Chầm chậm, mặt trời lặn xuống dần phía sau dãy núi xa, in bóng những đỉnh núi cao trong ánh sáng rực cuối ngày. Những dòng bọt mong manh từ những ngọn núi cao chót vót bắt gặp ánh sáng đang mờ dần, phản chiếu vô số những sắc màu thay đổi và dao động với những làn gió đêm dịu dàng. Bóng xế tà màu tím sâu thẳm cuốn vào các hốc núi như những sinh vật đêm ra ngoài chơi đùa. Cuối cùng, màn đêm mượt như nhung len lỏi dọc bên dưới thấp cung điện Potala, rồi lên cao hơn nữa, cho đến khi chỉ còn các mái vàng phản xạ tia sáng yếu ớt cuối cùng, trước khi chúng cũng hoàn toàn bị phủ kín trong bóng tối khi đêm tràn đến. Từng tia sáng nhỏ một chập chờn xuất hiện, giống như những viên đá quý sống động được khảm trên nền đen để phô bày nổi bật hơn.
SLOWLY the sun sank behind the distant mountain range, outlining the high peaks in the late effulgence. The faint spume streaming from the towering pinnacles caught the fading light and reflected a myriad of hues which changed and fluctuated with the vagaries of the soft evening breeze. Deep purple shadows stole from the hollows like creatures of the night coming out to play. Gradually the velvet darkness crept up along the base of the Potala, climbing ever higher, until only the golden roofs reflected a last gleam before they too were submerged in the encroaching darkness. One by one little glimmers of light appeared, like living jewels placed upon blackness for greater display.
Bức tường núi của Thung lũng nổi bật lên vững chãi và khắc khổ, với ánh sáng phía sau nó càng ngày càng yếu dần. Nơi đây, trên quê hương sỏi đá của mình, chúng tôi bắt gặp được một thoáng cuối cùng của mặt trời lặn khi nó chiếu sáng qua một khe đá. Sau đó cả chúng tôi cũng chìm trong bóng tối. Chúng tôi không được sử dụng ánh sáng, bị cấm hoàn toàn vì sợ lộ nơi trú ẩn. Đối với chúng tôi thì chẳng có gì ngoài bóng tối của đêm đen, và bóng tối trong tư tưởng chính mình khi nhìn xuống đất nước bị xâm lược một cách bội bạc.
The mountainous wall of the Valley stood out hard and austere, with the light behind it diminishing in intensity. Here, in our rocky home, we caught a last glimpse of the declining sun as it illuminated a rocky pass. Then we too were in darkness. No light for us, we were denied all for fear of betraying our sanctuary. For us there was naught but the darkness of the night and the darkness of our thoughts as we gazed upon our treacherously invaded land.
“Người anh em,” vị Lạt Ma mù nói, mà tôi gần như quên mất sự hiện diện của ông trong khi mải suy tư về những ý nghĩ buồn rầu của mình. “Người anh em, chúng ta sẽ đi chứ?” Chúng tôi cùng nhau ngồi trong tư thế hoa sen và thiền định về những việc mà chúng tôi chuẩn bị làm. Gió đêm nhẹ nhàng rền rĩ, vờn xung quanh vách đá cheo leo và những đỉnh núi đá cao ngất, thì thầm qua cửa sổ. Với một cú giật không lấy gì làm thú vị mà nó thường đi kèm khi thoát ra, vị Lạt Ma mù – bây giờ không còn mù nữa – và tôi bay vụt ra khỏi thân xác thuộc về trái đất, đi vào sự tự do của thế giới khác.
“Brother,” said the blind lama, whose presence I had almost forgotten while thinking my own unhappy thoughts. “Brother, shall we go?” Together we sat in the lotus position and meditated upon that which we were going to do. The gentle night wind moaned softly in ecstasy as it played around the crags and pinnacles of rock and whispered in our window. With the not unpleasing jerk which so often accompanies such release, the blind lama—now blind no longer—and I soared from our earthly bodies into the freedom of another plane.
“Được nhìn lại thích thật,” vị Lạt Ma nói, “Vì người ta chỉ trân trọng thị giác của mình khi nó không còn nữa.” Chúng tôi cùng nhau lướt đi, dọc theo con đường mòn quen thuộc tới nơi mà chúng tôi gọi là Sảnh Ký Ức. Đi vào trong im lặng, chúng tôi nhìn thấy rằng những người khác đang chăm chú nghiên cứu Thư Viện Vũ Trụ Akashic nhưng những gì họ thấy là vô hình đối với chúng tôi, cũng như hình ảnh của riêng chúng tôi là vô hình đối với họ.
“Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu, Người Anh Em,” vị lạt ma già nói. “Chúng ta không muốn xâm phạm bừa bãi,” tôi trả lời, “mà chúng ta sẽ xem những gì cần để hiểu được người đàn ông này là người như thế nào.”
“It is good to see again,” said the lama, “for one treasures one’s sight only when it is gone.” We floated along together, along the familiar path to that place which we termed the Hall of Memories. Entering in silence, we saw that others were engaged in research into the Akashic but what they saw was invisible to us, as our own scenes would be invisible to them.
“Where shall we start, Brother,” said the old lama. “We do not want to intrude,” I replied, “but we should see what sort of a man with whom we deal.”
Chúng tôi im lặng trong một lát, khi trước mặt là những bức hình sắc nét và rõ ràng được hình thành. “Ê!” tôi nhảy dựng lên hốt hoảng. “Ông ấy đã kết hôn. Tôi phải làm sao bây giờ? Tôi là một nhà sư độc thân! Tôi xin rút lui ngay nhé.” Tôi hốt hoảng vô cùng và chỉ dừng lại khi thấy vị lạt ma già đang cười rung cả người. Ông phải cười toáng lên đến mức không thể nói được mất một lúc.
“Người anh em à, Lobsang,” cuối cùng ông cũng nói được, “Cậu đã làm cho những ngày cuối đời của ta thật sư sống động. Đầu tiên ta đã nghĩ rằng toàn bộ các tầng quỷ dữ đã cắn cậu ngay chỗ ngồi nên mới phải nhảy lên cao như vậy. Bây giờ, Người anh em, có vấn đề gì đâu, mà trước tiên hãy để ta “chọc” cậu một cách thân thiện nhé. Cậu đã nói với ta về thế giới phương Tây, và niềm tin kỳ lạ của họ. Hãy để ta trích dẫn cho cậu điều này, từ Kinh thánh của họ: ‘Hôn nhân là liêm chính trong mọi trường hợp’ (Thánh thư, Chương Mười Ba, Đoạn Bốn).” Một lần nữa, ông lại bật cười, và tôi nhìn ông càng rầu rĩ hơn nữa, ông cười mãi đến khi cuối cùng phải dừng lại vì kiệt sức.
“Người Anh em,” ông tiếp tục nói khi lấy lại sức, “những người dẫn dắt chúng ta đã tính trước việc đó rồi. Cậu và người phụ nữ đó có thể sống cùng nhau trong tình bạn đồng hành, vì chẳng phải những nhà sư và những nữ tu cùng sống dưới một mái nhà đó sao? Chúng ta không nên tự tạo vấn đề khi không có vấn đề gì ở đó. Chúng ta tiếp tục xem Tiên Thiên Khí Ảnh nào.”
For a while there was silence between us as pictures sharp and clear formed for us to see. “Eek!” I exclaimed jumping up in alarm. “He is married. What can I do about that? I am a celibate monk! I am getting out of this.” I turned in great alarm and was stopped by the sight of the old man fairly shaking with laughter. For a time his mirth was so great that he simply could not speak.
“Brother, Lobsang,” he managed to say at last, “you have greatly enlivened my declining days. I thought at first that the whole hierarchy of devils had bitten you as you sat, you jumped so high. Now, Brother, there is no problem at all, but first let me have a friendly ‘dig’ at you. You were telling me of the West, and of their strange beliefs. Let me quote you this, from their own Bible: ‘Marriage is honourable in all’ (Hebrews, Chapter Thirteen, Verse Four).” Once again he was attacked by a fit of laughter, and the more glumly I looked at him, the more he laughed, until in the end he stopped from exhaustion.
“Brother,” he continued, when he was able, “those who guide us and help us had that in mind. You and the lady may live together in a state of companionship, for do not our own monks and nuns live at times under the same roof? Let us not see difficulties where none exist. Let us continue with the Record.”
Thở dài buồn bã, tôi im lặng gật đầu. Lúc này, tôi không còn thốt lên được một lời nào nữa. Càng nghĩ về tất cả mọi thứ, tôi càng không thích chút nào. Tôi nghĩ về Thầy mình, Đại Đức Lạt Ma Minh Gia, đang ngồi ở đâu đó trên Vùng Hoàng Kim. Mặt mày của tôi chắc hẳn đã xầm xì lắm, vì vị lạt ma lại bắt đầu cười.
Cuối cùng, cả hai chúng tôi cùng bình tĩnh lại và cùng nhau xem những hình ảnh sống động từ Thư Viện Vũ Trụ Akashic. Tôi nhìn thấy người đàn ông mà cơ thể của ông ta đang chờ mình tiếp nhận. Chú tâm hơn, tôi quan sát thấy ông ta đang làm phẫu thuật. Trước sự thích thú của tôi, ông ấy có vẻ thành thạo những gì đang làm, ông ấy là một nhà phẫu thuật biết việc, và tôi đã gật đầu đồng tình khi quan sát ông ta xử lý hết ca nọ đến ca kia.
Các khung cảnh chuyển tiếp và chúng tôi có thể nhìn thấy thành phố Luân Đôn, nước Anh, cứ chúng tôi đang trà trộn trong đám đông ở đó. Những chiếc xe buýt màu đỏ khổng lồ gầm rú dọc theo những con phố, len lỏi ra vào dòng phương tiện giao thông và chuyên chở rất nhiều người. Những tiếng thét kinh sợ vang lên và chúng tôi thấy mọi người lao đến trú ẩn trong những tòa nhà bằng đá kỳ lạ được dựng lên trên đường phố. Có những tiếng “phập phập” không dứt của pháo phòng không và máy bay chiến đấu kêu vò vò khắp bầu trời. Theo bản năng, chúng tôi cúi xuống khi bom rớt từ một trong những chiếc máy bay đó, và rít lên khi lao xuống đất. Trong khoảnh khắc, một sự im ắng câm lặng, và sau đó là Ầm! Những tòa nhà văng lên cao rồi sụp xuống trong cát bụi rồi vỡ vụn.
With a heart-felt sigh, I nodded dumbly. Words for the moment were quite beyond me. The more I thought of it all, the less I liked any of it. I thought of my Guide, the Lama Mingyar Dondup, sitting in comfort somewhere up in the Land of the Golden Light. My expression must have become blacker and blacker, for the old lama started laughing again.
At last we both calmed down and together watched the living pictures of the Akashic Record. I saw the man whose body it was hoped I would take. With increasing interest I observed that he was doing surgical fitting. To my delight it was obvious that he certainly knew what he was doing, he was a competent technician, and I nodded in involuntary approval as I watched him deal with case after case.
The scene moved on and we were able to see the city of London, in England, just as if we mingled with the crowds there. The huge red buses roared along the streets, weaving in and out of traffic and carrying great loads of people. A hellish shrieking and wailing broke out and we saw people dart for shelter in strange stone buildings erected in the streets. There was the incessant “crump-crump” of anti-aircraft shells and fighters droned across the sky. Instinctively we ducked as bombs fell from one of the planes and whistled down. For a moment there was a hushed silence, and then whoom! Buildings leaped into the air and came down as dust and rubble.
Dưới đường tàu điện ngầm sâu trong lòng đất, người ta đang sống như người hang động, rúc vào những nơi trú ẩn khi đêm xuống, và lại ngoi lên mặt đất như những con chuột trũi vào buổi sáng. Toàn thể các gia đình dường như sống ở đó, ngủ trên những chiếc giường tạm bợ, và cố gắng có được một chút riêng tư bằng cách che rèm bằng những chiếc chăn ở bất cứ điểm nào nhô ra từ những bức tường ốp gạch trơn nhẵn.
Có vẻ tôi đang đứng trên nền bằng kim loại cao, bên trên những mái nhà của London, với tầm nhìn rõ ràng tới tòa nhà mà người ta gọi là “Cung điện”. Một chiếc máy bay duy nhất bổ nhào từ những đám mây, và ba quả bom lao xuống mái nhà của Vua Anh Quốc. Tôi nhìn xung quanh. Khi xem qua Thư viện Vũ trụ Akashic, ta “chứng kiến” như những người ở đó, vì thế vị lạt ma già và tôi đều nhìn thấy như thể cả hai chúng tôi là nhân vật chính. Tôi cảm giác như mình đang đứng trên cầu thoang thoát hiểm chạy ngang trên một mái nhà ở Luân Đôn. Tôi đã từng nhìn thấy những thứ này trước đây, nhưng vẫn phải giải thích tác dụng của chúng cho người bạn đồng hành của mình. Sau đó, tôi chợt nhận ra, ông ta –một người mà tôi đang quan sát – đang làm nhiệm vụ quan sát máy bay, để cảnh báo cho những người bên dưới khi có nguy hiểm. Còi báo động vang lên lần nữa, tín hiệu An Toàn, tôi nhìn thấy người đàn ông trèo xuống và bỏ cả chiếc mũ Quản giáo Phòng không của mình ra.
Down in the deep subways of the underground railways, people were living a strange, troglodytic existence, going to the shelters at night, and emerging like moles in the morning. Whole families apparently lived there, sleeping upon make-shift bunks, and trying to obtain a little privacy by draping blankets from any available protrusion in the smooth tiled walls.
I seemed to be standing on an iron platform high above the roof tops of London, with a clear view across to the building which people called “The Palace”. A lone plane dived from the clouds, and three bombs sped down to the home of the King of England. I looked about me. When seeing through the Akashic Record one “sees” as did the principal character, so the old lama and I both saw as if both of us were the chief figure. It seemed to me that I was standing on a fire escape stretching across the rooftops of London. I had seen such things before, but I had to explain the use of it to my companion. Then it dawned on me, he—the figure I was watching—was doing aircraft spotting in order to give warning to those below if imminent danger should threaten. The sirens sounded again, the All Clear, and I saw the man climb down and remove his Air Raid Warden’s steel helmet.
Vị lạt ma già quay sang tôi cười, “Điều này thú vị nhất, ta chưa từng quan sát các sự kiện ở phương Tây, mối quan tâm của ta chỉ giới hạn trong đất nước mình. Ta bây giờ đã hiểu ý cậu khi nói rằng ‘một bức tranh bằng cả nghìn lời nói’. Chúng ta phải xem tiếp thôi.”
Khi ngồi và theo dõi Tiên Thiên Khí Ảnh, chúng tôi thấy các đường phố của Luân Đôn bị cắt điện, với những chiếc xe ô tô trang bị những đèn pha có lá chắn đặc biệt. Người ta đi đâu cũng va vào cột và vào nhau. Bên trong tàu điện ngầm, trước khi lên đến mặt đất, đèn sáng thường bị tắt đi, và những đèn xanh mờ được bật lên. Đèn pha rọi chĩa thẳng lên trên bầu trời đêm, đôi lúc rọi sáng vỏ ngoài xám của khinh khí cầu phòng không. Vị lạt ma già ngắm nhìn những quả khinh khí cầu trong niềm say mê tuyệt đối. Du hành bằng thể vía, ông hiểu rất rõ, nhưng những con quái vật màu xám này, được cột dây bay lên cao, chuyển động không ngừng trong gió đêm thực sự làm ông kinh ngạc. Thú thực, tôi tự nhận thấy biểu cảm của người bạn đồng hành cũng thú vị không khác gì những hình ảnh từ Thư Viện Vũ Trụ Akashic.
The old lama turned to me with a smile, “This is most interesting, I have not watched events in the occident, my interests have been confined to our own country. I now understand what you mean when you say that ‘one picture is worth a thousand words’. We must look again.”
As we sat and watched the Record we saw the streets of London blacked out, with motor cars fitted with special headlamp shields. People bumped into posts and into each other. Inside the subway trains, before they came to the surface, the ordinary lights were switched off, and dismal blue bulbs were switched on. The beams of searchlights probed into the night sky, sometimes illuminating the gray sides of the barrage balloons. The old lama looked at the balloons in absolute fascination. Astral traveling he well understood, but these gray monsters, tethered on high, shifting restlessly in the night wind really amazed him. I confess that I found my companion’s expression as interesting as the Akashic Record.
Chúng tôi quan sát người đàn ông ra khỏi tàu và bước đi dọc theo các con phố tối tăm đến khi tới một khu căn hộ lớn. Chúng tôi thấy ông bước vào, nhưng không vào cùng với ông ta; thay vào đó, chúng tôi quan sát cảnh tượng bận rộn bên ngoài. Những ngôi nhà đổ nát vì bom, và những người đàn ông vẫn đang đào bới để cứu những người còn sống và tìm những kẻ đã chết. Tiếng còi báo động rền rĩ làm gián đoạn hoạt động cứu hộ. Giống như những con bướm đêm dập dờn trong ánh đèn, những chiếc máy bay ném bom của kẻ địch hiện rõ trong chùm ánh sáng phòng không chằng chịt. Ánh sáng lấp lánh từ một trong những máy bay ném bom thu hút ánh nhìn tò mò của chúng tôi, và sau đó chúng tôi thấy rằng “ánh sáng” chính là những trái bom đang lao xuống. Nó rớt với một tiếng “rầm” bên cạnh khối nhà cao tầng. Một ánh chớp lóe sáng chói và cơn mưa gạch vụn. Người ta chạy túa ra khỏi tòa nhà, lao ra đường phố không chắc là đã an toàn.
“Ở Thượng Hải có tệ hơn thế này không, Người anh em?” vị lạt ma già hỏi.
“Tệ hơn nhiều,” tôi trả lời. “Chúng tôi không có phòng không và phương tiện rất hiếm. Như ông đã biết, tôi đã bị vùi một thời gian trong một hầm trú ẩn ở đó, và phải rất khó khăn mới thoát được.”
We watched the man get out of the train and walk along the darkened streets until he reached a large block of flats. We watched him enter, but did not enter with him; instead we looked at the busy scene outside. Houses were wrecked by bombs, and men were still digging in order to recover the living and the dead. The wail of the sirens interrupted rescue operations. Far up, like moths fluttering in the lamplight, enemy bombers were caught in a criss-cross of searchlight beams. Glinting light from one of the bombers attracted our curious gaze, and then we saw that the “lights” were the bombs on their way down. One dropped with a “crump” into the side of the big block of flats. There was a vivid flash and a shower of shattered masonry. People came pouring out of the building, came out into the doubtful safety of the streets.
“You have had worse than this, my Brother, in Shanghai?” asked the old lama.
“Much worse,” I replied. “We had no defenses and scant facilities. As you know, I was buried for a time in a wrecked shelter there, and escaped only with great difficulty.”
“Chúng ta sẽ tiếp tục dịch chuyển đến một thời gian khác chứ?” người bạn đồng hành của tôi đề nghị. “Chúng ta không cần phải xem đến hết vì sức cả hai ta đểu đã bị yếu đi.”
Tôi rất sốt sắng đồng ý. Tôi chỉ đơn thuần cần biết người mà tôi sắp sửa tiếp nhận cơ thể là người như thế nào. Đối với tôi thì chả hứng thú tí nào với việc soi mói cuộc đời của người khác. Chúng tôi di chuyển dọc theo Thư viện, tạm dừng xem xét, và lại đi tiếp. Ánh sáng ban mai bị đầu độc bởi khói bốc lên từ rất nhiều những đám cháy. Đêm hôm đó như là một đám cháy địa ngục. Dường như đến một nửa Luân Đôn đã bị cháy trụi.
“Shall we move on a little in time?” asked my companion. “We do not need to watch endlessly for we are both enfeebled in health.”
I agreed with the utmost alacrity. I merely needed to know what sort of person it was from whom I was going to take over. For me there was no interest whatever in prying into the affairs of another. We moved along the Record, halted experimentally, and moved on again. The morning light was besmirched by the smoke of many fires. The night hours had been an inferno. It seemed that half London was ablaze.
Người đàn ông đi bộ xuống con phố rải rác những mảnh vỡ, một nơi đã từng bị ném bom nặng nề. Tại chỗ rào chắn tạm thời, một người Cảnh sát Tình nguyện ngăn ông ta lại. “Anh không thể đi xa hơn nữa, các tòa nhà đang rất nguy hiểm.” Chúng tôi thấy vị Giám đốc điều hành đến và trao đổi với người đàn ông đang quan sát. Nói vài lời với viên cảnh sát, họ luồn dưới sợi dậy thừng và cùng nhau đi đến tòa nhà đã đổ vỡ. Những tia nước đang phun ra từ những đường ống bị vỡ. Hệ thống ống nước và dây điện được bện chặt với nhau, giống như cuộn len bị một con mèo nhỏ vờn. Một chiếc két sắt treo bấp bênh trên gờ của một lỗ hổng lớn. Những mảnh giẻ ướt sũng vẫy vùng thảm hại trong gió, và từ những tòa nhà liền kề, tàn giấy vụn bị cháy bay xuống giống như những mảnh tuyết đen như than. Tôi là người đã từng nhìn thấy nhiều về chiến tranh và chịu nhều đau khổ hơn hết, vẫn cảm thấy đau khổ vì sự tàn phá vô nghĩa. Những hình ảnh tiếp tục …
The man walked down the debris-littered street, a street that had been heavily bombed. At a temporary barricade a War Reserve policeman stopped him. “You cannot go any farther, sir, the buildings are dangerous.” We saw the Managing Director arrive and speak to the man whose life we were watching. With a word to the policeman, they ducked under the rope and walked together to the shattered building. Water was spraying over all the stock from broken pipes. Plumbing and electric wires were inextricably entwined, like a skein of wool with which a kitten had played. A safe hung at a precarious angle still teetering on the very edge of a large hole. Sodden rags flapped miserably in the breeze, and from adjacent buildings flecks of burnt paper floated down like flakes of coal-black snow. I who had seen more of war and suffering than most, was still sickened by the senseless destruction. The Record went on . . .
Thất nghiệp ở Luân Đôn thời chiến! Người đàn ông cố gắng để được tuyển làm Cảnh sát Tình nguyện. Cố gắng trong vô vọng. Giấy khám sức khỏe của ông đã bị đánh dấu Loại Bốn, không phù hợp với công việc. Bây giờ, công việc đã bị mất đi, sau những trận bom, ông bước đi trên phố tìm kiếm việc làm. Hết công ty này đến công ty khác đều từ chối ông. Dường như không còn hy vọng ở đó, không còn gì để thắp sáng bóng tối ảm đạm thời kỳ khó khăn của ông.
Cuối cùng, thông qua cơ hội đến thăm một Trường Hàm thụ mà ông đã từng học tập – và gây ấn tượng cho họ về trí thức và sự siêng năng của ông, ông được mời làm tại văn phòng thời chiến của họ ở bên ngoài Luân Đôn. “Đó là một nơi tuyệt đẹp,” người đã trao công việc cho ông nói. “Đi xuống bằng xe buýt Tuyến Xanh. Joe ở đằng kia, anh ấy sẽ có mặt ở đó vào một giờ, nhưng những người khác sẽ chăm sóc anh. Anh có thể đưa Bà Xã đi xung quanh nữa. Bản thân tôi cũng đang cố gắng được luân chuyển qua chỗ đó đấy.” Ngôi làng thực sự là một bãi rác! Không phải là “nơi tuyệt đẹp” như người ta đã khiến ông nghĩ. Máy bay được chế tạo ở đó, thử nghiệm, và bay đến những vùng khác nhau của cả nước.
Unemployment, in war-time London! The man tried to enlist as a War Reserve Policeman. Tried in vain. His medical papers were marked Grade Four, unfit for service. Now, with his employment gone, through the dropping of the bomb, he walked the streets in search of work. Firm after firm refused to take him. There seemed to be no hope, nothing to lighten the darkness of his hard times.
At last, through a chance visit to a Correspondence School with whom he had studied—and impressed them with his mental alertness and industry, he was offered employment at their war-time offices outside London. “It is a beautiful place,” said the man who made the offer. “Go down on the Green Line bus. See Joe, he should be there by one, but the others will look after you. Take the Missus for the trip. I’ve been trying to get shifted there myself.” The village was indeed a dump! Not the “beautiful place” he had been led to suppose. Aircraft were made there, tested, and flown to other parts of the country.
Cuộc sống trong Trường Hàm Thụ thực sự buồn chán. Với những gì chúng tôi có thể thấy, khi xem Kho Akashic, công việc bao gồm việc đọc các biểu mẫu và thư từ của mọi người, và sau đó đề xuất khóa học bưu điện người gửi nên thực hiện. Quan điểm cá nhân của tôi là việc dạy hàm thụ chỉ phí tiền, trừ khi người ta có cơ sở vật chất cho việc thực hành.
Một tiếng động lạ giống như tiếng động cơ bị hỏng vang lên. Khi quan sát, một chiếc máy bay kỳ quặc lượn vào tầm nhìn, không người lái, cũng không có phi hành đoàn. Nó kêu giật cục từng đợt rồi động cơ ngừng hẳn, chiếc máy bay lao xuống và nổ tung ngay phía trên mặt đất. “Đó là máy bay robot của người Đức,” tôi nói với vị lạt ma già. “Loại V.1 và V.2 thực sự là những thứ quái dị.” Một chiếc máy bay robot khác bay ngay phía trên ngôi nhà nơi người đàn ông và vợ sống. Nó làm vỡ tung các cửa sổ từ phía bên này ngôi nhà sang phía bên kia, và cũng làm nứt một bức tường.
Life in a Correspondence College was boring indeed. So far as we could see, watching the Akashic Record, it consisted of reading forms and letters from people and then suggesting what Course of postal instruction they should take. My own personal opinion was that correspondence teaching was a waste of money unless one had facilities for practical work as well.
A strange noise like a faulty motor-cycle engine came to our ears. As we watched, a peculiar aeroplane came into view, a plane with no pilot or crew. It gave a spasmodic cough and the engine cut, the plane dived and exploded just above the ground. “That was the German robot plane,” I said to the old lama, “The V.1 and the V.2 seem to have been unpleasant affairs.” Another robot plane came over near the house in which the man and his wife lived. It blew windows in at one side of the house, and out at the other side and cracked a wall.
“Có vẻ họ không có nhiều bạn bè,” vị lạt ma già nói. “Ta nghĩ là họ có những khả năng tâm thức mà một người bình thường nhìn qua sẽ không nhận ra. Và ta cũng thấy, họ sống cùng với nhau như anh và em hơn là chồng và vợ. Điều đấy chắc hẳn làm cậu dễ chịu hơn nhỉ, người Anh Em của ta!” vị lạt ma già vừa nói vừa cười khúc khích.
Các hình ảnh nối tiếp, miêu tả sinh động cuộc đời của người đàn ông với tốc độ của ý nghĩ. Chúng tôi vẫn di chuyển qua từng giai đoạn, bỏ qua một vài phần hoặc quan sát các tình tiết theo thời gian. Người đàn ông nhận thấy rằng một loạt các sự trùng hợp ngẫu nhiên xuất hiện, hướng ý nghĩ của ông ngày càng nhiều hơn về phương Đông. Những “giấc mơ” biểu lộ cho ông biết về cuộc sống ở Tây Tạng, những giấc mơ mà chúng thực sự là những chuyến du hành bằng thể vía dưới sự kiểm soát của vị lạt ma già. “Một trong những khó khăn rất nhỏ của chúng ta,” vị lạt ma già nói với tôi, “là ông ấy cứ muốn gọi ‘Thầy – Master’[1] khi nói chuyện với bất kỳ ai trong chúng ta.”
“They do not appear to have many friends,” said the old lama. “I think they have possibilities of the mind which the casual observer would overlook. It seems to me that they live together more as brother and sister than as husband and wife. That should comfort you, my Brother!” the old man said with quite a chuckle.
The Akashic Record went on, portraying a man’s life at the speed of thought. We could yet move from one portion to another, ignoring certain parts or seeing other incidents time after time. The man found that a series of coincidences occurred which turned his thoughts more and more to the East. “Dreams” showed him life in Tibet, dreams which really were astral traveling trips under the control of the old lama. “One of our very minor difficulties,” the old man told me, “was that he wanted to use the word ‘master’ whenever he spoke to one of us.”
“Ồ!” tôi trả lời, “đó là một trong những sai lầm phổ biến nhất của người phương Tây, họ thích sử dụng bất kỳ tên nào ngụ ý quyển năng hơn người. Ông đã nói gì với ông ta vậy?”
Vị lạt ma già mỉm cười và nói, “ta đã nói chuyện với ông ấy một chút, ta cũng cố gắng để ông ấy đặt câu hỏi ít hơn. Ta sẽ cho cậu biết những gì đã nói, bởi sẽ có ích trong việc luận ra bản chất bên trong của ông ấy. Ta nói: Dùng từ Master để chỉ một vị Thầy, đó một thuật ngữ đáng ghê tởm nhất đối với tôi và tất cả những người phương Đông. “Thầy” theo nghĩa của từ Master gợi ý rằng người ta đang tìm kiếm sự thống trị những người khác, tìm kiếm uy thế đối với những người không có quyền sử dụng từ đó. Một ông thầy ở trường luôn cố gắng nhồi nhét kiến thức vào đầu học trò. Còn đối với chúng tôi, ‘Người Thầy’ (Master) nghĩa là Làm Chủ về Tri Thức, một nguồn trí tuệ, hoặc người đã làm chủ những cám dỗ của xác thịt. Chúng tôi, ta bảo ông ấy, thích dùng từ Guru (Sư Phụ), hay Adept (Bậc Tinh Thông) hơn. Không có một Vị Thầy nào, theo đúng nghĩa của những từ đó, tìm cách tác động đến học trò hoặc áp đặt ý kiến riêng của mình lên học trò. Trong một vài nhóm nhỏ và giáo phái phương Tây có những người nghĩ rằng họ độc chiếm chiếc chìa khóa vào Thiên Đường. Một vài tôn giáo sử dụng những đòn tra tấn để bắt cải đạo. Ta gợi nhớ cho ông ta về một bức điêu khắc trên một trong những Tu viện của chúng ta – ‘ngàn tu sĩ, ngàn giáo phái’.
“Oh!” I replied, “that is one of the common mistakes of the Western people, they love to use any name which implies power over others. What did you tell him?”
The old lama smiled and said, “I gave him a little talk, I also tried to get him to ask less questions. I will tell you what I said, because it is of use in deducing his inner nature. I said: That is a term which is most abhorrent to me and to all Easterners. ‘Master’ infers that one is seeking domination over others, seeking supremacy over those who have no right to use ‘master’. A school master endeavours to inculcate learning in his pupils. To us ‘Master’ means Master of Knowledge, a source of knowledge, or one who has mastered the temptations of the flesh. We—I told him—prefer the word Guru, or Adept. For no Master, as we know the word, would ever seek to influence a student nor to impose his own opinions. In the West certain little groups and cults there are who think that they alone have the key to the Heavenly Fields. Certain religions used tortures in order to gain converts. I reminded him of a carving over one of our lamaseries—‘a thousand monks, a thousand religions’.
“Ông ấy có vẻ đã nắm bắt vấn đề rất tốt,” vị lạt ma già nói, “vì vậy ta nhồi thêm cho một chút ý tưởng, giống như đánh vào thanh sắt khi nó đang nóng. Tôi nói: Ở Ấn Độ, Trung Quốc, và Nhật Bản cổ xưa, các học viên tương lai sẽ ngồi dưới chân Guru của mình khi tìm kiếm kiến thức, mà không đặt câu hỏi, vì người học sinh khôn ngoan sẽ không bao giờ hỏi kẻo bị đuổi đi. Đặt một câu hỏi là bằng chứng chắc chắn cho Guru thấy rằng người học sinh vẫn chưa sẵn sàng nhận câu trả lời cho những câu hỏi của mình. Một vài học sinh chờ đợi đến tận bảy năm để có kiến thức, câu trả lời cho những câu hỏi không được thốt ra. Trong suốt thời gian này, người học trò phục vụ những nhu cầu thể chất của Guru, chăm sóc quần áo, bữa ăn cho ông và một số nhu cầu khác của ông. Trong suốt thời gian ấy, người học trò căng tai để thu nhận thông tin, bởi vì bằng cách nhận thông tin, có thể sẽ nghe thấy những gì được nói cho những người khác, người học trò khôn ngoan, có thể tư duy, suy luận ra. Và khi mà Guru, bằng sự thông thái của mình, nhận thấy rằng người học trò đang tiếng bộ, vị Guru đó, vào thời gian thích hợp của mình, theo cách riêng của mình, sẽ đặt câu hỏi cho người học trò, nếu Ngài tìm thấy khiếm khuyết trong vốn kiến thức của học trò, thì vị Guru đó, cũng vào lúc thích hợp của mình, sẽ sửa chữa những thiếu hụt hoặc không đầy đủ đó.”
“Còn ở phương Tây, người ta sẽ bảo – ‘Giờ thì hãy nói cho tôi về điều này. Bà Blavatsky đã nói thế này – Giám mục Ledbetter đã nói thế kia – Ông Graham đã nói rằng – Còn ông nghĩ sao? – Tôi nghĩ ông sai rồi!’ Những người phương Tây đặt câu hỏi chỉ để đối thoại, họ hỏi mà không biết mình muốn hỏi gì, không biết mình muốn nghe gì, nhưng có thể khi vị Guru vui lòng trả lời một câu hỏi, người học trò ngay lập tức tranh luận và bảo rằng, ‘À ừ, tôi có nghe người này người nọ nói cái này cái nọ, hay cái gì đó nữa rồi.’
“He seemed to follow my talk very well,” said the old lama, “so I gave him a little more with the idea of striking while the iron was hot. I said: In India, in China, and in old Japan, the student-to-be will sit at the feet of his Guru seeking information, not asking questions, for the wise student never asks questions lest he be sent away. To ask a question is proof positive to the Guru that the student is not yet ready to receive answers to his questions. Some students have waited as long as seven years for information, for the answer to an unspoken question. During this time the student tends the bodily wants of the Guru, attends to his clothing, to his food, and to the few other needs that he has. All the time his ears are alive for information, because by receiving information, perhaps hearing that which is being given to other people, the wise student can deduce, can infer, and when the Guru in his wisdom sees that the student is making progress, that Guru, in his own good time, and in his own suitable way, questions the student, and if he finds some of the pupil’s accumulated store of knowledge is faulty or incomplete, then the Guru, again in his own good time, repairs the omissions and deficiencies.
“In the West people say—‘Now, tell me this. Madame Blavatsky said—Bishop Ledbetter says—Billy Graham says—What do you say?—I think you are wrong!’ Westerners ask questions for the sake of talk, they ask questions not knowing what they want to say, not knowing what they want to hear, but when perhaps a kindly Guru answers a question, the student immediately argues and says, ‘Oh well, I heard so-and-so say this, or that, or something else.’
“Nếu học trò hỏi Guru một câu, điều đó phải ngụ ý rằng học trò không biết câu trả lời và nghĩ rằng Guru biết. Và nếu học trò ngay lập tức nghi ngờ câu trả lời của Guru, điều này cho thấy rõ đó là một kẻ vô minh và định kiến, và hoàn toàn sai về phép lịch sự cũng như quy tắc ứng xử thông thường. Tôi nói với anh rằng, chỉ có một cách duy nhất để có được câu trả lời cho các câu hỏi của anh, đó là hãy giữ những câu hỏi của mình lại rồi thu thập thông tin, lập luận và suy diễn, sau đó vào thời điểm thích hợp, khi tâm hồn anh trong sáng, anh sẽ có thể thực hiện được du hành bằng thể vía và các hình thức đặc biệt hơn của thiền định, và khi đó anh có thể tham vấn Thư Viện Vũ Trụ Akashic, mà nó không thể nói dối, không thể trả lời ngoài ngữ cảnh, và không thể đưa ra một ý kiến hay thông tin bị nhuốm màu bởi những thành kiến cá nhân. Con người bị trì trệ tinh thần và đáng buồn là chậm tiến hóa và phát triển tâm linh. Cách duy nhất để tiến bộ là gì? Đó là hãy chờ đợi và quan sát. Không có cách nào khác cả, không có cách nào để thúc đẩy nhanh sự phát triển của anh cả, trừ khi có lời mời đặc biệt của Guru, người biết anh rất rõ, và vị Guru ấy, vì biết rõ về anh, có thể thúc đẩy nhanh sự phát triển của anh nếu Ngài nghĩ rằng anh xứng đáng.”
Đối với tôi, có vẻ đa số người phương Tây sẽ hưởng lợi nếu được học điều này! Nhưng chúng tôi không ở đây để giáo huấn, mà để quan sát những hình ảnh sống động về cuộc đời của một người đàn ông, người mà trong một thời gian ngắn nữa sẽ rời bỏ lớp vỏ trần gian của mình.
“If the student asks a Guru a question, it must imply that the student does not know the answer, but considers that the Guru does, and if the student immediately questions the answer of the Guru, it shows that the student is ignorant and has preconceived and utterly erroneous ideas of decorum and of ordinary common decency. I say to you that the only way to obtain answers to your questions is, leave your questions unasked and collect information, deduce and infer, then in the fullness of time, provided you are pure in heart, you will be able to do astral traveling and the more esoteric forms of meditation, and will thus be enabled to consult the Akashic Record which cannot lie, cannot answer out of context, and cannot give an opinion or information coloured by personal bias. The human sponge suffers from mental indigestion and sadly retards his or her evolution and spiritual development. The only way to progress? That is to wait and see. There is no other way, there is no way of forcing your development except at the express invitation of a Guru who knows you well, and that Guru, knowing you well, would soon speed your development if he thought that you were worthy.”
It seemed to me that most Westerners would benefit by being taught that! But we were not here to teach, but to watch the unfolding of vital scenes from a man’s life, a man who would shortly vacate his earthly shell.
“Điều này thật thú vị,” vị lạt ma già nói, khi hướng sự chú ý của tôi đến một cảnh trong Bản Ghi Vũ Trụ. “Cũng phải mất nhiều công sức để chấn chỉnh lại đấy, nhưng khi thấy sự hợp lý của việc đó, ông ấy đã không ngần ngại.” Tôi quan sát khung cảnh có một chút nhiễu, sau đó nó trở nên rõ ràng với tôi. Vâng! Đó là một văn phòng luật sư. Giấy tờ đó là bản thay đối tên. Vâng, đúng vậy, tôi vẫn nhớ, ông ấy đã đổi tên của mình bởi cái tên cũ có những rung động sai, theo tính toán Khoa Số Học của chúng tôi. Tôi đọc lại cái tên một cách chú tâm và nhận thấy rằng nó chưa hoàn toàn đúng, nhưng cũng gần đủ.
Trong cuộc đời ông ta có khá nhiều đau khổ. Một chuyến viếng thăm nha sĩ đã gây ra nhiều thiệt hại, mà những thiệt hại đó ông ấy bị chuyển đến nhà thương để phẫu thuật. Không quan tâm đến vấn đề kỹ thuật, tôi quan sát quá trình hết sức chăm chú.
“This is interesting,” said the old lama, drawing my attention to a scene on the Record. “This took much arranging, but when he saw the desirability of it, he made no demur.” I looked at the scene in some puzzlement, then it dawned upon me. Yes! That was a solicitor’s office. That paper was a Change of Name Deed Poll. Yes, that was correct, I remembered, he had changed his name because that which he had had previously had the wrong vibrations as indicated by our Science of Numbers. I read the document with interest and saw that it was not quite correct, although it was near enough.
Of suffering there was plenty. A visit to a dentist caused much damage, damage which necessitated his removal to a nursing home for an operation. Out of technical interest, I watched the proceedings with considerable care.
Người đàn ông mà chúng tôi đang xem lại toàn bộ thước phim cuộc đời – cảm thấy rẳng chủ của mình không quan tâm gì đến ông ấy. Chúng tôi, đang quan sát, cũng cảm thấy như vậy, và vị lạt ma già cùng tôi hết sức vui mừng khi thấy người đàn ông đã viết thư nghỉ việc với trường đào tạo bưu chính. Đồ đạc được chất lên chiếc xe tải nhỏ, một vài thứ trong đó đã được bán, và người đàn ông cùng với vợ rời đi đến một quận hoàn toàn mới. Trong một thời gian, họ sống trong ngôi nhà của một bà thầy bói già kỳ lạ, luôn có ý tưởng hão huyền về tầm quan trọng của chính mình. Người đàn ông không ngừng cố gắng tìm việc làm. Bất kỳ việc gì có thể cho phép ông kiếm tiền một cách trung thực.
Vị lạt ma già nói, “bây giờ chúng ta đang tiếp cận một phần rất quan trọng. Như cậu sẽ quan sát, ông ấy không ngừng xỉ vả số phận. Ông ấy không kiên nhẫn và tôi e là ông ấy sẽ rời khỏi cuộc sống khắc nghiệt này bằng vũ lực nếu chúng ta không nhanh lên.”
He—the man whose life we were watching—felt that the employer was uncaring. We, watching, felt the same, and the old lama and I were glad the man gave notice of the termination of his engagement in the postal training school. The furniture was loaded on a van, some of it was sold, and the man and his wife left the area for an entirely fresh district. For a time they lived in the house of a strange old woman who “told fortunes”, and had an amazing idea of her own importance. The man tried and tried to obtain employment. Anything which would enable him to earn money honestly.
The old lama said, “Now we are approaching the crucial part. As you will observe, he rails against fate constantly. He has no patience and I am afraid that he will depart his life violently unless we hurry.”
“Vậy ông muốn tôi làm gì?” Tôi hỏi.
“Cậu là một nhà tu hành cao cấp,” vị lạt ma già nói, “nhưng ta muốn cậu gặp ông ấy ở thể vía, và xem cậu nghĩ gì.”
“Chắc chắn rồi,” tôi đáp, “Chúng ta sẽ đi cùng nhau.” Trong một khoảnh khắc, tôi mải mê suy nghĩ, sau đó tôi nói, “Ở Lhasa bây giờ là hai giờ sáng. Ở Anh, sẽ là tám giờ tối, vì thời gian của họ chậm hơn chúng ta. Chúng ta sẽ chờ đợi và nghỉ ngơi trong ba giờ, và sau đó sẽ kéo ông ấy lên trung giới.”
“Được,” vị lạt ma già nói. “Ông ấy ngủ trong phòng một mình, vì thế chúng ta có thể làm được điều đó. Hiện tại chúng ta cần nghỉ ngơi, vì chúng ta đều mệt mỏi.”
What do you wish me to do?” I asked.
“You are the senior,” said the old man, “but I would like you to meet him in the astral, and see what you think.”
“Certainly,” was my rejoinder, “We will go together.” For a moment I was lost in thought, then I said, “In Lhasa it is two o’clock in the morning. In England it will be eight o’clock in the evening, for their time lags behind ours. We will wait and rest for three hours, and will then draw him over to the astral.”
“Yes,” said the old lama. He sleeps in a room alone, so we can do it. For the present let us rest, for we are weary.”
Chúng tôi trở về cơ thể của mình, ngồi bên nhau dưới ánh sáng sao mờ nhạt. Ánh sáng của Lhasa lúc này đã tắt hết, chỉ còn lại những tia sáng le lói từ nơi ở của các nhà sư và ánh đèn sáng hơn từ các trạm gác của lính Cộng Sản Trung Quốc. Tiếng róc rách của dòng suối nhỏ bên ngoài những bức tường nơi chúng tôi ở vang lên một cách không bình thường trong sự tĩnh lặng của buổi đêm. Từ trên cao, tiếng rơi lộp bộp tới tấp của những viên đá cuội bị gió trên cao thổi văng ra. Chúng rơi dồn dập và ồn ào xung quanh chúng tôi, làm lung lay những tảng đá lớn hơn. Chúng đổ dồn xuống theo sườn núi, ầm ĩ dồn thành một đống nơi doanh trại của quân lính Trung Quốc. Ánh đèn pin đồng loạt bật lên, tiếng bắn vào không trung, và những tên lính điên cuồng chạy quanh, sợ bị các nhà sư từ Lhasa tấn công. Các chấn động nhanh chóng giảm dần, và màn đêm, một lần nữa, trở lại yên bình và tĩnh lặng.
Vị lạt ma già cười nhẹ nhàng, và nói, “Điều rất lạ lùng đối với tôi là con người ngoài miền đất của chúng ta lại không thể nhận thức được việc du hành bằng thể vía! Thật lạ lùng biết bao khi họ nghĩ tất cả những điều này chỉ là do trí tưởng tượng. Có cách nào giải thích được với họ rằng thậm chí việc thay đổi cơ thể của người này sang cơ thể của người khác chỉ đơn thuần như người lái xe thay đổi từ chiếc ô tô này sang chiếc khác? Thật không thể tưởng tượng được con người có những tiến bộ kỹ thuật lại mù quáng đến thế với những gì thuộc về cuộc sống tinh thần.”
Với nhiều kinh nghiệm về Phương Tây, tôi trả lời, “Nhưng người Phương Tây, ngoại trừ một thiểu số rất nhỏ, không có khả năng làm những việc về tinh thần. Tất cả những gì họ muốn là chiến tranh, tình dục, bạo lực, và quyền được dí mũi vào việc của người khác.”
We returned to our bodies, sitting side by side in the faint starlight. The lights of Lhasa were extinguished now, and the only glimmers came from the habitations of monks and the brighter lights from Chinese Communist guard posts. The tinkling of the little stream outside our walls sounded unnaturally loud against the silence of the night. From high above came the rattling of a small shower of pebbles dislodged by the higher wind. They rattled and bounced by us, jarring loose bigger stones. Down the mountainside they rushed, to end in a noisy heap by a Chinese barracks. Lights flashed on, rifles were discharged into the air, and soldiers ran wildly around, fearing attack from the monks of Lhasa. The commotion soon subsided, and the night was peaceful and still once again.
The old lama laughed softly, and said, “How strange to me that the people beyond our land cannot understand astral traveling! How strange that they think all this is imagination. Could it not be put to them that even changing one’s body for that of another is merely like a driver changing from one automobile to another? It seems inconceivable that a people with their technical progress should be so blind to the things of the spirit.”
I, with much experience of the West, replied, “But Western people, except for a very small minority, have not the capacity for spiritual things. All they want is war, sex, sadism, and the right to pry into the affairs of others.”
Đêm dài dần trôi qua, chúng tôi nghỉ ngơi và lấy lại sức bằng trà và tsampa. Cuối cùng, những tia sáng mờ nhạt xuyên qua rặng núi phía sau chúng tôi. Khi đó thung lũng dưới chân chúng tôi vẫn đắm chìm trong bóng tối. Đâu đó một chú bò yak bắt đầu rống lên như thể cảm nhận được một ngày mới đang đến. Năm giờ sáng Tây Tạng. Khoảng mười một giờ ở nước Anh, tôi ước lượng. Tôi nhẹ nhàng đánh thức vị lạt ma già đang lơ mơ ngủ. “Đã đến lúc chúng ta đi rồi!”, tôi nói.
“Đây sẽ là lần cuối cùng đối với ta,” ông trả lời, “vì ta sẽ không quay trở lại cơ thể của ta nữa.”
Chậm rãi, không chút vội vàng gì cả, chúng tôi lại xuất vía một lần nữa. Một cách ung dung, chúng tôi đến ngôi nhà ở nước Anh. Người đàn ông đang nằm đó ngủ, trằn trọc một chút, trên nét mặt thể hiện vẻ cực kỳ bất mãn. Thể vía của ông gắn liền với thể xác và chưa có dấu hiệu tách rời.
The long night wore on, we rested and refreshed ourselves with tea and tsampa. At last the first faint streaks of light shot across the mountain range behind us. As yet the valley at our feet was immersed in darkness. Somewhere a yak began to bellow as if sensing that a new day would soon be upon us. Five in the morning Tibetan time. About eleven o’clock by the time in England, I judged. Gently I nudged the old lama who was dozing lightly. “Time we went into the astral!” I said.
“It will be the last time for me,” he replied, “for I shall not return to my body again.”
Slowly, not hurrying at all, we again entered the astral state. Leisurely we arrived at that house in England. The man lay there sleeping, tossing a little, on his face there was a look of extreme discontent. His astral form was encompassing his physical body with no sign yet of separation.
“Anh có đi không?” tôi hỏi, trong thể vía. “Anh có đi không,” vị lạt ma già lặp lại. Chậm chạp, gần như miễn cưỡng, thể vía của người đàn ông bay lên phía trên cơ thể vật lý. Dâng cao, và trôi phía trên nó, lộn ngược lại, đầu của thể vía ở phía chân của thể xác. Thể vía lắc lư và bập bềnh. Tiếng gầm đột ngột của đoàn tàu hỏa tăng tốc gần như đẩy nó trở lại cơ thể vật lý. Sau đó, như thể có một quyết định đột ngột, thể vía của ông ta lại lật nghiêng, và đứng trước chúng tôi. Dụi đôi mắt như người mới tỉnh giấc, ông nhìn chằm chằm vào chúng tôi.
“Vậy là anh muốn rời bỏ thể xác của mình?” tôi hỏi.
“Đúng vậy, tôi ghét nơi đây!” ông ta kêu lên dữ dội.
Chúng tôi đứng nhìn nhau. Với tôi, ông ấy là người có vẻ như rất bị hiểu nhầm. Một người mà ở nước Anh không được nhìn nhận trong cuộc sống, nhưng ở Tây Tạng sẽ có cơ hội. Ông cười chua chát, “Vậy là anh muốn cơ thể của tôi! Được thôi, rồi anh thấy đó là một sai lầm. Biết về nước Anh không phải là vấn đề, mà biết ai mới quan trọng. Tôi không thể kiếm việc làm, thậm chí không có cả trợ cấp thất nghiệp. Để xem liệu anh có thể làm tốt hơn chăng!”
“Are you coming?” I asked, in the astral. “Are you coming,” repeated the old lama. Slowly, almost reluctantly, the man’s astral form rose above his physical body. Rose, and floated above it, reversed, head of astral to feet of physical, as one does. The astral body swayed and bobbed. The sudden roar of a speeding train nearly sent it back into the physical. Then, as though a sudden decision had been reached, his astral form tilted, and stood before us. Rubbing his eyes as one awakening from sleep, he gazed upon us.
“So you want to leave your body?” I asked.
“I do, I hate it here!” he exclaimed vehemently.
We stood looking at each other. He seemed to me to be a much misunderstood man. A man who, in England, would not make his mark on life, but who in Tibet would have his chance. He laughed sourly, “So you want my body! Well, you will find your mistake. It does not matter what you know in England, it is who you know that matters. I cannot get a job, cannot even get unemployment benefit. See if you can do better!”
“Im lặng nào, anh bạn,” vị lạt ma già nói, “vì cậu không biết mình đang nói chuyện với ai. Có lẽ tính hung hăng đã cản trở cậu có được việc làm.”
“Anh sẽ phải để râu dài,” tôi nói, “vì nếu tôi tiếp nhận cơ thể của anh, cơ thể của tôi sẽ nhanh chóng thay thế nó sau đó, và tôi phải có bộ râu để che đi cái hàm răng bị hư hại của tôi. Anh có thể nuôi râu dài không?”
“Vâng, thưa ngài,” ông đáp, “tôi sẽ nuôi bộ râu.”
“Tốt lắm,” tôi nói. “Tôi sẽ trở lại sau một tháng nữa, và sẽ tiếp nhận cơ thể của anh, cho anh rời đi, như thế cơ thể của tôi cuối cùng có thể thay thế những gì mà tôi sẽ tiếp nhận. Hãy nói cho tôi biết,” tôi yêu cầu, “anh được người bên tôi tiếp cận như thế nào?”
“Hush, my friend,” said the old lama, “for you know not to whom you are speaking. Perhaps your truculence may have impeded you from obtaining employment.”
“You will have to grow a beard,” I said, “for if I occupy your body, mine will soon be substituted, and I must have a beard to hide the damage to my jaws. Can you grow a beard?”
“Yes, Sir,” he replied, “I will grow a beard.”
“Very well,” I said. “I will return here in one month and will take over your body, giving you release, so that my own body may eventually replace that which I shall have taken. Tell me,” I asked, “how were you first approached by my people?”
“Trong một thời gian dài, thưa ngài,” ông nói, “tôi ghét cuộc sống ở nước Anh, những bất công của nó, sự thiên vị. Cả đời tôi chỉ quan tâm đến Tây Tạng và các nước vùng Viễn Đông. Suốt cuộc sống này tôi luôn có những ‘giấc mơ’ mà trong đó tôi nhìn thấy, hay dường như nhìn thấy, Tây Tạng, Trung Quốc, và một vài nước tôi không rõ. Trước đây, đôi khi tôi cảm thấy một sự thúc đẩy cần đổi tên pháp lý của mình và tôi đã làm.”
“Vâng,” tôi ghi nhận, “tôi biết tất cả những điều đó, nhưng gần đây anh đã được tiếp cận như thế nào, và anh đã nhìn thấy gì?”
Ông ta nghĩ một chút, và sau đó nói, “Để nói cho ngài biết điều đó, tôi cần phải nói theo cách riêng của mình, và một số thông tin tôi có có vẻ không chính xác theo hiểu biết sau này của tôi.”
“For a long time, Sir,” he said, “I have hated life in England, the unfairness of it, the favouritism. All my life I have been interested in Tibet and Far East countries. All my life I have had ‘dreams’ in which I saw, or seemed to see, Tibet, China, and other countries which I did not recognize. Some time ago I had a strong impulse to change my name by legal deed, which I did.”
“Yes,” I remarked, “I know all about that, but how were you approached recently, and what did you see?”
He thought a bit, and then said, “To tell you that, I should have to do it in my own way, and some of the information I have seems to be incorrect in view of my later knowledge.”
“Tốt lắm,” tôi đáp, “hãy nói điều đó cho tôi theo các của anh và sau đó chúng ta có thể sửa lại bất cứ quan niệm sai lầm nào. Tôi cần phải biết anh rõ hơn nếu tôi muốn tiếp nhận cơ thể anh, và đây là một cách để làm điều đó.”
“Có lẽ tôi nên bắt đầu với ‘lần tiếp xúc’ thực tế đầu tiên. Như vậy, tôi có thể gom nhặt những suy nghĩ của mình đầy đủ hơn.” Từ nhà ga xe lửa tới chỗ con đường vọng tới tiếng phanh lắc mạnh của một đoàn tàu về muộn từ thành phố Luân Đôn. Lát sau đến tiếng xe lửa khởi động một lần nữa, và rồi ‘người đàn ông’ tiếp tục câu chuyện của mình trong khi vị lạt ma già và tôi chăm chú lắng nghe một cách cẩn thận.
“Very well,” was my reply, “tell it to me in your own way and we can correct any misconceptions later. I must get to know you better if I am to take your body, and this is one way of so doing.”
“Perhaps I may start with the first actual ‘contact’. Then I can collect my thoughts better.” From the railway station up the road came the braking judder of a train, bringing late-comers back from the City of London. Shortly there came the sound of the train starting off again, and then ‘the man’ got down to his story while the old lama and I listened carefully.
“Rose Croft, làng Thames Ditton,” ông bắt đầu, “thật sự là một nơi xinh xắn tuyệt đẹp. Đó là một ngôi nhà tách xa con đường với một khu vườn đằng trước, một khu vườn nhỏ, và một vườn lớn hơn ở phía sau. Có một ban công ở sau nhà mà từ đó có thể nhìn thấy quang cảnh đồng quê rất đẹp. Tôi dành nhiều thời gian ở trong vườn, đặc biệt trong khu vườn phía trước, bởi vì nó đã bị lãng quên một thời gian và tôi cố gắng làm nó gọn gàng trở lại. Cỏ tự do mọc cao đến vài feet, và để làm sạch nó là một công việc lớn. Tôi đã cắt được một nửa bằng một con dao quân sự Gurkha cũ của Ấn Độ. Đó là một công việc khó khăn vì tôi phải bò xuống trên hai tay và đầu gối, chặt mạnh vào cỏ, và được vài mét thì lại phải mài dao lên đá cho đỡ cùn. Tôi thích chụp ảnh, và có thời gian tôi cố gắng chụp ảnh một con cú sống trên một cây linh sam già gần đây, cây linh sam có cây thường xuân leo bám xung quanh.
Sự tập trung của tôi bị phân tán vì một cái gì đó đang rung lên trên một cành cây không xa trên đầu tôi. Tôi nhìn lên và vui mừng ngạc nhiên khi thấy một con cú nhỏ ở đó, đang vỗ cánh, bám chặt lấy cành cây, bị lóa mắt bởi ánh nắng mặt trời. Lặng lẽ, tôi đặt con dao đang cầm xuống và tôi đi vào nhà để lấy cái máy ảnh. Cầm máy ảnh trong tay và mở ống kính, tôi nhẹ bước tới cái cây và khẽ khàng, hay nhẹ nhàng nhất có thể, tôi trèo lên cành cây đầu tiên. Tôi rón rén bò dọc theo cành cây. Con chim, không thể nhìn thấy tôi trong ánh sáng rực rỡ nhưng nó đang cảm nhận được tôi, lần ra xa về phía ngọn. Tôi không hề nghĩ đến nguy hiểm, tiếp tục bò về phía trước, và mỗi khi tôi nhúc nhích, con chim lại dịch ra xa hơn, cho đến khi nó gần như đã ở ngọn cây, lúc này đang uốn cong xuống một cách nguy hiểm dưới sức nặng của tôi.
“Rose Croft, Thames Ditton,” he started, “was quite a nice little place. It was a house set back from the road with a garden in front, a small garden, and a much larger garden at the rear. The house itself had a balcony at the back which gave quite a good view across the countryside. I used to spend a lot of time in the garden, particularly in the front garden because for some time it had been neglected and I was trying to put it in order. The grass had been allowed to grow so that it was several feet high and clearing it had become a major problem. I had already cut half of it with an old Indian Gurkha knife. It was hard work because I had to get on my hands and knees and take swipes at the grass and sharpen the knife on a stone at every few strokes. I was interested also in photography, and for some time I had been trying to take a photograph of an owl which lived in an old fir tree nearby, a fir tree well encased in climbing ivy.
My attention was distracted by the sight of something fluttering on a branch not far above my head. I looked up and to my delighted surprise I saw a young owl there, flapping about, clutching at the branch, blinded by the bright sunlight. Quietly I put down the knife which I had been using and made my way indoors to fetch a camera. With that in my hands and with the shutter set, I made my way to the tree and silently, or as silently as I could, I climbed up to the first branch. Stealthily I edged along. The bird, unable to see me in the bright light but sensing me, edged further away out towards the end. I, quite thoughtless of the danger, moved forward and forward, and with each movement of mine, the bird went further forward until it was almost at the end of the branch, which was now bending dangerously beneath my weight.
“Đột nhiên, tôi nhích mạnh và một tiếng gãy sắc mạnh cùng với mùi mạt gỗ. Cành cây mục nát dưới chỗ tôi gãy. Và thế là tôi ngã đâm đầu xuống đất. Tôi rơi xuống có vài feed nhưng thời gian tưởng như dài vô tận. Tôi nhớ là cỏ xanh như chưa bao giờ xanh vậy, nó dường như sống động hơn nhiều, tôi có thể nhìn thấy từng ngọn cỏ một và kể cả những con côn trùng nhỏ trên đó. Tôi cũng nhớ một con bọ rùa đã bay vù đi vì sợ hãi, và sau đó là cái đau lóa mắt, và một ánh chớp muôn màu, và rồi tất cả trở nên tối đen. Tôi không biết mình nằm thành một đống nhàu nát ở đó trong bao lâu, bên dưới những cành của cây linh sam già, nhưng đột nhiên, tôi trở nên nhận thức được mình đã rời khỏi cơ thể vật lý của mình, tôi đã nhìn những thấy những điều này với nhận thức rõ ràng hơn bao giờ hết. Màu sắc mới mẻ và sống động đến ngỡ ngàng.
“Tôi thận trọng đứng lên, và nhìn xung quanh. Trước sự ngạc nhiên đến kinh hoàng của mình, tôi nhận thấy cơ thể của mình đang nằm nghiêng trên mặt đất. Không nhìn thấy máu chảy, nhưng chắc chắn có một vết sưng tấy khó chịu ở thái dương bên phải. Tôi lúng túng hơn chút nữa, bởi vì cơ thể đang thở rống lên và thể hiện sự suy yếu. ‘Chết,’ tôi nghĩ, ‘Mình đã chết rồi; bây giờ tôi sẽ không bao giờ trở lại được nữa.’ Tôi nhìn thấy một sợi khói mỏng manh di chuyển lên trên từ cái xác, từ đầu cái xác đến tôi. Sợi khói không chuyển động, không nhịp đập, và tôi cảm thấy hoảng sợ. Tôi hoang mang tự hỏi mình cần phải làm gì. Tôi dường như bị mọc rễ ngay tại đó trong nỗi sợ hãi, hoặc có lẽ vì lý do nào đó khác. Sau đó, một chuyển động đột ngột, chuyển động chỉ có ở trong thế giới lạ lùng của tôi, thu hút ánh mắt tôi, và tôi gần như hét lên, hoặc sẽ hét lên nếu tôi có tiếng nói. Đang đến gần tôi, ngang qua vườn cỏ là hình dáng một vị lạt ma Tây Tạng mặc áo choàng màu nghệ của Lạt Ma Cao Cấp. Chân ngài cách mặt đất vài inch, và ngài đang tiến đến gần tôi. Tôi đứng sững sờ nhìn ngài.
“Suddenly I made a precipitous movement and there was a sharp crack and the odorous smell of powdered wood. The branch was rotten and it gave beneath me. I catapulted head first towards the earth beneath me. I seemed to take an eternity to fall those few feet. I remember the grass never looked greener, it seemed larger than life, I could see each individual blade with little insects on it. I remember, too, a ladybird took off in fright at my approach, and then there was a blinding pain, and a flash as if of coloured lightning, and all went black. I do not know how long I lay a crumpled inert mass beneath the branches of the old fir tree, but quite suddenly I became aware that I was disengaging myself from the physical body, I was seeing things with a greater perception than ever before. Colours were new and startlingly vivid.
“Gingerly I got to my feet, and looked about me. To my horrified amazement I found that my body was lying prone upon the ground. There was no blood to be seen, but certainly there was evidence of a nasty bump just over the right temple. I was more than a little disconcerted, because the body was breathing stertorously and showing signs of considerable distress. ‘Death,’ I thought, ‘I have died; now I shall never get back.’ I saw a thin smoky cord ascending from the body, from the head of the body to me. There was no movement in the cord, no pulsation, and I felt sickening panic. I wondered what I should do. I seemed to be rooted to the spot in fear, or perhaps for some other reason. Then a sudden movement, the only movement in this strange world of mine, attracted my eye, and I nearly screamed, or should have screamed if I had had a voice. Approaching me across the grass was the figure of a Tibetan lama dressed in the saffron robe of the High Order. His feet were several inches from the ground, and yet he was coming to me steadily. I looked at him with utter stupefaction.
“Ngài tiến lại phía tôi, dang rộng hai tay, và mỉm cười. Ngài nói, ‘Cậu không việc gì phải sợ. Không có gì cậu phải lo lắng cả.’ Tôi có ấn tượng là những lời nói của ngài là ngôn ngữ khác với của tôi, có lẽ là tiếng Tây Tạng, nhưng tôi hiểu lời ngài, và tôi cũng không nghe thấy âm thanh nào. Không âm thanh nào cả. Thậm chí tôi không thể nghe thấy tiếng chim hót, hoặc tiếng gió lùa xào xạc trên cây. ‘Đúng vậy,’ ngài nói, khi đọc được suy nghĩ của tôi, ‘Chúng ta không sử dụng lời nói, mà là thần giao cách cảm. Tôi đang nói với bạn bằng thần giao cách cảm.’ Chúng tôi cùng nhìn nhau, và sau đó nhìn vào cơ thể nằm trên nền đất giữa hai chúng tôi. Ngài lại nhìn tôi lần nữa, và mìm cười, rồi nói, ‘Cậu ngạc nhiên vì sự hiện diện của tôi chăng? Tôi ở đây bởi vì tôi được cử đến đây với cậu. Tôi vừa rời thân xác vì sự cố khẩn cấp này. Tôi đến vì những rung động sự sống đặc biệt của anh cơ bản là hài hòa với một người mà tôi đang phối hợp làm việc. Nên tôi đến, bởi vì tôi cần cơ thể của anh cho một người cần phải tiếp tục sống ở thế giới phương Tây, vì cậu ấy có một nhiệm vụ không thể để gián đoạn được.’
“He came towards me, stretching out his hand, and smiled. He said, ‘You have nothing to fear. There is nothing here to worry you at all.’ I had the impression that his words were in a different tongue from mine, Tibetan maybe, but I understood it, and yet I had heard no sound. There was no sound at all. I could not even hear the sound of the birds, or the whistling of the wind in the trees. ‘Yes,’ he said; divining my thoughts, ‘we do not use speech, but telepathy. I am speaking to you by telepathy.’ Together we looked at each other, and then at the body lying on the ground between us. The Tibetan looked up at me again, and smiled, and said, ‘You are surprised at my presence? I am here because I was drawn to you. I have left my body at this particular instant and I was drawn to you because your own particular life vibrations are a fundamental harmonic of one for whom I act. So I have come, I have come because I want your body for one who has to continue life in the Western world, for he has a task to do which brooks no interference.’
“Tôi kinh ngạc nhìn ngài. Người đàn ông này đúng là điên khi nói rằng ông ấy cần cơ thể của tôi! Thế là sao, nó là cơ thể của tôi cơ mà. Tôi không chấp nhận ai đó lại đi lấy tài sản riêng của mình như vậy. Tôi bị văng ra khỏi cái phương tiện vật lý trái với mong muốn của mình, và tôi sẽ quay lại. Nhưng rõ ràng là vị lạt ma Tây Tạng lại đọc được ý nghĩ của tôi lần nữa. Ngài nói, ‘Cậu đang trông đợi điều gì? Thất nghiệp, ốm đau, bất hạnh, một cuộc sống tầm thường trong một môi trường tầm thường, và sau đó là cái chết trong tương lai không xa và bắt đầu tất cả lại từ đầu. Cậu đã đạt được điều gì trong cuộc đời này? Cậu đã làm được gì đáng để tự hào chưa? Hãy nghĩ xem.’
“Tôi suy nghĩ. Tôi nghĩ về quá khứ, về những thất vọng, những hiểu lầm, những bất hạnh. Ngài cắt ngang dòng suy tư của tôi, ‘Cậu có muốn cảm thấy hài lòng khi biết mình đã làm sạch nghiệp quả, biết rằng mình đã đóng góp về vật chất cho việc đem lại lợi ích tốt nhất cho nhân loại không?’ Tôi nói, ‘Ái chà, tôi không biết gì hết, nhân loại có tốt gì với tôi đâu. Tại sao tôi lại phải bận tâm cơ chứ?’
“I looked at him aghast. The man was mad saying that he wanted my body! So did I, it was my body. I wasn’t having anyone take off my property like that. I had been shaken out of the physical vehicle against my wish, and I was going back. But the Tibetan obviously got my thoughts again. He said, ‘What have you to look forward to? Unemployment, illness, unhappiness, a mediocre life in mediocre surroundings, and then in the not too distant future death and the start all over again. Have you achieved anything in life? Have you done anything to be proud of? Think it over.’
“I did think it over. I thought of the past, of the frustrations, the misunderstandings, the unhappiness. He broke in on me, ‘Would you like the satisfaction of knowing that your Kharma had been wiped away, that you had materially contributed towards a job of the utmost benefit to mankind?’ I said, ‘Well, I don’t know about that, mankind hasn’t been too good to me. Why should I bother?’
“Ngài nói, ‘Không, ở trên Trái Đất này cậu không biết được chân lý thực sự. Cậu chẳng biết điều mình nói nói, nhưng sau một thời gian, và trong một cảnh giới khác, cậu sẽ trở nên nhận thức được những cơ hội mình đã bỏ qua. Tôi cần thể xác của cậu cho một người khác.’ Tôi nói, ‘Vâng, nhưng tôi cần phải làm gì đây? Tôi không thể đi lang lang như một con ma mãi được, và cả hai chúng tôi cũng không thể chung nhau một cơ thể.’
“Cậu thấy đấy, tôi hoàn toàn hiểu những điều này theo đúng nghĩa đen. Có cái gì đó rất thuyết phục ở vị này, một cái gì đó hoàn toàn chân thành. Tôi đã không một giây phút nào nghi ngờ khả năng ngài có thể lấy cơ thể của tôi đi và để tôi tới đâu đó, nhưng tôi muốn nhiều thông tin hơn nữa, tôi muốn biết mình đang làm gì. Ngài mỉm cười với tôi, và nói một cách trấn an, ‘Bạn của tôi, cậu sẽ nhận được phần thưởng của mình, cậu sẽ thoát khỏi nghiệp quả, cậu sẽ đi đến một cảnh giới hoạt động khác, và những tội lỗi của cậu được xóa bỏ vì những điều sẽ làm. Nhưng cơ thể của cậu sẽ không thể bị lấy đi trừ khi cậu đồng ý.’
“He said, ‘No, on this Earth you are blinded to the true reality. You do not know what you are saying, but with the passage of time, and in a different sphere, you will become aware of the opportunities you have missed. I want your body for another.’ I said, ‘Well, what am I going to do about it? I can’t wander about as a ghost all the time, and we can’t both have the same body.’
“You see, I took all this absolutely literally. There was something compelling about the man, something absolutely genuine. I didn’t question for one moment that he could take my body and let me go off somewhere else, but I wanted more information, I wanted to know what I was doing. He smiled at me, and said—reassuringly, ‘You, my friend, shall have your reward, you shall escape your Kharma, you shall go to a different sphere of activity, and you shall have your sins erased because of what you are doing. But your body cannot be taken unless you are willing.’
“Tôi thực sự không thích ý tưởng này chút nào cả. Tôi đã có cơ thể này hơn bốn mươi năm nay, và tôi đã gắn bó với nó. Tôi không thích ý tưởng về việc ai đó khác sẽ lấy đi cơ thể của mình và ra đi với nó. Bên cạnh đó, vợ tôi sẽ nói gì, sống với một người đàn ông xa lạ mà chẳng biết gì? Ngài nhìn tôi lần nữa, và nói, ‘Cậu chẳng nghĩ chút nào cho nhân loại cả ư? Cậu không mong muốn được làm điều gì đó để chuộc lại những lỗi lầm của mình, để tạo ra ý nghĩa gì đó cho cuộc sống tầm thưởng của mình hay sao? Cậu sẽ người được hưởng lợi, còn người tiếp nhận cơ thể của cậu sẽ phải sống cuộc đời khó khăn này thay cậu.’”
“Tôi đắn đo rồi ngắm nhìn cái xác giữa hai chúng tôi, và nghĩ, ‘Phải, thế thì có vấn đề gì? Tôi đã có một cuộc sống khắc nghiệt, và rất sẵn sàng ra đi rồi.’ Vì vậy, tôi nói, ‘Được rồi, hãy cho tôi xem nơi tôi sẽ đến, và nếu tôi thích nơi đó, tôi sẽ đồng ý.’ Ngay lập tức, tôi nhìn thấy hình ảnh huy hoàng, một hình ảnh rực rỡ đến nỗi không lời nào có thể tả xiết. Tôi rất hài lòng và tôi nói tôi đồng ý, rất sẵn lòng, để ra đi và đi càng sớm càng tốt.”
Vị lạt ma già cười khúc khích và nói, “Chúng ta đã phải nói với ông ấy rằng không phải nhanh như vậy, rằng cậu sẽ phải đến và tự mình xem xét trước khi cậu ra quyết định cuối cùng. Sau tất cả những việc này, sẽ là hạnh phúc khi ông ấy được giải thoát, và khó khăn cho cậu thôi.”
“I really did not like the idea at all. I had had my body some forty years, and I was quite attached to it. I didn’t like the idea of anyone else taking my body and walking off with it. Besides, what would my wife say, living with a strange man and knowing nothing about it? He looked at me again, and he said, ‘Have you no thought for humanity? Are you not willing to do something to redeem your own mistakes, to put some purpose to your own mediocre life? You will be the gainer. The one for whom I act will take over this hard life of yours.’
“I looked about me. I looked at the body between us, and I thought, ‘Well, what does it matter? It’s been a hard life. I’m well out of it.’ So I said, ‘All right, let me see what sort of place I will go to, and if I like it, I’ll say yes.’ Instantly I had a glorious vision, a vision so glorious that no words could describe it. I was well satisfied, and I said I would be willing, very willing, to have my release and go as soon as possible.”
The old lama chuckled and said, “We had to tell him that it was not that quick, that you would have to come and see for yourself before you made a final decision. After all, it was a happy release for him, hardship for you.”
Tôi nhìn hai người. “Rất tốt,’ cuối cùng tôi chốt lại, ‘tôi sẽ quay trở lại sau một tháng nữa. Nếu anh đã nuôi được bộ râu, và sau đó, nếu anh chắc chắn không còn lưỡng lự với việc ra đi này, tôi sẽ giải thoát cho anh và gửi anh đến hành trình mới của mình.”
Ông ta thở phào nhẹ nhõm, vẻ thanh thản lộ rõ trên gương mặt khi ông chậm rãi nhập trở về thể xác của mình. Vị lạt ma già và tôi bay lên, và trở về Tây Tạng.
Mặt trời chiếu sáng trên bầu trời xanh không một gợn mây. Khi tôi quay trở lại cái xác của mình, bên cạnh tôi, cái xác trống rỗng, vô hồn của vị lạt ma già rơi phịch xuống sàn. Tôi biết rằng ông đã đi tới miền bình an, sau một cuộc sống dài lâu và đáng kính. Còn tôi, A Di Đà Phật, đã đưa bản thân mình vào cái gì vậy trời?
I looked at them both. “Very well,” I finally remarked, “I will come back in a month. If you then have a beard, and if you then are sure beyond all doubt that you want to go through with this, I will release you and send you off on your own journey.”
He sighed with satisfaction, and a beatific expression stole over his face as he slowly withdrew into the physical body. The old lama and I rose up, and returned to Tibet.
The sun was shining from a blue cloudless sky. Beside me, as I returned to my physical body, the empty shell of the old lama slumped lifeless to the floor. He, I reflected, had gone to peace after a long and honourable life. I—by the Holy Tooth of Buddha—what had I let myself in for?
Những ngươi đưa tin đã lên vùng núi cao, đến Ngôi Nhà Mới, mang theo bản xác nhận rằng tôi sẽ thực hiện nhiệm vụ như đã yêu cầu. Họ đến gặp tôi, và với những cử chỉ thiện ý đã mang tới những chiếc bánh Ấn Độ tôi yêu thích và đã từng là điểm yếu của tôi khi còn ở Tu viện Chakpori. Nhưng thực chất thì tôi chính là tù nhân trong ngôi nhà của trên núi của mình. Yêu cầu của tôi lẻn xuống núi, thậm chí ngụy trang nữa, để được đến thăm Chakpori thân yêu của tôi lần cuối đã bị từ chối. “Ngài có thể trở thành nạn nhân của những kẻ xâm lược, người anh em ạ,” họ nói với tôi, “vì chúng đặc biệt thính, sẽ bắn ngay khi chúng nhận thấy có bất kỳ sự khả nghi nào.”
“Ngài cũng đang ốm rồi, Sư trưởng tôn kính,” người khác nói. “Ngài mà nhất quyết xuống núi, sức khỏe của ngài sẽ có thể không cho phép ngài quay trở về. Nếu Sợi chỉ bạc bị đứt, thì nhiệm vụ sẽ không thực hiện được.”
Messengers went forth into the high mountain lands to the New Home carrying my written affirmation that I would do the task as requested. Messengers came to me, bringing me as a graceful gesture of friendship some of those Indian cakes which had so often been my weakness when I was at the Chakpori. To all intents I was a prisoner in my mountain home. My request that I be permitted to steal down, even in disguise, for a last visit to my beloved Chakpori was denied me. “You may fall victim to the invaders, my brother,” they told me, “for they are remarkably quick to pull the trigger if they have any suspicion.”
“You are sick, Reverend Abbot,” said another. “Should you descend the mountain side your health may not permit you to return. If your Silver Cord be severed, then the Task will not be accomplished.”
Nhiệm vụ! Tôi thấy thật kỳ lạ là sau cùng thì mình vẫn còn một “nhiệm vụ”. Việc nhìn thấy hào quang của con người đối với tôi đơn giản như là một người không cận có thể nhìn thấy một người khác đứng cách vài mét. Tôi trầm ngâm về sự khác biệt giữa phương Đông và phương Tây, nghĩ về việc thuyết phục được một người phương Tây về một loại thực phẩm mới tiết kiệm sức lao động nó dễ dàng thế nào, còn việc thuyết phục người phương Đông về điều gì đó mới mẻ trong các lĩnh vực tâm linh thì cũng dễ dàng biết bao.
Thời gian trôi qua. Tôi nghỉ ngơi thoải mái, thoải mái hơn bao giờ hết trong cuộc đời mình từ trước tới nay. Sau đó, ngay trước khi hết một tháng chờ đợi để trở về nước Anh, tôi có được gọi khẩn cấp đến Vùng Hoàng Kim. Ngồi trước tất cả các Vị Cao Cả, tôi có ý nghĩ bất kính là việc này giống như một buổi chỉ thị trong những ngày chiến tranh! Ý nghĩ của tôi bị các vị khác đọc được, và một trong số các họ mỉm cười và nói, “Phải, đây là một buổi chỉ thị! Và kẻ thù là ai? Mãnh lực hắc ám sẽ ngăn cản nhiệm vụ của chúng ta được thực hiện.”
The Task! It was so amazing to me that there was “a task” at all. To see the human aura was to me as simple as for a man with perfect sight to see a person standing a few feet away from him. I mused upon the difference between East and West, thinking how easy it would be to convince a Westerner of a new labour-saving food, and how easy it would be to convince an Easterner of something new in the realms of the mind.
Time slipped by. I rested extensively, more extensively than ever in my life before. Then, shortly before the month was up, shortly before I was to return to England, I had an urgent call to visit again the Land of the Golden Light. Seated in front of all those High Personages, I had the somewhat irreverent thought that this was like a briefing during the war days! My thought was caught by the others, and one of them smiled and said, “Yes, it is a briefing! And the enemy? The Power of Evil which would stop our task from being accomplished.”
“Con sẽ gặp nhiều sự phản đối và rất nhiều lời vu khống,” một vị nói, “những quyền năng siêu hình của con sẽ không bị thay đổi hay mất đi trong quá trình tráo đổi,” một vị khác nói.
“Đây là lần tái kiếp cuối cùng của con,” người Hướng dẫn thân yêu của tôi, Lạt ma Minh Gia Đại đức nói. “Khi con kết thúc cuộc sống mà con đang tiếp nhận này, con sẽ trở về Nhà – với chúng ta.” Đúng là Thầy tôi, tôi nghĩ, luôn kết thúc mọi thứ với một điều tốt. Các vị tiếp tục nói với tôi về những gì sẽ xảy ra. Ba vị lạt ma sẽ đi cùng tôi đến Anh bằng thể vía, và một vị sẽ thực hiện việc cắt sợi chỉ bạc của ông ta, và một vị khác sẽ nối tôi vào! Khó khăn là cơ thể của tôi vẫn đang ở Tây Tạng, cần phải duy trì kết nối nếu tôi muốn “các phần tử xác thịt” của mình cuối cùng được chuyển sang cái xác mới. Vì vậy, tôi trở về thế giới và cùng với ba bị đồng hành dến Anh bằng thể vía.
“You will meet much opposition and very much calumny,” said one. “Your metaphysical powers will not be altered or lost in any way during the change-over,” said another.
“This is your last Incarnation,” said my beloved Guide, the Lama Mingyar Dondup. “When you have finished this life you are taking over, you will then return Home—to us.” How like my Guide, I thought, to end on a happy note. They went on to tell me what was going to happen. Three astral-traveling lamas would accompany me to England and would do the actual operation of severing one free from his Silver Cord, and attaching the other—me! The difficulty was that my own body, still in Tibet, had to remain connected as I wanted my own “flesh molecules” to be eventually transferred. So, I returned to the world and together with three companions journeyed to England in the astral state.
Ông ấy đang đợi. “Tôi đã xác định làm đến cùng,” ông nói.
Một trong các vị lạt ma đi cùng tôi quay sang người đàn ông và nói, “Anh phải cho phép mình rơi thật mạnh từ cái cây đó, như anh đã làm khi chúng ta tiếp xúc lần đầu. Anh phải có một chấn động nghiêm trọng, vì Sợi chỉ bạc của anh đang kết nối rất chắc chắn.”
Người đàn ông trèo lên cao vài feet và sau đó rơi xuống đất với tiếng ‘thịch’ nặng nề. Trong khoảnh khắc, thời gian như dừng lại. Một chiếc xe ô tô đang tăng tốc dọc theo con đường chợt dừng ngay lại, một con chim đang bay đột ngột bất động trong không trung. Một con ngựa đang kéo chiếc xe ngừng lại với hai chân đang bước lên cao. Sau đó, sự chuyển động trở lại với nhận thức của chúng tôi. Chiếc xe ô tô nhảy lên chạy tiếp, với tốc độ khoảng bốn lăm dặm một giờ. Con ngựa bắt đầu phi nước kiệu, và con chim đang lơ lửng chợt tung cánh bay. Những chiếc lá xào xạc, đung đưa và những ngọn cỏ dập dờn thành những làn sóng nhỏ khi gió thổi ngang qua.
The man was waiting. “I am determined to go through with it,” he said.
One of the lamas with me turned to the man and said, “You must allow yourself to fall violently by that tree as you did when we first approached you. You must have a severe shake, for your Cord is very securely attached.”
The man pulled himself a few feet off the ground and then let go, falling to the earth with a satisfying ‘thud’. For a moment it seemed as if Time itself stood still. A car which had been speeding along halted on the instant, a bird in full flight suddenly stopped motionless—and stayed in the air. A horse drawing a van paused with two feet upraised and did not fall. Then, motion came back into our perception. The car jumped into motion, doing about thirty-five miles an hour. The horse started to trot, and the bird hovering above flashed into full flight. Leaves rustled and twisted and the grass rippled into little waves as the wind swept across it.
Đối diện, phía bên Bệnh Viện Thôn Dã của địa phương, một chiếc xe cấp cứu chạy chậm dần đến chỗ đỗ. Hai người bước xuống, đi vòng ra phía sau, và kéo ra một cái cáng trên đó là một người phụ nữ già nua. Thong thả, những nhân viên cứu thương khênh chiếc cáng, đưa bà cụ vào trong bệnh viện. “À!” người đàn ông nói. “Bà ấy đang đi vào viện, còn tôi đang đi tới tự do.” Ông nhìn lên con đường, và sau đó nói, “Vợ tôi, bà ấy đã biết tất cả chuyện này. Tôi đã giải thích cho bà ấy và bà ấy đã đồng ý.” Ông liếc nhìn ngôi nhà và chỉ. “Đó là căn phòng của bà ấy, căn phòng của ngài ở kia. Bây giờ thì tôi không thể nào sẵn sàng hơn.”
Một vị lạt ma nắm lấy thể vía của người đàn ông và luồn tay dọc theo Sợi chỉ bạc. Ông dường như đang thắt nó như thể thắt dây rốn của trẻ sơ sinh. “Sẵn sàng!” một trong các vị tu sĩ nói. Người đàn ông, đã thoát khỏi Sợi chỉ bạc, trôi đi cùng với vị tu sĩ đang giúp đỡ ông. Tôi cảm thấy một cơn đau cháy bỏng, nỗi đau đớn vô cùng mà tôi không bao giờ muốn thấy lại nữa, và sau đó vị lạt ma cấp cao nói, “Lobsang, ngài có thể vào trong cơ thể đó được không? Chúng tôi sẽ giúp ngài.”
Opposite, at the local Cottage Hospital, an ambulance rolled to a stop. Two attendants alighted, walked round to the back, and pulled out a stretcher upon which was an old woman. Leisurely the men maneuvered into position and carried her into the hospital. “Ah!” said the man. “She is going to the hospital, I am going to freedom.” He looked up the road, down the road, and then said, “My wife, she knows all about this. I explained it to her and she agrees.” He glanced at the house and pointed. “That’s her room, yours is there. Now I’m more than ready.”
One of the lamas grasped the astral form of the man and slid a hand along the Silver Cord. He seemed to be tying it as one ties the umbilical cord of a baby after its birth. “Ready!” said one of the priests. The man, freed of his connecting Cord, floated away in company with the priest who was assisting him. I felt a searing pain, an utter agony which I never want to feel again, and then the senior lama said, “Lobsang, can you enter that body? We will help you.”
Thế giới trở nên đen tối. Có một cảm giác lạnh và ẩm ướt mầu đỏ sẫm. Một cảm giác nghẹt thở. Tôi cảm thấy mình đang bị siết lại, siết lại trong một cái gì đó quá nhỏ bé với tôi. Tôi thăm dò bên trong cái xác mới, cảm giác giống như một phi công mù trong một chiếc máy bay vô cùng phức tạp, khi tự hỏi làm thế nào để vận hành cái xác này. “Liệu tôi có làm gì sai không?” tôi khổ sở tự hỏi. Tôi loay hoay và lóng ngóng một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, tôi nhìn thấy thấp thoáng màu đỏ, sau đó một chút màu xanh lá cây. Yên tâm, tôi cố gắng hơn nữa, và sau đó giống như một cái rèm được kéo lên, tôi có thể nhìn thấy! Khả năng nhìn của tôi vẫn chính xác như trước đây, tôi có thể nhìn thấy hào quang của những người trên đường. Nhưng tôi không thể cử động.
Hai vị lạt ma đứng bên cạnh tôi. Từ giờ trở đi, như tôi nhận ra sau này, rằng mình sẽ luôn luôn có thể nhìn thấy thể vía như là thể vật lý. Tôi cũng có thể duy trì tiếp xúc nhiều hơn với các bạn của mình ở Tây Tạng. “Phần thưởng an ủi”, tôi thường tự nhủ, “vì đã tiếp tục ở lại phương Tây.”
The world went black. There was an utterly clammy feeling of black-redness. A sensation of suffocating. I felt that I was being constricted, constrained in something too small for me. I probed about inside the body feeling like a blind pilot in a very complicated aeroplane, wondering how to make this body work. “What if I fail now?” I thought miserably to myself. Desperately I fiddled and fumbled. At last I saw flickers of red, then some green. Reassured, I intensified my efforts, and then it was like a blind being drawn aside. I could see! My sight was precisely the same as before, I could see the auras of people on the road. But I could not move.
The two lamas stood beside me. From now on, as I was to find, I could always see astral figures as well as physical figures. I could also keep even more in touch with my companions in Tibet. “A consolation prize,” I often told myself, “for being compelled to remain in the West at all.”
Hai vị lạt ma ái ngại nhìn cơ thể cứng đờ, không thể cử động được của tôi. Tuyệt vọng, tôi gồng mình, tự mắng bản thân đã không cố gắng tìm hiểu những khác biệt giữa cơ thể của người phương Đông và phương Tây trước đây. “Lobsang! Các ngón tay ngài đang giật giật đấy!” một vị lạt ma gọi. Tôi khẩn trương thăm dò và thử nghiệm. Một cử động sai lầm đưa đến tình trạng mù tạm thời. Với sự giúp đỡ của các vị lạt ma, tôi ra khỏi cơ thể, nghiên cứu nó, và rồi lại quay trở vào một cách cẩn thận. Lần này đã thành công hơn. Tôi có thể nhìn thấy, có thể cử động cánh tay, chân. Với nỗ lực to lớn, tôi quỳ lên đầu gối, người lắc lư và lảo đảo, và cả thảy lại sụp xuống lần nữa. Cứ như thể đang nhấc toàn bộ sức nặng của Trái đất, tôi run rẩy đứng lên đôi chân mình.
Từ trong nhà, một người phụ nữ chạy đến, và nói, “Trời ại, ông lại làm cái gì đây? Ông cần phải đi vào nhà và nằm xuống.” Bà nhìn tôi và một nét hoảng sợ hiện lên trên vẻ mặt của bà, và trong khoảnh khắc tôi nghĩ bà sắp sửa thét lên thất thanh. Nhưng bà đã tự kiểm soát được mình, và đặt một cánh tay lên vai tôi và giúp tôi băng qua bãi cỏ. Qua một con đường trải sỏi nhỏ, lên một cầu thang bằng đá, và đi xuyên một cái cửa ra vào bằng gỗ, rồi vào một hành lang nhỏ. Từ đó thực sự là khó khăn, vì có nhiều bậc thang phải trèo và tôi vẫn còn chưa vững, cử động vẫn còn vụng về.
The two lamas were looking concernedly at my rigidity, at my inability to move. Desperately I strained and strained, blaming myself bitterly for not having tried to find out and master any difference between an Eastern body and a Western. “Lobsang! Your fingers are twitching!” called out one of the lamas. Urgently I explored and experimented. A faulty movement brought temporary blindness. With the help of the lamas I vacated the body again, studied it, and carefully re-entered. This time it was more successful. I could see, could move an arm, a leg. With immense effort I rose to my knees, wavered and tottered, and fell prone again. As if I were lifting the whole weight of the world I rose shakily to my feet.
From the house came a woman running, saying, “Oh, what have you done now? You should come in and lie down.” She looked at me and a startled expression came upon her face, and for a moment I thought she was going to scream in hysteria. She controlled herself, and put an arm round my shoulders and helped me across the grass. Over a little gravel path, up one stone step, and through a wooden doorway and into a small hallway. From thence it was difficult indeed, for there were many stairs to climb and I was as yet very uncertain and clumsy in my movements.
Ngôi nhà có hai căn phòng, và một cái là của tôi, ở tầng trên. Thật kỳ lạ, khi đi vào nhà người Anh theo cách này, trèo lên cầu thang hơi dốc, đu mình trên tay vịn để không bị ngã ngửa ra phía sau. Chân tay tôi như làm bằng cao su bởi tôi chưa thể kiểm soát chúng – vì thực sự trong trường hợp này, để hoàn toàn làm chủ được một cơ thể mới lạ, cần phải mất vài ngày. Hai vị lạt ma bay lượn xung quanh, thể hiện mối quan tâm rất lớn, nhưng tất nhiên họ không thể làm gì được. Chắng lâu sau đó, họ phải rời đi, khi hứa sẽ trở lại vào buổi đêm.
Chậm rãi, tôi đi vào phòng ngủ của mình, loạng choạng như người mộng du, co giật như một người máy. Tôi đổ nhào xuống giường một cách biết ơn. Ít nhất, tôi tự an ủi, lúc này tôi không thể ngã được nữa! Cửa sổ của tôi trông ra cả phía trước và phía sau ngôi nhà. Bằng cách quay đầu sang phải, tôi có thể nhìn ngang qua mảnh vườn nhỏ phía trước, trên đường đến bệnh viện làng quê nhỏ, tôi không tìm thấy sự an ủi nào trong tình trạng hiện tại của mình.
The house really consisted of two flats and the one which I was to occupy was the upper. It seemed so strange, entering an English home in this manner, climbing up the somewhat steep stairs, hanging on to the rail to prevent myself from falling over backwards. My limbs felt rubbery, as if I lacked full control over them—as indeed was the case, for to gain complete mastery of this strange new body took some days. The two lamas hovered round, showing considerable concern, but of course there was nothing they could do. Soon they left me, promising to return in the small hours of the night.
Slowly I entered the bedroom which was mine, stumbling like a sleepwalker, jerking like a mechanical man. Gratefully I toppled over on to the bed. At least, I consoled myself, I cannot fall down now! My windows looked out on to both the front and the back of the house. By turning my head to the right I could gaze across the small front garden, on to the road, across to the small Cottage Hospital, a sight which I did not find comforting in my present state.
Phía bên kia căn phòng là cửa sổ, mà trông qua đó, khi quay đầu sang trái, tôi có thể nhìn thấy chiều dài của khu vườn lớn. Nó nhếch nhác, cỏ mọc dày như một bãi cỏ hoang. Có những bụi cây ngăn cách vườn ngôi nhà này với ngôi nhà khác. Ở cuối bãi cỏ có một viền những cây bò lan um tùm và một hàng rào dây thép. Bên ngoài, tôi có thể nhìn thấy hình dáng những tòa nhà trang trại và một đàn bò đang gặm cỏ gần đó.
Bên ngoài cửa sổ phòng, tôi có thể nghe thấy những tiếng nói, nhưng chúng là giọng “Tiếng Anh” mà tôi nhận ra là hầu như không thể hiểu được. Tiếng Anh tôi đã nghe trước đây chủ yếu là của người Mỹ và Canada, và ở đây lại là các âm tiết kỳ lạ của một người bản địa. Tôi nhận thấy việc mình nói cũng rất khó khăn. Khi cố gắng nói, tôi chỉ phát ra những tiếng kêu trống rỗng. Dây thanh quản của tôi dường như rất dày, xa lạ. Tôi học cách nói chậm rãi và trước tiên phải hình dung những gì tôi sẽ nói. Tôi có xu hướng nói “tra” thay vì nói “giey”, hay “chon” thay vì John, và những lỗi tương tự. Đôi khi tôi hầu như không hiểu mình đang nói gì!
At the other side of the room was the window through which, by turning my head to the left, I could see the length of the larger garden. It was unkempt, coarse grass growing in clumps as in a meadow. Bushes divided the garden of one house from the next. At the end of the grassy stretch there was a fringe of straggly trees and a wire fence. Beyond I could see the outlines of farm buildings and a herd of cows grazing nearby.
Outside my windows I could hear voices, but they were such “English” voices that I found it almost impossible to understand what was being said. The English I had heard previously had been mostly American and Canadian, and here the strangely accented syllables of one of the Old School Tie Brigade baffled me. My own speech was difficult, I found. When I tried to speak I produced just a hollow croak. My vocal cords seemed thick, strange. I learned to speak slowly, and to visualize what I was going to say first. I tended to say “cha” instead of “j”, making “chon” for John, and similar errors. Sometimes I could hardly understand what I was saying myself!
Đêm đó, các vị lạt ma lại đến với tôi trong thể vía và đã động viên sự tuyệt vọng của tôi khi bảo rằng lúc này tôi chắc hẳn có thể đi lại bằng thể vía còn dễ dàng hơn trước. Các vị cũng nói với tôi rằng cơ thể Tây Tạng của tôi được bảo quản an toàn trong một quan tài bằng đá, dưới sự chăm sóc không mệt mỏi của ba nhà sư. Các vị nói với tôi rằng, dựa vào nghiên cứu trong các tài liệu cổ, thì việc chuyển giao cái xác chính của tôi sang cái xác mới sẽ dễ thôi, nhưng cần mất một chút thời gian để hoàn thiện.
Tôi ở trong phòng ba ngày liền, nghỉ ngơi, luyện tập việc cử động, và làm quen với cuộc sống mới. Vảo buổi tối ngày thứ ba, tôi run rẩy bước vào khu vườn lúc mặt trời đã lặn. Lúc này, tôi nhận thấy mình đã bắt đầu làm chủ được cơ thể, mặc dù vẫn có những khoảnh khắc không kiểm soát được khi một tay, hay một chân có thể đáp ứng sai với mệnh lệnh của mình.
That night the astral traveling lamas came again and cheered away my depression by telling me that now I should find astral traveling even easier. They told me, too, of my lonely Tibetan body safely stored in a stone coffin, under the unceasing care of three monks. Research into old literature, they told me, showed that it would be easy to let me have my own body, but that the complete transfer would take a little time.
For three days I stayed in my room, resting, practicing movements, and becoming accustomed to the changed life. On the evening of the third day I walked shakily into the garden, under cover of darkness. Now, I found, I was beginning to master the body, although there were unaccountable moments when an arm or a leg would fail to respond to my commands.
Sáng ngày hôm sau, người phụ nữ mà bây giờ được coi là vợ tôi nói, “Ngày hôm nay, ông sẽ phải đến Sở Lao Động để xem liệu người ta có công việc nào cho ông chưa.” Sở Lao Động ư? Trong một lúc, nó không mang đến cho tôi khái niệm gì cả, cho đến khi bà ấy dùng thuật ngữ “Bộ Lao Động” tôi mới chợt nhận ra. Tôi chưa bao giờ đến một nơi như thế và không có một khái niệm nào về việc cần phải ứng xử hay làm gì ở đó. Tôi biết từ cuộc trò chuyện là đó là một nơi gần Lâu Đài Hampton Court, một nơi gọi là Molesey.
Vì một số lý do mà lúc đó tôi không thể hiểu được, tôi đã không đủ điều kiện hưởng bất kỳ một khoản trợ cấp thất nghiệp nào. Sau đó, tôi nhận ra rằng nếu một người tự nguyện bỏ việc, bất kể là công việc đó có tồi tệ hay bất hợp lý ra sao, anh ta cũng sẽ không có quyền hưởng tiền trợ cấp, kể cả nếu anh ta đã nộp vào quỹ trong vòng hai mươi năm.
The next morning the woman who was now known as my wife said, “You will have to go to the Labour Exchange today to see if they have any job for you yet.” Labour Exchange? For some time it conveyed nothing to me, until she used the term “Ministry of Labour” then it dawned on me. I had never been to such a place and had no idea of how to behave or what to do there. I knew, from the conversation, that it was some place near Hampton Court but the name was Molesey.
For some reason which I did not then comprehend, I was not entitled to claim any unemployment benefit. Later I found that if a person left his employment voluntarily, no matter how unpleasant or unreasonable that employment, he was not entitled to claim benefit, not even if he had paid into the fund for twenty years.
Sở Lao Động! Tôi nói, “Lấy giúp tôi cái xe đạp, và tôi sẽ đi.” Chúng tôi cùng nhau đi xuống cầu thang, rẽ trái vào nhà để xe lúc này chất đầy những đồ đạc cũ kỹ, và có một chiếc xe đạp, một dụng cụ để tra tấn mà tôi đã từng sử dụng chỉ một lần trước đây, khi còn ở Trùng Khánh, nơi mà tôi đã bay xuống đồi trước khi tôi có thể tìm thấy hệ thống phanh. Thận trọng, tôi leo lên xe và loạng choạng đi dọc theo con đường về phía cây cầu sắt, rẽ trái tại ngã ba. Một người đàn ông vẫy tay chào thân thiện, tôi vẫy tay chào lại và suýt ngã nhào xuống đất. “Trông anh có vẻ không khỏe,” ông gọi, “hãy đi cẩn thận nhé!”
Tôi đạp xe tiếp, cảm nhận được nỗi đau kỳ lạ ở chân. Đi tiếp, và rẽ phải, như đã được chỉ dẫn từ trước, vào con đường rộng tới Lâu Đài Hampton Court. Khi đang cưỡi xe dọc theo con đường, đột nhiên chân tôi không tuân theo mệnh lệnh, và chỉ có thể để bánh xe lăn tự do ngang qua con đường để cuối cùng đổ sụp xuống thành một đống, với chiếc xe đè lên người trên dải cỏ ven đường. Trong khoảnh khắc, tôi nằm đó, run rẩy một cách tồi tệ, rồi một người phụ nữ đang làm gì đó với cái chiếu bên ngoài cửa trước nhà cô, lao xuống đường như cơn bão, hét lên, “Ông phải tự biết xấu hổ chứ, say xỉn vào giờ này à. Tôi thấy ông rồi đấy, có khi tôi nên gọi cảnh sát!” bà ta cau mày nhìn tôi, sau đó quay lưng và lao trở lại ngôi nhà của mình, nhặt chiếc chiếu lên và đóng sầm cửa lại đằng sau.
“Bà ấy thật là nông cạn!” tôi nghĩ. “Bà ấy thật là nông cạn!”
Labour Exchange! I said, “Help me get the bicycle, and I will go.” Together we walked down the stairs, turned left to the garage now stuffed with old furniture, and there was the bicycle, an instrument of torture which I had used only once before, in Chungking, where I had gone flying down the hill before I could find the brakes. Gingerly I got on the contraption and wobbled off along the road towards the railway bridge, turning left at the forked road. A man waved cheerily, and waving back, I almost fell off. “You don’t look at all well,” he called. “Go carefully!”
On I pedaled, getting strange pains in the leg. On, and turned right, as previously instructed, into the wide road to Hampton Court. As I rode along, my legs suddenly failed to obey my commands, and I just managed to free-wheel across the road to tumble in a heap, with the bicycle on top of me, on a stretch of grass beside the road. For a moment I lay there, badly shaken, then a woman who had been doing something to her mats outside her front door came storming down the path, yelling, “You ought to be ashamed of yourself, drunk at this time of the day. I saw you. I’ve a mind to ring up the police!” She scowled at me, then turned and dashed back to her house, picked up the mats and slammed the door behind her.
“How little she knows!” I thought. “How little she knows!”
Trong khoảng hai mươi phút, tôi nằm đó, cố gắng hồi phục. Vài người đứng bên cửa nhà mình và nhìn chằm chằm vào tôi. Người khác thì ngó nghiêng từ sau tấm rèm cửa sổ. Hai người phụ nữ đến cuối vườn nhà mình và bắt đầu lớn tiếng thảo luận về tôi bằng những giọng nói khàn khàn. Có vẻ không ai có một ý nghĩ, dù nhỏ nhất, là tôi có thể đang bị ốm hay thực sự cần sự giúp đỡ.
Cuối cùng, với nỗ lực to lớn, tôi loạng choạng đứng lên, dựng chiếc xe đạp, và lên xe đi về phía Hampton Court.
For perhaps twenty minutes I lay there, recovering. People came to their doors and stared out. People came to their windows and peered from behind curtains. Two women came to the end of their gardens and discussed me in loud, raucous voices. Nowhere did I detect the slightest thought that I might be ill or in need of attention.
At last, with immense effort, I staggered to my feet, mounted the bicycle, and rode off in the direction of Hampton Court.
[1] [VMC] Tiếng Anh là Master, cũng có nghĩa là “Ông chủ”, là người làm chủ
Người dịch: Nguyễn Thị Hiền Hạnh
Biên tập: VMC