Sáng sớm hôm sau, trước cả khi những tia sáng đầu tiên của bình minh xuất hiện trên bầu trời, cánh cửa phòng giam bật mở một cách thô bạo, đập vào tường đá một cái uỳnh. Lính gác xông vào, tôi bị kéo đứng lên và xô lắc dữ tợn bởi ba hay bốn tên lính. Rồi chúng còng tay tôi lại, và tôi bị lôi tới một căn phòng có vẻ cách đó rất xa. Bọn lính không ngừng thúc tôi bằng báng súng, một cách không nhẹ nhàng chút nào. Mỗi lần như vậy, mà việc này là quá thường xuyên, chúng thường hét lên:
– Trả lời tất cả các câu hỏi thật nhanh gọn, mày là kẻ thù của hòa bình. Chúng tao sẽ moi được sự thật từ mày.
IN the early hours of next morning, long before the first streaks of dawn appeared in the sky the cell door was flung open violently, to recoil against the stone wall with a clang. Guards rushed in, I was dragged to my feet, and shaken roughly by three or four men. Then handcuffs were put upon me, and I was marched off to a room which seemed to be a long, long way away. The guards kept prodding me with their rifle butts, not gently either. Each time they did this, which was all too frequent, they yelled, “Answer all questions promptly, you enemy of peace. We will get the truth from you.”
Cuối cùng cũng đã đến Phòng Thẩm vấn. Ở đây có một nhóm sĩ quan đang ngồi thành hình bán nguyệt, trông chúng thật dữ tợn, hoặc đang cố tỏ ra dữ tợn. Trên thực tế, đối với tôi, chúng chỉ như một đám nam sinh thích chơi những trò tàn bạo. Chúng cúi chào kiểu cách khi tôi được đưa vào phòng.
Eventually we reached the Interrogation Room. Here there were a group of officers sitting in a semicircle, looking fierce, or trying to look fierce. Actually, to me, they seemed to be a gang of schoolboys who were out for a sadistic treat. They all bowed ceremoniously as I was brought in.
Sau đó, một sĩ quan cao cấp, một đại tá, hối thúc tôi khai ra sự thật. Hắn ta bảo đảm với tôi rằng người Nhật rất thân thiện, và yêu chuộng hòa bình. Nhưng tôi, như hắn nói, là kẻ thù của người Nhật bởi tôi đang cố gắng chống lại quá trình chiếm đóng Trung Quốc một cách yên bình. Trung Quốc, hắn nói với tôi, phải là thuộc địa của Nhật Bản, bởi vì Trung Quốc không văn minh! Hắn tiếp tục:
– Nhật bản chúng tôi là những người bạn thực sự của hòa bình. Anh cần phải nói cho chúng tôi mọi điều. Nói cho chúng tôi biết về đường đi của quân Trung Quốc, về lực lượng của chúng, cùng các cuộc trao đổi giữa anh và Tưởng Giới Thạch, để chúng tôi có thể đè bẹp sự nổi dậy của Trung Quốc mà không mất mát.
Tôi đáp:
– Tôi là một tù binh chiến tranh, và yêu cầu được đối xử như vậy. Tôi không còn gì để nói nữa.
Rồi hắn nói:
– Chúng tao phải nhìn thấy mọi người được sống trong hòa bình dưới sự che chở của Nhật Hoàng. Chúng tao sẽ có một đế chế Nhật Bản rộng lớn. Còn mày sẽ nói sự thật.
Then a senior officer, a colonel, exhorted me to tell the truth. He assured me that the Japanese people were friendly, and peace-loving. But I, he said, was an enemy of the Japanese people because I was trying to resist their peaceful penetration into China. China, he told me, should have been a colony of the Japanese, because China was without culture! He continued. “We Japanese are true friends of peace. You must tell us all. Tell us of the Chinese movements, and of their strength, and of your talks with Chiang Kai-Shek, so that we may crush the rebellion of China without loss of our own soldiers.” I said, “I am a prisoner-of-war, and demand to be treated as such. I have nothing more to say.” He said, “We have to see that all men live in peace under the Emperor. We are going to have an expanded Japanese Empire. You will tell the truth.”
Chúng không nhẹ tay chút nào trong phương pháp thẩm vấn. Chúng cần thông tin, và chúng không ngần ngại làm bất kỳ điều gì để có được thông tin đó.
Tôi từ chối nói mọi điều, vì thế chúng đánh tôi, đập mạnh một cách tàn bạo bằng báng súng trường lên ngực, lưng và đầu gối. Rồi tôi lại bị lũ lính kéo đứng dậy để tiếp tục bị đánh gục xuống lần nữa. Sau nhiều, rất nhiều giờ trong đó tôi bị châm bằng đầu thuốc lá, chúng quyết định sử dụng các biện pháp mạnh hơn. Tôi bị trói tay và chân, kéo lê xuống một căn phòng dưới hầm. Ở đây, tôi tiếp tục bị trói tay chân trong vài ngày. Phương pháp trói tù nhân của bọn Nhật tạo ra những cơn đau khủng khiếp. Cổ tay của tôi bị buộc lại với nhau ở sau gáy. Còn cổ chân thì bị buộc với cổ tay, và chân gập lại ở đầu gối, để lòng bàn chân cũng chĩa vào gáy. Sau đó, một sợi dây thừng được luồn từ cổ chân và cổ tay trái vòng quanh cổ, luồn xuống dưới và buộc vào cổ chân và cổ tay phải, để nếu như tôi cố gắng nới lỏng tư thế thì tôi cũng đồng thời tự thắt cổ chính mình. Đó thực sự là một quá trình đau đớn, bị trói như một cánh cung đang căng. Chốc chốc một tên lính lại đi vào và đá tôi chỉ để xem liệu có gì xảy ra.
They were not at all gentle in their methods of questioning. They wanted information, and they didn’t mind what they did to get that information. I refused to say anything, so they knocked me down with rifle butts—rifle butts dashed brutally against my chest or back, or at my knees. Then I was pulled to my feet again by guards so that I could be knocked down again. After many, many hours, during which time I was burned with cigarette ends, they decided that stronger measures were called for. I was bound hand and foot, and dragged off again to an underground cell. Here I was kept bound hand and foot for several day. The Japanese method of tying prisoners led to excruciating pain. My wrists were tied behind me with my hands pointing to the back of my neck. Then my ankles were tied to my wrists, and legs were folded at the knees, so that the soles of the feet also faced the back of the neck. Then a rope was passed from my left ankle and wrist around my neck, and down to the right ankle and wrist. So that if I tried to ease my position at all I half strangled myself. It was indeed a painful process, being kept like a strong bow. Every so often a guard would come in and kick me just to see what happened.
Trong vài ngày liền tôi bị giữ như vậy, được cởi trói chỉ nửa giờ một ngày; trong vài ngày chúng giữ tôi như vậy, trong khi chúng không ngừng đến và hỏi thông tin. Tôi không nói hay trả lời tiếng nào ngoại trừ:
– Tôi là một sĩ quan của quân đội Trung Quốc, một sĩ quan không chiến đấu. Tôi là một bác sĩ và là một tù nhân chiến tranh. Tôi không còn gì để nói nữa.
Cuối cùng, chúng đã phát mệt vì tra hỏi tôi, thế là chúng mang tới một cái ống, và phun nước cay thẳng vào lỗ mũi tôi. Tôi có cảm thấy như thể toàn bộ óc mình đang bốc cháy. Như thể quỷ sứ đang thiêu đốt từ bên trong. Nhưng tôi vẫn không nói gì, và thế là chúng tiếp tục pha thêm ớt vào với nước, và thêm cả mù tạt nữa. Cơn đau thật không thể tưởng tượng được. Cuối cùng, máu tươi ộc ra từ miệng tôi. Ớt đã cuốn sạch niêm mạc trong mũi. Tôi đã sống sót trong mười ngày bị tra tấn theo cách này, và tôi đồ rằng chúng cũng đã nhận ra phương pháp này sẽ chẳng làm tôi nói, vì thế, chúng dừng tay mỗi khi nhìn thấy máu tươi.
For several days I was kept like that, being unbound for half-an-hour a day only; for several days they kept me like that, and they kept coming and asking for information. I made no sound or response other than to say, “I am an officer of the Chinese forces, a non-combatant officer. I am a doctor and a prisoner-of-war. I have nothing more to say.” Eventually they got tired of asking me questions, so they brought in a hose, and they poured strongly peppered water into my nostrils. I felt as if my whole brain was on fire. It felt as if devils were stoking the flames within me. But I did not speak, and they kept on mixing a stronger solution of pepper and water, adding mustard to it. The pain was quite considerable. Eventually bright blood came out of my mouth. The pepper had burned out the linings of my nostrils. I had managed to survive this for ten days, and I supposed it occurred to them that that method would not make me talk, so, at sight of the bright red blood, they went away.
Hai hoặc ba ngày sau đó, chúng tôi lại đến chỗ tôi, và mang tôi đến phòng thẩm vấn. Lần này tôi bị khênh đi, bởi vì tôi không còn đủ sức để tự bước, cho dù có bị thúc bằng báng súng hay lưỡi lê. Tay và chân tôi đã bị trói quá lâu đến nỗi tôi không thể cử động được. Bên trong phòng thẩm vấn, tôi bị quẳng xuống, và những tên lính gác đã vác tôi, có tất cả bốn tên, đứng nghiêm trang trước những tên sĩ quan đang ngồi thành hình bán nguyệt. Lúc này, chúng có trước mặt rất nhiều dụng cụ lạ mà tôi, từ những nghiên cứu của mình, biết rằng đó là những dụng cụ tra tấn. Tên đại tá nói:
– Mày sẽ nói cho chúng tao sự thật ngay bây giờ, và đừng làm lãng phí thời gian của chúng tao nữa.
– Tôi đã nói sự thật. Tôi là một sĩ quan của quân đội Trung Quốc.
Đó là tất cả những gì tôi đáp lại.
Two or three days later they came for me again, and carried me to the Interrogation Room. I had to be carried because this time I could not walk in spite of my efforts, in spite of being bludgeoned with gun butts and pricked with bayonets. My hands and legs had been bound for so long that I just could not use them at all. Inside the Interrogation Room I was just dropped to the floor, and the guards—four of them—who had been carrying me stood to attention before the officers who were sitting in a semi-circle. This time they had before them many strange implements which I, from my studies, knew to be instruments of torture. “You will tell us the truth now, and cease to waste our time,” said the colonel. “I have told you the truth. I am an officer of the Chinese forces.” That was all I said in reply.
Những tên Nhật tức đỏ mặt, và với một mệnh lệnh, tôi đã bị trói chặt vào một cái phản với hai cánh tay dang rộng như thể tôi đang bị treo trên một cây thập tự giá. Một mảnh tre dài được cắm vào dưới móng tay tôi, sâu đến tận khớp ngón út, sau đó chúng xoay những mảnh tre. Điều này thực sự đau đớn, nhưng vẫn không mang lại cho chúng câu trả lời. Vì thế lũ lính nhanh chóng rút các mảnh tre ra, và sau đó một cách từ từ, từng móng tay của tôi lần lượt bị bẻ ngược ra sau.
Cơn đau thật khủng khiếp. Khủng khiếp hơn nữa khi lính Nhật nhỏ nước muối vào những đầu ngón tay đang chảy máu. Tôi biết rằng tôi không được nói và không được phản bội những người bạn của mình, và vì thế tôi nhớ lại lời khuyên của Thầy tôi, Đại Đức Lạt Ma Minh Gia.
– Đừng tập trung vào chỗ đau, Lobsang, vì nếu con làm vậy tức là con tập trung tất cả năng lượng của con vào chỗ đó, và khi đó con sẽ đau không thể chịu được. Thay vào đó hãy nghĩ đến những điều khác. Hãy kiểm soát tâm trí của con, và hãy nghĩ về những điều khác, bởi vì khi ấy con vẫn có những cơn đau và những hậu quả của cơn đau, nhưng con sẽ có thể vượt qua. Cơn đau sẽ chỉ như một điều gì đó diễn ra ở hậu trường.
Vì vậy, để giữ cho mình tỉnh táo, và để tránh đưa ra những cái tên hay thông tin mật, tôi đặt tâm trí mình vào những điều khác. Tôi nghĩ về quá khứ, về quê hương Tây Tạng, và về Thầy của tôi. Tôi nghĩ về sự khởi đầu như chúng tôi biết đến ở Tây Tạng.
The Japanese went red in the face with anger, and at a command I was strapped to a board with my arms outstretched as if I was on a cross. Long slivers of bamboo were inserted beneath my nails right down to the little finger joints, then the slivers were rotated. It really was painful, but it still brought no response. So the guards quickly pulled out the slivers, and then slowly, one by one my nails were split off backwards.
The pain was truly devilish. It was worse when the Japanese dropped salt water onto the bleeding finger ends. I knew that I must not talk and betray my comrades, and so I called to mind the advice of my Guide, the Lama Mingyar Dondup. “Do not concentrate on the seat of pain, Lobsang, for if you do you focus all your energies on that spot, and then the pain cannot be borne. Instead think of something else. Control your mind, and think of something else, because if you do that you will still have the pain and the after-effects of pain, but you will be able to bear it. It will seem as something in the background.” So to keep my sanity, and to avoid giving names and information I put my mind to other things. I thought of the past, of my home in Tibet, and of my Guide. I thought of the beginnings of things as we knew them in Tibet.
Bên dưới cung điện Potala là những đường hầm bí ẩn bị che dấu, những đường hầm nắm giữ chìa khóa của lịch sử nhân loại. Những điều này hấp dẫn tôi, chúng tạo hứng khởi cho tôi và có lẽ tôi nên nhắc lại một lần nữa những gì tôi đã nhìn thấy và học được ở nơi đây, vì đó là những kiến thức mà người phương Tây rõ ràng không biết tới.
Tôi nhớ hồi ấy tôi còn là một tu sĩ trẻ tuổi đang được đào tạo. Tôi đã phụng sự Đức Thái Tuế, tức Đức Đạt Lai Lạt Ma ở cung điện Potala bằng khả năng thấu thị của mình. Ngài rất hài lòng về tôi và để thưởng cho tôi, Ngài đã cho phép tôi được tự do đi lại trong cung điện. Một hôm, Thầy tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, cho gọi tôi:
– Lobsang, ta đã suy nghĩ nhiều về quá trình phát triển của con, và đi đến kết luận rằng con đã đạt đến độ tuổi và trình độ phát triển mà con có thể học các chữ khắc trong các hang động bí ẩn cùng với ta. Đi nào!
Beneath the Potala were hidden mysterious tunnels, tunnels which may hold the key to the history of the world. These interested me, they fascinated me, and it may be of interest to recall once again what I saw and learned there, for it is knowledge apparently not possessed by Western peoples.
I remembered how at the time I was a very young monk in training. The Inmost One, the Dalai Lama, had been making use of my services at the Potala as a clairvoyant, and He had been well pleased with me and as a reward had given me the run of the place. My Guide, the Lama Mingyar Dondup, sent for me one day, “Lobsang I have been thinking a lot about your evolution, and I have come to the conclusion that you are now of such an age and have attained such a state of development that you can study with me the writings in the hidden caves. Come!”
Thầy đứng dậy, và đi bên nhau, chúng tôi ra khỏi phòng, xuống hành lang, qua rất nhiều rất nhiều bậc, băng qua các nhóm tu sĩ đang cặm cụi với công việc hàng ngày của họ, các công việc thường nhật của cung điện Potala. Cuối cùng, sâu trong bóng núi, chúng tôi đến một căn phòng nhỏ tách biệt phía bên phải hành lang. Chỉ có ít ánh sáng rọi qua cửa sổ ở đây. Bên ngoài những lá cờ cầu nguyện bay phất phơ trong gió.
– Chúng ta sẽ vào đây, Lobsang, từ đây chúng ta có thể khám phá những khu vực mà chỉ có rất ít Lạt Ma được phép vào.
Trong căn phòng nhỏ, chúng tôi lấy những chiếc đèn từ trên các kệ, và đổ đầy chúng. Rồi để dự phòng, chúng tôi mỗi người cầm theo một chiếc. Những chiếc đèn chính đã được thắp, và chúng tôi bước ra ngoài, đi xuống hành lang, Thầy tôi đi trước dẫn đường. Chúng tôi tiếp tục đi xuống hành lang, xuống mãi xuống mãi. Ở cuối quãng đường dài, chúng tôi đến một căn phòng. Tôi ngỡ rằng đây là nơi hành trình kết thúc. Nó có vẻ như là một kho chứa. Những hình thù kỳ lạ, những bức tranh, đồ lễ, các vị thần ngoại quốc, và quà tặng từ khắp nơi trên thế giới. Đây là nơi mà Đức Đạt Lai Lạt Ma giữ những món quà vô kể của Ngài, những món mà Ngài chưa sử dụng.
He rose to his feet, and with me at his side we went out of his room, down the corridor, down many many steps, past groups of monks working at their daily tasks, attending to the domestic economy of the Potala. Eventually, far down in the gloom of the mountain, we came to a little room branching off to the right of the corridor. Little light came through the windows here. Outside the ceremonial prayer flags flapped in the breeze. “We will enter here, Lobsang, so that we may explore those regions to which only few lamas have access.” In the little room we took lamps from the shelves, and filled them. Then as a precaution, we each took a spare. Our main lamps were lit, and we walked out, and down the corridor, my Guide ahead of me showing me the way. Down we went, down the corridor, ever down. At long last we came to a room at the end. It seemed to be the end of a journey to me. It appeared to be a storeroom. Strange figures were about, images, sacred objects, and foreign gods, gifts from all the world over. Here was where the Dalai Lama kept his overflow of gifts, those for which he had no immediate use.
Tôi nhìn quanh một cách tò mò. Tôi chẳng thấy ý nghĩa gì của việc đi xuống dưới này. Tôi tưởng rằng chúng tôi sẽ đi thám hiểm, nhưng nơi này chỉ là phòng chứa đồ. Tôi nói:
– Thưa Thầy, liệu chúng ta có nhầm đường không?
Thầy nhìn tôi và mỉm cười trìu mến.
– Lobsang, Lobsang, con nghĩ ta lại nhầm đường sao?
Thầy mỉm cười quay đi, và bước đến bức tường phía xa.
Trong một lát, Thầy nhìn quanh và thao tác gì đó.
Như tôi có thể thấy, Thầy đang mò mẫn các hoa văn nào đó trên tường, những đường nổi bằng thạch cao được tạo ra bởi bàn tay người xưa. Cuối cùng, một tiếng động ầm ầm như thể đá đang rơi xuống và tôi quay đi hoảng hốt, nghĩ rằng trần đang sập xuống hoặc sàn nhà đang vỡ vụn. Thầy bật cười.
– Ồ, không, Lobsang, chúng ta an toàn, rất an toàn. Đây là nơi chúng ta sẽ tiếp tục cuộc hành trình của mình. Đây là nơi mà chúng ta sẽ bước vào một thế giới khác. Một thế giới mà ít người đã thấy. Đi theo Thầy.
I looked about me with intense curiosity. There was no sense in being here so far as I could see. I thought we were going exploring, and this was just a storage room. “Illustrious Master,” I said, “surely we have mistaken our path in coming here?” The lama looked at me and smiled benevolently. “Lobsang, Lobsang, do you think I would lose my way?” He smiled as he turned away from me and walked to a far wall. For a moment he looked about him and then did something. As far as I could see he was fiddling about with some pattern on the wall, some plaster protuberance apparently fabricated by some long-dead hand. Eventually there was a rumble as of falling stones and I spun around in alarm, thinking that perhaps the ceiling was caving in or the floor was collapsing. My Guide laughed. “Oh, no, Lobsang, we are quite safe, quite safe. This is where we continue our journey. This is where we step into another world. A world that few have seen. Follow me.”
Tôi nhìn kinh ngạc. Một phần của bức tường trượt sang một bên để lộ ra một cái hốc tối om. Tôi có thể thấy một con đường bụi bặm dẫn từ căn phòng vào đó, rồi mờ dần vào bóng tối u ám. Cảnh tượng làm cho tôi chôn chân tại chỗ trong kinh ngạc, và thốt lên:
– Nhưng thưa Thầy! Không hề có dấu hiệu nào của một cái cửa ở đó. Làm thế nào mà nó mở ra vậy?
Thầy bật cười và nói:
– Đây là một lối đi đã được xây dựng từ nhiều thế kỷ trước. Bí mật của nó đã được giữ gìn cẩn thận. Trừ khi được biết, người ta không thể mở cánh cửa này dù có tìm kiếm cỡ nào, không hề có một dấu hiệu của khớp nối hoặc vết nứt nào cả. Nhưng nào, Lobsang, chúng ta sẽ không thảo luận về lĩnh vực xây dựng. Chúng ta đang lãng phí thời gian. Con sẽ còn thấy nơi này thường xuyên.
Cùng lúc đó, Thầy quay đi và dẫn đường đi vào cái hốc, đi vào con đường hầm bí ẩn ở xa phía trước. Tôi đi theo sau đầy lo lắng.
Thầy chờ tôi đi vào, rồi quay lại và thao tác gì đó. Một lần nữa vang lên tiếng ầm ầm, và tiếng rít kèn kẹt đáng lo ngại, toàn bộ bức từng bằng đá trượt trước mắt tôi và che kín cái hốc. Giờ đây chúng tôi đang ở trong bóng tối hoàn toàn, ánh sáng duy nhất đến từ những tia lửa vàng bập bùng của ngọn đèn chúng tôi mang theo. Thầy vượt qua tôi, và đi trước. Những bước chân của Thầy, dù dẫn êm, vẫn vang vọng một cách kỳ từ các vách đá, vọng đi rồi vọng lại. Thầy tiếp tục đi mà không nói gì. Có lẽ chúng tôi đã đi hơn một dặm[1], sau đó đột nhiên mà không báo trước, thầy dừng lại phía trước tôi, làm tôi va vào Thầy và kêu lên ngạc nhiên.
– Tại đây chúng ta cần đổ thêm bơ vào đèn, Lobsang, và cho vào những cái bấc to hơn. Chúng ta sẽ cần ánh sáng từ đây. Hãy làm theo Thầy, và sau đó chúng ta sẽ tiếp tục hành trình.
I looked in awe. The section of the wall had slid aside revealing a dark hole. I could see a dusty path going from the room into the hole, and disappearing into the stygian gloom. The sight rooted me to the spot in astonishment, “But Master!” I exclaimed, “there was no sign of a door at all there. How did it happen so?” My Guide laughed at me, and said, “This is an entry which was made centuries ago. The secret of it has been well preserved. Unless one knows one cannot open this door, and no matter how thoroughly one searches there is no sign of a joint or of a crack. But come, Lobsang, we are not discussing building procedure. We are wasting time. You will see this place often.” With that he turned and led the way into the hole, into the mysterious tunnel reaching far ahead. I followed with considerable trepidation. He allowed me to go past him, then he turned and again manipulated something. Again came the ominous rumbling and creaking and grating, and a whole panel of the living rock slid before my startled eyes and covered the hole. We were now in darkness, lit only by the flickering glimmer of the golden-flamed butter lamps which we carried. My Guide passed me, and marched on. His footsteps, muffled though they were, echoed curiously from the rock sides, echoed, and reechoed. He walked on without speaking. We seemed to cover more than a mile, then suddenly without warning, so suddenly that I bumped into him with an exclamation of astonishment, the lama ahead of me stopped. “Here we replenish our lamps, Lobsang, and put in bigger wicks. We shall need light now. Do as I do, and then we will continue our journey.”
Lúc này chúng tôi đã có ngọn lửa lớn hơn để soi sáng đường đi, và chúng tôi tiếp tục chặng đường rất dài, dài đến nỗi tôi cảm thấy mệt và sốt ruột. Tôi để ý và nhận thấy rằng lối đã đi trở nên rộng hơn và cao hơn. Như thể chúng tôi đã đi dọc theo phần đuôi hẹp của một cái phễu, và đang đi đến phần miệng rộng. Chúng tôi đi quanh một hành lang và tôi thốt lên kinh ngạc. Trước mắt tôi là một hang động rộng lớn. Từ trần và vách hang có vô số điểm sáng vàng, ánh sáng phản chiều từ những ngọn đèn bơ của chúng tôi. Hang động trải rộng mênh mông. Ánh sáng yếu ớt của chúng tôi chỉ càng làm nổi bật vẻ rộng lớn bao la cũng như bóng tối của nó.
Now we had a somewhat brighter flame to light our way, and we continued for a long, long way, for so long that I was getting tired and fidgety. Then I noticed that the passageway was getting wider and higher. It seemed as if we were walking along the narrow end of a funnel, approaching the wider end. We rounded a corridor and I shouted in amazement. I saw before me a vast cavern. From the roof and sides came innumerable pinpoints of golden light, light reflected from our butter lamps. The cavern appeared to be immense. Our feeble illumination only emphasized the immensity and the darkness of it.
Thầy đi đến bên một khe hở ở bên trái lối đi, và với một tiếng rít chói tai, kéo ra một vật gì đó như một ống hình trụ lớn bằng kim loại. Nó có lẽ cao bằng nửa chiều cao của một người đàn ông, và rộng bằng chiều ngang của một người. Nó tròn, và có một thiết bị ở trên đỉnh mà tôi chưa biết, có vẻ như là một cái lưới trắng nhỏ. Lạt ma Minh Gia Đại Đức làm gì đó với vật này, sau đó chạm cây đèn bơ của Thầy vào đỉnh của nó. Ngay lập tức, một ngọn lửa trắng vàng bùng lên giúp tôi có thể nhìn mọi thứ rõ ràng. Có một tiếng xì khe khẽ từ ánh sáng, như thể nó đang được đẩy ra ngoài bởi áp suất. Sau đó, thầy tắt những ngọn đèn bơ bé nhỏ của chúng tôi.
– Chúng ta sẽ có rất nhiều ánh sáng nhờ thứ này, Lobsang, chúng ta sẽ mang nó theo cùng. Thầy muốn con học được một vài điều về lịch sử từ những thời đại xa xưa.
Thầy đi về phía trước kéo theo chiếc đèn sáng rực rỡ này, một hộp lửa, ở trên một thứ giống như xe kéo. Nó di chuyển một cách dễ dàng. Chúng tôi tiếp tục đi xuống con đường một lần nữa, sâu hơn và sâu hơn, cho tới khi tôi nghĩ rằng chúng tôi đã đến lòng trái đất. Cuối cùng thì Thầy cũng dừng bước. Phía trước tôi là bức tường màu đen, được gắn một tấm vàng lớn trên đó, và trên tấm vàng là những hình chạm khắc, hàng trăm, hàng nghìn bức. Tôi ngắm nhìn chúng, rồi nhìn sang phía bên kia. Tôi có thể nhìn thấy ánh sáng lung linh màu đen của nước, như thể trước mắt tôi là một hồ nước lớn.
My Guide went to a crevice at the left-side of the path, and with a screech dragged out what appeared to be a large metal cylinder. It seemed to be half as high as a man and certainly as wide as a man at the thickest part. It was round, and there was a device at the top which I did not understand. It seemed to be a small, white net. The Lama Mingyar Dondup fiddled about with the thing, and then touched the top of it with his butter lamp. Immediately there was a bright yellow-white flame which enabled me to see clearly. There was a faint hissing from the light, as it was being forced out under pressure. My Guide extinguished our little lamps then. “We shall have plenty of light with this, Lobsang, we will take it with us. I want you to learn some of the history from aeons of long ago.” He moved ahead pulling this great bright light, this flaming canister, on a thing like a little sledge. It moved easily. We walked on down the path once again, ever down, until I thought that we must be right down in the bowels of the earth. Eventually he stopped. Before me was a black wall, shot with a great panel of gold, and on the gold were engravings, hundreds, thousands of them. I looked at them then I looked away to the other side. I could see the black shimmer of water, as if before me was a great lake.
– Lobsang, hãy tập trung vào đây. Sau này con sẽ biết về những thứ kia. Thầy muốn nói với con một chút về nguồn gốc của Tây Tạng, nguồn gốc của những điều mà trong những năm về sau, con có thể tự mình thẩm định khi con tham gia chuyến thám hiểm mà hiện nay ta đang lên kế hoạch.
Thầy nói:
– Khi con rời xa xứ sở của chúng ta, con sẽ gặp những người không biết gì về chúng ta, những người nói rằng người Tây Tạng là những kẻ hoang dã dốt nát, những kẻ tôn thờ quỷ dữ và ham mê những nghi lễ quái dị. Nhưng Lobsang, chúng ta có nền văn hóa lâu đời hơn bất cứ dân tộc nào ở phương Tây, chúng ta có những tài liệu được cất giấu cẩn thận và bảo tồn qua nhiều niên đại.
“Lobsang, pay attention to me. You will know about that later. I want to tell you a little of the origin of Tibet, an origin which in later years you will be able to verify for yourself when you go upon an expedition which I am even now planning,” he said. “When you go away from our land you will find those who know us not, who will say that Tibetans are illiterate savages who worship devils and indulge in unmentionable rites. But Lobsang, we have a culture far older than any in the West, we have records carefully hidden and preserved going back through the ages . . .”
Thầy đến bên những chữ khắc và chỉ ra những hình vẽ, những biểu tượng khác nhau. Tôi đã thấy những hình vẽ con người và động vật – những loài động vật mà chúng ta không biết đến ngày nay – rồi Thầy chỉ ra bản đồ của bầu trời mà ngay cả tôi cũng biết không phải của thời đại ngày nay, bởi vì các vì sao được biểu thị khác và ở các vị trí khác. Vị lạt ma dừng lại, và quay sang tôi:
– Thầy hiểu được những điều này, Lobsang, Thầy đã được dạy thứ ngôn ngữ này. Bây giờ Thầy sẽ đọc cho con, đọc cho con nghe câu chuyện lâu đời này, và rồi, trong những ngày tới đây, Thầy và các vị lạt ma khác sẽ dạy cho con ngôn ngữ bí truyền này để con có thể tới đây và tự ghi chép, tự làm nên những tài liệu nghiên cứu của con, và tự rút ra kết luận cho riêng mình. Nó có nghĩa là học, học và học. Con sẽ phải đến và khám phá những hang động này vì còn có nhiều hang động nữa và chúng còn trải dài hàng dặm bên dưới chúng ta.
He went across to the inscriptions and pointed out various figures, various symbols. I saw drawings of people, of animals—animals such as we know not now—and then he pointed out a map of the sky, but a map which even I knew was not of the present day because the stars it showed were different and in the wrong places. The lama paused, and turned to me. “I understand this, Lobsang, I was taught this language. Now I will read it to you, read you this age-old story, and then in the days to come I and others will teach you this secret language so that you can come here and make your own notes, keep your own records, and draw your own conclusions. It will mean study, study, study. You will have to come and explore these caverns for there are many of them and they extend for miles beneath us.”
Trong một lúc, Thầy đứng lặng nhìn những chữ khắc. Rồi, Thầy đọc cho tôi nghe một phần của quá khứ. Phần lớn những gì Thầy nói sau đó, và những gì mà tôi nghiên cứu sau này, đơn giản là không thể được đưa ra trong một cuốn sách như thế này. Một độc giả trung bình sẽ không tin tưởng, và kể cả nếu anh ta có tin thì khi anh biết được một vài bí mật, anh ta cũng sẽ làm như những kẻ khác đã làm trong quá khứ; đó là sử dụng các thiết bị mà tôi đã nhìn thấy vì lợi ích cá nhân, để thống trị người khác, và để hủy hoại những người khác như những quốc gia hiện này đang đe dọa tiêu diệt lẫn nhau bằng bom nguyên tử. Bom nguyên tử không phải là một khám phá mới. Nó đã được phát hiện ra từ hàng ngàn năm trước, và nó đã mang lại thảm họa cho trái đất sau đó, cũng như nó sẽ tiếp tục mang lại thảm họa nếu con người không chấm dứt sự điên rồ của họ.
Mọi tôn giáo trên thế giới, mọi giai thoại của mỗi dân tộc và quốc gia, đều có câu chuyện về trận Đại Hồng Thủy, về thảm họa mà trong đó các dân tộc đã bị nhấn chìm, các vùng đất chìm rồi nổi, và trái đất ở trong tình trạng hỗn loạn. Điều này có trong lịch sử của người Incas, người Ai Cập, người Cơ Đốc giáo, mọi dân tộc nói chung. Điều này, như chúng tôi biết, được tạo ra bởi một quả bom; nhưng hãy để tôi kể lại với các bạn nó đã xảy ra như thế nào dựa theo những chữ khắc.
Thầy tôi an tọa trong tư thế hoa sen, đối diện với những dòng chữ khắc trên đá, với ánh sáng rực rỡ ở phía sau Thầy tỏa sắc vàng chói lọi trên những bản khắc cổ xưa. Thầy ra hiệu cho tôi cùng ngồi. Tôi ngồi bên cạnh Thầy để có thể quan sát những hình khắc mà thầy chỉ. Khi tôi đã an tọa, Thầy bắt đầu nói, và đây là những gì Thầy đã nói với tôi.
For a moment he stood looking at the inscriptions. Then he read to me part of the past. Much of what he said then, and very much more of what I studied later, simply cannot be given in a book such as this. The average reader would not believe, and if he did and he knew some of the secrets, then he might do as others have done in the past; use the devices which I have seen for self-gain, to obtain mastery over others, and to destroy others as nations are now threatening to destroy each other with the atom bomb. The atom bomb is not a new discovery. It was discovered thousands of years ago, and it brought disaster to the earth then as it will do now if man is not stopped in his folly.
In every religion of the world, in every history of every tribe and nation, there is the story of the Flood, of a catastrophe in which peoples were drowned, in which lands sank and land rose, and the earth was in turmoil. That is in the history of the Incas, the Egyptians, the Christians—everyone. That, so we know, was caused by a bomb; but let me tell you how it happened, according to the inscriptions.
My Guide seated himself in the lotus position, facing the inscriptions on the rock, with the brilliant light at his back shining with a golden glare upon those age-old engravings. He motioned for me to be seated also. I took my place by his side, so that I could see the features to which he pointed. When I had settled myself he started to talk, and this is what he told me.
– Vào thời xưa, rất xưa, trái đất nằm ở một vị trí khác. Nó quay gần mặt trời hơn rất nhiều, và theo hướng ngược lại, còn có một hành tinh khác gần đó, một người anh em song sinh của trái đất. Ngày ngắn hơn, và do vậy loài người dường như sống lâu hơn, có lẽ là đến hàng trăm năm. Khí hậu nóng hơn, và hệ thực vật nhiệt đới phong phú. Động vật có kích thước rất lớn và đa dạng. Lực hấp dẫn yếu hơn nhiều so với ngày nay do tỷ lệ vòng quay của Trái đất đã thay đổi, và loài người có lẽ lớn gấp đôi loài người ngày nay, nhưng loài người thời đó cũng chỉ là những người lùn khi so sánh với một chủng tộc khác cùng chung sống với họ. Trên trái đất còn có những người thuộc một hệ thống khác, những người siêu việt. Họ giám sát trái đất và dạy bảo cho loài người nhiều điều. Nhân loại lúc đó là một thuộc địa, một tầng lớp được dạy dỗ bởi những người thầy tốt bụng. Những người khổng lồ này đã dạy dỗ loài người rất nhiều. Họ thường leo lên những cỗ máy kim loại sang bóng và lướt bay trên bầu trời. Loài người, loài người khờ khạo đáng thương, vẫn còn ở trên ngưỡng cửa buổi bình minh, không thể hiểu được những thứ này, vì khả năng hiểu biết của loài người cũng không hơn loài khỉ là mấy.
“In the days of long, long ago earth was a very different place. It revolved much nearer the sun, and in the opposite direction, and there was another planet nearby, a twin of the earth. Days were shorter, and so man seemed to have a longer life. Man seemed to live for hundreds of years. The climate was hotter, and flora was both tropical and luxurious. Fauna grew to huge size and in many diverse forms. The force of gravity was much less than it is at present because of the different rate of rotation of the earth, and man was perhaps twice as large as he is now, but even he was a pigmy compared to another race who lived with him. For upon the earth lived those of a different system who were super-intellectuals. They supervised the earth, and taught men much. Man then was as a colony, a class that is being taught by a kindly teacher. These huge giants taught him much. Often they would get strange craft of gleaming metal and would sweep across the sky. Man, poor ignorant man, still upon the threshold of dawning reason, could not understand it at all, for his intellect was hardly greater than that of the apes.
“Trong vô kể các niên đại, sự sống trên trái đất diễn ra bình yên. Muôn loài sống trong yên bình và hòa hợp. Loài người có thể trò chuyện bằng thần giao cách cảm mà không cần lời nói. Họ chỉ sử dụng lời nói trong các cuộc chuyện trò giữa cư dân trong vùng. Thế rồi những người siêu việt, những người to lớn hơn loài người nhiều, bắt đầu mâu thuẫn. Những thế lực chống đối nổi lên trong nội bộ của họ. Họ không thể đồng tình trong một số vấn đề giống như các chủng tộc ngày nay vẫn đang bất đồng ý kiến. Một nhóm đã bỏ đi đến một vùng khác của thế giới để cai trị.
“For countless ages life on earth followed a placid path. There was peace and harmony between all creatures. Men could converse without speech, by telepathy. They used speech only for local conversations. Then the super-intellectuals, who were so much larger than man, quarreled. Dissentient forces rose up among them. They could not agree on certain issues just as races now cannot agree. One group went off to another part of the world, and tried to rule.
Xung đột xảy ra. Một số trong những người siêu việt này đã giết lẫn nhau, và họ tiến hành những cuộc chiến khốc liệt, và mang tới sự hủy diệt lẫn nhau. Loài người, hào hứng học hỏi, đã học được nghệ thuật chiến tranh; họ đã học giết chóc. Vì thế mà trái đất, nơi từng rất yên bình, trở thành một nơi rối loạn. Trong một thời gian, một vài năm, tộc người siêu việt hoạt động trong bí mật, một nửa trong số họ chống lại một nửa kia. Một ngày nọ, một vụ nổ kinh hoàng xảy ra, toàn bộ trái đất rung chuyển và lệch khỏi quỹ đạo của nó. Những ngọn lửa khủng khiếp bắn lên bầu trời, và trái đất bị bao bọc trong khói.
There was strife. Some of the super-men killed each other, and they waged fierce wars, and brought much destruction to each other. Man, eager to learn, learned the arts of war; man learned to kill. So the earth which before had been a peaceful place became a troubled spot. For some time, for some years, the super-men worked in secret, one half of them against the other half. One day there was a tremendous explosion, and the whole earth seemed to shake and veer in its course. Lurid flames shot across the sky, and the earth was wreathed in smoke.
Cuối cùng sự náo loạn cũng lắng xuống, nhưng sau nhiều tháng, những dấu hiệu lạ xuất hiện trên bầu trời, những dấu hiệu làm cho loài người trên trái đất khiếp sợ. Một hành tinh đang đến gần, và nó ngày càng to lên rất nhanh. Rõ ràng là nó sẽ đâm vào trái đất. Xuất hiện những đợt thủy triều lớn, mang gió đến cùng với nó, ngày cũng như đêm tràn ngập trong những trận bão tố gào thét giận dữ. Hành tinh lạ đã bao trùm toàn bộ bầu trời, cho đến khi, cuối cùng, nó sắp sửa đâm thẳng vào trái đất. Khi hành tinh đến gần hơn nữa, sóng thần xuất hiện và nhấn chìm toàn bộ những vùng đất rộng. Động đất rung chuyển toàn bộ bề mặt địa cầu, các châu lục bị nuốt gọn trong nháy mắt.
Eventually the uproar died down, but after many months strange signs were seen in the sky, signs that filled the people of earth with terror. A planet was approaching, and rapidly growing bigger and bigger. It was obvious that it was going to strike the earth. Great tides arose, and the winds with it, and the days and nights were filled with a howling tempestuous fury. A planet appeared to fill the whole sky until at last it seemed that it must crash straight onto the earth. As the planet got closer and closer, immense tidal waves arose and drowned whole tracts of land. Earthquakes shivered the surface of the globe, and continents were swallowed in the twinkling of an eye.
“Các chủng tộc siêu việt quên cả cãi vã, họ vội vã đến những cỗ máy sáng loáng của mình và bay lên bầu trời, bỏ chạy khỏi tình trạng rắc rối đang xảy ra trên trái đất. Nhưng trên trái đất, những trận động đất vẫn cứ tiếp diễn; những ngọn núi dâng lên, đáy biển cũng nổi lên cùng với chúng; các vùng đất khác lún xuống và chìm ngập trong nước; loài người lúc đó chạy trốn trong sợ hãi, điên cuồng với ý rằng tận thế đang đến, gió không ngừng mạnh lên, sự náo động và tiếng rung động không tưởng, làm rối loạn thần kinh và khiến cho con người phát điên.
The race of supermen forgot the quarrels; they hastened to their gleaming machines, and rose up into the sky, and sped away from the trouble besetting the earth. But on the earth itself earthquakes continued; mountains rose up, and the sea-bed rose with them; lands sank and were inundated with water; people of that time fled in terror, crazed with fear at what they thought was the end of the world, and all the time the winds grew fiercer, and the uproar and the clamour harder to bear, uproar and clamour which seemed to shatter the nerves and drive men to frenzy.
“Hành tinh đang đến ngày càng gần hơn và lớn hơn, cho đến khi, cuối cùng, nó đến đủ gần và một vụ va chạm khủng khiếp diễn ra, một tia lửa điện tóe ra từ nó. Bầu trời bốc cháy với những tia lửa điện bắn ra liên tục, và những đám mây bụi đen ngòm hình thành và biến ngày thành đêm đen hãi hùng. Mặt trời dường như đứng yên trước sự kinh hoàng của tai ương, theo các tài liệu, trong rất, rất nhiều ngày, quả cầu đỏ là mặt trời vẫn ở yên đó, mang một màu đỏ máu với những lưỡi lửa lớn bắn ra từ nó. Cuối cùng, mây đen vậy kín và mọi thứ chìm trong đêm tối. Những cơn gió lạnh rồi nóng; hàng ngàn người chết vì sự thay đổi nhiệt độ và lại thay đổi lần nữa. Thực phẩm của các vị Thần, mà một số người gọi là manna (lương thực trời cho), rơi từ trên trời xuống. Không có nó, con người trái đất, và cả các loài động vật trên thế giới, sẽ chết đói bởi sự hủy diệt các loại cây trồng và các loại thực phẩm khác.
“The invading planet grew closer and larger, until at last it approached to within a certain distance and there was a tremendous crash, and a vivid electric spark shot from it. The skies flamed with continuous discharges, and soot-black clouds formed and turned the days into a continuous night of fearful terror. It seemed that the sun itself stood still with horror at the calamity, for, according to the records, for many, many days the red ball of the sun stood still, blood-red with great tongues of flame shooting from it. Then eventually the black clouds closed, and all was night. The winds grew cold, then hot; thousands died with the change of temperature, and the change again. Food of the Gods, which some called manna, fell from the sky. Without it the people of the earth, and the animals of the world, would have starved through the destruction of the crops, through the deprivation of all other food.
“Đàn ông và đàn bà lang thang từ nơi này đến nơi khác tìm kiếm nơi trú ẩn, tìm kiếm bất cứ nơi nào có thể đặt cơ thể mệt mỏi vì bão tố, vì bị tra tấn bởi tình trạng hỗn loạn, họ cầu nguyện bình an, hy vọng sẽ được cứu vớt. Nhưng mặt đất rung chuyển và run rẩy, những cơn mưa trút xuống, và từ ngoài vũ trụ luôn đổ xuống lên tục những tia lửa điện. Thời gian trôi qua, khi những đám mây đen nặng nề tan đi, mặt trời hiện ra nhỏ hơn. Nó dường như đã lùi xa dần, và loài người trên thế giới kêu khóc sợ hãi. Họ nghĩ rằng Thần Mặt Trời, Đấng ban Sự Sống, đang rời bỏ họ. Nhưng thật lạ, mặt trời giờ đây di chuyển trên bầu trời từ đông sang tây, thay vì từ tây sang đông như trước đây.
“Men and women wandered from place to place looking for shelter, looking for anywhere where they could rest their weary bodies wracked by the storm, tortured by turmoil; praying for quiet, hoping to be saved. But the earth shook and shivered, the rains poured down, and all the time from the outer space came the splashes and discharges of electricity. With the passage of time, as the heavy black clouds rolled away, the sun was seen to be becoming smaller, and smaller. It seemed to be receding, and the people of the world cried out in fear. They thought the Sun God, the Giver of Life, was running away from them. But stranger still the sun now moved across the sky from east to west, instead of from west to east as before.
“Con người đã mất mọi dấu vết của thời gian. Với sự che khuất của mặt trời, không có phương pháp nào cho phép họ xác định được thời gian; ngay cả những người khôn ngoan cũng không thể biết những sự kiện này đã diễn ra trong bao lâu. Một điều kỳ lạ nữa xuất hiện trên bầu trời; một thế giới, một thế giới khá lớn, màu vàng, và lồi lõm dường như sắp sửa rơi xuống trái đất. Hành tinh này, chúng ta giờ đây biết đến như mặt trăng, đã xuất hiện vào thời gian đó như một dấu tích từ vụ va chạm của hai hành tinh. Sau này, nhiều dân tộc đã tìm thấy chỗ lún trên mặt đất, ở Siberia, nơi có lẽ bề mặt trái đất đã bị hư hại bởi sự cọ sát với hành tinh kia, hoặc nó chính vị trí mà từ đó mặt trăng bị vỡ ra.
“Man had lost all track of time. With the obscuring of the sun there was no method with which they could tell its passage; not even the wisest men knew how long ago these events had taken place. Another strange thing was seen in the sky; a world, quite a large world, yellow, gibbous, which seemed as if it too was going to fall upon the earth. This which we now know as the moon appeared at this time as a relic from the collision of the two planets. Later races were to find a great depression in the earth, in Siberia where perhaps the surface of the earth had been damaged by the close proximity of another world, or even a spot from whence the moon had been wrenched.
“Trước vụ va chạm, đã có những thành phố và các tòa cao ốc lưu giữ nhiều kiến thức của Chủng tộc siêu việt. Chúng đã sụp đổ trước thảm họa, và chỉ còn là đống đổ nát, ẩn chứa tất cả những tri thức bị giấu kín. Những nhà thông thái của các bộ tộc biết rằng trong những đống đổ nát đó là kho báu chứa các mẫu vật và sách chạm khắc trên kim loại. Họ biết rằng tất cả tri thức của thế giới nằm bên trong những đống đổ nát đó, và vì thế họ quyết tâm đào, và đào, để tìm kiếm những gì còn sót lại, để có thể tăng thêm sức mạnh của riêng họ bằng cách sử dụng những kiến thức của Chủng tộc siêu việt.
“Before the collision there had been cities and tall buildings housing much knowledge of the Greater Race. They had been toppled in the turmoil, and they were just mounds of rubble, concealing all that hidden knowledge. The wise men of the tribes knew that within the mounds were canisters containing specimens and books of engraved metal. They knew that all the knowledge in the world reposed within those piles of rubbish, and so they set to work to dig, and dig, to see what could be saved in the records, so that they could increase their own power by making use of the knowledge of the Greater Race.
“Trong suốt những năm sau đó, ngày trở nên dài hơn và dài hơn, cho đến khi ngày dài gần như gấp đôi so với ngày trước khi thiên tai xảy ra, và sau đó trái đất ổn định trong quỹ đạo mới của nó, cùng với mặt trăng của nó, mặt trăng hay một sản phẩm của vụ va chạm. Nhưng trái đất vẫn còn rung chuyển và sôi sục, núi tiếp tục dâng cao, phun trào lửa và đá, và cả sự tàn phá.
“Những dòng sông nham thạch lớn đột ngột đổ xuống những sườn núi mà không có bất cứ dấu hiệu cảnh báo nào, phá hủy toàn bộ những gì nằm trên đường đi của chúng, nhưng lại bao bọc các chứng tích và các nguồn kiến thức, bởi vì kim loại cứng mà trên đó các tài liệu đã được viết không bị tan chảy trong nham thạch, mà còn được nó bảo vệ, bảo quản trong một vỏ bọc bằng đá xốp. Theo thời gian, lớp vỏ bị xói mòn dần, do vậy những tài liệu chứa bên trong lộ ra và rơi vào tay những người sẽ sử dụng chúng. Nhưng chuyện này là mãi về sau.
Dần dần, khi trái đất trở nên ổn định hơn trong quỹ đạo mới của nó, cái lạnh len lỏi khắp nơi, các loài động vật chết hoặc di cư đến những khu vực ấm áp hơn. Voi ma mút và khủng long tiệt chủng vì chúng không thể thích nghi được với cách thức sống mới. Băng giá rơi từ trên trời xuống, và gió trở nên rét buốt. Lúc này trời có nhiều mây, trong khi trước đó gần như không có. Thế giới trở thành một nơi rất khác; biển có sóng; trước đó chúng chỉ là những hồ nước yên ả, không gợn sóng trừ khi có những làn gió nhẹ ngang qua.
“Còn bây giờ, những con sóng lớn quất lên trời, trong nhiều năm thủy triều lớn đe dọa nhấn chìm đất đai và con người. Bầu trời nhìn cũng khác. Vào ban đêm, những ngôi sao lạ xuất hiện tại vị trí của những ngôi sao quen thuộc còn mặt trăng thì ở rất gần. Các tôn giáo mới mọc lên vì các tu sĩ lúc đó cố gắng duy trì quyền lực của họ và ghi lại những gì đang xảy ra. Họ đã quên hẳn về Chủng tộc siêu việt, họ chỉ nghĩ đến quyền lực của họ, đến tầm quan trọng của riêng họ. Nhưng họ không thể giải thích những điều này đã xảy ra như thế nào. Thế là họ đổ vấy nó cho cơn thịnh nộ của Thượng Đế, và dạy rằng con người được sinh ra trong tội lỗi.
“Throughout the years to come the days became longer and longer, until they were almost twice as long as before the calamity, and then the earth settled in its new orbit, accompanied by its moon, the moon, a product of a collision. But still the earth shook and rumbled, and mountains rose and spewed out flames and rocks, and destruction. Great rivers of lava rushed down the mountain sides without warning, destroying all that lay in their path, but often enclosing monuments and sources of knowledge, for the hard metal upon which many of the records had been written was not melted by the lava, but merely protected by it, preserved in a casing of stone, porous stone which in the course of time eroded away, so that the records contained within would be revealed and would fall into the hands of those who would make use of them. But that was not for a long time yet. Gradually, as the earth became more settled in its new orbit, cold crept upon the world, and animals died or moved to the warmer areas. The mammoth and the brontosaurus died for they could not adapt to the new ways of life. Ice fell from the sky, and the winds grew bitter. Now there were many clouds, whereas before there had been almost none. The world was a very different place; the sea had tides; before they had been placid lakes, unruffled except by the passing breeze. Now great waves lashed up at the sky, and for years the tides were immense and threatened to engulf the land and drown the people. The heavens looked different too. At night strange stars were seen in place of the familiar ones and the moon was very close. New religions sprouted as the priests of that time tried to maintain their power and account for the happenings. They forgot much about the Greater Race, they thought only of their own power, of their own importance. But—they could not say how this occurred, or how that happened. They put it down to the wrath of God, and taught that all man was born in sin.
“Thời gian trôi qua, trái đất ổn định trong quỹ đạo mới của nó, và thời tiết trở nên yên ả hơn, con người nhỏ hơn và lùn hơn. Nhiều thế kỷ trôi qua, các vùng đất cũng trở nên ổn định hơn. Nhiều chủng tộc mới xuất hiện như những thử nghiệm, lăn lộn để sống, thất bại và biến mất, rồi được thay thế bằng những chủng tộc khác. Cuối cùng một giống người mạnh mẽ hơn phát triển, và nền văn minh bắt đầu lại từ đầu, một nền văn minh mang theo nó từ những ngày đầu non trẻ ký ức chung về thảm họa khốc liệt, và một vài trí tuệ lớn đã thực hiện việc nghiên cứu để tìm hiểu những điều thực sự xảy ra.
“Tới lúc này, gió và mưa đã hoàn thành phần việc của chúng, các tài liệu cổ bắt đầu lộ ra từ đá nham thạch đang xói lở, và tầng lớp phát triển trên trái đất đã có thể thu thập chúng, đặt chúng trước những nhà thông thái của họ, những người sau một thời gian dài nỗ lực, đã có thể giải mã một phần của những chữ viết này. Một số ít trong các tài liệu đã trở nên rõ ràng, và khi các nhà khoa học thời đó bắt đầu hiểu được chúng, họ lập tức tìm kiếm một cách điên cuồng những tài liệu khác để có thể sâu chuỗi lại một cách đầy đủ, cũng như lấp đầy những khoảng trống. Các cuộc khảo cổ lớn đã được tiến hành, và nhiều tri thức đã được làm sáng tỏ. Thế rồi nền văn minh mới đã thực sự xuất hiện. Các đô thị, thành phố đã được xây dựng, nhưng nền khoa học bắt đầu gấp rút đi đến sự hủy diệt. Luôn luôn nhằm vào sự hủy diệt, vào việc vơ vét quyền lực cho một nhóm nhỏ. Sự thật rằng loài người có thể sống trong hòa bình đã bị lãng quên, và chính sự thiếu hòa thuận đã dẫn đến thảm họa trước đây.
“With the passage of time, with the earth settled in its new orbit, and as the weather became more tranquil, people grew smaller and shorter. The centuries rolled by and lands became more stable. Many races appeared as if experimentally, struggled, failed, and disappeared, to be replaced by others. At last a stronger type evolved, and civilization began anew, civilization which carried from its earliest days a racial memory of some dire calamity, and some of the stronger intellects made search to find out what had really happened. By now the wind and the rain had done their work. The old records were beginning to appear from the crumbling lava stone, and the higher intellect of humans now upon the earth were able to gather these and place them before their wise men, who at long last, with much struggle, were able to decipher some of the writings. As little of the records became legible, and as the scientists of the day began to understand them, they set about frantic searches for other records with which to piece together the complete instructions, and to bridge the gaps. Great excavations were undertaken, and much of interest came to light. Then indeed the new civilization sprouted. Towns and cities were built, and science started its rush to destroy. The emphasis always on destruction, upon gaining power for little groups. It was completely overlooked that man could live in peace and that the lack of peace had caused the calamity before.
“Trong nhiều thế kỷ, khoa học đã thống trị. Các tu sĩ tự nhận là những nhà khoa học, và họ cấm tất cả các nhà khoa học nào không phải là tu sĩ. Họ gia tăng quyền lực của mình; họ tôn thờ khoa học, họ làm tất cả những gì có thể để duy trì quyền lực trong tay mình, và để đè bẹp những người dân bình thường và ngăn chặn họ tự suy nghĩ. Họ tự xem mình là Thần Thánh; không việc gì có thể diễn ra mà không có sự cho phép của các tu sĩ. Các tu sĩ chiếm đoạt những gì họ muốn: không có cản trở cũng không có sự chống đối, và họ gia tăng quyền lực cho đến khi họ toàn quyền thống trị trái đất, và quên mất rằng, đối với con người, quyền lực tuyệt đối sẽ khiến họ sa ngã.
“For many centuries science held sway. The priests set up as scientists, and they outlawed all those scientists who were not also priests. They increased their power; they worshipped science, they did all they could to keep power in their own hands, and to crush the ordinary man and stop him from thinking. They set themselves up as Gods; no work could be done without the sanction of the priests. What the priests wanted they took: without hindrance, without opposition, and all the time they were increasing their power until upon earth they were absolutely omnipotent, forgetting that for humans absolute power corrupts.
“Những cỗ máy lớn lướt trong không khí mà không cần có cánh, không tạo ra âm thanh, lướt trên không trung, hoặc lơ lửng không di chuyển mà ngay cả loài chim cũng không thể ở trong trạng thái lơ lửng. Các nhà khoa học đã phát hiện ra bí mật của việc làm chủ trọng lực trái đất, cũng như khả năng phản trọng lực, và khai thác chúng để phục vụ họ. Những khối đá khổng lồ được đưa vào vị trí mà người ta muốn với những thiết bị rất nhỏ có thể đặt vừa trong lòng bàn tay.
“Không có việc gì là quá khó, bởi vì con người chỉ đơn thuần thao tác các cỗ máy của anh ta mà không cần phải lao lực. Những động cơ đồ sộ làm huyên náo khắp mặt đất, nhưng không có gì di chuyển trên mặt biển ngoại trừ khi để rong chơi vì đi lại trên mặt biển quá chậm trừ khi người ta muốn tận hưởng sự kết hợp của gió và sóng. Tất cả mọi vật đều di chuyển bằng đường hàng không, hoặc với những hành trình ngắn hơn thì đi trên mặt đất. Người ta di chuyển tới những vùng đất khác, và dựng lên các thuộc địa. Nhưng lúc này con người đã mất đi quyền năng thần giao cách cảm sau thảm họa của vụ va chạm. Bây giờ họ không còn nói chung một ngôn ngữ; các ngữ điệu ngày càng trở nên rõ rệt, cho đến khi cuối cùng, chúng là những ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt, và cái này không thể hiểu được cái kia.
“Great crafts sailed through the air without wings, without sound, sailed through the air, or hovered motionless not even the birds could hover. The scientists had discovered the secret of mastering gravity, and anti-gravity, and harnessing it to their power. Immense blocks of stone were maneuvered into position where wanted by one man and a very small device which could be held in the palm of one hand. No work was too hard, because man merely manipulated his machines without effort to himself. Huge engines clattered across the surface of the earth, but nothing moved upon the surface of the sea except for pleasure because travel by sea was too slow except for those who wanted the enjoyment of the combination of wind and the waves. Everything traveled by air, or for shorter journeys across the earth. People moved out to different lands, and set up colonies. But now they had lost their telepathic power through the calamity of the collision. Now they no longer spoke a common language; the dialects became more and more acute, until in the end they were completely different, and to each other incomprehensible, languages.
“Sự thiếu sự trao đổi thông tin, thiếu hiểu biết lẫn nhau và quan điểm của nhau khiến các chủng tộc tranh cãi, và chiến tranh bùng nổ. Nhiều loại vũ khí đáng sợ đã được phát minh. Các trận chiến nổ ra ở khắp mọi nơi. Đàn ông và đàn bà trở nên tàn phế, và các loại tia khủng khiếp được sản xuất đã dẫn đến nhiều đột biến gen trong loài người. Nhiều năm trôi qua, và cuộc chiến trở nên khốc liệt hơn, các cuộc tàn sát khủng khiếp hơn. Các nhà sáng chế ở khắp mọi nơi, được những kẻ cai trị khuyến khích, chạy đua để sản xuất ra những loại vũ khí nguy hiểm hơn.
“Các nhà khoa học làm việc để đưa ra những thiết bị tàn phá nghiêm trọng hơn nữa. Những mầm bệnh được tạo ra, và thả xuống đối phương từ máy bay tầm cao. Những trái bom đổ xuống nước thải và bệnh dịch hoành hành khắp trái đất làm tàn lụi con người, động vật và cây cối. Trái đất lại đứng trước sự hủy diệt.
“With the lack of communication, and the failure to understand each other and each other’s view points, races quarreled, and began wars. Fearsome weapons were invented. Battles raged everywhere. Men and women were becoming maimed, and the terrible rays which were being produced were making many mutations in the human race. Years rolled by, and the struggle became more intense, and the carnage more terrible. Inventors everywhere, spurred on by their rulers, strove to produce more deadly weapons. Scientists worked to devise even more ghastly devices of offence. Disease germs were bred, and dropped upon the enemy from high-flying aircraft. Bombs wrecked the sewage and plagues raged through the earth blighting people, animals and plants. The earth was set on destruction.
“Ở một vùng xa xôi, ngoài những xung đột, một nhóm tu sĩ nhìn xa trông rộng không bị đầu độc bởi cuộc tìm kiếm quyền lực, đã lấy những tấm vàng mỏng, và khắc lên đó lịch sử thời đại của họ, khắc lên đó bản đồ của trời đất. Trên đó, họ cũng tiết lộ những bí mật sâu thẳm nhất của nền khoa học của họ, và đưa ra cảnh báo nghiêm khắc về những nguy hiểm sẽ xảy đến với những kẻ lạm dụng kiến thức này. Nhiều năm trôi qua trong quá trình những tấm khắc này được chuẩn bị, và rồi, cùng với những mẫu vật của vũ khí, công cụ, sách, và tất cả những gì hữu ích, họ giấu trong đá và giấu ở nhiều chỗ khác nhau để những thế hệ sau này có thể biết được về quá khứ, và hy vọng rằng, họ sẽ được hưởng lợi từ nó. Đối với những tu sĩ hiểu biết lịch sử nhân loại; họ biết điều gì sẽ xảy ra, và như dự đoán, điều tất yếu đã diễn ra.
“Một loại vũ khí mới đã được sản xuất và thử nghiệm. Một đám mây khổng lồ cuộn xoáy trên tầng bình lưu, và mặt đất rung chuyển, rồi lại quay cuồng, và dường như trao đảo trên trục của nó. Những bức tường nước khổng lồ trào lên mặt đất, và cuốn trôi nhiều dân tộc. Lại một lần nữa những ngọn núi chìm sâu xuống đáy biển, và những ngọn núi khác dâng cao tới vị trí mới của mình. Một số đàn ông, đàn bà, và động vật nhận được cảnh báo từ các tu sĩ, đã sống sót trên những con thuyền nổi trên nước, được bịt kín khỏi các loại khí độc hại và vi trùng đang tàn phá trái đất. Những người khác được đưa lên trên cao khi vùng đất mà họ sinh sống dâng lên; Những người khác, không may mắn như vậy, đã bị chìm xuống, có lẽ là sâu dưới nước, hoặc cũng có thể là bên dưới những ngọn núi đổ sụp phía trên đầu họ.
“In a remote district far from all the strife, a group of far-seeing priests who had not been contaminated by the search for power, took thin plates of gold, and engraved upon them the history of their times, engraved upon them maps of the heavens and of the lands. Upon them they revealed the innermost secrets of their science, and gave grave warnings of the dangers which would befall those who misused this knowledge. Years passed during which time these plates were prepared and then, with specimens of the actual weapons, tools, books, and all useful things, they were concealed in stone and were hidden in various places so that those who came after them would know of the past and would, it was hoped, profit from it. For the priests knew of the course of humanity; they knew what was to happen, and as predicted the expected did happen. A fresh weapon was made, and tried. A fantastic cloud swirled up into the stratosphere, and the earth shook, and reeled again, and seemed to rock on its axis. Immense walls of water surged over the land, and swept away many of the races of man. Once again mountains sank beneath the seas, and others rose up to take their place. Some men, women and animals, who had been warned by these priests were saved by being afloat in ships, afloat and sealed against the poisonous gases and germs which ravaged the earth. Other men and women were carried high into the air as the lands upon which they dwelt rose up; others, not so fortunate, were carried down, perhaps beneath the water, perhaps down as the mountains closed over their heads.
“Lũ lụt, hỏa hoạn và những loại tia độc đã giết chết hàng triệu người, rất ít người sống sót thì bị cô lập với nhau vì những thay đổi bất thường của thảm họa. Họ gần như phát điên sau thảm họa, bị chấn động mạnh bởi những tiếng ồn và rung khủng khiếp, trong nhiều năm họ trốn trong những hang động và rừng rậm. Họ đã quên đi sự văn minh, và trở lại giai đoạn hoang dã như thuở sơ khai của nhân loại, họ phủ lên mình da thú và nước trái cây, và mang theo những cái chùy gắn đá lửa trên tay.
“Flood and flames and lethal rays killed people in millions, and very few people only were left on earth now isolated from each other by vagaries of the catastrophe. These were half-crazed by the disaster, shaken out of their senses by the tremendous noise and commotion. For many years they hid in caves and in thick forests. They forgot all the culture, and they went back to the wild stages, in the earliest days of mankind, covering themselves with skin and with the juice of berries, and carrying clubs studded with flint in their hands.
“Cuối cùng, các bộ lạc mới hình thành, và họ đi lang thang khắp nơi trên bề mặt mới của thế giới. Một số định cư tại Ai Cập ngày nay, số khác ở Trung Quốc, nhưng những người vốn quen vùng đất thấp ven biển, nơi được nhiều chủng tộc siêu việt ưa chuộng, thì đột nhiên thấy mình ở trên cao hàng nghìn feet[2] so với mặt nước biển, bao quanh là những dãy núi triền miên, và mặt đất trở lạnh nhanh chóng.
“Hàng nghìn người đã chết trước không khí loãng rét buốt. Những người khác sống sót trở thành tổ tiên của những người Tây Tạng mạnh mẽ của vùng đất mà ngày nay là đất nước Tây Tạng. Đó là nơi mà nhóm các tu sĩ nhìn xa trông rộng đã cất những tấm vàng mỏng, khắc lên đó tất cả những bí mật của họ. Những tấm khắc mỏng này, và tất cả những mẫu vật của nền thủ công mỹ nghệ của họ, được cất giấu trong hang động của một ngọn núi để các tu sĩ thế hệ sau này có thể tiếp cận. Những tấm khắc và mẫu vật khác được cất giấu trong thành phố rộng lớn trên cao nguyên Chang Tang ngày nay của Tây Tạng.
“Eventually new tribes were formed, and they wandered over the new face of the world. Some settled in what is now Egypt, others in China, but those of the pleasant low-lying seaside resort, which had been much favoured by the super-race, suddenly found themselves many thousands feet above the sea, ringed by the eternal mountains, and with the land fast cooling. Thousands died in the bitter rarefied air. Others who survived became the founders of the modern, hardy Tibetan of the land which is now Tibet. That had been the place in which the group of far-seeing priests had taken their thin plates of gold, and engraved upon them all their secrets. Those plates, and all the specimens of their arts and crafts, had been hidden deep in a cavern in a mountain to become accessible to a later race of priests. Others were hidden in a great city which is now in the Chang Tang Highlands of Tibet.
“Tất cả các nền văn hóa không hoàn toàn tuyệt chủng, tuy nhiên, nhân loại đã trở lại tình trạng hoang dã và ở trong Thời đại Tối tăm. Thế nhưng tại những nơi cô lập trên khắp mặt đất có những nhóm nhỏ những người vẫn nỗ lực không ngừng để gìn giữ tri thức, để bảo toàn ngọn lửa nhen nhóm của tri thức nhân loại, một nhóm nhỏ vẫn nỗ lực không ngừng giữa một thời đại tối tăm và hoang dại. Trong suốt nhiều thế kỷ sau đó, nhiều hình thái tôn giáo hình thành, nhiều nỗ lực được thực hiện để tìm ra sự thật về những gì đã xảy ra, trong suốt thời gian đó ẩn giấu trong đất nước Tây Tạng, trong các hang động sâu thẳm, là kiến thức, được khắc trên những tấm vàng bất diệt, tồn tại vĩnh viễn, không thể hư hoại, chờ đợi những người có thể tìm thấy chúng, và giải mã chúng.
“All culture was not quite extinct, however, although mankind was back in the savage state, in the Black Ages. But there were isolated spots throughout the earth’s surface where little groups of men and women struggled on to keep knowledge alive, to keep alight the flickering flame of human intellect, a little group struggling on blindly in the stygian darkness of savagery. Throughout the centuries which followed there were many states of religion, many attempts to find the truth of what had happened, and all the time hidden away in Tibet in deep caves was knowledge. Engraved upon plates of imperishable gold, permanent, incorruptible, waiting for those who could find them, and decipher them.
“Dần dần loài người lại phát triển một lần nữa. Bóng tối của vô minh bắt đầu tiêu tan. Thời kỳ hoang dã đã chuyển thành thời bán văn minh. Trên thực tế đã có một vài tiến bộ nhất định. Các thành phố lại được xây dựng, và máy móc bay trên bầu trời. Một lần nữa những ngọn núi không còn là sự cản trở, con người đi lại khắp thế gian, vượt biển tới khắp các vùng đất. Cũng như trước đây, với sự gia tăng kiến thức và quyền lực, họ trở nên ngạo mạn, và áp bức kẻ yếu. Sự bất ổn, hận thù, đàn áp, và các nghiên cứu bí mật lại xuất hiện. Kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu. Kẻ yếu phát triển những máy móc, và chiến tranh bùng nổ, chiến tranh kéo dài rất nhiều năm. Lại có những loại vũ khí mới kinh khủng hơn nữa được sản xuất. Mỗi bên đều cố gắng tìm ra những loại vũ khí khủng khiếp nhất, trong khi đó, ở Tây Tạng, kiến thức vẫn nằm im. Trong khi đó, trên cao nguyên Chang Tang, một thành phố kỳ diệu vẫn nằm đơn độc, không được bảo vệ, chứa đựng những kiến thức quý giá nhất trên thế giới, đợi chờ những người có thể đến và khám phá, nó nằm đó, kiên nhẫn chờ đợi…
“Gradually man developed once again. The gloom of ignorance began to dissipate. Savagery turned to semi-civilization. There was actually progress of a sort. Again cities were built and machines flew in the sky. Once more mountains were no bar, man traveled throughout the world, across the seas and over the land. As before, with the increase of knowledge and power, they became arrogant and oppressed weaker peoples. There was unrest, hatred, persecution, and secret research. The stronger people oppressed the weak. The weaker peoples developed machines, and there were wars, wars again lasting years. Ever there were fresh and more terrible weapons being produced. Each side sought to find the most terrible weapons of all, and all the time in caves in Tibet knowledge was lying. All the time in the Chang Tang Highlands a great city lay desolate, unguarded, containing the most precious knowledge in the world, waiting for those who would enter and see, lying, just waiting . . .”
Nằm. Tôi đang nằm ngửa trên sàn phòng giam trong nhà tù, nhìn lên qua một đám mây màu đỏ. Máu tuôn ra từ mũi, từ miệng, từ các đầu ngón tay và ngón chân. Tôi đau đớn toàn thân, cảm thấy mình như đang bị tắm trong lửa. Lờ mờ, có một giọng người Nhật nói:
– Chúng mày đã quá tay rồi. Hắn ta không thể sống sót. Hắn không thể sống.
Nhưng tôi đã sống. Tôi đã quyết tâm rằng mình sẽ tiếp tục sống, và chỉ cho người Nhật thấy một người Tây Tạng sống ra sao. Tôi sẽ chỉ cho chúng thấy không đòn tra tấn độc ác nào có thể bắt một người Tây Tạng khai báo.
Lying. I was lying on my back in an underground cell in a prison, looking up through a red haze. Blood was pouring from my nose, from my mouth, from the ends of my fingers, and toes. I ached all over. I felt as if I was immersed in a bath of flame. Dimly I heard a Japanese voice say, “You’ve gone too far this time. He cannot live. He cannot possibly live.” But I did live. I determined that I would live on, and show the Japanese how a man of Tibet conducted himself. I would show them not even the most devilish tortures would make a Tibetan speak.
Mũi của tôi đã bị gãy, bị nghiền phẳng trên mặt bởi một cú đánh giận dữ bằng báng súng trường. Miệng của tôi bị rách, xương hàm bị đập vỡ, còn răng thì bị đánh văng ra ngoài. Nhưng tất cả những đòn tra tấn của người Nhật không làm tôi khai báo một lời. Sau một thời gian, bọn chúng từ bỏ nỗ lực, đến cả người Nhật cũng có thể nhận ra sự vô ích của việc cố gắng ép một người nói khi anh ta nhất định không nói. Sau nhiều tuần, tôi được sai làm công việc xử lý xác của những người không sống sót. Người Nhật nghĩ rằng bằng cách bắt tôi làm công việc đó, cuối cùng, chúng sẽ làm tôi khủng hoảng tinh thần, và có lẽ sau đó tôi sẽ nói.
Phải chất các tử thi trong cái nóng gắt của mặt trời, những xác chết hôi thối, trương phình, xanh lét thật không dễ chịu chút nào. Những xác chết trương lên và nứt ra như một quả bóng bị chọc. Một hôm tôi nhìn thấy một người đàn ông đã chết. Tôi biết anh ta đã chết vì tôi đã tự mình kiểm tra anh ta, nhưng những tên lính gác không chú ý; hai tên lính nhặt cái xác lên, quăng và ném vào đống xác chết, rồi bỏ đi, để cái nóng mặt trời và những con chuột làm công việc dọn rác. Việc một người đã chết hay chưa không quan trọng, bởi vì nếu người đó quá ốm yếu để lao động, anh ta sẽ bị lưỡi lê đâm ngay tại chỗ và ném vào đống xác chết, hoặc anh ta sẽ bị ném vào đó trong khi vẫn còn sống.
My nose was broken, was squashed flat against my face by an angry bang from a rifle butt. My mouth was gashed, my jaw bones were broken, my teeth kicked out. But not all the tortures of the Japanese could make me talk. After a time they gave up the attempt, for even the Japanese could realize the futility of trying to make a man talk when he would not. After many weeks I was set to work dealing with the bodies of others who had not survived. The Japanese thought that by giving me such a job they would eventually break my nerve, and perhaps then I would talk. Piling up bodies in the heat of the sun, bodies stinking, bloated, and discoloured, was not pleasant. Bodies would swell up, and burst like pricked balloons. One day I saw a man fall dead. I knew he was dead because I examined him myself, but the guards took no notice; he was just picked up by two men and swung and tossed on to the pile of dead bodies and left, left so that the hot sun and the rats could do the work of scavenging. But it did not matter if a man was dead or not, because if a man was too ill to work he was either bayoneted on the spot and tossed on to the dead pile, or he was tossed on while he was still alive.
Tôi quyết định rằng mình cũng sẽ “chết”, và sẽ được ném vào cùng với các xác chết khác, đến đêm, nhờ bóng tối tôi sẽ trốn thoát. Vì vậy, tôi sắp đặt kế hoạch của mình, và trong ba hay bốn ngày, tôi cẩn thận theo dõi lính Nhật và các hoạt động của chúng, và quyết định mình sẽ hành động như thế nào. Trong hơn một ngày tôi đi loạng choạng, giả bộ như mình đang kiệt quệ dần. Vào ngày mà tôi dự định sẽ “chết”, tôi đi lại loạng choạng, loạng choạng ngay từ khi điểm danh lúc bình minh. Suốt buổi sáng, tôi thể hiện các dấu hiệu của sự mệt mỏi, và sau đó, ngay sau buổi trưa, tôi đã ngã sụp xuống. Điều này chẳng khó khăn gì, thậm chí còn chẳng phải giả vờ, tôi có thể ngã sụp xuống vì kiệt sức bất cứ lúc nào. Những đòn tra tấn mà tôi phải chịu đựng đã làm tôi suy yếu nhiều. Thực phẩm tồi tệ, càng làm tôi yếu hơn nữa, và tôi thực sự đã kiệt sức gần chết.
Lần này tôi đã ngã sụp xuống, và thực sự thiếp đi vì quá mệt. Tôi cảm thấy cơ thể mình được nâng lên một cách thô bạo, đu đưa qua lại, quăng và ném. Cảm giác khi rơi xuống đống xác chết lổm ngổm đã đánh thức tôi. Tôi cảm thấy đống xác bị lún một chút rồi ổn định. Cú sốc khi rơi xuống làm tôi mở mắt; một tên lính gác đang lơ đãng nhìn về phía tôi, vì thế tôi mở to mắt như mắt của người đã chết thật, hắn ta nhìn đi chỗ khác, hắn đã quá quen với việc nhìn các xác chết, và thêm một cái xác nữa cũng chẳng làm hắn bận tâm. Tôi giữ nguyên tư thế, giữ thật yên, nghĩ về những việc đã qua và lên kế hoạch tiếp theo. Tôi tiếp tục giữ nguyên tư thế, cho dù các xác chết khác vẫn đang được ném xung quanh và phía trên tôi.
I decided that I too would “die,” and would be placed with the other bodies. During the hours of darkness I would escape. So I made my few plans, and for the next three or four days I carefully watched the Japanese and their procedure, and decided on how I would act. For a day or so I staggered and acted as if I were weaker than I really was. On the day on which I planned to “die” I staggered as I walked, staggered as I attended roll-call at the first light of dawn. Throughout the morning I showed every sign of utter weariness, and then, just after noon, I let myself collapse. It was not difficult, not really acting, I could have collapsed with weariness at any time. The tortures I had undergone had weakened me considerably. The poor food I had, had weakened me even more, and I was indeed deadly tired. This time I did collapse, and actually fell asleep through tiredness. I felt my body being crudely lifted and swung, and tossed up. The impact as I landed on the pile of creaking dead bodies awakened me. I felt the pile sway a little and then settle down. The shock of that landing made me open my eyes; a guard was looking halfheartedly in my direction, so I opened my eyes still more as dead man’s eyes go, and he looked away, he was too used to seeing dead bodies, one more was of no interest to him. I kept very still, very still indeed, thinking of the past again and planning for the future. I kept still in spite of other bodies being thrown up around me, on top of me.
Ngày dài như thể một năm. Tôi ngỡ ánh sáng sẽ không bao giờ tắt. Nhưng rồi sau rất lâu những dấu hiệu đầu tiên của buổi đêm đã tới. Mùi hôi thối xung quanh tôi thật không thể chịu nổi, mùi thối rữa của các xác chết lâu ngày. Bên dưới tôi, có thể nghe thấy tiếng sột soạt và tiếng rít của những con chuột đang làm cái công việc khủng khiếp của chúng là ăn xác chết. Lâu lâu đống xác chết sẽ sụt xuống khi một tử thi ở dưới nát vụn dưới sức nặng của những thi thể bên trên. Đống xác chết sẽ sụt xuống, và tôi hy vọng nó sẽ không bị đổ, như vẫn thường xảy ra, khi ấy các xác chết sẽ lại bị chất lại lần nữa, và ai mà biết được, liệu lúc đó tôi có thể bị phát hiện còn sống, hoặc tệ hơn nữa, nằm dưới cùng của đống xác chết, khi đó kế hoạch bỏ trốn của tôi sẽ là vô vọng.
The day seemed to last years. I thought the light would never fade. But at long last it did, the first signs of night were coming, The stench about me was almost unbearable, the stench of long-dead bodies. Beneath me I could hear the rustling and squeaks of rats going about their gruesome work, eating the bodies. Every now and then the pile would sag as one of the bottom bodies collapsed under the weight of all those above. The pile would sag and sway and I hoped that it would not topple over, as so often it did, for then the bodies would have to be piled again, and who knows—this time I might be found to be alive, or even worse, find myself at the bottom of the pile when my plight would be hopeless.
Cuối cùng, những người tù làm việc xung quanh đã giải tán về túp lều của họ. Lính gác tuần tra bên bờ tường, và không khí lạnh của buổi đêm trùm xuống. Một cách chậm chạp, ôi, chậm chạp làm sao, ánh sáng bắt đầu mờ dần. Từng khuôn cửa sổ bắt đầu sang đèn trong phòng lính gác. Chậm chạp một cách không tưởng, màn đêm buông xuống.
At last the prisoners working around were marched in to their huts. The guards patrolled the top of the wall, and there was the chill of the night air. Slowly, oh, so slowly, the light began to fade. One by one little yellow lights appeared in windows, in the guardrooms. So slowly as to be almost imperceptible, night came.
Trong một khoảng thời gian dài, tôi vẫn nằm yên trong đống xác. Nằm im và quan sát cẩn thận nhất có thể. Sau đó, khi lính gác đang ở xa, tôi rón rén đẩy sang một bên xác chết ở phía trên tôi, và đẩy một cái ở bên cạnh. Nó đổ nhào, và lăn qua một bên đống xác, rơi xuống nền đất một cái uỵch. Tôi nín thở sợ hãi; nghĩ rằng chắc chắn lũ lính gác đang chạy đến, và tôi sẽ bị phát hiện. Bước ra ngoài trong đêm tối sẽ là chết chắc, vì đèn pha sẽ lùng sục, và bất cứ ai không may bị lính Nhật tìm thấy sẽ bị lưỡi lê đâm đến chết, hoặc có lẽ bị mổ bụng, hoặc treo lên trên một ngọn lửa thiêu chậm, hoặc bất kỳ kiểu chết độc ác nào mà lính Nhật có thể nghĩ ra, và tất cả điều này sẽ được thực hiện trước một nhóm các tù nhân sợ hãi, để dạy cho bọn họ rằng họ không được tìm cách thoát khỏi Thiên Tử.
For a long, long time I lay still in that stinking bed of dead bodies. Lay still watching as best I could. Then, when the guards were at the far end of their beat, I gingerly pushed aside a body from above me, and pushed away one at my side. It tumbled, and went over the side of the pile and fell upon the ground with a crunch. I held my breath with dismay; I thought that surely now guards would come running and I would be found. It was death indeed to move outside in the darkness, because searchlights would come on, and any unfortunate found by the Japanese would be bayoneted to death, or disemboweled perhaps, or hung over a slow fire, or any devilish death which the distorted Japanese ingenuity could devise, and all this would be in front of a sickened group of prisoners, to teach them that it was not policy to try to escape from the Sons of Heaven.
Không có gì xảy ra cả. Rõ ràng là lính Nhật đã quá quen với những tiếng sột soạt và tiếng rơi từ đống xác chết. Tôi di chuyển một cách thăm dò. Toàn bộ đống xác chết kêu sột soạt và rung lắc. Mỗi lần tôi chỉ di chuyển một chân, và cuối cùng len lỏi tới rìa của đống xác, tôi để mình tuột xuống, túm lấy các xác chết để có thể trèo xuống mười hay mười hai feet, bởi vì tôi quá yếu để nhảy và không muốn bị bong gân hoặc gẫy xương.
Nothing moved. The Japanese were too used, apparently, to the creakiness and fallings from the dead pile. I moved experimentally. The whole pile of bodies creaked and shook. I moved a foot at a time, and eventually crept over the edge of the pile, and let myself down, grabbing bodies so that I could climb down ten or twelve feet, because I was too weak to jump and risk a sprain or a broken bone.
Những tiếng động nhỏ mà tôi gây ra không thu hút sự chú ý. Lính Nhật không hề nghĩ có người lại trốn ở một nơi khủng khiếp như vậy. Trên mặt đất, tôi di chuyển lén lút và từ từ vào trong bóng tối của những cái cây ở gần bức tường của trại giam. Tôi chờ đợi trong một lúc. Phía trên đầu tôi, lính gác đang tụ lại. Có tiếng nói chuyện khe khẽ, và tiếng quẹt diêm châm thuốc lá. Sau đó, lính gác tách ra, một tên đi lên, tên kia đi xuống bức tường, mỗi tên cầm điếu thuốc giấu trong lòng bàn tay khum lại, và bọn chúng ít nhiều đều bị lóa mắt bởi ngọn lửa của que diêm trong đêm tối. Tôi đã tận dụng điều đó. Lặng lẽ và chậm chạp, tôi cố gắng trèo qua tường. Đây là một trại giam được dựng lên tạm thời, nên lính Nhật không làm hàng rào điện vây quanh. Tôi trèo qua, và lặng lẽ thoát ra trong đêm tối. Cả đêm đó tôi nằm dọc theo cành của một cái cây, gần như nằm trong tầm nhìn của trại giam. Tôi đồ rằng nếu tôi bị phát hiện, lính Nhật sẽ chạy băng qua, chúng sẽ không nghĩ rằng tù nhân sẽ ở ngay trước mắt chúng.
The slight noises that I made did not attract attention. The Japanese had no idea at all that anyone would hide in such a gruesome place. Upon the ground I moved stealthily and slowly to the shadow of the trees near the wall of the prison camp. For some time I waited. Above my head the guards came together. There was a muttered talk and the flare of a match as a cigarette was lighted. Then the guards parted, one going off up the wall, and the other down, each with a cigarette hidden in his cupped hands, each of them more or less blinded for the time being by the glare of that match in the darkness. I took advantage of that. Quietly and slowly I managed to climb over the wall. This was a camp which had been set up temporarily, and the Japanese had not got around to electrifying their fences. I climbed over, and stealthily made my way into the darkness. All that night I lay along the branch of a tree, almost in sight of the camp. I reasoned that if I had been missed, if I had been seen, the Japanese would rush by, they would not think that a prisoner would stay so close to them.
Cả ngày hôm sau tôi ở lại chỗ đó, tôi đã quá yếu, và bị bệnh nên không thể di chuyển. Sau đó, vào cuối ngày, khi bóng đêm buông xuống, tôi trườn xuống thân cây, và lần vào trong khu vực mà tôi đã biết rõ.
The whole of the next day I stayed where I was, I was too weak, and ill, to move. Then at the end of the day, as the darkness again fell, I slithered down the trunk of the tree, and made my way on through territory which I new well.
Tôi biết một người Trung Quốc già sống gần đó, tôi đã giúp đỡ nhiều cho bà vợ của ông trước khi bà qua đời, và tôi lần đến nhà ông trong bóng đêm. Tôi gõ cửa nhẹ nhàng. Bầu không khí căng thẳng và sợ hãi. Cuối cùng tôi phải thì thầm tiết lộ mình là ai. Bên trong có tiếng di chuyển khe khẽ, và sau đó nhẹ nhàng và lặng lẽ, cánh cửa được mở ra vài phân, và khuôn mặt già nua nhìn ra.
– À, ông nói, vào nhanh lên.
Ông mở cửa rộng hơn, và tôi trườn vào bên dưới cánh tay đang dang rộng của ông. Ông đóng cửa, và há miệng kinh hoàng khi nhìn thấy tôi. Mắt trái của tôi đã bị hỏng nặng. Mũi tôi bị dập phẳng trên khuôn mặt. Miệng thì rách. Ông đun nước nóng, và rửa các vết thương cho tôi, rồi cho tôi ăn. Đêm đó và ngày hôm sau tôi nghỉ tại túp lều của ông. Ông ra ngoài thu xếp để chuyển tôi đến phòng tuyến của Trung Quốc. Tôi phải ở lại trong túp lều đó vài ngày, trong vùng tạm chiếm của Nhật, trong vài ngày tôi bị sốt và đã suýt chết.
I knew that an old, old Chinese lived nearby. I had brought much help to his wife before she died, and to his house I made my way in the darkness. I tapped gently at his door. There was an air of tenseness, an air of fright. Eventually I whispered who I was. Stealthy movements inside, and then gently and silently the door was opened a few inches, and the old face looked out. “Ah,” he said, “come in quickly.” He opened the door wider, and I crept in beneath his outstretched arm. He put up his shutters, and lit a light, and gasped with horror as he saw me. My left eye was badly damaged. My nose was flattened against my face. My mouth was cut and gashed, and the ends drooped down. He heated water, and washed my hurts, and gave me food. That night and the next day I rested in his hut. He went out and made arrangements whereby I should be conveyed to the Chinese lines. For several days I had to remain in that hut in the Japanese held territory, for several days while fever raged and where I nearly died.
Sau khoảng mười ngày, tôi đã hồi phục đủ để có thể đứng dậy và ra ngoài, đi dọc theo con đường đã được trù tính, tới trụ sở của người Trung Quốc gần Thượng Hải. Họ hoảng hốt khi thấy tôi đi vào với khuôn mặt bị đánh dập nát, và trong hơn một tháng, tôi phải nằm viện trong khi họ lấy xương từ chân để dựng lại mũi cho tôi. Sau đó tôi lại được gửi về Trùng Khánh để hồi phục trước khi trở lại như một nhân viên y tế phục vụ cho lực lượng y tế Trung Quốc. Trùng Khánh! Tôi sẽ rất vui mừng khi nhìn thấy nó sau tất cả những chuyến phiêu lưu của mình, sau tất cả những gì tôi đã trải qua. Trùng Khánh! Tôi lên đường cùng với một người bạn cũng đang đến đó để hổi phục những vết thương do chiến tranh gây ra.
After perhaps ten days I was sufficiently recovered to be able to get up and walk out and make my way along a well planned route to the Chinese headquarters near Shanghai. They looked at me in horror as I went in with my squashed and battered face, and for more than a month I was in hospital while they took bone from a leg to rebuild my nose. Then I was sent off again to Chungking to recuperate before returning as an active medical officer to the Chinese medical forces. Chungking! I thought I would be glad to see it after all my adventures, after all that I had gone through. Chungking! And so I set off with a friend who also was going there to recuperate from illnesses caused in the war.
[1] 1 dặm tương đương 1,61 km
[2]1 foot tương đương với 0,3m