Chương V: Hang Động Người Xưa – Lobsang Rampa

Tôi chạy dọc theo các hành lang, vội vàng vòng qua các khúc cua để tránh gặp người trên đường. Một nhà sư già giữ tôi lại khi đi ngang qua, lắc vai tôi và nói, “Cậu bé, vội vàng không cần thiết như thế là không tốt đâu, đó không phải là phong thái của một Phật tử!”. Rồi ông nhìn vào mặt tôi, nhận ra tôi là người của Lạt Ma Minh Gia Đại Đức. Lẩm bẩm một từ có vẻ như là “Ái chà!”, ông buông vội tôi ra như cầm phải cục than nóng rồi hối hả đi tiếp. Tôi bình tĩnh bước tiếp đường mình. Đến trước cửa phòng Thầy, tôi giật mình dừng lại đến nỗi suýt ngã; đang đứng cùng với Thầy tôi là hai trụ trì cấp rất cao. Trong tôi cảm thấy rất tệ. Mình phải làm gì bây giờ? Chắc mình lại bị phát hiện có tội lỗi gì đây? Các trụ trì cấp cao không bao giờ đứng đợi những đứa trẻ trừ khi mang lại tin xấu cho chúng. Chân tôi cảm giác bủn rủn và tôi cố lục lại trong trí nhớ xem mình đã làm cái gì để có thể bị đuổi khỏi Chakpori. Một trong hai trụ trì nhìn tôi và mỉm cười ấm áp, sự ấm áp của một tảng băng. Người kia nhìn tôi với bộ mặt như là được khắc từ một tảng đá trên núi Himalaya. Thầy tôi cười. “Lobsang, chắc hẳn con đang có cảm giác tội lỗi. À, những vị trụ trì đáng kính này cũng là những lạt ma có thần giao cách cảm,” Ngài cười và nói thêm.

I hurried along the corridors, rushing round corners to the peril of those who got in my way. An old monk grabbed me in passing, shook me, and said, “It is not good to have this unseemly haste, boy, it is not the way of the true Buddhist!” Then he peered into my face, recognised me as the ward of the Lama Mingyar Dondup. With a muttered sound that appeared to be “ulp!” he dropped me like a hot coal and hastened on his way. I sedately followed my own course. At the entrance to my Guide’s room I stopped with such a jerk that I almost fell over; with him were two very senior abbots. My conscience was giving me a very bad time; what had I done now? Worse, which of my many ‘sins’ had been discovered? Senior abbots did not wait for small boys unless it was bad news for the small boys. My legs felt distinctly rubbery and I ransacked my memory to see if I had done anything that could cause my expulsion from Chakpori. One of the abbots looked at me and smiled with the warmth of an old iceberg. The other looked toward me with a face that seemed carved from a piece of the Himalayas. My Guide laughed. “You certainly have a guilty conscience, Lobsang. Ah! These Reverend Brother Abbots are also telepathic lamas,” he added with a chuckle.

Vị trụ trì trông dữ tợn hơn nhìn tôi chằm chằm và nói với giọng nghe như đá rơi, “Tuesday Lobsang Rampa, Đức Thái Tuế đã cho kiểm tra và xác nhận cậu là hóa thân hiện tại của…” Đầu óc tôi quay cuồng, tôi khó khăn lắm mới có thể nghe được những gì ông đang nói, và chỉ nghe được câu kết luận, “…và tước hiệu, cấp bậc và tước vị trong dòng trụ trì cao cấp sẽ được phong tặng cho cậu vì lý do trên tại một buổi lễ mà thời gian và địa điểm sẽ được ấn định sau.” Hai vị trụ trì trang nghiêm cúi chào Lạt Ma Minh gia Đại đức và cũng nghiêm trang cúi chào tôi. Cầm lấy cuốn sách, họ xếp hàng đi ra, tiếng bước chân xa dần. Tôi đứng sững sờ nhìn theo họ ra ngoài hành lang. Có tiếng cười vui vẻ và một bàn tay đặt lên vai kéo tôi trở về hiện tại. “Bây giờ con đã biết tất cả những gì đang làm là vì việc đó. Những bài kiểm tra này chỉ là để xác nhận điều mà chúng ta đã biết suốt thời gian qua. Con được gọi cho một buổi lễ đặc biệt của hai chúng ta, rồi ta sẽ cho con biết một số thông tin thú vị.” Thầy dẫn tôi vào một phòng khác và ở đó đã bày ra một bữa ăn Ấn độ thực sự. Không chờ được mời, tôi ngồi ngay vào!

The grimmer of the two abbots looked hard at me, and in a voice reminiscent of falling rocks said, “Tuesday Lobsang Rampa, The Inmost One has caused investigation to be made whereby it has been determined that you be Recognised as the present Incarnation of . . .” My head was awhirl, I could hardly follow what he was saying, and barely caught his concluding remarks, “. . . and the style, rank, and title of Lord Abbot be conferred upon you by virtue of this at a ceremony the time and place of which shall be determined at a later occasion.” The two abbots bowed solemnly to the Lama Mingyar Dondup, and then bowed as solemnly to me. Picking up a book, they filed out and gradually the sound of their footfalls became no more. I stood as one dazed, gazing down the corridor after them. A hearty laugh, and the clasp of a hand on my shoulder brought me back to the present. “Now you know what all the running about was for. The tests have merely confirmed what we knew all the time. It calls for a special celebration between you and me, then I have some interesting news for you.” He led me into another room, and there was spread a real Indian meal. Without any need to be encouraged, I set to!

Một lúc sau, khi không thể ăn được thêm nữa và hình ảnh của những đồ ăn còn lại khiến tôi nôn nao trong người, Thầy đứng dậy và dẫn tôi vào một căn phòng khác. “Đức Thái Tuế đã cho phép ta kể cho con về Hang động của người xưa,” Ngài nói thêm, “đúng hơn là Đức Thái Tuế yêu cầu ta nói với con về cái đó.” Ngài liếc nhìn tôi, rồi nói nhỏ nhưng rõ ràng, “Chúng ta đang cử một đoàn thám hiểm đến đó trong vài ngày tới.”

Cảm giác phấn khích trào dâng trong tôi và tôi có cảm giác khó tả như thể mình đang về “nhà”, nơi mà tôi đã biết từ trước. Thầy nhìn tôi rất chăm chú. Khi tôi ngước lên, dưới ánh mắt của Ngài, Ngài gật đầu. “ Lobsang, giống như con, ta đã được đào tạo đặc biệt, có những cơ hội đặc biệt. Sư phụ của ta là một người đã qua đời này lâu rồi, thân xác (không hồn) của ông thậm chí bây giờ vẫn đang được đặt ở Đại sảnh Hoàng kim. Cùng với Sư phụ ta đã đi khắp thế giới. Còn con, Lobsang, con sẽ phải đi một mình. Bây giờ hãy ngồi yên và ta sẽ kể cho con về sự khám phá ra Hang động của người xưa.” Tôi liếm môi, đó là điều mà tôi muốn nghe từ lâu. Trong tu viện, cũng như trong mỗi cộng đồng người, tin đồn thường được lan truyền đến mọi ngóc ngách bí mật. Một số tin đồn bản thân nó cũng chỉ là tin đồn, không hơn. Tuy nhiên, lần này thì khác, bằng cách nào đó, tôi tin vào những gì tôi đã nghe thấy.

Later, when I could eat no more, when even the sight of the remaining food made me feel queasy, my Guide rose and led the way back into the other room. “The Inmost One has given me permission to tell you about the Cave of the Ancients,” he said, immediately adding, “rather, the Inmost One has suggested that I tell you about it.” He gave me a sideways glance, then almost in a whisper, remarked, “We are sending an expedition there within a few days.” I felt the excitement surge through me and had the impossible impression that perhaps I was going “home” to a place I had known before. My Guide was watching me very closely indeed. As I looked up, under the intensity of his gaze, he nodded his head. “Like you, Lobsang, I had special training, special opportunities. My own Teacher was a man who long ago passed from this life, whose empty Shell is even now in the Hall of Golden Images. With him I traveled extensively throughout the world. You, Lobsang, will have to travel alone. Now sit still and I will tell you of the finding of the Cave of the Ancients.” I wet my lips, this was what I had wanted to hear for some time. In a lamasery, as in every community, rumors were often spread in confidential corners. Some rumors were self-evident as rumors and nothing more. This, though, was different, somehow I believed what I had heard.

“Lobsang, khi ta còn là một lạt ma rất trẻ,” Thầy tôi bắt đầu, “ ta cùng với Sư phụ và ba lạt ma trẻ khác, chúng ta đã thám hiểm một số dãy núi xa xôi hẻo lánh. Vài tuần trước đấy có một tiếng nổ lớn bất thường, rồi một tảng đá lớn rơi xuống. Chúng ta ra ngoài để tìm hiểu sự việc. Trong vài ngày, chúng ta đi quanh chân một đỉnh núi lớn. Sáng sớm ngày thứ năm, sư phụ thức dậy, trong trạng thái mơ màng, ông có vẻ như bị choáng. Chúng ta nói chuyện với ông nhưng ông không trả lời. Ta thấy lo quá vì nghĩ rằng ông bị bệnh, và tự hỏi làm thế nào để đưa được ông xuống núi trên con đường dài thăm thẳm một cách an toàn.

“I was a very young lama, Lobsang,” commenced my Guide. “With my Teacher and three young lamas we were exploring some of the remoter mountain ranges. Some weeks before there had been an extraordinary loud bang, followed by a heavy rock-fall. We were out to investigate matters. For days we had prowled round the base of a mighty rock pinnacle. Early on the morning of the fifth day my Teacher awakened, yet was not awake; he appeared to be in a daze. We spoke to him and received no answer. I was overcome by worry, thinking that he was ill, wondering how we should get him down the endless miles to safety.

Uể oải như thể bị bị một sức mạnh kỳ lạ nào đó trì kéo, ông chật vật đứng lên, ngã nhào xuống, rồi cuối cùng cũng đứng thẳng lên được. Loạng choạng, lật bật, và di chuyển như một người mộng du, ông tiến lên phía trước. Chúng ta theo sau vừa sợ vừa run rẩy. Chúng ta leo lên tảng đá dựng đứng và bị những viên đá nhỏ rơi xuống người như mưa. Cuối cùng chúng ta cũng lên được đỉnh núi sắc nhọn và đứng ngó nghiêng. Ta đã trải qua một cảm giác thất vọng sâu sắc; trước mắt là một thung lũng nhỏ mà giờ đây hầu như lấp đầy những tảng đá lớn. Ở đây rõ ràng là nơi bắt nguồn của tảng đá rơi. Những khối đá đang tiếp tục rạn nứt, hoặc đã xảy ra những trận động đất khiến một phần của sườn núi đã tách rời ra. Vết tách lớn của tảng đá mới lộ ra đập thẳng vào mắt chúng ta dưới ánh nắng chói chang. Rêu và địa y bây giờ héo rũ không còn chỗ bám. Ta khó chịu quay đi. Ở đây không có gì khiến ta chú ý, không có gì ngoại trừ một tảng đá rơi khá lớn. Ta quay ra bắt đầu đi xuống, nhưng lập tức dừng lại khi có tiếng thì thào ‘Minh Gia!’. Một người bạn đi cùng đang chỉ tay. Sư phụ của ta, vẫn đang bị một sự cưỡng bức kỳ lạ nào đó, men theo sườn núi đi xuống.” Tôi ngồi như bị cuốn hút vào câu chuyện, Thầy ngừng nói một lát, uống một ngụm nước, rồi tiếp tục.

Sluggishly, as if in the grip of some strange power, he struggled to his feet, fell over, and at last stood upright. Stumbling, jerking, and moving like a man in a trance, he moved ahead. We followed almost in fear and trembling. Up the steep rock face we climbed, with showers of small stones raining down upon us. At last we reached the sharp edge of the range top and stood peering over. I experienced a feeling of deep disappointment; before us was a small valley now almost filled with huge boulders. Here evidently was where the rock fall had originated. Some rock-fault had developed, or some Earth tremor had occurred which had dislodged part of the mountainside. Great gashes of newly exposed rock glared at us in the bright sunlight. Moss and lichen drooped disconsolately now deprived of any support. I turned away in disgust. There was nothing here to engage my attention, nothing but a rather large rock-fall. I turned to start the descent, but was immediately halted by a whispered ‘Mingyar!’ One of my companions was pointing. My Teacher, still under some strange compulsion was edging down the mountainside.” I sat enthralled, my Guide stopped talking for a moment and took a sip of water, then continued.

“Chúng ta quan sát ông một cách tuyệt vọng. Chầm chậm ông leo xuống sườn dốc về phía thung lũng nhỏ đầy đá. Chúng ta miễn cưỡng đi theo, lúc nào cũng sợ bị trượt xuống sườn núi hiểm trở. Đến đáy thung lũng, Sư phụ không ngần ngại tìm cách cẩn thận vượt qua những tảng đá lớn, cho đến khi ông đến được sườn bên kia của thung lũng đá. Chúng ta hoảng hốt khi thấy ông bắt đầu trèo lên, dùng tay và chân bám vào những thứ mà chúng ta không thấy rõ dù chỉ đi sau ông vài thước. Chúng ta vẫn miễn cưỡng theo. Không có lối đi nào khác mở ra cho chúng ta, chúng ta cũng không thể quay lại và nói rằng Sư phụ đã leo một mình, rằng chúng ta sợ khi leo theo ông dù việc đó đúng là nguy hiểm. Ta là người đi trước, chọn một đường đi rất cẩn thận. Ở đây toàn đá cứng và không khí rất loãng. Chẳng mấy chốc ta thấy hơi thở khò khè và khắp phổi bị đau vì khô rát. Ở trên một mỏm đá hẹp cách thung lũng khoảng 500 feet, ta nằm dài ra, thở hổn hển. Khi nhìn lên chuẩn bị leo tiếp thì ta thấy bóng áo choàng màu vàng của Sư phụ biến mất sau một mỏm đá ở trên cao. Dứt khoát, ta bám theo sườn núi tiếp tục leo lên. Những người trong nhóm cũng như ta miễn cưỡng đi theo phía sau. Bây giờ chúng ta đã thấy rõ nơi ẩn náu do thung lũng này tạo nên, và cơn gió mạnh đang quất vào những chiếc áo choàng quanh người. Những viên đá nhỏ rơi xuống và chúng ta rất khó để đi tiếp.” Thầy dừng lại một chút để nhấp thêm một ngụm nước và quan sát xem tôi có đang lắng nghe không. Tôi vẫn đang nghe mà!

“We watched him with some desperation. Slowly he climbed down the side, toward the rock-strewn floor of the little valley. We reluctantly followed, expecting every moment to slip on that dangerous range. At the bottom, my Teacher did not hesitate, but picked a careful way across the immense boulders, until at last he reached the other side of the stone valley. To our horror he commenced to climb upwards, using hand and foot holds which were invisible to us a few yards behind him. We followed reluctantly. There was no other course open to us, we could not return and say that our senior had climbed from us, that we were afraid to follow him—dangerous though the climb was. I climbed first, picking a very careful way. It was hard rock, the air was thin. Soon the breath was rasping in my throat and my lungs were filled with a harsh, dry ache. Upon a narrow ledge perhaps five hundred feet from the valley, I lay stretched out, gasping for breath. As I glanced up, preparatory to resuming the climb, I saw the yellow robe of my Teacher disappear over a ledge high above. Grimly I clung to the mountain face, edging ever upwards. My companions, as reluctant as I, followed behind. By now we were clear of the shelter afforded by the small valley, and the keen wind was whipping our robes about us. Small stones pelted down and we were hard put to keep going.” My Guide paused a moment to take another sip of water and to look to see that I was listening. I was!

“Cuối cùng,” Thầy tiếp tục, “bằng mấy ngón tay quờ quạng ta cảm nhận thấy một mỏm đá phẳng. Bám chắc lấy nó, ta gọi báo cho mọi người rằng chúng ta đã đến được một chỗ có thể nghỉ chân, rồi ta đu người lên đó. Đó là một mỏm núi hơi dốc về phía sau và hoàn toàn không nhìn thấy được từ sườn núi bên kia. Thoạt nhìn mỏm đá rộng khoảng ba mét. Ta không dừng lại để quan sát tiếp mà quì xuống để kéo mọi người lên, từng người một. Chẳng mấy chốc chúng ta đã đứng cùng nhau, run rẩy trong gió sau khi đã gắng sức. Rõ ràng là tảng đá rơi đã làm lộ ra mỏm đá này, và – khi ta nhìn gần hơn, có một vết nứt hẹp trên sườn núi. Có cái gì ở đó vậy? Từ chỗ bọn ta đứng, nó có thể là một cái bóng, hoặc là vết của đám địa y sẫm màu. Tất cả bọn ta cùng đi về phía trước. Đó là một đường nứt vỡ rộng khoảng 75cm và cao khoảng 1.5m. Không thấy dấu vết nào của Sư phụ.” Tôi có thể hình dung quang cảnh ở đó. Nhưng bây giờ không phải lúc cho phân tích nội tâm. Tôi không muốn bỏ lỡ một lời nào!

“At last,” he continued, “I felt a ledge level with my questing fingers. Taking a firm grip, and calling to the others that we had reached a place where we could rest, I pulled myself up. There was a ledge, sloping slightly down towards the back and so quite invisible from the other side of the mountain range. At first glance the ledge appeared to be about ten feet wide. I did not stop to see further, but knelt so that I could help the others up, one by one. Soon we stood together, shivering in the wind after our exertion. Quite obviously the rock fall had uncovered this ledge, and—as I peered more closely, there was a narrow crevice in the mountain wall. Was there? From where we stood it might have been a shadow, or the stain of dark lichen. As one, we moved forward. It was a crevice, one that was about two feet six inches wide by about five feet high. Of my Teacher there was no sign.” I could visualise the scene well. But this was not the time for introspection. I did not want to miss a word!

“Ta lùi lại để xem liệu Sư phụ có leo cao hơn nữa không,” Thầy kể tiếp, “nhưng vẫn không thấy bóng dáng ông đâu. Sợ hãi ta nhìn vào rãnh nứt. Nó tối om như nhà mồ. Ta cúi xuống, từng tí một, đau đớn luồn vào bên trong. Đi vào được khoảng gần năm mét, ta rẽ vào một góc ngoặt gập khuỷu, một góc nữa, rồi lại một góc nữa. Nếu không đờ người ra vì sợ hãi thì ta đã hét lên vì kinh ngạc; ở đây có ánh sáng, một thứ ánh sáng nhẹ nhàng màu bạc, sáng hơn ánh trăng lúc rạng rỡ nhất. Ta chưa từng nhìn thấy ánh sáng này bao giờ. Cái hang mà ta đang đứng đây thật là rộng, trần hang ở tít trên cao không thấy được trong bóng tối. Một người bạn đồng hành đẩy ta ra khỏi chỗ đang đứng, và rồi lần lượt những người khác. Ngay sau đó cả bốn người chúng ta đứng im và sợ hãi nhìn cảnh tượng tuyệt vời ngay trước mắt mình. Một cảnh tượng mà có thể khiến cho bất kỳ ai trong chúng ta đều nghĩ rằng mình đã bị lấy mất hết các giác quan. Cái hang giống như là một đại sảnh rộng lớn, nó trải dài ra xa như chính dãy núi này bị rỗng vậy. Ánh sáng ở khắp mọi nơi, rọi xuống bọn ta từ những quả cầu như thể được treo lơ lửng từ trong bóng tối của mái hang. Những cỗ máy lạ lùng nằm la liệt trong hang, những cỗ máy mà ta không thể tưởng tượng ra nổi. Những cỗ máy này thậm chí cao lên tận trên trần hang. Ta đã ngạc nhiên khi thấy một số cái được bao bọc bởi một thứ có vẻ như là một loại kính trong nhất.” Tôi tròn mắt ngạc nhiên, Thầy mỉm cười với tôi trước khi tiếp tục câu chuyện của mình.

“I stepped back to see if my Teacher had climbed higher,” my Guide went on, “but there was no sign of him. Fearfully I peered into the crevice. It was as dark as the grave. Inch by inch, painfully bent, I moved inside. About fifteen feet in I turned a very sharp corner, another, and then another. Had I not been paralysed with fright I would have screamed with surprise; here was light, a soft silvery light, brighter than the brightest moonlight. Light that I had never seen before. The cave in which I now found myself was spacious, with a roof invisible in the darkness above. One of my companions pushed me out of the way and was in turn pushed by another. Soon the four of us stood silent and frightened gazing at the fantastic sight before us. A sight which would have made any one of us alone think that he had taken leave of his senses. The cave was more like an immense hall, it stretched away in the distance as if the mountain itself was hollow. The light was everywhere, beating down upon us from a number of globes which appeared to be suspended from the darkness of the roof. Strange machines crammed the place, machines such as we could not have imagined. Even from the high roof depended apparatus and mechanisms. Some, I saw with great amazement, were covered by what appeared to be the clearest of glass.” My eyes must have been round with amazement, for the Lama smiled at me before resuming his story.

“Bây giờ khi chúng ta hoàn toàn quên mất Sư phụ của mình, thì ông bất ngờ xuất hiện khiến chúng ta nhảy dựng lên sợ hãi! Ông cười khúc khích vào những đôi mắt nhìn chằm chằm và những bộ mặt thất thần của chúng ta. Bây giờ chúng ta thấy ông không còn bị một sức mạnh kỳ lạ siêu nhiên nào kìm kẹp nữa. Tất cả mọi người cùng đi dạo quanh hang nhìn ngắm những cỗ máy kỳ cục. Đối với chúng ta chúng chẳng có nghĩa lý gì, chúng chỉ đơn giản là sự kết hợp của kim loại và vải vóc trong một hình thù lạ lùng, kỳ quái. Sư phụ của ta đi đến một tấm bảng đen khá to có vẻ như được gắn vào một bức tường của hang. Khi ông đến gần bề mặt của nó, nó xoay mở ra. Cho đến bây giờ chúng ta gần như tin rằng toàn bộ nơi này đã bị mê hoặc, hoặc chúng ta đã trở thành nạn nhân của một thế lực ảo nào đó. Sư phụ của ta nhảy lùi lại khi có tín hiệu báo động. Cánh cửa màu đen đóng lại. Rất bạo dạn, một trong những người bạn đồng hành của ta đã chìa tay ra và cánh cửa một lần nữa lại mở ra. Có một sức mạnh mà chúng ta không thể cưỡng lại được đã đẩy chúng ta về phía trước. Cưỡng lại cũng vô ích, chúng ta – bằng cách nào đó – đã đi qua cánh cửa vào được bên trong. Bên trong rất tối, tối như ở trong phòng kín của ẩn sỹ. Cũng vẫn bị một lực đẩy mà không thể cưỡng lại được, chúng ta đi sâu vào bên trong và ngồi xuống sàn nhà. Chúng ta ngồi đó vài phút run rẩy và sợ hãi. Vì không thấy gì xảy ra, chúng ta lấy lại bình tĩnh, và rồi nghe thấy những tiếng lách cách, dường như tiếng kim loại va chạm và cào vào nhau.” Tự nhiên tôi rùng mình. Tôi có ý nghĩ có lẽ mình sẽ chết vì sợ hãi mất! Thầy tôi kể tiếp.

“By now we had quite forgotten my Teacher, when he suddenly appeared we jumped straight off the ground in fright! He chuckled at our staring eyes and stricken faces. Now, we saw, he was no longer in the grip of that strange, overpowering compulsion. Together we wandered round looking at the strange machines. To us they had no meaning, they were just collections of metal and fabric in strange, exotic form. My Teacher moved toward a rather large black panel apparently built into one of the walls of the cave. As he was about to feel its surface it swung open. By now we were almost at the point of believing that the whole place was bewitched, or that we had fallen prey to some hallucinating force. My Teacher jumped back in some alarm. The black panel swung shut. Greatly daring one of my companions stretched out his hand and the panel swung open again. A force which we could not resist propelled us forward. Uselessly fighting against every step, we were—somehow—made to enter through the panel doorway. Inside it was dark, as dark as the darkness of a hermit’s cell. Still under the irresistible compulsion, we moved in many feet and then sat on the floor. For minutes we sat shivering with fright. As nothing happened we regained some calmness, and then we heard a series of clicks, as if metal were tapping and scraping on metal.” Involuntarily I shivered. I had the thought that I probably would have died of fright! My Guide continued.

“Từ từ, gần như không nhận thấy được, một ánh sáng mờ ảo hình thành trong bóng tối trước mắt chúng ta. Lúc đầu nó chỉ là ánh sáng xanh-hồng, gần giống như một bóng ma đang hiện lên trước mắt chúng ta. Ánh sáng mờ ảo đó trải rộng ra, trở nên sáng hơn đến mức chúng ta có thể nhìn thấy đường nét của các cỗ máy khó tin đang chất đầy ngoài đại sảnh rộng lớn, tất cả mọi chỗ trừ nơi giữa phòng chỗ chúng ta đang ngồi. Ánh sáng tự nó hút vào bên trong, xoáy, mờ dần rồi trở nên sáng hơn, rồi nó tạo hình và giữ nguyên là hình cầu. Ta đã có một ấn tượng kỳ lạ và không thể giải thích nổi về cái cỗ máy cổ xưa chậm chạp cọt kẹt đi vào hoạt động sau một thời gian rất rất dài. Cả năm người chúng ta ngồi tụm lại trên sàn, bị mê hoặc hoàn toàn. Một cuộc tìm kiếm diễn ra trong óc ta, như thể các vị lạt ma có khả năng thần giao cách cảm bị mất trí đang chơi đùa vậy, thế rồi cảm nhận đã thay đổi và trở nên rõ ràng như lời nói.” Thầy tôi hắng giọng, và lại lấy nước uống, tay dừng lại giữa không trung. “Lobsang, chúng ta uống trà nhé.” Ngài nói và rung chiếc chuông bạc. Nhà sư-giúp việc rõ ràng đã biết ông muốn gì, vào và mang theo trà cùng với bánh!

“Slowly, almost imperceptibly, a misty glow formed in the darkness before us. At first it was just a suspicion of blue-pink light, almost as if a ghost were materialising before our gaze. The mist-light spread, becoming brighter so that we could see the outlines of incredible machines filling this large hall, all except the centre of the floor upon which we sat. The light drew in upon itself, swirling, fading, and becoming brighter and then it formed and remained in spherical shape. I had the strange and unexplainable impression of age-old machinery creaking slowly into motion after eons of time. The five of us huddled together on the floor, literally spellbound. There came a probing inside my brain, as if demented telepathic lamas were playing, then the impression changed and became as clear as speech.” My Guide cleared his throat, and reached again for a drink, staying his hand in mid-air. “Let us have tea, Lobsang,” he said as he rang his silver bell. The monk-attendant obviously knew what was wanted, for he came in with tea—and cakes!

Bên trong quả cầu ánh sáng đó, chúng ta nhìn thấy những hình ảnh,” Lạt ma Minh gia Đại đức nói, “lúc đầu chúng lờ mờ, nhưng chẳng mấy chốc chúng trở nên rõ ràng hơn và không còn là những hình ảnh nữa. Thay vào đó chúng ta nhìn thấy các sự kiện thực sự.” Tôi không thể kìm chế được nữa: “ Nhưng thưa Lạt ma tôn kính, vậy Thầy đã nhìn thấy gì?” Tôi sốt ruột hỏi. Thầy với tay rót thêm trà cho mình. Khi đó tôi nhận thấy rằng tôi chưa bao giờ thấy Ngài ăn bánh ngọt Ấn độ. Trà, vâng, Ngài toàn uống trà, nhưng tôi cũng chưa bao giờ biết Ngài có dùng thứ gì khác ngoài thứ đồ ăn thanh đạm và giản dị này. Tiếng cồng vang lên thông báo buổi lễ trên đền, nhưng Ngài vẫn không xao động. Khi những vị sư cuối cùng vội vàng chạy qua, Ngài thở phào và nói, “Bây giờ ta sẽ tiếp tục.”

“Within the sphere of light we saw pictures,” said the Lama Mingyar Dondup, “hazy at first, they soon cleared and ceased to be pictures. Instead we actually saw the events.” I could contain myself no longer: “But Honourable Lama, what did you see?” I asked in a fever of impatience. The Lama reached forward and poured himself more tea. It occurred to me then that I had never seen him eat those Indian sweet cakes. Tea, yes, he drank plenty of tea, but I had never known him take anything but the most sparing and the plainest of food. The gongs went for temple service, but the Lama did not stir. When the last of the monks had hurried by he sighed deeply, and said, “Now I will continue.”

Ngài nói tiếp, “Đó là những gì mà chúng ta đã nhìn và nghe thấy, rồi con cũng sẽ nhìn và nghe thấy điều đó trong tương lai không xa. Cách đây hàng nghìn hàng nghìn năm, đã có một nền văn minh phát triển cao trên thế giới này. Con người đã có thể bay xuyên không gian trong những cỗ máy bất chấp trọng lực; con người cũng đã có thể tạo ra những máy móc chuyển di tư tưởng vào đầu của người khác – những tư tưởng này có thể xuất hiện dưới dạng hình ảnh. Họ có bom nhiệt hạch, và cuối cùng họ cho nổ quả bom đó khiến nó phá hủy cả thế giới, các lục địa bị chìm sâu xuống dưới đáy đại dương, và những lục địa khác nổi lên. Thế giới bị tàn phá nặng nề, và do đó, qua các tôn giáo trên trái đất mà bây giờ chúng ta có câu chuyện về trận Đại hồng thủy.” Tôi không ấn tượng bởi phần sau này. “Thưa Thầy” tôi thốt lên, “chúng ta có thể nhìn thấy những hình ảnh như vậy trong Hồ sơ Akashic. Tại sao chúng ta phải vật lộn để leo lên những ngọn núi hiểm trở chỉ để nhìn thấy cái mà đứng đây cũng có thể dễ dàng trải nghiệm? “Lobsang”, Thầy tôi nói một cách nghiêm túc, “chúng ta có thể nhìn thấy tất cả trong thể vía và trong Hồ sơ Akashic, bởi vì trong đó chứa đựng tất cả những gì đã xảy ra. Chúng ta có thể nhìn thấy nhưng không thể chạm vào được. Trong du hành thể vía chúng ta có thể đi khắp nơi rồi trở về, nhưng chúng ta không thể chạm vào bất cứ một thứ gì trên thế giới. Chúng ta không thể,” Ngài mỉm cười, “lấy thậm chí một cái áo dự phòng hay mang về chỉ một bông hoa. Như vậy với Hồ sơ Akashic, chúng ta có thể nhìn thấy tất cả, nhưng chúng ta không thể kiểm tra thật chi tiết những cỗ máy kỳ lạ đang được lưu giữ trong hang núi đó. Chúng ta sẽ đi lên núi và kiểm tra những cỗ máy này.”

He resumed, “This is what we saw and heard, and you shall see and hear in the not too distant future. Thousands and thousands of years ago there was a high civilization upon this world. Men could fly through the air in machines which defied gravity; men were able to make machines which would impress thoughts upon the minds of others—thoughts which would appear as pictures. They had nuclear fission, and at last they detonated a bomb which all but wrecked the world, causing continents to sink below the oceans and others to rise. The world was decimated, and so, throughout the religions of this Earth we now have the story of the Flood.” I was unimpressed by this latter part. “Sir!” I exclaimed, “we can see pictures like that in the Akashic Record. Why struggle up dangerous mountains just to see what we can more easily experience here?” “Lobsang,” said my Guide gravely, “we can see all in the astral and in the Akashic Record, for the latter contains the knowledge of all that has happened. We can see but we cannot touch. In astral travel we can go places and return, but we cannot touch anything of the world. We cannot,” he smiled slightly, “take even a spare robe nor bring back a flower. So with the Akashic Record, we can see all, but we cannot examine in close detail those strange machines stored in those mountain halls. We are going to the mountains, and we are going to examine the machines.”

“Lạ thật,” tôi nói, “những cỗ máy này là của cả thế giới vậy mà chỉ có ở đất nước ta!” “Ồ, con nhầm rồi!” Thầy tôi giải thích. “Có một kho chứa tương tự như vậy đang ở một nơi nào đó trên đất nước Ai Cập. Cũng có một kho chứa khác với những cỗ máy giống như vậy đang ở một nơi gọi là Nam Mỹ. Ta đã thấy chúng, ta biết chúng ở đâu. Những kho chứa bí mật này đã được người xưa che giấu để đến một lúc thích hợp, các tạo tác của họ sẽ được hậu bối tìm thấy. Tảng đá bất ngờ rơi xuống một cách vô tình đã làm lộ ra lối vào kho chứa ở Tây Tạng, và một khi vào được bên trong, chúng ta đã có được thông tin về các kho chứa khác. Nhưng ngày đó còn xa xôi lắm. Sắp tới nhóm 7 người chúng ta-trong đó có cả con-sẽ một lần nữa làm một chuyến đi đến Hang động của người xưa.”

“How strange,” I said, “that these machines should of all the world be only in our country!” “Oh! But you are wrong!” explained my Guide. “There is a similar chamber at a certain place in the country of Egypt. There is another chamber with identical machines located in a place called South America. I have seen them, I know where they are. These secret chambers were concealed by the peoples of old so that their artifacts would be found by a later generation when the time was ready. This sudden rock fall accidentally bared the entrance to the chamber in Tibet, and once inside we gained the knowledge of the other chambers. But the day is far advanced. Soon seven of us—and that includes you—will set out and journey once again to the Cave of the Ancients.”

Trong nhiều ngày tôi phát sốt vì phấn khích. Tôi phải giữ kín những thông tin mật này. Những người khác chỉ biết rằng chúng tôi sắp có một chuyến đi lên núi để thu hái thảo dược. Ngay cả ở một nơi hẻo lánh như Lhasa cũng luôn có những người cả đời đi tìm kiếm tiền bạc; đại diện của các nước như Trung Quốc, Nga và Anh Auốc, một số nhà truyền giáo và các thương gia đến từ Ấn Độ, tất cả họ luôn dỏng tai lên để nghe xem chúng tôi cất giữ vàng bạc và đá quý ở đâu, họ luôn sẵn sàng khai thác bất cứ thứ gì đem lại lợi nhuận cho họ. Vì vậy – chúng tôi phải giữ thật bí mật bản chất thực sự của chuyến thám hiểm này.

For days I was in a fever of excitement. I had to keep my knowledge to myself. Others were to know that we were going to the mountains on a herb-gathering expedition. Even in such a secluded place as Lhasa there were always those on the constant lookout for financial gain; the representatives of other countries such as China, Russia, and England, some missionaries, and the traders who came from India, they were all ready to listen to where we kept our gold and our jewels, always ready to exploit anything that promised a profit for them. So—we kept the true nature of our expedition very secret indeed.

Khoảng hai tuần sau cuộc nói chuyện với Lạt ma Minh gia Đại đức, chúng tôi đã sẵn sàng khởi hành, sẵn sàng cho chuyến leo núi dài đằng đẵng, qua những khe núi và những con đường cheo leo ít được biết đến. Những người Cộng sản hiện đang ở Tây Tạng, vì vậy vị trí Hang động của Người xưa đang được cố tình che giấu, vì Hang thực sự là một nơi có thật, và việc sở hữu các hiện vật ở đó sẽ cho phép Cộng sản chinh phục thế giới. Tất cả những điều này, tất cả những gì tôi viết đều là sự thật, ngoại trừ con đường chính xác đến Hang động đó. Toàn bộ các tài liệu tham khảo và các bản vẽ phác họa, đã được ghi lại trên giấy và được cất ở một nơi bí mật có địa chỉ rõ ràng để — đến một lúc nào đó đủ điều kiện — các lực lượng của tự do có thể tìm thấy nơi đó.

Some two weeks after that talk with the Lama Mingyar Dondup, we were ready to depart, ready for the long, long climb up the mountains, through little known ravines and craggy paths. The Communists are now in Tibet, so the location of the Cave of the Ancients is deliberately being concealed, for the Cave is a very real place indeed, and possession of the artifacts there would permit the Communists to conquer the world. All this, all that I write is true, except the exact way to that Cave. In a secret place the precise area, complete with references and sketches, has been noted on paper so that—when the time comes—forces of freedom can find the place.

Chúng tôi chậm rãi xuống từ tu viện Chakpori và đi thẳng đến Kashya Linga, qua công viên này để lên đường ra bến thuyền, nơi có một người chèo thuyền đang đợi cùng với con thuyền của ông đậu bên bờ. Chúng tôi có bẩy người, trong đó có tôi, và phải mất khá nhiều thời gian để qua sông Kyi Chu. Cuối cùng chúng tôi cũng đã cùng nhau tới bờ bên kia. Vác đồ lên vai gồm đồ ăn, dây buộc, áo choàng dự phòng cho mỗi người, và một vài dụng cụ bằng kim loại, chúng tôi tập hợp lại đi về phía tây-nam. Chúng tôi đi bộ cho đến khi mặt trời lặn và những cái bóng đổ dài khiến chúng tôi khó có thể chọn đúng đường đi qua khe đá. Rồi khi bóng tối phủ dày, chúng tôi dùng bữa đạm bạc bằng tsampa trước khi ngả lưng ngủ sau những tảng đá lớn. Tôi gần như chìm vào giấc ngủ ngay khi gối đầu lên chiếc cà sa dự phòng. Nhiều nhà sư Tây Tạng ở cấp Lạt ma ngủ ngồi, theo như qui định. Tôi và những người khác ngủ nằm, nhưng chúng tôi phải tuân theo qui tắc là chỉ được ngủ nằm nghiêng bên phải. Hình ảnh cuối cùng mà tôi nhìn thấy trước khi chìm vào giấc ngủ là hình ảnh của Lạt ma Minh gia Đại đức đang ngồi, giống như một bức tượng được tạc vào bầu trời đêm đen.

Slowly we descended the path from Chakpori Lamasery and made our way along to the Kashya Linga, passing that Park as we followed the road down to the ferry where the boatman was waiting for us with his inflated yak-hide boat drawn to the side. There were seven of us, including me, and the crossing of the River—the Kyi Chu—took some time. Eventually we were together again on the far bank. Shouldering our loads, food, rope, a spare robe each, and a few metal tools, we set out towards the south-west. We walked until the setting sun and lengthening shadows made it difficult for us to pick our way across the stony path. Then, in the gathering darkness, we had a modest meal of tsampa before settling down to sleep in the lee side of great boulders. I fell asleep almost as soon as my head rested upon my spare robe. Many Tibetan monks of lama grade slept sitting up, as the regulations prescribe. I, and many more slept lying down, but we had to follow the rule that we could sleep only if lying on the right side. My last sight before dropping off to sleep, was that of the Lama Mingyar Dondup sitting like a carved statue against the dark night sky.

Khi tia sáng đầu tiên của bình minh ló rạng, chúng tôi thức dậy và ăn một bữa rất đạm bạc, rồi lại vác đồ lên vai lên đường. Chúng tôi đi bộ suốt cả ngày hôm đó, rồi ngày hôm sau. Qua những chân đồi, chúng tôi đến những dãy núi thực sự. Chúng tôi khẩn trương nới lỏng dây buộc mọi người với nhau, và cử một người nhẹ nhất – là tôi – đi qua những kẽ đá nguy hiểm trước tiên để buộc chặt dây vào các mỏm đá, nhờ đó tạo ra lối đi an toàn cho những người nặng hơn. Cứ như vậy chúng tôi tiến lên và leo lên các ngọn núi. Cuối cùng, khi chúng tôi đứng dưới chân một tảng đá phẳng đồ sộ gần như không có chỗ để bám tay chân, Thầy tôi nói, “ Vượt qua tảng đá này, xuống sườn bên kia, băng qua một thung lũng nhỏ mà chúng ta sẽ thấy, là đã tới cửa Hang rồi đó.” Chúng tôi đi quanh chân đế của tảng đá để tìm xem có chỗ nào bám tay được. Rõ ràng là những tảng đá khác rơi trong bao nhiêu năm qua đã xóa sạch các gờ đá và những khe kẽ nhỏ. Sau khi lãng phí mất gần một ngày chúng tôi phát hiện ra một “ống khói” bằng đá có thể leo lên bằng việc bám chân và tay và áp lưng vào thành bên kia của “ống khói”. Thở hổn hển trong bầu không khí loãng, chúng tôi đã leo lên được đến đỉnh và nhìn quanh. Cuối cùng, thung lũng ở ngay trước mặt chúng tôi. Chăm chú quan sát sườn thung lũng phía xa chúng tôi không thấy có cái hang nào cả, không có khe nứt nào trên bề mặt phẳng lì của tảng đá. Thung lũng phía dưới chúng tôi ngổn ngang những tảng đá lớn và – tệ hơn nữa – một dòng suối đang đổ ầm ầm từ trên núi xuống trung tâm.

At the first light of the dawning day we awakened and had a very frugal meal, then taking up our loads, we marched on. For the whole day we walked, and for the day after. Passing the foothills, we came to the really mountainous ranges. Soon we were reduced to roping ourselves together and sending the lightest man—me!—across dangerous crevices first so that the ropes could be secured to rock pinnacles and thus afford safe passage to the heavier men. So we forged on, climbing up into the mountains. At last, as we stood at the foot of a mighty rock-face almost devoid of hand and foot holds, my Guide said, “Over this slab, down the other side, across the little valley which we shall find, and we are then at the foot of the Cave.” We prowled round the base of the slab looking for a hand hold. Apparently other rock falls throughout the years had obliterated small ledges and clefts. After wasting almost a day we found a “chimney” of rock up which we climbed using hands and feet and wedging our backs against the other side of the “chimney”. Gasping and puffing in the rarefied air, we climbed to the top and looked over. At last before us was the valley. Staring intently at the far wall we could discern no cave, no fissure in the smooth rock surface. The valley below us was littered with great boulders and—far worse—a rushing mountain stream poured along the centre.

Thận trọng, chúng tôi trèo xuống thung lũng và tìm cách đi đến bên bờ của con suối đang chảy xiết cho tới khi đến được một chỗ mà những tảng đá lớn đã tạo ra một lối đi bấp bênh cho những ai có khả năng nhảy được từ tảng đá này sang tảng đá khác. Tôi, là người nhỏ nhất, không có chân dài để có thể nhảy, và vì vậy thật xấu hổ khi bị buộc vào một đầu dây và được kéo qua dòng nước lạnh giá. Một việc không may khác, một Lạt ma người nhỏ nhưng có phần mập mạp đã nhảy hụt – và anh ta cũng bị buộc vào dây và kéo qua. Sang đến bờ bên kia, chúng tôi vắt kiệt những chiếc cà sa ướt sũng nước rồi mặc lại. Những tia nước khiến tất cả chúng tôi ướt đến tận da. Thận trọng bước đi, vượt qua những tảng đá, chúng tôi băng qua thung lũng và đến gần vật cản cuối cùng, đó là bức tường đá. Thầy của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại đức, chỉ tay vào vết sẹo mới trên đá. “Nhìn này!” Ngài nói, “có một tảng đá nữa đã rơi xuống đánh bật gờ đá đầu tiên mà bọn ta đã trèo lên.” Chúng tôi đứng lùi lại, cố gắng nhìn toàn cảnh trước mặt. Mép đá gần nhất cũng cao hơn ba mét rưỡi so với mặt đất, và không còn lối nào khác. Vị Lạt ma cao nhất và khỏe nhất đứng giơ hai tay, chống vào mặt tường đá, sau đó người nhẹ nhất trong nhóm trèo lên vai của anh ta và cũng chống tay như vậy. Cuối cùng tôi được nhấc lên cao đến mức tôi có thể trèo lên vai của người trên cùng. Với cuộn dây quấn quanh eo, tôi dễ dàng trèo lên gờ đá.

Gingerly we climbed down to the valley and made our way to the banks of that fast-running stream until we came to a part where great boulders afforded a precarious passage for those with the ability to leap from rock to rock. I, being the smallest, had not the length of leg for the jumps, and so was ignominiously hauled through the icy torrent at the end of a rope. Another unfortunate, a small somewhat rotund lama, jumped short—and he too was hauled out at the end of a rope. On the far bank we wrung out our soaked robes and put them on again. Spray made all of us wet to the skin. Picking our way cautiously over the boulders, we crossed the valley and approached the final barrier, the rock slab. My Guide, the Lama Mingyar Dondup, pointed to a fresh rock scar. “Look!” he said, “a further rock fall has knocked off the first ledge by which we climbed.” We stood well back, trying to get a view of the ascent before us. The first ledge was about twelve feet above the ground, and there was no other way. The tallest and sturdiest lama stood with his arms outstretched, bracing himself against the rock face, then the lightest of the lamas climbed on to his shoulders and similarly braced himself. At last I was lifted up so that I could climb on to the shoulders of the top man. With a rope around my waist, I eased myself on to the ledge.

Bên dưới tôi các nhà sư đang gọi lên để hướng dẫn, trong khi tôi sợ gần chết, chầm chậm trèo lên cao hơn cho đến khi có thể buộc được một đầu dây vào một mỏm đá nhô ra ngoài. Tôi né người sang một bên của gờ đá khi lần lượt từng người trong sáu vị Lạt ma leo dây vượt qua và tiếp tục đi lên. Người cuối cùng tháo dây quấn vào eo của mình rồi đi theo những người khác. Ngay sau đó phần cuối của sợi dây lủng lẳng trước mặt tôi, và có tiếng hét báo cho tôi là hãy buộc dây vào người để tôi có thể được kéo lên. Chiều cao của tôi không đủ để tôi có thể với tới các gờ đá nếu không được hỗ trợ. Tôi dừng nghỉ một lần nữa ở đoạn cao hơn nhiều, và sợi dây được kéo lên trên. Cuối cùng tôi cũng được kéo lên đến mỏm đá trên cùng nơi những người khác trong đoàn đang chờ. Là những người tốt bụng và chu đáo, họ đã chờ tôi để tất cả chúng tôi cùng vào Hang, và phải thú nhận rằng tôi cảm thấy ấm lòng bởi sự quan tâm của họ. “Kéo được Linh vật lên đây rồi, bây giờ chúng ta có thể đi tiếp!” một người nói to. “Vâng,” tôi đáp lại, “nhưng người nhỏ nhất này đã phải đi trước đấy, nếu không thì mọi người đã chẳng có mặt được ở đây!” Mọi người cười lớn và quay về phía khe nứt đang được giấu kín.

Below me the monks called directions, while slowly, almost dying with fright, I climbed higher until I could loop the end of the rope around a projecting pinnacle of rock. I crouched to the side of the ledge as one after the other, the six lamas climbed the rope, passed me, and continued, upwards. The last one untied the rope, coiled it around his waist, and followed the others. Soon the end of the rope dangled before me, and a shout warned me to tie a loop about myself so that I could be hauled up. My height was not sufficient to reach all the ledges unaided. I rested again at a much higher stage, and the rope was carried upwards. At last I was hauled to the topmost ledge where the others of the party awaited me. Being kind and considerate men, they had waited for me so that we could all enter the Cave together, and I confess that my heart warmed at their thoughtfulness. “Now we have hauled up the Mascot we can continue!” growled one. “Yes,” I replied, “but the smallest one had to move first or you would not be here!” They laughed, and turned to the well-concealed crevice.

Tôi nhìn chăm chú đầy kinh ngạc. Lúc đầu tôi không thể thấy lối vào, tất cả những gì tôi thấy là một cái bóng tối đen trông rất giống một vệt nước bị khô, hoặc dấu vết của một đám địa y nhỏ. Thế rồi, khi chúng tôi băng qua mỏm đá, tôi thấy rằng đúng là có một vết nứt ở trên mặt đá.Vị Lạt ma to lớn nắm lấy vai tôi và đẩy tôi vào trong khe đá và nói, vẻ tốt bụng, “Cậu vào trước đi, và cậu có thể đuổi tất cả những con quỉ đá đi để bảo vệ chúng ta!” Thế là tôi, người nhỏ bé nhất và ít quan trọng nhất trong đoàn, là người đầu tiên bước vào trong Hang động người xưa. Tôi len lỏi vào bên trong và luồn lách quanh các góc đá. Sau lưng, tôi nghe thấy tiếng bước chân và tiếng va quệt khi những người to lớn hơn tìm đường vào. Đột nhiên ánh sáng bừng lên trùm lấy tôi, trong khoảnh khắc tôi gần như đứng tim vì sợ hãi. Tôi đứng bất động bên vách đá, nhìn trân trân vào khung cảnh tuyệt vời ở bên trong. Chiếc hang có vẻ như rộng gấp đôi không gian Nhà thờ lớn ở Lhasa. Không giống như Nhà thờ luôn bị bao phủ bởi ánh hoàng hôn mà những ngọn đèn bơ cố gắng xua tan một cách vô ích, ở đây ánh sáng tỏ hơn ánh trăng rằm ngày quang mây. Không, nó còn sáng hơn thế nhiều; thứ ánh sáng này khiến tôi liên tưởng đến ánh trăng. Tôi nhìn chăm chú lên các quả cầu là nơi phát ra ánh sáng. Các Lạt ma đứng chen chân bên tôi, và, cũng giống như tôi, họ trước tiên cũng nhìn chăm chú lên nguồn phát ra ánh sáng. Thầy tôi nói, “Cổ thư có nói rằng ánh sáng ở đây lúc đầu sáng hơn rất nhiều, những chiếc đèn này đang cháy giảm dần theo thời gian của hàng trăm thế kỷ.”

I looked in considerable astonishment. At first I could not see the entrance, all I saw was a dark shadow looking much like a dried-up watercourse, or the stain of minute lichen. Then, as we crossed the ledge, I saw that there was indeed a crack in the rock face. A big lama grabbed me by the shoulders and pushed me into the rock fissure saying, good-naturedly, “You go first, and then you can chase out any rock devils and so protect us!” So I, the smallest and least important of the party, was the first to enter the Cave of the Ancients. I edged inside, and crept round the rock corners. Behind me I heard the shuffle and scrape as the bulkier men felt their way in. Suddenly the light burst upon me, for the moment almost paralysing me with fright. I stood motionless by the rocky wall, gazing at the fantastic scene within. The Cave appeared to be about twice as large as the interior of the Great Cathedral of Lhasa. Unlike that Cathedral, which always was enshrouded in the dusk which butter lamps tried vainly to dispel, here was brightness more intense than that of the full moon on a cloudless night. No, it was much brighter than that; the quality of the light must have given me the impression of moonlight. I gazed upwards at the globes which provided the illumination. The lamas crowded in beside me, and, like me, they gazed at the source of light first. My Guide said, “The old records indicate that the illumination here was originally much brighter, these lamps are burning low with the passage of hundreds of centuries.”

Chúng tôi đứng ngây ra một lúc lâu, im lặng, dường như sợ rằng sẽ đánh thức những người đã ngủ trong nhiều năm dài vô tận. Thế rồi cùng bị đẩy đi bởi một lực, chúng tôi bước qua sàn đá cứng đến bên cỗ máy đầu tiên đứng im lìm trước mặt chúng tôi. Chúng tôi vây quanh nó, nửa sợ hãi khi chạm vào nó, nửa tò mò muốn biết nó có thể là gì. Nó đã bị xỉn màu vì thời gian,nhưng nó vẫn có vẻ sẵn sàng đi vào hoạt động ngay – nếu có ai đó biết nó dùng để làm gì và vận hành nó như thế nào. Những thiết bị khác cũng thu hút sự chú ý của chúng tôi, nhưng cũng không có kết quả gì. Những cỗ máy này quá quá tiên tiến đối với chúng ta. Tôi đi lang thang đến chỗ có một cái bệ nhỏ hình vuông rộng gần một mét, có lan can bảo vệ, nằm trên mặt đất. Ở đây xuất hiện một cái ống kim loại dài đã được cuộn lại kéo dài từ một cỗ máy bên cạnh, và một đầu ống gắn với cái bệ. Tôi vơ vẩn bước lên trên bệ có hàng rào này để xem nó có thể là cái gì. Ngay lập tức tôi xuýt chết vì sốc; chiếc bệ rùng mình một chút rồi bay cao lên không trung. Tôi sợ hãi đến nỗi bám chặt vào lan can một cách tuyệt vọng.

For long moments we stood still, silent, as though afraid of waking those who slept throughout the endless years. Then, moved by a common impulse, walked across the solid stone floor to the first machine standing dormant before us. We crowded around it, half afraid to touch it yet very curious as to what it could be. It was dulled with age, yet it appeared ready for instant use—if one knew what it was for and how to operate it. Other devices engaged our attention, also without result. These machines were far far too advanced for us. I wandered off to where a small square platform of about three feet wide, with guard rails, rested on the ground. What appeared to be a long, folded metal tube extended from a nearby machine, and the platform was attached to the other end of the tube. Idly I stepped on to the railed square, wondering what it could be. The next instant I almost died of shock; the platform gave a little tremor and rose high into the air. I was so frightened that I clung in desperation to the rails.

Bên dưới tôi, sáu vị Lạt ma đang kinh hãi nhìn lên. Chiếc ống đã mở ra và đang đung đưa chiếc bệ tới thẳng một trong số những quả cầu ánh sáng. Tuyệt vọng, tôi nhìn sang bên cạnh. Tôi đang ở độ cao khoảng chín mét và vẫn đang tiếp tục lên nữa. Tôi sợ rằng nguồn sáng này sẽ đốt cháy mình thành than giống như con thiêu thân trong ngọn lửa đèn bơ. Có tiếng “click” và chiếc bệ dừng lại. Ánh sáng phát ra cách mặt tôi chỉ vài chục xen-ti-mét. Tôi rụt rè giơ tay– và toàn bộ quả cầu lạnh như băng. Bây giờ tôi đã lấy lại được bình tĩnh phần nào và nhìn quanh. Rồi một ý nghĩ ớn lạnh ập đến; làm thế nào để tôi xuống được? Tôi nhảy từ bên này sang bên kia, cố gắng tìm cách thoát thân, nhưng dường như không có cách nào. Tôi cố gắng với tới cái ống, hy vọng có thể tụt xuống, nhưng nó quá xa. Ngay khi tôi đang trở nên tuyệt vọng, lại có một cơn rung động khác, và cái bệ bắt đầu hạ xuống. Tôi cố gắng chờ đợi cho đến khi nó chạm đất rồi nhảy ra ngoài! Tôi sẽ chẳng dại gì mà lặp lại chuyện này một lần nữa.

Below me the six lamas gazed upwards in consternation. The tube had unfolded and was swinging the platform straight to one of the spheres of light. In desperation I looked over the side. Already I was some thirty feet in the air, and rising. My fear was that the source of light would burn me to a crisp, like a moth in the flame of a butter lamp. There was a “click” and the platform stopped. Inches from my face the light glowed. Timidly I stretched out my hand—and the whole sphere was as cold as ice. By now I had regained my composure somewhat, and I gazed about me. Then a chilling thought struck me; how was I going to get down? I jumped from side to side, trying to work out a way of escape, but there appeared to be none. I tried to reach the long tube, hoping to climb down, but it was too far away. Just when I was becoming desperate, there was another tremor, and the platform started to descend. Hardly waiting for it to touch ground I leaped out! I was taking no risks that the thing would go up again.

Dựa vào bức tường phía xa có một bức tượng lớn ngồi thu lu khiến tôi rùng mình. Nó có thân hình một con mèo đang thu mình lại, nhưng có đầu và vai là của một người phụ nữ. Đôi mắt đầy vẻ sống động; vẻ mặt biểu hiện nửa nhạo báng, nửa kỳ quái làm tôi khá sợ hãi. Một vị Lạt ma quỳ xuống sàn, nhìn chăm chú vào những dấu hiệu kỳ lạ nào đó. “ Nhìn này!” ông gọi, “bức tranh chữ này cho thấy người và mèo đang nói chuyện với nhau, nó cũng cho thấy rất rõ là linh hồn đang lìa khỏi thể xác và đi lang thang trong thế giới âm.” Ông, một người say mê và đầy nhiệt huyết với khoa học, đang mải mê với những bức tranh trên sàn – “chữ tượng hình” như ông gọi chúng là như vậy – và mong rằng mọi người cũng say mê như ông. Vị Lạt ma này là người được đào tạo bậc cao, không khó để đọc được các ngôn ngữ cổ. Những người khác cũng đang say sưa đi quanh các cỗ máy kỳ lạ, cố gắng tìm hiểu xem chúng dùng để làm gì. Một tiếng hét thất thanh khiến chúng tôi quay ngoắt lại đề phòng. Vị Lạt ma cao gầy đang đứng ở chỗ bức tường phía xa và anh ta dường như bị kẹt mặt trong một cái hòm kim loại xỉn màu. Anh ta đứng đó, đầu cúi xuống và toàn bộ khuôn mặt bị che khuất. Hai người vội chạy đến và kéo anh ta ra khỏi chỗ nguy hiểm. Anh ta hét lên giận dữ và lao về phía sau!

Against a far wall crouched a great statue, one that sent a shiver up my spine. It was of a crouching cat body, but with the head and shoulders of a woman. The eyes appeared to be alive; the face had a half-mocking, half-quizzical expression which rather frightened me. One of the lamas was on his knees on the floor, gazing intently at some strange marks. “Look!” he called, “this picture-writing shows men and cats talking, it shows what is obviously the soul leaving a body and wandering in the under-world.” He was consumed with scientific zeal, poring over the pictures on the floor—“hieroglyphs” he called them—and expecting everyone else to be similarly enthused. This Lama was a highly trained man, one who learned ancient languages without any difficulties at all. The others were poking around the strange machines, trying to decide what they were for. A sudden shout made us wheel round in some alarm. The tall thin Lama was at the far wall and he seemed to have his face stuck in a dull metal box. He stood there with his head bent and the whole of his face concealed. Two men rushed to him and dragged him away from the danger. He uttered a roar of wrath and dashed back!

“Lạ thật!” tôi nghĩ, “thậm chí những Lạt ma điềm tĩnh và có sự tu luyện cũng phát điên khi ở nơi này!”. Thế rồi vị Lạt ma cao gầy đứng tránh sang một bên và một người khác thế vào chỗ của anh ấy. Tóm lại như tôi có thể thấy là họ đang quan sát máy móc dịch chuyển trong chiếc hòm. Cuối cùng Thầy tỏ ra thương hại và nhấc tôi lên chỗ trông như “những con mắt”. Khi được nhấc lên và đặt tay vào một cánh tay như hướng dẫn, tôi nhìn thấy bên trong thùng là người và những cỗ máy trong Hang. Con người đang vận hành những cỗ máy. Tôi thấy cái bệ đã nâng tôi đến chỗ quả cầu ánh sáng có thể được điều khiển và nó là một dạng “thang di động” hay nói đúng hơn là một loại thiết bị thay thế thang. Hầu hết những cỗ máy ở đây, theo tôi quan sát, đều là những mẫu hoạt động thực sự trong những năm sau này, tôi thấy trong các Viện bảo tàng khoa học trên khắp thế giới.

“Strange!” I thought, “even the sedate, learned lamas are going crazy in this place!” Then the tall, thin one moved aside and another took his place. So far as I could gather, they were seeing moving machines in that box. At last my Guide took pity on me and lifted me up to what apparently were “eye pieces”. As I was lifted up and put my hands on a handle as instructed, I saw inside the box, men, and the machines which were in this Hall. The men were operating the machines. I saw that the platform upon which I had ascended to the light-sphere could be controlled and was a type of moveable “ladder” or rather a device which would dispense with ladders. Most of the machines here, I observed, were actual working models such as, in later years, I was to see in Science Museums throughout the world.

Chúng tôi tới chỗ cánh cửa mà Thầy đã kể trước đó, và đến nơi, nó mở ra cùng với tiếng kêu cót két, tiếng động rít lên trong sự yên tĩnh của nơi này khiến tất cả chúng tôi nhảy lên đề phòng. Bên trong tối đen, sâu thẳm, chúng tôi như thể bị những đám mây đen bao bọc. Chân chúng tôi được dẫn hướng bởi một băng chuyền ở ngay trên nền nhà. Chúng tôi rê chân theo và khi băng chuyền dừng lại, chúng tôi ngồi xuống. Khi chúng tôi làm như vậy, lại có một loạt các tiếng động giống như tiếng va chạm của kim loại, và một luồng ánh sáng mờ ảo len lỏi xuyên vào bóng tối và đẩy dồn nó sang một bên. Chúng tôi nhìn quanh mình và thấy thêm nhiều máy móc, những cỗ máy kỳ lạ. Ở đây cũng có những bức tượng, những bức tranh được khắc vào kim loại. Trước khi chúng tôi có thời gian để nhìn rõ hơn, ánh sáng tự hút vào và tạo thành một quả cầu phát sáng ở trung tâm căn phòng. Những màu sắc nhấp nháy vu vơ, những dải ánh sáng xoay quanh quả cầu không biết có ý nghĩa gì. Bức tranh được hình thành, lúc đầu mờ ảo và không rõ ràng, rồi nó trở nên sống động và chân thực với hiệu ứng ba chiều. Chúng tôi chăm chú theo dõi…

We moved to the panel which the Lama Mingyar Dondup had told me about previously, and at our approach it opened with a grating creak, so loud in the silence of the place that I think we all jumped with alarm. Inside was the darkness, profound, almost as if we had clouds of blackness swirling about us. Our feet were guided by shallow channels in the floor. We shuffled along, and when the channels ended we sat. As we did so, there came a series of clicks, like metal scraping against metal, and almost imperceptibly light stole across the darkness and pushed it aside. We looked about us and saw more machines, strange machines. There were statues here, and pictures carved in metal. Before we had time to more than glance, the light drew in upon itself and formed a glowing globe in the centre of the Hall. Colours flickered aimlessly, and bands of light without apparent meaning swirled round the globe. Pictures formed, at first blurred and indistinct, then growing vivid and real and with three-dimensional effect. We watched intently . . .

Đó là thế giới từ xa xưa lắm rồi. Khi đó thế giới còn rất trẻ. Nơi những ngọn núi đang đứng bây giờ là biển, và những bãi biển thơ mộng ngày nay là những đỉnh núi. Khí hậu khi đó ấm hơn và những sinh vật kỳ lạ đi lang thang trên cánh đồng. Đó là thế giới của tiến bộ khoa học. Những cỗ máy kỳ lạ lăn tròn trên đường, hay bay là là mặt đất hoặc bay cao nhiều dặm trên không trung. Những đền thờ vĩ đại vươn cao chọc trời như thể thách thức các đám mây. Động vật và con người nói chuyện với nhau bằng thần giao cách cảm. Nhưng tất cả những cái đó không phải là hạnh phúc; các chính trị gia chiến đấu chống lại nhau. Thế giới là một trang trại lớn bị phân chia, trong đó mỗi bên đều thèm muốn đất đai của bên kia. Nghi ngờ và sợ hãi như những đám mây bao phủ những con người bình thường. Các linh mục của cả hai bên đều tuyên bố chỉ mình họ mới được các thánh thần sủng ái. Trong các bức tranh trước mặt, chúng tôi thấy các linh mục huênh hoang – như bây giờ – đang tuyên truyền cho cái khẩu hiệu cứu rỗi linh hồn của chính họ. Bằng mọi giá! Các linh mục của mỗi giáo phái dạy rằng giết kẻ thù là “ nghĩa vụ thần thánh”. Gần như cùng một giọng điệu giống hệt nhau, họ giao giảng rằng Nhân loại trên toàn thế giới là anh em. Với họ không có chuyện phi lý anh em giết nhau.

This was the world of Long Long Ago. When the world was very young. Mountains stood where now there are seas, and the pleasant seaside resorts are now mountain tops. The weather was warmer and strange creatures roamed afield. This was a world of scientific progress. Strange machines rolled along, flew inches from the surface of the Earth, or flew miles up in the air. Great temples reared their pinnacles skywards, as if in challenge to the clouds. Animals and Man talked telepathically together. But all was not bliss; politicians fought against politicians. The world was a divided camp in which each side coveted the lands of the other. Suspicion and fear were the clouds under which the ordinary man lived. Priests of both sides proclaimed that they alone were the favoured of the gods. In the pictures before us we saw ranting priests—as now—purveying their own brand of salvation. At a price! Priests of each sect taught that it was a “holy duty” to kill the enemy. Almost in the same breath they preached that Mankind throughout the world were brothers. The illogicality of brother killing brother did not occur to them.

Chúng tôi đã chứng kiến những cuộc đại chiến xảy ra, với phần lớn thương vong là dân thường. Các lực lượng vũ trang, an toàn sau áo giáp của họ, hầu hết đều không sao. Người già, phụ nữ và trẻ em, những người không tham chiến, đều là những người phải gánh chịu hậu quả. Chúng tôi đã nhìn thấy những hình ảnh về các nhà khoa học làm việc trong các phòng thí nghiệm, làm việc để sản xuất ra các vũ khí thậm chí còn nguy hiểm hơn, làm việc để tạo ra những con vi trùng gây bệnh chết người để thả vào kẻ thù. Một chuỗi các hình ảnh cho thấy một nhóm người chu đáo lên kế hoạch cho cái gọi là “Chiếc kén thời gian” (mà chúng ta gọi là “Hang động của người xưa”) là nơi trong đó họ có thể lưu giữ cho các thế hệ sau những cách thức họat động của hệ thống máy móc và những ghi chép đầy đủ bằng hình ảnh về nền văn minh của họ và của những cái chưa hình thành. Những cỗ máy khổng lồ đang khoét vào núi đá hiện tại. Những đám người lắp đặt các mô hình và máy móc. Chúng tôi thấy những quả cầu ánh sáng lạnh đang được kéo lên lắp trên cao, những vật chất dạng khí trơ có hoạt tính radio đang cung cấp ánh sáng cho hàng triệu năm. Khí trơ trong đó không có hại đối với con người, nó hoạt động tạo ra ánh sáng liên tục gần như đến khi bản thân thời gian cũng không còn.

We saw great wars fought, with most of the casualties being civilians. The armed forces, safe behind their armour, were mostly safe. The aged, the women and children, those who did not fight, were the ones to suffer. We saw glimpses of scientists working in laboratories, working to produce even deadlier weapons, working to produce bigger and better bugs to drop on the enemy. One sequence of pictures showed a group of thoughtful men planning what they termed a “Time Capsule” (what we called “The Cave of the Ancients”), wherein they could store for later generations working models of their machines and a complete, pictorial record of their culture and lack of it. Immense machines excavated the living rock. Hordes of men installed the models and the machines. We saw the cold-light spheres hoisted in place, inert radio-active substances giving off light for millions of years. Inert in that it could not harm humans, active in that the light would continue almost until the end of Time itself.

Chúng tôi nhận ra rằng mình có thể hiểu được ngôn ngữ, rồi lời giải thích được hiển thị, rằng chúng tôi đang được nghe “bài phát biểu” bằng ngoại cảm. Hang động giống như chỗ này, hoặc còn gọi là “Chiếc kén Thời gian” đang được giấu kín dưới cát bụi của Ai Cập, dưới một kim tự tháp ở Nam Mỹ, và cả một chỗ nào đó tại Siberia nữa. Mỗi chỗ đều được đánh dấu bằng một biểu tượng của thời đại; như tượng Nhân sư. Chúng tôi nhìn thấy những bức tượng Nhân sư khổng lồ không bắt nguồn từ Ai Cập, và nhận được lời giải thích về hình dáng của nó. Trong thời kỳ xa xưa đó con người và động vật đã nói chuyện và làm việc với nhau. Mèo là một động vật hoàn hảo nhất về sức mạnh và sự thông minh. Bản thân con người cũng là động vật, do đó Người xưa đã tạo nên một nhân vật có thân hình to lớn của con mèo để thể hiện sức mạnh và sự dẻo dai, và trên cơ thể đó họ đặt bộ ngực và cái đầu của người đàn bà. Cái đầu biểu thị sự thông minh và lý trí của con người, trong khi bộ ngực muốn nói lên rằng Con người và Động vật có thể lấy dưỡng chất để nuôi dưỡng tâm hồn và trí tuệ của mình từ kẻ kia. Biểu tượng này sau đó trở nên phổ biến cho đến ngày nay  như tượng Phật, hay Ngôi sao của David, hoặc cây Thánh giá.

We found that we could understand the language, then the explanation was shown, that we were obtaining the “speech” telepathically. Chambers such as this, or “Time Capsules”, were concealed beneath the sands of Egypt, beneath a pyramid in South America, and at a certain spot in Siberia. Each place was marked by the symbol of the times; the Sphinx. We saw the great statues of the Sphinx, which did not originate in Egypt, and we received an explanation of its form. Man and animals talked and worked together in those far-off days. The cat was the most perfect animal for power and intelligence. Man himself is an animal, so the Ancients made a figure of a large cat body to indicate power and endurance, and upon the body they put the breasts and head of a woman. The head was to indicate human intelligence and reason, while the breasts indicated that Man and Animal could draw spiritual and mental nourishment each from the other. That Symbol was then as common as is Statues of Buddha, or the Star of David, or the Crucifix at the present day.

Chúng tôi thấy trên các đại dương có nhiều thành phố nổi cực lớn, di chuyển từ lục địa này đến lục địa khác. Trên trời là một chiếc phi thuyền bằng phẳng đang bay không một tiếng động. Nó có thể dừng lơ lửng, và gần như chỉ trong nháy mắt nó tăng tốc độ lên vô cùng lớn. Trên mặt đất, xe cộ di chuyển cách mặt đất vài chục xen-ti-mét, được hỗ trợ trên không bằng một cách nào đó mà chúng tôi chưa thể xác định được. Những chiếc cầu vươn dài bắc qua các thành phố mang trên mình những sợi cáp mảnh mai trông như là những con đường. Trong khi quan sát chúng tôi thấy ánh chớp sáng lóe trên bầu trời, và một trong những cây cầu lớn nhất bị sụp đổ thành một đống hỗn độn các thanh dầm và dây cáp. Rồi một tia chớp khác, hầu như cả thành phố biến mất trong một quả cầu lửa chói sáng. Phía trên đống đổ nát đó là một đám mây dày đặc màu đỏ kỳ dị và gớm ghiếc, lổn nhổn trong hình hài của một cây nấm cao hàng dặm.

We saw oceans with great floating cities which moved from land to land. In the sky floated equally large craft which moved without sound. Which could hover, and almost instantly flash into stupendous speed. On the surface vehicles moved some inches above the ground itself, supported in the air by some method which we could not determine. Bridges stretched across the cities carrying on slender cables what appeared to be roadways. As we watched we saw a vivid flash in the sky, and one of the largest bridges collapsed into a tangle of girders and cables. Another flash, and most of the city itself vanished into incandescent gas. Above the ruins towered a strangely evil-looking red cloud, roughly in the shape of a mushroom miles high.

Những bức tranh mờ dần, và chúng tôi lại nhìn thấy nhóm người đang lên kế hoạch cho những “Chiếc kén thời gian”. Họ quyết định rằng bây giờ là lúc niêm phong chúng lại. Chúng tôi thấy các buổi lễ, thấy các bộ nhớ được lắp vào cỗ máy. Chúng tôi nghe thấy bài phát biểu chia tay nói với chúng tôi – “Những con người của tương lai, nếu như có!” – rằng Nhân loại đang tự hủy diệt mình, hoặc có vẻ như vậy, “trong những chiếc Hang này lưu giữ các ghi chép về thành tựu của chúng ta để chủng người tương lai có thể khai thác và sử dụng, người có đủ thông minh để phát hiện ra nó, và khi đã khám phá ra thì có khả năng hiểu được nó.” Giọng nói ngoại cảm nhỏ dần, màn hình  trở lại màu đen. Chúng tôi ngồi im, sững sờ bởi những gì vừa nhìn thấy. Một lát sau, khi chúng tôi vẫn đang ngồi, ánh sáng lại trở lại, và chúng tôi thấy rằng nó thực sự phát ra từ những bức tường của căn phòng này.

Our pictures faded, and we saw again the group of men who had planned the “Time Capsules”. They had decided that now was the time to seal them. We saw the ceremonies, we saw the “stored memories” being fitted into the machine. We heard the speech of farewell which told us—“The People of the Future, if there be any!”—that Mankind was about to destroy itself, or such seemed probable, “and within these vaults are stored such records of our achievements and follies as may benefit those of a future race who have the intelligence to discover it, and having discovered it, be able to understand it.” The telepathic voice faded out, the picture screen turned black. We sat in silence, stupefied by what we had seen. Later, as we sat, the light grew again and we saw that it was actually coming from the walls of that room.

Chúng tôi đứng dậy và nhìn quanh. Trong căn phòng này cũng có rải rác những cỗ máy và nhiều mô hình thành phố và cây cầu, tất cả được làm bằng một loại đá hoặc một loại kim loại nào đó mà bản chất của chúng là gì chúng tôi không thể xác định được. Một số đồ trưng bày được bảo vệ bằng một chất liệu hoàn toàn trong suốt ngăn cách với chúng tôi. Nó không phải là kính; chúng tôi không biết chất liệu đó là gì, chúng tôi chỉ biết rằng nó rất hiệu quả ngăn chúng tôi sờ vào các mô hình. Đột nhiên tất cả chúng tôi nhảy dựng lên; một con mắt màu đỏ đáng sợ đang nhìn và nháy mắt với chúng tôi. Tôi đã chuẩn bị bỏ chạy khi Thầy sải bước đi đến cỗ máy có con mắt đó. Ông nhìn xuống nó và chạm vào tay cầm. Con mắt đỏ biến mất. Thay vào đó trên một màn hình nhỏ chúng tôi nhìn thấy hình ảnh của một căn phòng khác thông với Đại sảnh chính. Trong óc chúng tôi xuất hiện một thông điệp, “Khi rời đi, các bạn hãy vào căn phòng này (???) trong đó các bạn sẽ thấy các loại vật chất để hàn kín bất kỳ một ô cửa mở nào mà các các bạn đã đi vào. Nếu các bạn chưa đạt được đến giai đoạn tiến hóa để có thể sử dụng được các máy móc của chúng tôi, thì hãy hàn kín chỗ đó lại và để lại nó nguyên vẹn cho những người đến sau.”

We rose and looked about us. This Hall was also littered with machines and there were many models of cities and bridges, all formed of some kind of stone or of some type of metal the nature of which we were unable to determine. Certain of the exhibits were protected by some quite transparent material which baffled us. It was not glass; we just did not know what the stuff was, all we knew was that it effectively prevented us from touching some of the models. Suddenly we all jumped; a baleful red eye was watching us, winking at us. I was prepared to run for it when my Guide the Lama Mingyar Dondup strode over to the machine with the red eye. He looked down at it and touched the handles. The red eye vanished. Instead on a small screen we saw a picture of another room leading from the Main Hall. Into our brains came a message, “As you leave, go to the room (???) where you will find materials with which to seal any opening through which you entered. If you have not reached the stage of evolution where you can work our machines, seal this place and leave it intact for those who will come later.”

Chúng tôi lặng lẽ xếp hàng đi vào phòng thứ ba, cánh cửa phòng mở ra khi chúng tôi lại gần. Nó chứa nhiều hộp nhỏ được niêm phong cẩn thận và một chiếc máy “hiển thị suy nghĩ bằng hình ảnh” mô tả cho chúng tôi cách mở những cái hộp và cách niêm phong cửa Hang động. Chúng tôi ngồi trên sàn nhà và thảo luận về những gì đã được thấy và trải nghiệm. “Tuyệt vời! Thật tuyệt vời!” một Lạt ma thốt lên. “ Chẳng có cái gì tuyệt vời ở đây cả,” tôi vô lễ nói. “Chúng ta có thể thấy tất cả những cái này bằng việc nhìn vào Hồ sơ Akashic. Tại sao chúng ta không nhìn vào hình ảnh của dòng chảy thời gian đó và xem điều gì sẽ xảy ra sau khi chỗ này được đóng kín lại?” Mọi người tò mò quay về phía trưởng đoàn là Lạt ma Minh gia Đại đức. Ông khẽ gật đầu và nhận xét, “Đôi khi Lobsang của chúng ta cũng tỏ ra thông minh đột xuất đấy nhỉ! Chúng ta hãy liên kết lại và cùng nhau xem cái gì sẽ xảy ra, vì ta cũng tò mò như các bạn.” Chúng tôi ngồi thành vòng tròn, mặt quay vào nhau, các ngón tay đan chéo nhau theo đúng kiểu. Thầy tôi bắt đầu nhịp thở và tất cả chúng tôi làm theo hướng dẫn. Từ từ chúng tôi không còn ở Trái đất nữa và đang trôi nổi trong biển thời gian.Tất cả những gì đã từng xảy ra đều có thể được nhìn thấy bởi những người có khả năng di chuyển trong thể vía một cách có ý thức và cũng trở lại có chủ ý cùng với những kiến thức thu hoạch được. Bất kỳ một sự kiện nào trong lịch sử, cho dù từ kỷ nguyên xa xưa đến đâu, đều có thể được nhìn thấy như là thực tế nó đã là như vậy.

Silently we filed out into the third room, the door of which opened at our approach. It contained many carefully sealed canisters and a “picture-thought” machine which described for us how we might open the canisters and seal the Cave entrance. We sat upon the floor and discussed that which we had seen and experienced. “Wonderful! Wonderful!” said a lama. “Don’t see anything wonderful in it,” said I, brashly. “We could have seen all that by looking at the Akashic Record. Why should we not look at those time-stream pictures and see what happened after this place was sealed up?” The others turned enquiringly to the senior of the party, the Lama Mingyar Dondup. He nodded slightly and remarked, “Sometimes our Lobsang shows glimmerings of intelligence! Let us compose ourselves and see what happened, for I am as curious as you.” We sat in a rough circle, each facing in, and with our fingers interlocked in the appropriate pattern. My Guide started the necessary breathing rhythm and we all followed his lead. Slowly we lost our Earth identities and became as one floating in the Sea of Time. All that has ever happened can be seen by those who have the ability to consciously go into the astral and return—conscious—with the knowledge gained. Any scene in history, from an age no matter how remote, can be seen as if one were actually there.

Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên được trải nghiệm với “Hồ sơ Akashic”. Thầy đã nói với tôi về những thứ như thế, và tôi đã đáp lại, “ Vâng, nhưng nó là gì? Nó hoạt động như thế nào? Làm thế nào để một người có thể tiếp xúc được với những thứ đã đi qua, đã kết thúc và không còn nữa?” “Lobsang!” Ngài trả lời, “Con sẽ phải đồng ý rằng con có trí nhớ. Con có thể nhớ những gì xảy ra hôm qua, hôm kia, và hôm kìa. Bằng một chút rèn luyện con có thể nhớ được mọi thứ đã xảy ra trong cuộc đời mình, con, cũng bằng rèn luyện, có thể nhớ thậm chí cả quá trình từ khi mới sinh ra. Con có thể có cái gọi là “toàn bộ ký ức” và cái đó sẽ đưa trí nhớ của con về lại thời kỳ trước khi con sinh ra. Hồ sơ Akashic đơn giản chỉ là “bộ nhớ” của toàn thế giới. Mọi thứ đã từng xảy ra trên Trái đất này đều có thể ‘gợi lại’ theo đúng như cách con có thể nhớ lại các sự kiện đã qua trong cuộc đời mình. Không có liên quan gì đến ma thuật, nhưng chúng ta sẽ đề cập đến điều đó và vấn đề thôi miên – một đề tài có liên quan mật thiết – trong một ngày sắp tới.

I remembered the first time I had experienced the “Akashic Record.” My Guide had been telling me about such things, and I had replied, “Yes, but what is it? How does it work? How can one get in touch with things that have passed, that are finished and gone?” “Lobsang!” he had replied, “you will agree that you have a memory. You can remember what happened yesterday, and the day before, and the day before that. With a little training you can remember everything that has happened in your life, you can, with training remember even the process of being born. You can have what we term ‘total recall’ and that will take your memory back to before you were born. The Akashic Record is merely the ‘memory’ of the whole world. Everything that has ever happened on this Earth can be ‘recalled’ in just the same way as you can remember past events in your life. There is no magic involved, but we will deal with that and hypnotism—a closely related subject—at a later date.”

Chúng tôi đã được huấn luyện nên thực ra cũng dễ để xác định được điểm mà tại đó chiếc máy tắt đi hình ảnh. Chúng tôi đã thấy qui trình những người đàn ông và đàn bà, rõ ràng họ là những người quan trọng, xếp hàng đi ra khỏi Hang động. Những cỗ máy với cánh tay to lớn đẩy một vật phải bằng một nửa ngọn núi lấp vào cửa hang. Những vết nứt và kẽ hở nơi các bề mặt tiếp xúc với nhau đều được bịt lại cẩn thận, rồi nhóm người đó cùng công nhân rời đi. Các cỗ máy tự lăn ra xa và sau một thời gian, vài tháng sau, khung cảnh trở nên vắng lặng. Chúng tôi đã thấy linh mục cấp cao đang đứng trên các bậc thang của một Kim tự tháp khổng lồ, đang hô hào chiến tranh với công chúng. Những hình ảnh này gây ấn tượng lên Dòng thời gian đang chuyển động và thay đổi, và chúng tôi cũng thấy phe phái chống đối, thấy các nhà lãnh đạo la hét và giận dữ. Thời gian trôi đi. Chúng tôi thấy những vệt khói trắng trên bầu trời xanh, và rồi cả bầu trời chuyển sang đỏ rực. Cả thế giới run rẩy và rung chuyển. Chúng tôi quan sát mà thấy chóng mặt. Bóng đêm đen bao trùm toàn thế giới. Những đám mây đen, bắn ra các tia lửa chói lọi, cuộn quanh quả địa cầu. Các thành phố bùng cháy và chẳng mấy chốc biến mất.

With our training it was easy indeed to select the point at which the Machine had faded out its pictures. We saw the procession of men and women, notables of that time no doubt, file out of the Cave. Machines with vast arms slid what appeared to be half a mountain over the entrance. The cracks and crevices where surfaces met were carefully sealed, and the group of people and the workmen went away. Machines rolled into the distance and for a time, some months, the scene was quiet. We saw a high priest standing on the steps of an immense Pyramid, exhorting his listeners to war. The pictures impressed upon the Scrolls of Time rolled on, changed, and we saw the opposing camp. Saw the leaders ranting and raving. Time moved on. We saw streaks of white vapour in the blue of the skies, and then those skies turned red. The whole world trembled and shook. We, watching, experienced vertigo. The darkness of the night fell over the world. Black clouds, shot with vivid flames, rolled around the whole globe. Cities flamed briefly and were gone.

Biển dữ dội trào dâng lên khắp đất liền. Một cơn sóng khổng lồ, cao hơn tòa nhà cao nhất, đã chồm vào đất liền, quét đi tất cả những gì ở trước mặt, trôi lềnh bềnh trên đỉnh ngọn sóng là những thứ của một nền văn minh đang chết. Trái đất ầm ầm rung chuyển trong đau đớn, các khe nứt khổng lồ xuất hiện rồi lại khép lại giống như dạ dày xếp nếp của người khổng lồ. Những ngọn núi ngả nghiêng như cây dương liễu vẫy vùng trong giông bão, uốn lượn, rồi chìm sâu xuống biển. Các khối lục địa trồi lên trên mặt nước và biến thành các ngọn núi.  Toàn bộ bề mặt trái đất ở trạng thái thay đổi và chuyển động liên tục. Chỉ có một ít người rải rác trong số hàng triệu người sống sót, họ la hét chạy trốn trên những ngọn núi mới trồi lên. Những người khác, ở trên những con tàu bằng cách nào đó mà đã sống sót sau cơn chấn động, thì đến được vùng đất cao và đã trốn tránh vào bất kỳ nơi ẩn náu nào có thể tìm thấy. Bản thân Trái đất đứng im, dừng lại không quay theo chiều của nó nữa, và rồi nó đảo chiều quay theo chiều ngược lại. Những rừng cây trong nháy mắt biến thành tro bụi. Bề mặt Trái đất trở nên hoang tàn, đổ nát, cháy đen. Ẩn nấp trong các hố sâu, hoặc trong những hầm dung nham của các núi lửa đã tắt, một nhúm dân cư sống sót trên Trái đất, phát điên vì thảm họa, co mình lại, run rẩy trong nỗi kinh hoàng. Từ trên bầu trời đen kịt rơi xuống một chất màu trắng, hương vị ngọt ngào, nuôi dưỡng sự sống.

Across the land surged the raging seas. Sweeping all before it, a giant wave, taller than the tallest building had been, roared across the land, its crest bearing aloft the flotsam of a dying civilization. The Earth shook and thundered in agony, great chasms appeared and closed again like the gaping maws of a giant. The mountains waved like willow twigs in a storm, waved, and sank beneath the seas. Land masses rose from the waters and became mountains. The whole surface of the world was in a state of change, of continuous motion. A few scattered survivors, out of millions, fled shrieking to the newly risen mountains. Others, afloat in ships that somehow survived the upheaval, reached the high ground and fled into any hiding place they could find. The Earth itself stood still, stopped its direction of rotation, and then turned in the opposite direction. Forests flashed from trees to scattered ash in the twinkling of an eye. The surface of the Earth was desolate, ruined, charred to a black crisp. Deep in holes, or in the lava-tunnels of extinct volcanoes, a scattered handful of Earth’s population, driven insane by the catastrophe, cowered and gibbered in their terror. From the black skies fell a whitish substance, sweet to the taste, sustaining of life.

Trải qua nhiều thế kỷ Trái đất lại thay đổi; biển biến thành đất liền, và nơi đã từng là đất liền nay trở thành biển. Một vùng đất thấp đã tách ra tạo thành rãnh nứt, nước đã tràn vào tạo thành biển như chúng ta đã biết bây giờ là Địa Trung Hải. Một vùng biển khác ở gần đó đã chìm xuống qua một khe hở dưới đáy biển, và khi nước rút đi hết, đáy biển khô đi, và sa mạc Sahara hình thành. Trên khắp mặt đất, những bộ lạc người hoang dã sống lang thang, dưới ánh lửa trại, họ kể lại những truyền thuyết cố xưa, kể về trận đại hồng thủy Lemuria, rồi Atlantis. Họ cũng kể về cái ngày Mặt trời đứng im.

In the course of centuries the Earth changed again; the seas were now land, and the lands that had been were now seas. A low-lying plain had its rocky walls cracked and sundered, and the waters rushed in to form the Sea now known as the Mediterranean. Another sea nearby sank through a gap in the sea bed, and as the waters left and the bed dried, the Sahara Desert was formed. Over the face of the Earth wandered wild tribes who, by the light of their camp fires, told of the old legends, told of the Flood of Lemuria, and Atlantis. They told, too, of the day the Sun Stood Still.

Hang động Người xưa nằm chôn vùi trong bùn đất của trái đất đang bị ngập trong lưng chừng nước. Nó nằm rất sâu dưới mặt đất và an toàn trước những kẻ xâm nhập. Theo thời gian, những dòng nước chảy xiết đã cuốn trôi bùn đất, cát sỏi, và cho phép các tảng đá lại đứng trơ dưới ánh sáng mặt trời một lần nữa. Cuối cùng, bị mặt trời đốt nóng và những cơn mưa đá bất chợt làm lạnh, bề măt tảng đá đã nứt ra phát ra tiếng động vang như sấm, và chúng ta có thể đi vào bên trong.

The Cave of the Ancients lay buried in the silt of a half-drowned world. Safe from intruders, it rested far beneath the surface of the land. In course of time, fast-running streams would wash away the silt, the debris, and allow the rocks to stand forth in the sunlight once more. At last, heated by the sun and cooled by a sudden icy shower, the rock face would split with thunderous noise and we would be able to enter.

Chúng tôi rùng mình, duỗi chân tay đang bị chuột rút và mệt mỏi đứng lên. Trải nghiệm này khiến chúng tôi choáng váng. Bây giờ chúng tôi phải ăn, phải ngủ, và ngày mai chúng tôi sẽ phải nhìn lại xung quanh để xem có thể chúng tôi sẽ học thêm được một cái gì đó. Thế rồi nhiệm vụ của chúng tôi hoàn thành, chúng tôi sẽ lấp kín lối vào như đã được hướng dẫn. Chiếc hang sẽ lại nằm im trong yên bình cho đến khi có những con người thiện chí và thông minh vượt trội sẽ lại đến đây. Tôi đi lang thang ra miệng Hang động và nhìn xuống cảnh hoang vu ở bên dưới, những tảng đá bị chẻ ra, và tôi tự hỏi con người Cổ đại sẽ nghĩ gì nếu họ có thể đội mồ sống dậy để đứng bên cạnh tôi, ngay ở đây. Khi tôi quay vào bên trong, tôi ngạc nhiên trước sự tương phản; một Lạt ma đang đánh lửa bằng đá lửa và bùi nhùi, đốt cháy đám phân bò khô mà chúng tôi mang đi cho mục đích này. Xung quanh chúng tôi là những cỗ máy và những tạo tác của thời cổ xưa. Chúng tôi – những con người hiện đại – đang đun nước bằng lửa đốt phân bò, bao quanh là những máy móc kỳ lạ đến nỗi chúng vượt quá sự hiểu biết của chúng tôi. Tôi thở dài và quay lại với ý nghĩ bây giờ phải trộn trà với tsampa.

We shook ourselves, stretched our cramped limbs, and rose wearily to our feet. The experience had been a shattering one. Now we had to eat, to sleep, and on the morrow we would look about us again so that we might perhaps learn something. Then, our mission accomplished, we would wall up the entrance as directed. The Cave would sleep again in peace until men of goodwill and high intelligence would come again. I wandered to the Cave mouth and looked down upon the desolation, upon the riven rocks, and I wondered what a man of the Old Times would think if he could rise from his grave to stand beside me, here. As I turned in to the interior I marveled at the contrast; a lama was lighting a fire with flint and tinder, igniting some dried yak dung which we had brought for that purpose. Around us were the machines and artifacts of a bygone age. We—modern men—were heating water over a dung fire, surrounded by such marvelous machines that they were beyond our comprehension. I sighed, and turned my thoughts to that of mixing tea and tsampa

Người dịch: Phạm Thị Liễu

Biên tập : VMC Việt Nam