at random. The Captain rubbed a finger here and there, on a rail, beneath the bunk, and on top of the door ledge. Looking at his still clean fingertips, he nodded in disappointment and stalked out. The Second smiled knowingly, “You got him that time, he’s a nosey ***!”

Một bầu không khí chờ đợi căng thẳng. Cánh đàn ông bước ra ngoài, mặc quần áo, chải chuốt bản thân, cố gắng nghĩ xem sẽ đưa hàng của mình qua Hải quan thế nào. Họ nói chuyện về gia đình, về bạn gái. Lưỡi tất cả mọi người giờ như được nới ra, không còn sự dè dặt. Chẳng mấy chốc họ sẽ lên bờ đi thăm những người bạn và những người thân yêu. Chỉ có mỗi tôi là không biết đi đâu, không có ai để kể chuyện. Chỉ mình tôi sẽ bước đi trên bờ biển New York như một người xa lạ, không bạn bè, không ai biết.

Trên nền trời là những tòa tháp cao của Manhattan lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời đã được gột rửa bởi trận mưa bão vừa qua. Những ô cửa sổ độc lập đang phản chiếu lại những tia sáng mặt trời vàng chóe. Bức tượng Nữ thần tự do – với lưng quay về nước Mỹ – đang lờ mờ hiện ra trước mắt chúng tôi. “Tiến về phía trước, giảm tốc độ,” máy truyền lệnh phát tín hiệu. Con tàu chạy chậm dần, và những con sóng nhỏ dịu đi vì con tàu đã hết đà. “Dừng lại”, máy truyền lệnh lại hiển thị khi con tàu từ từ cập bến. Dây được quăng ra và tóm lại, và con tàu một lần nữa được neo lại vào đất liền. “Tắt máy” máy truyền lệnh ra hiệu. Không còn hơi chạy trong đường ống, chỉ còn tiếng xì xì. Cái trục pít tông khổng lồ đã dừng lại, con tàu đắm mình nhẹ nhàng tại nơi neo đậu, chỉ bị lắc lư nhẹ bởi những tàu khác đi qua. Chúng tôi đóng van, đưa các thiết bị phụ trợ vào làm việc, đó là những chiếc thang nâng và tời.

There was an air of tense expectancy. Men were getting out their shore-going togs, cleaning themselves up, trying to decide how to get their parcels through Customs. Men were talking of their families, of their girl-friends. All tongues were loosened, all restraints thrown off. Soon they would be ashore to go to friends and loved ones. Only I had nowhere to go, no one of whom to talk. Only I would walk ashore at New York as a stranger, friendless, unknown.

On the skyline stood the tall towers of Manhattan glistening in the sunlight after being washed by the rainstorm. Isolated windows threw back the rays of the sun after turning them to burnished gold. The Statue of Liberty—I noticed with her back to America—loomed up before us. “Half ahead,” clanged the telegraph. The ship slowed, and the little bow wave died as our momentum dropped. “Stop,” said the telegraph as we nosed to our berth. Lines were thrown, and caught, and the ship was once more tied to the land. “Finished with engines,” said the telegraph. Steam died in the pipes with wailing hisses. The giant piston rods were stilled, and the ship wallowed gently at her moorings, but faintly disturbed by the wake of passing ships. We worked turning valves, bringing the auxiliary equipment to life, hoists and winches.

Trên boong, mọi người vội vã đi quanh, gõ vào các chốt cửa, kéo bạt mở cửa hầm. Nhân viên đại lý tàu biển lên tàu, theo sau là đội ngũ bốc vác. Chẳng mấy chốc con tàu ồn ào như nhà thương điên với những giọng ra lệnh khàn khàn vang lên. Những chiếc cần cẩu kêu kin kít, tiếng bước chân nặng nề chạy liên tục. Phó giám đốc y tế cảng chăm chú đọc hồ sơ thủy thủ đoàn. Cảnh sát lên tàu và lôi đi một người khốn khổ lậu vé mà chúng tôi ở phòng máy không biết gì cả. Người đàn ông xui xẻo này bị còng tay và bị hai viên cảnh sát lực lưỡng thô bạo áp giải ra chiếc xe cảnh sát đang chờ bên ngoài, đẩy anh ta vào trong xe.

Chúng tôi xếp hàng, nhận tiền công, ký vào cuốn biên nhận rồi đi ra lấy sổ lao động. Sếp Mac ghi vào sổ của tôi, ”Hoàn thành suất sắc nhiệm vụ. Làm tốt ở tất cả các khâu. Sẽ tiếp nhận làm thuyền viên bất cứ lúc nào.” ”Thật tiếc.” tôi nghĩ,” tôi phải bỏ đi tất cả những thứ này vì tôi không thể tiếp tục.”

Up on deck men rushed round knocking the wedges off the hatch covers, dragging off tarpaulins, opening the holds. The Ship’s Agents came aboard, followed by the stevedores. Soon the ship was a madhouse of raucous voices bellowing commands. The cranes rattled and chuffed, and there was the continuous scuffle of heavy feet. The Port Medical Officer’s Deputy pored over the crew records. Police came aboard and took off a wretched stowaway of whom we in the Engine Room had heard nothing. The unfortunate man was led off in handcuffs, escorted by two burly, rough-looking policemen who led him to a waiting Police car and urgently pushed him inside.

We lined up, collected our money, signed for it and went on to get our Discharge Books. Chief Mac had written in mine, “Great devotion to duty. Efficient in all branches. Shall welcome him as a shipmate at any time.” “What a pity,” I thought, “that I have to scrap all this, that I cannot continue.”

Tôi quay lại phòng, xếp gọn mọi thứ, gấp chăn mền gọn gàng sang bên cạnh. Tôi đóng gói lại các cuốn sách, mặc đồ bình thường và cho đồ vào hai chiếc vali. Nhìn xung quanh lần cuối, tôi bước ra và đóng lại cánh cửa phía sau tôi.

“Cậu có thay đổi ý định không?” Máy trưởng Mac hỏi. “Cậu là một thợ máy tốt, và tôi sẽ rất vui với việc nâng hạng cậu lên Thợ Máy Thứ Hai sau chuyến về.”

“Không, thưa Sếp.” tôi trả lời, “Tôi muốn đi đây đó một chút để có thêm trải nghiệm.”

“Trải nghiệm cũng rất hay đấy. Chúc cậu may mắn!”

Tôi bước xuống cầu tàu mang theo 2 chiếc vali đi dọc theo sườn tàu đang neo đậu. Lại một cuộc sống mới đang ở phía trước. Tôi thấy ghét biết bao việc cứ phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác, sự thiếu ổn định, việc không có ai để có thể gọi là “bạn”.

“Nơi sinh của anh?” viên Hải quan hỏi.

“Pasadena,” tôi trả lời và nghĩ đến giấy tờ đang cầm trên tay. “Anh có hàng hóa gì không?” anh ta hỏi.

“Không có gì.” tôi nói. Anh ta nhìn tôi sắc lẹm, “Ok, mở ra,” anh ta hằm hè. Đặt chiếc vali trước mặt anh ta, tôi mở ra. Anh ta lục lọi khắp nơi, đổ các thứ ra ngoài và kiểm tra phần lót vali. “Đóng gói vào.” Anh ta nói rồi bỏ đi để mặc tôi ở đó.

I went back to my cabin and tidied up, folding the blankets and putting them aside. Packing my books, dressing in civilian clothes, and placing my gear in the two suitcases. With a last look round I went out and shut the door behind me.

“Will ye no’ change yer mind?” said Chief Mac. “Yer a guid shipmate, and I’d be glad t’ put ye in fer Second after this round trip.”

“No, Chief,” I answered, “I want to move around a bit and get more experience.”

“Experience is a wunnerful thing. Guid luck t’ ye!”

I walked down the gangplank carrying my two cases. Off by the side of the moored ships. Another life before me; how I hated all this moving round, all this uncertainty, with no one to call “friend”.

“Where ya born?” said the Customs man.

“Pasadena,” I replied, thinking of the papers in my hand. “What ya got?” he demanded.

“Nothing,” I told him. He looked at me sharply, “Okay, open up,” he snarled. Placing my cases before him I opened them. He rummaged and rummaged, then tipped everything out and examined the linings. “Pack ’em up,” he said as he walked away and left me.

Tôi đóng vali lại và bước ra cổng. Bên ngoài tiếng xe chạy ầm ĩ điên loạn, tôi dừng lại để thở và nghỉ ngơi lấy sức một chút. “Anh có vấn đề gì thế? Đây là New York!”  Một giọng nói thô thiển ở ngay phía sau tôi cất lên. Tôi quay lại thấy một viên cảnh sát đang lườm mình.

“Đứng lại cũng là phạm lỗi à?” Tôi trả lời anh ta.

“Này, bước ngay!” Anh ta gầm lên.

Tôi từ từ xách vali lên và đi lang thang trên đường, chiêm ngưỡng các tòa nhà như những ngọn núi bằng kim loại do con người tạo nên ở Manhattan. Tôi chưa bao giờ thấy cô độc như bây giờ, hoàn toàn xa lạ với thế giới này. Phía sau tôi, cảnh sát lại đang quát những người xấu số khác “Không ai làm việc này ở New York cả. Biến!”. Mọi người trông căng thẳng, khó chịu. Xe cộ phóng đi với tốc độ điên cuồng. Có tiếng rít liên tục của lốp xe và mùi cao su cháy.

I packed my cases again, and walked out of the gates. Outside, in the mad roar of traffic, I stopped a moment to get my bearings and my breath. “Wassamadderwidyabud? Disisnooyoik!” said a crude voice behind me. Turning, I saw a policeman glaring at me.

“Any crime in stopping?” I answered him.

“Awgitmovin!” he bellowed.

Slowly I picked up my suitcases and wandered up the road, marveling at the man-made metal mountains of Manhattan, I had never felt lonelier than now, completely alien to this part of the world. Behind me the roaring cop bellowed at some other unfortunate, “Wedontdodisinnooyoik. Git!” The people looked harassed, strained. Motor vehicles zoomed by at crazy speeds. There was the continual squeal of tires and the smell of burning rubber.

Tôi vẫn đi tiếp. Cuối cùng tôi thấy trước mặt biển hiệu “Nhà nghỉ cho thuyền viên”, tôi vui mừng bước vào cửa. “Ký vào,” một giọng lạnh lùng vô cảm nói. Tôi cẩn thận điền vào tờ giấy người ta quăng mạnh trước mặt, rồi đưa lại cho họ với một câu cám ơn. “Không cần phải cám ơn tôi,” giọng lạnh lùng nói, “Tôi không làm phúc cho anh, đây là công việc của tôi.” Tôi đứng chờ. “Anh còn chờ gì nữa?” vẫn giọng nói đó. “Phòng 303, trên giấy và trên chìa khóa đều ghi như vậy.”

Tôi quay đi. Sao có thể tranh luận với một người máy như vậy được. Tôi đi về phía một người đàn ông, rõ ràng là một thủy thủ, đang ngồi trên ghế đọc cuốn tạp chí cho đàn ông. “Đàn ông như chúng ta có vẻ luôn làm Jenny khó chịu nhỉ,” anh ta nói trước khi tôi kịp kên tiếng. “Phòng cậu số bao nhiêu?”

“303” tôi đau khổ trả lời. “Lần đầu tiên tôi đến đây.”

“Lên tầng ba” anh ta nói. “Nó là phòng thứ 3 phía bên tay phải.” Cám ơn anh ta, tôi đi đến chỗ cánh cửa có ghi “thang máy”. “Ấn vào chiếc nút ấy,” người đàn ông ngồi trên ghế nói. Tôi ấn nút, một lát sau cánh cửa bật mở, một cậu bé da đen vẫy tôi vào. “Phòng số mấy ạ?” cậu ta hỏi.

“303” tôi trả lời. Cậu ta ấn nút, khoang thang máy nhanh chóng chuyển động đi lên rồi đột ngột dừng lại. Cậu bé da đen mở cửa và nói, “Đã đến rồi ạ,” Cánh cửa đóng lại phía sau, và tôi lại chỉ còn lại một mình.

I walked on. At last I saw before me the sign “Seamen’s Hostel,” and I gratefully turned in at the door. “Sign,” said a cold, impersonal voice. Carefully I completed the form thrust roughly at me, and handed it back with a “thank you”. “Don’t thank me,” said the cold voice, “I am not doing you any favor, this is my job.” I stood waiting. “Well, what is it?” said the voice. “Room three-oh-three, it said so on the form and on the key tag.”

I turned away. How could one argue with a human automaton. I walked over to a man, obviously a sailor, sitting in a chair looking at a man’s magazine. “We guys sure get in Jenny’s hair,” he said before I could speak. “What is your room number?”

“Three-oh-three,” I answered miserably. “My first time here.”

“Three floors up,” he said. “It’ll be the third room to starboard.” Thanking him, I walked over to a door marked “Elevator.” “Go and press the button,” said the man in the chair. I did so, and after some moments the door was flung open, and a Negro boy beckoned me in. “Number?” he asked.

“Three-oh-three,” I replied. He pressed a button and the little room moved swiftly up and came to a sudden halt. The Negro boy opened the door and said, “Toid.” The door closed behind me, and I was alone once more.

Lóng ngóng, tôi nhìn lại móc treo chìa khóa để xem số phòng rồi đi dọc hành lang tìm phòng. Phải rồi, nó đây, số 303 nằm trên một tấm ván nhỏ trên cánh cửa thứ ba bên phải thang máy. Tôi đút chìa khóa vào và xoay. Cửa mở ra, tôi bước vào phòng. Một căn phòng khá nhỏ, tôi nhận xét, nhỏ giống như cabin ở trên tàu. Ngay khi đóng cánh cửa tôi thấy tờ giấy in một loạt các qui tắc. Cẩn thận đọc các qui tắc tôi thấy rằng mình chỉ có thể ở đây 24 giờ trừ khi tôi thực sự đang làm trên một con tàu, sau đó thời gian tối đa một người được phép ở đây là 48 giờ. Có mỗi 24 giờ thôi! Vậy là đến bây giờ tôi vẫn chưa được bình an. Tôi đặt vali xuống, phủi bụi trên người rồi đi ra ngoài kiếm đồ ăn với mấy tờ báo để xem liệu có công việc gì đăng quảng cáo mà mình có thể làm được không.

Fumblingly, I looked at the key tag to again check the number, and then moved along to find my room. Yes—there it was—the number “303” was on a small plate above the third door to the right of the elevator. I inserted the key and turned it. The door opened, and I entered the room. Quite a small room, I saw, something like a ship’s cabin. As soon as I shut the door I saw a printed list of Rules. Carefully reading them, I found that I could stay only twenty-four hours unless I was actually joining a ship, then the maximum time one was permitted to stay was forty-eight hours. Twenty four hours! So even now there was no peace. I set down my cases, brushed the dust from me, and went out in search of food and newspapers so that I could see if there were any jobs advertised which I could do.

Người dịch: Phạm Thị Liễu

Biên tập: VMC