Chương X – Câu chuyện của Rampa -Lobsang Rampa

Trung tâm Việc làm là một căn nhà ảm đạm trên một con phố nhỏ. Tôi đạp xe đến đó, xuống xe và đi bộ vào. “Muốn mất xe đạp à?” một giọng nói vang lên sau lưng tôi. Tôi xoay lưng nhìn người hỏi. “Chắc là những người thất nghiệp thì không lấy cắp của nhau đâu nhỉ?”, tôi hỏi.

“Anh hẳn là người mới đến đây rồi; xích xe lại đi không là đi bộ về đấy.”, anh ta nhún vai rồi đi vào trong tòa nhà. Tôi quay lại, và lục tìm trong túi đồ treo trên xe. Đây, có một sợi xích và khóa. Đang định lắp xích vào bánh xe như tôi từng thấy người khác làm, tôi sực nghĩ – thế chìa khóa đâu nhỉ? Tôi lại vụng về tìm trong những chiếc túi xa lạ và lôi ra được một xâu chìa khóa. Thử hết chìa này đến chìa khóa, cuối cùng tôi cũng tìm được đúng chiếc cần tìm.

Tôi đi theo lối dẫn và bước vào tòa nhà. Theo bảng chỉ đường bằng giấy bìa với những mũi tên vẽ bằng mực đen, tôi rẽ phải và bước vào một căn phòng với rất nhiều ghế gỗ cứng đặt san sát nhau.

THE exchange was a dismal house in a side street. I rode up, dismounted, and started to walk in the entrance. “Want your bike stolen?” asked a voice behind me. I turned to the speaker. “Surely the unemployed do not steal from each other?” I asked.

“You must be new around here; put a lock and chain round the bike or you will have to walk home.” With that the speaker shrugged his shoulders and went into the building. I turned back and looked in the saddle-bag of the machine. Yes, there was a lock and chain. I was just going to put the chain round the wheel as I had seen others do when a horrid thought struck me—where was the key? I fumbled in those unfamiliar pockets and brought out a bunch of keys. Trying one after the other, I eventually found the correct one.

I walked up the path and into the house. Cardboard signs with black inked arrows pointed the way. I turned right and entered a room where there were a lot of hard wooden chairs packed tightly together.

===

CHƯƠNG 10

“LOBSANG! Lobsang!”Tôi trằn trọc trong giấc ngủ. Vết thương ở ngực rất nghiêm trọng, nguyên nhân do cục máu đông. Thở hổn hển, tôi có ý thức trở lại và nghe thấy tiếng gọi « Lobsang! ».

« Gọi tôi à! »tôi nghĩ, « tôi đang đau khủng khiếp! »

« Lobsang, »giọng nói tiếp tục. « Hãy nghe tôi, nằm xuống và chỉ nghe tôi nói thôi. »

Tôi mệt mỏi nằm xuống. Tim tôi đập thình thịch trong khi ngực tôi nhói đau. Trong bóng tối của căn phòng chỉ có mình tôi, dần dần một dáng người hiện ra. Ban đầu là ánh sáng màu xanh rồi chuyển sang vàng, cuối cùng là hình một người đàn ông trạc tuổi tôi. « Đêm nay tôi không thể xuất vía được » tôi nói, « nếu không tim tôi chắc chắn sẽ ngừng đập và nhiệm vụ của tôi sẽ không xong được. »

CHAPTER TEN

 

“LOBSANG! Lobsang!” I turned restlessly in my sleep. The pain in my chest was acute, the pain of that clot. Gasping, I returned to consciousness. Returned to hear again, “Lobsang!”

“My!” I thought, “I feel terrible!”

“Lobsang,” the voice went on. “Listen to me, lie back and listen to me.”

I lay back wearily. My heart was pumping and my chest was throbbing in sympathy. Gradually, within the darkness of my lonely room, a figure manifested itself. First a blue glow, turning to yellow, then the materialized form of a man of my own age. “I cannot astral travel tonight,” I said, “or my heart will surely cease to beat and my tasks not yet ended.”

 

«Người anh em! Chúng ta rất biết tình trạng của cậu, vì vậy ta phải đến đây. Hãy nghe đây, cậu không cần phải nói gì cả.»

Tôi dựa lưng vào đầu giường, thở hổn hển. Mỗi lần thở là một lần đau, nhưng tôi phải thở để sống.

“Chúng ta đã thảo luận về trường hợp của cậu” vị latma nói.”Có một hòn đảo ngoài khơi bờ biển nước Anh, hòn đảo này đã từng là một phần của một lục địa đã biến mất trên Đại Tây Dương. Hãy đi đến đó, nhanh nhất có thể. Hãy nghỉ ngơi ở đó một thời gian trước chuyến đi đến Bắc Mỹ. Đừng đi sang bờ biển phía Tây vì ở đấy luôn có biển động. Hãy đi đến thành phố xanh rồi đi tiếp.”

Đảo à? Được đấy! Một nơi lý tưởng. Tôi luôn có cảm tình với người Ailen. Thành phố xanh là gì nhỉ? Và tôi đã có câu trả lời; Đó là Dublin, thành phố này nếu nhìn từ trên cao thì trông rất xanh mát bởi công viên Phoenix và dòng sông Liffey chảy từ trên núi xuống biển.

“Brother! We well know your condition, so I have come to you. Listen, you need not talk.”

I leaned back against the bed-head, my breath coming in sobbing gasps. It was painful to take a normal breath, yet I had to breathe in order to live.

“We have discussed your problem among us,” said the materialized lama. “There is an island off the English coast, an island which was once part of the lost continent of Atlantis. Go there, go there as quickly as you can. Rest a while in that friendly land before journeying to the continent of North America. Go not to the western shores whose coastline is washed by the turbulent ocean. Go to the green city and then beyond.”

Ireland? Yes! An ideal place. I had always got on well with Irish people. Green city? Then the answer came to me; Dublin, from a great height, looked green because of Phoenix Park and because of the River Liffey flowing from the mountains down to the sea.

Vị latma cười xác nhận. “Cậu phải hồi phục một phần sức khỏe, bởi vì sẽ có thêm thử thách cho câụ. Chúng ta muốn Cậu phải sống để triển khai nhiệm vụ, sao cho khoa học về hào quang có thể tiến gần đến thành công. Bây giờ ta phải đi, nhưng khi nào sức khỏe Cậu hồi phục được chút ít thì ta mong rằng Cậu sẽ đến thăm lại vùng đất ánh sáng vàng.”

Tôi không nhìn thấy gì nữa, vì thế mà căn phòng trở nên tối và cô độc hơn. Nỗi buồn trong tôi dâng lên, những khổ đau thật quá sức chịu đựng và hiểu biết của tôi. Tôi ngồi dựa lưng nhìn vô hồn ra ngoài cửa sổ. Tôi đã nghe thấy gì trong lần đến Lhasa vừa rồi? Ồ, phải rồi! “Cậu sẽ gặp khó khăn khi tìm việc? Đương nhiên, vì cậu không thuộc về thế giới phương tây,cậu chỉ sống như đi mượn ở đó thôi. Người đàn ông mà cậu nhập vào có lẽ sẽ chết bất cứ lúc nào. Cậu cần sử dụng tạm thời thân xác của anh ta, sử dụng lâu hơn cuộc sống của anh ta, nghĩa là anh ta có thể rời khỏi thế giới này một cách có ích và trong danh dự. Người anh em, đó không phải là Nghiệp chướng mà là nhiệm vụ, Cậu đang phải sử dụng cuộc sống cuối cùng của Cậu trên trái đất để thực hiện nó.” Một cuộc sống cũng thật khó nhọc, tôi tự nhủ.

The lama smiled approvingly. “You must recover some part of your health, for there will be a further attack upon it. We would have you live so that the Task may be advanced, so that the Science of the Aura may come nearer to fruition. I will go now, but when you are a little recovered, it is desired that you visit again the Land of the Golden Light.”

The vision faded from my sight, and my room was the darker for it, and more lonely. My sorrows had been great, my sufferings beyond the ability of most to bear or to understand. I leaned back, gazing unseeingly through the window. What had they said on a recent astral visit to Lhasa? Oh, yes! “You find it difficult to obtain employment? Of course you do, my brother, for you are not part of the Western world, you live on borrowed time. The man whose living space you have taken would have died in any case. Your need, temporarily for his body, more permanently for his living space, meant that he could leave the Earth with honour and with gain. This is not Kharma, my brother, but a task which you are doing upon this, your last life on Earth.” A very hard life, too, I told myself.

Sáng ra tôi làm mọi người ngạc nhiên và sửng sốt khi tuyên bố, “Chúng ta sẽ đến sống ở Ailen. Trước hết ở Dublin, sau đó sẽ chuyển ra ngoài.”

Tôi không giúp được gì nhiều để chuẩn bị cho chuyến đi, tôi còn rất yếu, và hầu như ngại di chuyển vì sợ rằng lại lên cơn đau tim. Đồ đạc đã được đóng gói, vé đã có và cuối cùng chúng tôi rời đi. Thật dễ chịu khi lại được ở ngoài trời và tôi thấy dễ thở hơn nhiều. Đi máy bay với người bị đau tim cũng không đáng ngại gì cả. Đã có bình oxy đặt ở trên giá phía trên đầu tôi rồi.

Máy bay giảm độ cao, lượn một vòng trên vùng đất màu xanh đầy sức sống, với những con sóng màu trắng sữa viền quanh. Máy bay tiếp tục hạ thấp, rồi có tiếng rầm rầm khi càng đáp được hạ xuống, rồi tiếp theo là tiếng rít của bánh xe khi tiếp đất trên đường băng.

In the morning I was able to cause some consternation or surprise by announcing, “We are going to live in Ireland. Dublin first, then outside Dublin.”

I was not much help in getting things ready, I was very sick, and almost afraid to move for fear of provoking a heart attack. Cases were packed, tickets obtained, and at last we set off. It was good to be in the air again, and I found that breathing was much easier. The airline, with a “heart-case” passenger aboard, took no risks. There was an oxygen cylinder on the rack above my head.

The plane flew lower, and circled over a land of vivid green, fringed by milk-white surf. Lower still, and there was the rumble of an undercarriage being lowered, followed shortly by the screech of the tires touching the landing strip.

Tôi nhớ lại lần đầu tiên tới nước Anh, và viên hải quan đã xử sự với tôi như thế nào. “Lần này liệu có thế không?” tôi ngẫm nghĩ. Chúng tôi lên xe để đi vào nhà ga sân bay, và tôi đã mệt gần chết mới tìm được một cái xe lăn cho mình. Tại cửa Hải quan, các nhân viên lạnh lùng nhìn chúng tôi và hỏi, “Ông ở lại đây bao lâu?”

“Chúng tôi đến sống ở đây,” tôi trả lời.

Không có rắc rối nào, thậm chí họ còn không cả kiểm tra hành lý của chúng tôi. Cô mèo Ku’ei đã mê hoặc tất cả bọn họ, hiền lành và tự tin, chú đứng trông hành lý cho chúng tôi. Cái giống mèo Xiêm này, khi đã được huấn luyện và được đối xử như con người thì chúng không còn là con vật nữa mà có một trí thông minh vượt bậc. Chắc chắn rồi, tôi rất thích tình bạn và sự trung thành của Cô Ku’ei hơn là của con người; cô ngồi bên tôi suốt đêm và đánh thức vợ tôi khi tôi lên cơn đau!

My thoughts turned to the occasion of my first entry to England, and my treatment by the Customs official. “What will this be like?” I mused. We taxied up to the airport buildings, and I was more than a little mortified to find a wheel-chair awaiting me. In Customs the officials looked hard at us and said, “How long are you staying?”

“We have come to live here,” I replied.

There was no trouble, they did not even examine our belongings. The Lady Ku’ei fascinated them all as, serene and self possessed, she stood guard on our luggage. These Siamese cats, when properly trained and treated as beings, not just animals, are possessed of superlative intelligence. Certainly I prefer the Lady Ku’ei’s friendship and loyalty to that of humans; she sits by me at night and awakens my wife if I am ill!

Chúng tôi chất đồ lên taxi và chạy về thành phố Dublin. Bầu không khí thân thiện ở đây rất đáng ghi nhận; hầu như không có rắc rối gì lớn. Tôi nằm trên giường trong phòng nhìn ra sân trường Trinity. Giao thông êm ả trên con dường phía dưới cửa sổ phòng tôi.

Tôi phải mất một thời gian để hồi phục sau chuyến đi, nhưng khi tôi có thể gượng dậy được, những viên chức của trường Trinity đã cho phép tôi được sử dụng sân trường và thư viện tuyệt vời của họ. Dublin là một thành phố có nhiều điều đáng kinh ngạc; người ta có thể mua bất kỳ cái gì ở đây. Hàng hóa ở đây phong phú hơn rất nhiều so với Windsor, Canada hoặc Detroit, Mỹ. Vài tháng sau, khi tôi đang viết cuốn “Bác sỹ đến từ Lhasa”, chúng tôi quyết định chuyển đến một ngôi làng đánh cá xinh đẹp cách đó khoảng 12 dặm. Chúng tôi may mắn kiếm được một căn nhà nhìn ra vịnh Balscadden, có khung cảnh thực sự đáng kinh ngạc.

Our luggage was loaded on a taxi, and we were driven off to Dublin city. The atmosphere of friendliness was very marked; nothing seemed to be too much trouble. I lay upon my bed in a room overlooking the grounds of Trinity College. On the road below my window, traffic moved at a sedate pace.

It took me some time to recover from the journey, but when I could get about, the friendly officials of Trinity College gave me a pass which enabled me to use their grounds and their magnificent library. Dublin was a city of surprises; one could buy almost anything there. There was a far greater variety of goods than there is in Windsor, Canada, or Detroit, U.S.A. After a few months, while I was writing Doctor from Lhasa, we decided to move to a very beautiful fishing village some twelve miles away. We were fortunate in obtaining a house overlooking Balscadden Bay, a house with a truly amazing view.

Tôi đã phải nghỉ ngơi khá lâu, và nhận thấy rằng mình không thể nhìn bằng ống nhòm qua cửa sổ vì họ lắp kính làm biến dạng hình ảnh. Ông Brud Campbell, thợ xây dựng địa phương, rất thân thiện với tôi, đã khuyên tôi thay bằng kính phẳng. Thay kính xong, bây giờ tôi đã có thể nghỉ ngơi trên giường mà vẫn ngắm được các thuyền đánh cá trên vịnh. Toàn bộ bến cảng nằm trong tầm nhìn của tôi, nổi bật là Câu lạc bộ thuyền buồm, văn phòng giám đốc cảng và ngọn hải đăng. Vào những ngày trời trong sáng tôi có thể nhìn thấy ngọn núi Mourne, xa xa ở trên đất Ireland thuộc Anh, trong khi đó từ đỉnh Howth tôi chỉ có thể nhìn thấy những ngọn núi của xứ Wale mờ xa qua biển Ailen.

I had to rest a very great deal, and found it impossible to see through the windows with binoculars because of the distorting effect of the glass. A local builder, Brud Campbell, with whom I became very friendly, suggested plate glass. With that installed, I could rest on my bed and watch the fishing boats out in the bay. The whole expanse of harbour was within my view, with the Yacht Club, the harbour master’s office and the lighthouse as prominent features. On a clear day I could see the Mountains of Mourne, away in British occupied Ireland, while, from Howth Head, I could dimly see the mountains of Wales far across the Irish Sea.

Chúng tôi mua một chiếc xe cũ và thường lái xe lên núi Dublin, hít thở không khí trong lành và ngắm phong cảnh tuyệt đẹp. Trong một chuyến đi như thế, chúng tôi nghe nói có một con mèo Xiêm già đang sắp chết vì một khối u lớn ở bên trong. Sau khi cân nhắc kỹ, chúng tôi đã mang nó về nhà mình. Một bác sỹ thú y giỏi nhất Ailen đã khám bệnh cho nó và cho rằng nó chỉ sống được vài giờ. Tôi đã thuyết phục bác sỹ mổ cho nó và cắt bỏ khối u do nó bị bỏ rơi và đẻ nhiều con. Cuối cùng nó đã khỏi và thể hiện bản chất đáng yêu nhất của một con người hay con vật mà tôi đã từng gặp. Bây giờ khi tôi đang ngồi viết, nó đi lại quanh quẩn giống như một người phụ nữ có tuổi hiền lành. Nó hoàn toàn bị mù, nhưng đôi mắt xanh và rất đẹp của nó ánh lên sự thông minh và tốt bụng. Cô mèo Ku’ei hay chơi cùng với nó, hoặc chỉ dẫn cho nó bằng thần giao cách cảm, nên nó không bị va vào đâu hoặc không tự làm mình đau. Chúng tôi gọi nó là Bà mèo già Greywhiskers vì nó rất giống một bà mẹ già suốt ngày đi loanh quanh, hưởng thụ những ngày cuối đời, sau khi đã cho ra đời nhiều đứa con.

We bought a second-hand car and often journeyed up into the Dublin Mountains, enjoying the pure air and the beautiful scenery. On one such trip we heard of an elderly Siamese cat who was dying from an immense internal tumour. After much pressure, we managed to take her into our household. The best veterinary surgeon in the whole of Ireland examined her but thought she had only hours to live. I persuaded him to operate to remove the tumour caused by neglect and too many kittens. She recovered, and proved to have the sweetest nature of any person or animal I have ever met. Now, as I write, she is walking round like the gentle old lady she is. Quite blind, her beautiful blue eyes radiate intelligence and goodness. The Lady Ku’ei walks with her, or directs her telepathically so that she does not bump into things or hurt herself. We call her Granny Greywhiskers as she is so much like an elderly granny walking around, enjoying the evening of her life, after raising many families.

Howth đã đem lại cho tôi hạnh phúc mà trước đây tôi chưa từng biết đến. Mr.Loftus, một cảnh sát, hay ở Ailen gọi là “Vệ binh” thường dừng lại chỗ tôi nói chuyện. Ông ấy luôn là vị khách được chào đón. Là một người đàn ông to lớn, lanh lợi như một vệ binh ở cung điện Buckingham, ông ấy có tiếng là công bằng và không biết sợ. Ông ấy thường đến sau khi tan sở, và nói chuyện về những nơi xa xôi. Câu nói của ông ấy “Lạy chúa, bác sỹ, cậu có cái đầu bỏ đi!” khiến tôi thấy buồn cười. Tôi đã bị cảnh sát ở nhiều nước đối xử tồi tệ, nhưng vệ binh Loftus của Howth, Ailen, đã cho tôi thấy rằng cũng có những cảnh sát tốt bên cạnh những người xấu mà tôi đã từng biết.

Howth brought me happiness, happiness that I had not known before. Mr. Loftus, the policeman, or “Guard” as they are called in Ireland, frequently stopped to chat. He was always a welcome visitor. A big man, as smart as a Guard at Buckingham Palace, he had a reputation for utter fairness and utter fearlessness. He would come in, when off duty, and talk of far-off places. His “My God, Doctor, ye’ve brains to throw away!” was a delight to hear. I had been badly treated by the police of many countries, and Guard Loftus, of Howth, Ireland, showed me that there were good policemen as well as the bad which I had known.

Tim tôi lại có dấu hiệu mệt mỏi, và vợ tôi muốn lắp điện thoại. Không may là tất cả các đường dây của “The Hill” đều đã dùng hết và không còn đầu nào cho chúng tôi. Một buổi chiều, hàng xóm của chúng tôi, bà O’Grady đến gõ cửa và nói, “Tôi nghe nói cậu muốn lắp điện thoại nhưng không được. Hãy dùng điện thoại nhà tôi bất cứ lúc nào cậu cần – đây là chìa khóa nhà!” Người Ailen đối xử với chúng tôi rất tốt. Ông bà O’Grady lúc nào cũng cố gắng làm cái gì đó cho chúng tôi, cố gắng làm cho cuộc sống của chúng tôi ở Ailen được dễ chịu hơn. Thật là vinh dự và đặc ân cho chúng tôi khi đưa bà O’Grady đến thăm nhà của chúng tôi ở Canada trong một chuyến đi quá ngắn ngủi.

My heart was showing signs of distress again, and my wife wanted the telephone installed. Unfortunately all the lines of “The Hill” were in use so we could not have one. One afternoon there came a knock at the door, and a neighbour, Mrs. O’Grady, said, “I hear you want the telephone and cannot get it. Use ours at any time you like—here is a key to the house!” The Irish treated us well. Mr. and Mrs. O’Grady were always trying to do something for us, trying to make our stay in Ireland even more pleasant. It has been our pleasure and our privilege to bring Mrs. O’Grady to our home in Canada for an all too brief visit.

Đột nhiên, rất bất ngờ, tôi bị ốm nặng. Những năm tháng trong trại giam, những căng thẳng triền miên mà tôi phải trải qua, những trải nghiệm không bình thường, đã gộp lại làm cho bệnh tim của tôi trở nên nghiêm trọng thực sự. Vợ tôi chạy vội sang nhà O’Grady để gọi điện cho bác sỹ đến gấp. Nhanh đến bất ngờ, bác sỹ Chapman vào phòng ngủ của tôi, và với kỹ năng thành thạo có được sau nhiều năm làm việc, ông nhanh chóng tiêm cho tôi một mũi dưới da. Bác sỹ Chapman là một trong những bác sỹ thuộc trường phái cũ, là “bác sỹ gia đình” người có được kiến thức từ những ngón tay bé nhỏ của ông hơn là từ nửa tá mẫu vật cấp cứu được sản xuất sẵn của nhà nước mà hiện nay rất phổ biến. Bác sỹ Chapman và tôi là một trường hợp “kết bạn từ cái nhìn đầu tiên”; dần dần, dưới sự chăm sóc của ông, tôi đã hồi phục đủ để ra khỏi giường. Rồi sau đó là đi dạo quanh đến thăm các chuyên gia ở Dublin. Có người ở Anh đã nói với tôi rằng đừng bao giờ tin tưởng vào bác sỹ Ailen. Tôi đã tin tưởng và đã được điều trị tốt hơn ở bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Những con người cụ thể, quan hệ giữa con người ở đây tốt hơn nhiều so với sự lạnh lùng máy móc của các bác sỹ trẻ.

Suddenly, shockingly, I was taken violently ill. The years in prison camps, the immense strains I had undergone, and the unusual experiences had combined to make my heart condition serious indeed. My wife rushed up to the O’Grady’s house and telephoned a doctor to come quickly. In a surprisingly short time, Dr. Chapman came into my bedroom, and with the efficiency that comes only from long years of practice, got busy with his hypodermic! Dr. Chapman was one of the “old school” of doctors, the “family doctor” who had more knowledge in his little finger than half a dozen of the “factory produced” State aided specimens so popular today. With Dr. Chapman and me it was a case of “friends at first sight!”; slowly, under his care, I recovered enough to get out of bed. Then came a round of visiting specialists in Dublin. Someone in England had told me never to trust myself to an Irish doctor. I did trust myself, and had better medical treatment than in any other country of the world. The personal, the human touch was there, and that is better than all the mechanical coldness of the young doctors.

 

Brud Campbell đã xây một bức tường đá vững chắc xung quanh khu đất nhà tôi thay cho bức tường cũ đã bị đổ vì chúng tôi thường bị làm phiền bởi những du khách đến từ Anh quốc. Mọi người thường đi du ngoạn từ Liverpool và ghé vào các khu vườn của các gia đình ở Howth để cắm trại! Chúng tôi đã gặp một du khách khá thú vị. Một buổi sáng nọ có tiếng gõ cửa rất to. Vợ tôi ra trả lời và thấy một bà người Đức ở đó. Bà ta cố gắng đẩy cửa vào nhưng không được. Thế rồi bà ta tuyên bố sẽ cắm trại ở thềm nhà tôi cho đến khi được vào “ngồi dưới chân của Lobsang Rampa.” Vì tôi đang ở trên giường và chắc chắn là không muốn bất cứ ai ngồi dưới chân mình, nên đã bảo bà ấy đi đi. Đến chiều bà ấy vẫn ở đó. Mr.Loftus đến nhà, trông rất tức giận và cương quyết đã thuyết phục bà ấy đi xuống chân đồi để bắt xe bus về Dublin và không trở lại nữa!

Brud Campbell had erected a good stone wall round our grounds, replacing a broken one, because we were sorely troubled by trippers from England. People used to come on excursions from Liverpool and enter the gardens of the Howth people and camp there! We had one “tripper” who caused some amusement. One morning there was a loud knock at the door. My wife answered it, and found a German woman outside. She tried to push her way in, but failed. Then she announced that she was going to camp on our doorstep until she was allowed in to “sit at the feet of Lobsang Rampa.” As I was in bed, and certainly did not want anyone sitting at my feet, she was asked to go. By afternoon she was still there. Mr. Loftus came along, looking very fierce and efficient, and persuaded the woman to go down the hill, get on a bus for Dublin, and not come back!

 

Đó là những ngày tháng bận rộn, tôi cố gắng không làm việc quá sức. Cuốn “Bác sỹ đến từ Lhasa” bây giờ đã hoàn thành, nhưng thư từ đã đến từ khắp nơi trên thế giới. Pat, cậu đưa thư, thở khò khè khi đến cửa sau một chặng dài leo lên đồi. “A, chào buổi sáng,” cậu ta sẽ nói như vậy với bất kỳ ai ra mở cửa, “Hôm nay ông ấy thế nào? Ai chà, chắc những lá thư này đã làm gãy lưng tôi rồi!”

Một đêm khi tôi đang nằm trên giường ngắm ánh đèn lấp lánh của Portmarnock, và của những con tàu xa xa ngoài biển, tôi bất chợt nhìn thấy một ông già đang ngồi nhìn tôi chăm chú. Ông mỉm cười khi tôi quay lại nhìn ông. Ông nói, “Ta đã tới xem con tiến bộ thế nào, bởi vì ta muốn con trở về Vùng Hoàng Kim. Con cảm thấy thế nào?”

“Con nghĩ con có thể thu xếp được, chỉ cần cố gắng một chút thôi,” tôi trả lời. “Thầy sẽ đi cùng con chứ?”

“Không,” ông trả lời, “vì thân xác con bây giờ quý giá hơn bao giờ hết, nên ta sẽ ở lại đây để bảo vệ nó.”

They were busy days, with me trying not to overtax my strength. Doctor from Lhasa was now completed, but letters were coming in from all over the world. Pat the Postman would come wheezing to the door, after the long climb up the hill. “Ah! Good marnin’ to ye,” he would say to whoever answered his knock, “And how is Himself today? Ah, sure the letters are breakin’ me back!”

One night as I lay upon my bed watching the twinkling lights of Portmarnock, and of the ships far out to sea, I was suddenly aware of an old man sitting gazing at me. He smiled as I turned in his direction. “I have come,” he said, “to see how you progress, for it is desired that you go again to the Land of the Golden Light. How do you feel?”

“I think I can manage, with a little effort,” I replied. “Are you coming with me?”

“No,” he answered, “for your body is more valuable than ever before, and I am to stay here and guard it.”

Suốt trong mấy tháng gần đây tôi đã phải chịu đựng nhiều. Một trong những nguyên nhân khiến tôi đau buồn là vấn đề người phương Tây vẫn còn hoài nghi; việc thay thế hoàn toàn thân xác của tôi đã hoàn thành. Thân xác cũ đã được mang đi đâu đó và được phép trở về cát bụi. Đối với những người thực sự quan tâm, thì đó là nghệ thuật phương Đông lâu đời và điều đó có thể đọc được ở nhiều cuốn sách.

Tôi nằm một lát để phục hồi sức lực. Bên ngoài cửa sổ, một chiếc thuyền câu muộn đang đi qua. Những ngôi sao đang tỏa sáng, và Ireland’s Eye (Con mắt Ailen) đang tắm trong ánh trăng. Ông già cười và nói, “Ở đây con có khung cảnh thật dễ chịu!” Tôi im lặng gật đầu, duỗi thẳng cột sống, khoanh chân lại bên dưới, rồi trôi đi như một làn khói. Tôi lơ lửng trên đỉnh đồi một lát, nhìn xuống vùng thôn quê tràn ngập ánh trăng. Ireland’s Eye, một hòn đảo ở ngoài khơi, phía ngoài đảo Lambay. Phía sau là thành phố Dublin rực rỡ ánh đèn, thật là một thành phố hiện đại và lộng lẫy. Khi bay chầm chậm lên cao hơn, tôi có thể nhìn thấy đường cong tuyệt đẹp của vịnh Killenye, làm tôi nhớ đến Naples, và xa hơn là Greystones và Wicklow. Tôi lướt đi ra khỏi thế giới này, ra khỏi không gian và thời gian này. Tôi đã đi vào một thế giới khác của sự tồn tại mà không thể mô tả được bằng ngôn ngữ của không gian ba chiều.

During the past few months I had suffered greatly. One of the causes of my suffering was a matter which would cause a Westerner to recoil in disbelief; the whole changeover of my original body had taken place. The substitute body had been teleported elsewhere and allowed to fall to dust. For those who are sincerely interested, it is an old Eastern art and can be read about in certain books.

I lay for a few moments, collecting my strength. Outside the window a late fishing boat went phut-phutting by. The stars were bright, and Ireland’s Eye was bathed in moonlight. The old man smiled and said, “A pleasant view you have here!” I nodded silently, straightened my spine, folded my legs beneath me, and drifted off like a puff of smoke. For a time I hovered above the headland, gazing down at the moonlit countryside. Ireland’s Eye, the island just off the coast, farther out the Island of Lambay. Behind glowed the bright lights of Dublin, a modern, well-lit city indeed. As I rose higher, slowly, I could see the magnificent curve of Killenye Bay, so reminiscent of Naples, and beyond—Greystones and Wicklow. Off I drifted, out of this world, out of this space and time. On, to a plane of existence which cannot be described in the languages of this three-dimensional world.

Nó giống như đi từ chỗ tối ra chỗ sáng. Thầy của tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức đang chờ tôi. “Lobsang, con làm tốt lắm, và cũng phải chịu đựng nhiều,” ngài nói. “Không lâu nữa con sẽ trở lại đây và không đi đâu nữa. Cuộc chiến này thật đáng giá.” Chúng tôi cùng đi qua những vùng đất đẹp lộng lẫy, di chuyển đến Sảnh Ký Ức nơi có rất nhiều thứ để học.

Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện một lát, gồm Thầy của tôi, một nhóm người trông oai phong và tôi. Một người nói, “Sắp tới, con sẽ đến vùng đất của những người da đỏ và ở đó chúng ta sẽ giao nhiệm vụ khác cho con. Hãy tranh thủ nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe trong vài giờ ngắn ngủi ở đây vì những thử thách sau này sẽ tiêu tốn rất nhiều sức lực của con đấy.”

“Đúng thế,” một người khác nhấn mạnh, “và cũng đừng phải buồn khi có ai đó chỉ trích con, bởi vì họ không biết dựa vào đâu mà họ nói như vậy, họ như bị mù bởi chính sách ngu dân của phương Tây. Khi thần chết đến vuốt mắt họ và họ sẽ được tái sinh ở Cuộc sống vĩ đại hơn, thì khi đó họ sẽ thực sự hối hận về những nỗi buồn và những rắc rối mà họ không nên gây ra.”

It was like going from darkness into the sunlight. My Guide, the Lama Mingyar Dondup, was awaiting me. “You have done so well, Lobsang, and have suffered so much,” he said. “In a short time you will be returning here not to leave again. The struggle has been worthwhile.” We moved together through the glorious countryside, moved to the Hall of Memories where there was much yet to learn.

For some time we sat and talked, my Guide, an august group, and I. “Soon,” said one, “you will go to the Land of the Red Indians and there we have another task for you. For a few short hours refresh yourself here, for your ordeals of late have sorely taxed your strength.”

“Yes,” remarked another, “and be not upset by those who would criticize you, for they know not whereof they speak, being blinded by the self imposed ignorance of the West. When Death shall close their eyes, and they become born to the Greater Life, then indeed will they regret the sorrows and troubles they have so needlessly caused.”

Khi tôi trở về Ailen, vùng đất này vẫn còn trong bóng tối,chỉ có vài vệt sáng yếu ớt vạch lên trên bầu trời buổi sáng. Dọc theo bờ cát dài ở Clontarf, những con sóng đang vỡ ra với tiếng rì rầm rên rỉ. Đỉnh đồi Howth lờ mờ hiện ra, một khối màu đen sẫm hiện ra trong màn đêm trước khi bình minh lên. Khi thả mình xuống, tôi liếc nhìn vào chóp mái nhà tôi. “ Tôi thân mến ơi!” tôi tự nói với mình. “Những con chim hải âu đã làm cong những thanh sắt trên mái nhà tôi. Tôi sẽ phải gọi cho Brud Campbell đến để nắn lại cho thẳng.” Ông già vẫn ngồi bên giường của tôi. Bà mèo già Fifi Greywhiskers vẫn đang ngồi ở cuối giường như để canh chừng. Khi tôi nhập vào thân xác và cử động trở lại, nó liền trèo lên cọ vào người tôi kêu gừ gừ. Nó gọi khẽ và cô mèo Ku’ei chạy vào, nhảy lên giường và nằm vào chỗ yêu thích của nó ở trên lòng tôi. Ông già nhìn xuống trìu mến và nhận xét, “Đúng là những sinh vật bậc cao. Ta phải đi đây, người anh em.”

As I returned to Ireland the land was yet in darkness, with just a few faint streaks shooting across the morning sky. Along the long stretch of sands at Clontarf the surf was breaking with a sighing moan. The Head of Howth loomed up, a darker shape in the pre-dawn darkness. As I floated down, I glanced at our rooftop. “Dear me!” I remarked to myself. “The seagulls have bent my aerial rods. I shall have to call in Brud Campbell to put them straight.” The old man was still sitting by my bedside. Mrs. Fifi Greywhiskers was sitting on the end of my bed as if on guard. As I entered my body and re-animated it, she came up to me, rubbed against me and purred. She uttered a low call, and Lady Ku’ei came in, jumped on the bed and took up her station on my lap. The old man gazed down upon them in marked affection and remarked, “Truly entities of a high order. I must go, my brother.”

Bưu điện buổi sáng mang đến thông báo về số tiền thuế khủng từ Phòng thuế thu nhập của Ailen. Tôi chỉ không thích những người Ailen nào có liên quan đến Phòng thuế; đối với tôi họ dường như chẳng giúp được gì và hay sách nhiễu không cần thiết. Đối với các nhà văn ở Ailen, thuế hoàn toàn là bắt buộc, và nó còn là bi kịch, bởi vì Ailen có thể thu thuế tốt từ những người sẽ tiêu tiền. Dù có thuế hay không thì tôi vẫn thích sống ở Ailen hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, ngoại trừ Tây Tạng.

“Chúng ta sẽ đi Canada,” tôi nói. Mọi người đón nhận tuyên bố này với vẻ mặt buồn bã. “Chúng ta sẽ mang những con mèo đi như thế nào?” mọi người hỏi tôi.

“Đi máy bay, tất nhiên, chúng sẽ đi cùng chúng ta,” tôi trả lời.

The morning post brought a savage assessment from the Irish Income Tax Office. The only Irish people I dislike are those connected with the Tax Office; they seemed to me to be so unhelpful, so unnecessarily officious. For writers in Ireland, the tax is absolutely penal, and it is a tragedy, because Ireland could well do with those who would spend money. Tax or no tax, I would rather live in Ireland than in any other place in the world except Tibet.

“We will go to Canada,” I said. Gloomy looks greeted that statement. “How will we take the cats?” I was asked.

“By air, of course, they will travel with us,” I answered.

Các thủ tục khá nhiều và luôn chậm trễ. Các quan chức Ailen tích cực giúp đỡ đến cùng, nhưng phía Canada thì không vậy. Lãnh sự Mỹ còn giúp đỡ nhiều hơn phía Canada. Chúng tôi được lăn tay và phỏng vấn, sau đó là kiểm tra y tế. Tôi bị loại. “Có quá nhiều sẹo,” vị bác sỹ nói. “Anh phải đi chụp X-quang.” Vị bác sỹ Ailen người chụp X-quang cho tôi nhìn tôi thông cảm. “Chắc cậu đã phải sống rất khổ sở.” ông ta nói. “Những cái sẹo này…! Tôi sẽ phải báo cáo những phát hiện của mình cho Bộ y tế Canada. Xét về tuổi của cậu thì tôi đoán là họ sẽ chấp nhận cho cậu vào Canada, nhưng phải có điều kiện.”

The formalities were considerable, the delays long. The Irish officials were helpful in the extreme, the Canadians not at all helpful. The American Consulate offered far more help than did the Canadian. We were fingerprinted and investigated, then we went for our medical examinations. I failed. “Too many scars,” said the doctor. “You will have to be X-rayed.” The Irish doctor who X-rayed me looked at me with compassion. “You must have had a terrible life.” he said. “Those scars . . . ! I shall have to report my findings to the Canadian Board of Health. In view of your age I anticipate that they will admit you to Canada, subject to certain conditions.”

Cô mèo Ku’ei and Bà mèo già Fifi Greywhiskers do bác sỹ thú ý kiểm tra và cả hai đều qua. Trong khi chờ trả lời cho trường hợp của tôi, chúng tôi làm đề nghị được đưa mèo lên máy bay đi cùng. Chỉ có Swissair là đồng ý, vậy là chúng tôi tạm thời đặt chỗ ở đây.

Những ngày sau, tôi được gọi đến Sứ quán Canada. Người đàn ông cáu kỉnh nhìn tôi. “Anh bị bệnh à!” anh ta nói. “Tôi cần phải biết chắc rằng anh sẽ không phải điều trị ở đó.” Tay anh ta vân vê, vân vê, rồi dường như phải rất cố gắng anh ta nói, “Montreal đã đồng ý cấp visa cho anh với điều kiện anh phải khai báo với Bộ y tế ngay khi đến nơi, và sẽ phải thực hiện bất kỳ phương án điều trị nào nếu họ nói là cần thiết. Nếu anh không đồng ý, anh không được vào,” anh ta phấn khởi nói. Dường như rất lạ đối với tôi là rất nhiều viên chức sứ quán của các nước khác thường thích làm khổ người khác một cách không cần thiết; nói cho cùng họ cũng chỉ là những người làm thuê, không thể gọi họ là “nô bộc của dân” được.

The Lady Ku’ei and Mrs. Fifi Greywhiskers were examined by a veterinary surgeon and both pronounced fit. While waiting for a ruling about my case, we made enquiries about taking the cats on the plane with us. Only Swissair would agree, so we provisionally booked with them.

Days later I was called to the Canadian Embassy. A man looked at me sourly. “You are sick!” he said. “I have to be sure that you will not be a charge on the country.” He fiddled and fiddled, and then, as if with immense effort, said, “Montreal has authorized your entry provided you report to the Board of Health immediately you arrive, and take whatever treatment they say you need. If you don’t agree, you can’t go,” he said, hopefully. It seemed very strange to me that so many Embassy officials in other countries are so needlessly offensive; after all, they are merely hired servants, one cannot always call them “civil servants!”

 

Chúng tôi giữ bí mật kế hoạch này; chỉ có những người bạn thân thiết nhất mới biết là chúng tôi sắp đi và đi đâu. Qua kinh nghiệm chúng tôi đã biết, hầu như sẽ thành hiện tượng là nếu chúng tôi hắt hơi, sẽ có ngay nhà báo đến đập cửa nhà tôi và hỏi tại sao. Chúng tôi lái xe lần cuối vòng quanh Dublin và qua những địa điểm tuyệt đẹp của Howth. Quả thật rất buồn khi nghĩ rằng mình sắp rời đi, và không ai trong chúng tôi ở đây cảm thấy vui vẻ. Một hãng rất có tiếng ở Dublin đã đồng ý chở chúng tôi bằng xe bus đến Shannon, gồm cả những chú mèo và hành lý.

We kept our intentions private; only our closest friends knew that we were going and knew where we were going. As we knew to our cost, it was almost a case that if we sneezed, a press reporter would come hammering at the door to ask why. For the last time we drove around Dublin, and around the beauty spots of Howth. It was indeed a wrench to even think of leaving, but none of us are here for pleasure. A very efficient firm in Dublin had agreed to drive us to Shannon in a bus, us, the cats, and our luggage.

Trước giáng sinh vài ngày, chúng tôi đã sẵn sàng để ra đi. Người bạn già của chúng tôi, Mr.Loftus đến chào tạm biệt, và đi tiễn chúng tôi. Nếu không có những giọt nước mắt của ông ấy thì tôi đã không hiểu hết về ông ấy. Tôi cảm thấy rõ ràng là tôi đang phải chia tay một người bạn rất thân thiết. Ông bà O’Grady cũng đến tiễn chúng tôi, ông ấy đã nghỉ làm một ngày để làm việc này. Ông bà O’Grady lộ rõ vẻ lo lắng và hồi hộp, Paddy thì cố gắng che dấu cảm xúc của mình và cố tỏ ra vui vẻ nhưng không dấu được ai. Tôi khóa cửa nhà, đưa chìa khóa cho Mr.O’Grady để gửi cho luật sư, rồi lên xe tạm biệt quãng thời gian hạnh phúc nhất trong đời tôi kể từ khi tôi rời Tây Tạng, chúng tôi phải rời xa những người bạn tốt nhất mà tôi đã được gặp trong một thời gian dài.

A few days before Christmas we were ready to go. Our old friend Mr. Loftus came to say good-bye, and to see us off. If there were not tears in his eyes, then I was much mistaken. Certainly I felt that I was parting from a very dear friend. Mr. and Mrs. O’Grady came to see us, Mr. O’Grady taking the day off for that purpose. “Ve O’G” was openly upset, Paddy was trying to hide his emotion with a show of joviality which deceived no one. I locked the door, gave the key to Mr. O’Grady to mail to the solicitor, got in the bus and we drove away from the happiest time of my life since I left Tibet, drove away from the nicest group of people I had met in long, long years.

Chiếc xe chạy nhanh trên cao tốc phẳng lì dẫn đến Dublin, hòa vào hệ thống giao thông rất qui củ của thành phố, chạy trên những con đường bao quanh những ngọn núi. Chúng tôi chạy xe đã được nhiều giờ, người tài xế rất thân thiện và thạo nghề, luôn chỉ cho chúng tôi những nơi đáng nhớ và rất quan tâm đến sức khỏe và tiện nghi cho chúng tôi. Chúng tôi dừng lại dọc đường để uống trà. Cô mèo Ku’ei thích ngồi lên chỗ cao để quan sát xe cộ và kêu lên thích thú khi có ai đó bế nó đi. Còn bà mèo già Fifi Greywhiskers lại thích ngồi yên lặng và suy tư. Việc xe dừng lại gây ngạc nhiên cho nó. Tại sao chúng ta phải dừng lại? Mọi việc có ổn không?

The bus rushed along the smooth highway to Dublin, threading through the city’s courteous traffic. On, and into open country skirting the mountains. For hours we drove on, the friendly driver, efficient at his task, pointing out landmarks and being solicitous of our welfare and comfort. We stopped half way for tea. The Lady Ku’ei likes to sit up high and watch the traffic and yell encouragement to whoever is driving her. Mrs. Fifi Greywhiskers prefers to sit quietly and think. With the bus stopped for tea, there was great consternation. Why had we stopped? Was everything all right?

Chúng tôi lại đi tiếp vì đường còn dài mà Shannon thì còn xa. Bóng tối ập xuống làm chúng tôi phải đi chậm hơn. Tối khuya chúng tôi tới sân bay Shannon, để lại hành lý chính ở đó, chúng tôi đi đến khách sạn đã đặt cho đêm nay và hôm sau. Vì sức khỏe của tôi và hai con mèo nên chúng tôi đã ở lại Shannon một ngày một đêm, sau đó sẽ rời đi vào đêm hôm sau. Chúng tôi đặt mỗi người một phòng, rất may là có cửa thông với nhau bởi vì thím mèo không biết thích ở phòng nào. Mất một lúc chúng cứ đi lòng vòng khắp nơi, hít hít như chiếc máy hút bụi, “đọc vị” tất cả những ai đã ở trong phòng trước đây, rồi chẳng mấy chốc chúng trở nên im lặng và ngủ thiếp đi.

We continued on, for the road was long and Shannon far distant. Darkness came upon us and slowed us somewhat. Late in the evening we arrived at Shannon Airport, left our main luggage, and were driven to the accommodation we had booked for the night and the next day. Because of my health and the two cats we stayed at Shannon a night and a day, leaving on the next night. We had a room each, fortunately they had communicating doors, because the cats did not know where they wanted to be. For a time they wandered around, sniffing like vacuum cleaners, “reading” all about people who had previously used the rooms, then they fell silent and were soon asleep.

Ngày hôm sau tôi nghỉ ngơi, và đi ngắm một vòng sân bay. “Cửa hàng miễn thuế” hấp dẫn tôi, nhưng tôi không biết cách sử dụng nó; nếu một người mua một món đồ gì đó, người đó sẽ phải khai thuế ở đâu đó và rồi nộp thuế, vậy lợi ích là cái gì?

Nhân viên Swissair rất tốt bụng và chuyên nghiệp, chẳng mấy chốc thủ tục đã xong và chúng tôi chỉ còn đợi lên máy bay. Nửa đêm đã trôi qua và đã một giờ sáng. Đến 1h30 chúng tôi và hai con mèo, lên một chiếc máy bay lớn của Swissair. Hai con mèo gây ấn tượng với mọi người bởi sự tự tin và điềm tĩnh của chúng. Thậm chí tiếng ồn của động cơ cũng không khiến chúng sợ hãi. Chẳng mấy chốc máy bay lăn bánh trên đường băng và tăng tốc. Mặt đất đã ở lại bên dưới, dòng sông Shannon xuất hiện một thoáng dưới cánh máy bay rồi cũng biến mất. Phía trước chúng tôi là Đại tây dương bao la, để lại những làn sóng trắng xóa dọc bờ biển Ailen. Động cơ có dấu hiệu thay đổi, một vệt lửa kéo dài từ những ống xả bóng loáng của máy bay. Đầu máy bay hơi nghiêng đi một chút. Hai con mèo im lặng nhìn tôi; chúng như băn khoăn không biết có điều gì phải lo lắng không. Đây là lần thứ bảy tôi vượt qua Đại Tây Dương, và tôi mỉm cười trấn an chúng. Chẳng bao lâu sau chúng nằm cuộn tròn và ngủ mất.

I rested the next day, and looked round the Airport. The “Duty-Free” Shop interested me, but I could not see the use of it; if one bought an article one had to declare it somewhere and then pay duty, so what was the gain?

The Swissair officials were helpful and efficient, the formalities were soon completed and all we waited for was the plane. Midnight came and went, one o’clock. At one-thirty we were taken aboard a big Swissair plane, we, and our two cats. People were most impressed by them, by their self-control and composure. Not even the noise of the engines disturbed them. Soon we were speeding along the runway faster and faster. The land dropped away, the River Shannon flowed briefly beneath a wing and was gone. Before us the wide Atlantic surged, leaving a white surf along the coast of Ireland. The engine note changed, long flames trailed from the glowing exhaust pipes. The nose tilted slightly. The two cats looked silently at me; was there anything to worry about, they wondered. This was my seventh Atlantic crossing, and I smiled reassuringly at them. Soon they curled up and went to sleep.

Đêm thật dài. Chúng tôi đang bay trong đêm, đối với chúng tôi đêm phải dài đến mười hai tiếng trong bóng tối. Đèn trong khoang mờ đi, chỉ còn lại thứ ánh sáng màu xanh dễ gây buồn ngủ. Chúng tôi đang bay trên độ cao 35000 feet so với mặt biển xám xịt và không ngủ ở bên dưới. Ánh sáng mờ nhạt chầm chậm xuất hiện trên bầu trời xa xa ở phía đường cong của trái đất. Có tiếng chuyển động nhộn nhịp trong khu bếp, tiếng lách cách của bát đĩa, rồi từ từ đèn được bật lên. Anh tiếp viên trưởng dễ mến đi dọc theo cabin luôn chú ý đến tiện nghi của các hành khách. Đội tiếp viên chuyên nghiệp đi phục vụ bữa sáng. Không có nước nào được như Thụy Sỹ về tính chuyên nghiệp trên máy bay, về sự quan tâm chăm sóc đến nhu cầu của hành khách và về việc cung cấp những món ăn thực sự tuyệt vời. Các chú mèo ngồi dậy và chỉ chăm chăm đến việc sắp được cho ăn.

The long night wore on. We were traveling with the darkness, for us the night would be some twelve hours of darkness. The cabin lights dimmed, leaving us with the blue glow and a faint prospect of sleep. The droning engines carried us on, on at thirty-five thousand feet above the gray, restless sea. Slowly the pattern of stars changed. Slowly a faint lightening was observed in the distant sky on the edge of the Earth’s curve. Bustling movement in the galley, the clatter of dishes, then, slowly, like a plant growing, came the lights. The amiable Purser came walking through, ever attentive to his passengers’ comfort. The efficient cabin crew came round with breakfast. There is no nation like the Swiss for efficiency in the air, for attending to the passengers’ wants, and for providing truly excellent food. The cats sat up and were all attention at the thought of eating again.

Xa xa về phía bên phải xuất hiện đường nét màu xám lờ mờ và nhanh chóng nó trở nên to dần. New York! Tôi không thể không nghĩ đến lần đầu tiên tôi đến Mỹ, làm việc trên tàu như một người thợ máy. Khi đó những tòa nhà chọc trời ở Manhattan sừng sững vươn cao, thật ấn tượng với kích thước của chúng. Bây giờ chúng đâu rồi? Chắc không phải là những đốm nhỏ kia chứ? Chiếc máy bay to lớn lượn vòng, nghiêng cánh. Tiếng động cơ thay đổi. Máy bay hạ thấp dần độ cao. Dần dần các tòa nhà ở dưới đất cũng hiện hình, những gì xuất hiện lúc trước như một bãi đất hoang đã hiện hình là sân bay quốc tế Idlewild. Phi công Thụy Sỹ rất chuyên nghiệp đã hạ cánh xuống đường băng chỉ với tiếng rít nhẹ của bánh xe. Máy bay nhẹ nhàng chạy theo đường dẫn về nhà ga sân bay. “Xin hãy ngồi yên tại chỗ!”, cô tiếp viên nhắc. Một tiếng “thịch” nhẹ khi chiếc xe thang áp vào thân máy bay, tiếng kim loại va vào nhau, rồi cửa cabin được mở toang. “Tạm biệt,” mọi người trong đội bay đứng xếp thành hàng ở lối ra, nói, “Hẹn gặp lại trên chuyến bay sau!”. Từ từ chúng tôi xếp hàng đi xuống thang và đi vào khu vực làm thủ tục.

Far off to the right a hazy gray line appeared and rapidly grew larger. New York! Inevitably I thought of the first time I had come to America, working my way as a ship’s engineer. Then the skyscrapers of Manhattan had towered heavenwards, impressing with their size. Now, where were they? Not those little dots, surely? The great plane circled, and a wing dipped. The engines changed their pitch. Gradually we sank lower and lower. Gradually buildings on the ground took shape, what had appeared to be a desolate waste resolved itself into Idlewild International Airport. The skilled Swiss Pilot set the plane down with just a faint scrunch of tires. Gently we taxied along the runway to the Airport buildings. “Keep your seats, please!” said the Purser. A gentle “thud” as the mobile stairway came to rest against the fuselage, a metallic scraping, and the cabin door was swung open. “Good-bye,” said the cabin crew, lining the exit, “Travel with us again!” Slowly we filed down the stairway and into the Administrative Buildings.

Idlewild giống như một nhà ga xe lửa đang phát điên. Mọi người đổ xô đi khắp nơi, chen bật những gì cản đường họ. Một nhân viên phục vụ bước lên phía trước,nói “ Xin đi lối này, phải làm thủ tục hải quan trước.” Chúng tôi xếp hàng bên cạnh băng chuyền. Một đống hành lý bất ngờ xuất hiện, di chuyển dọc theo băng chuyền, kéo dài từ lối vào đến chỗ các nhân viên Hải quan. Các viên chức hải quan đi dọc theo băng chuyền, lục soát các vali đã mở. “Các người từ đâu tới?” một viên chức hỏi tôi.

“Từ Dublin, Ailen,” tôi trả lời.

“Các người đi đâu?”

“Chúng tôi đi Windsor, Canada,” tôi nói.

“Được rồi, có ảnh khiêu dâm nào không? Đột nhiên anh ta hỏi.

Để cho anh ta bình thường trở lại, chúng tôi xuất trình hộ chiếu và visa. Việc này khiến tôi nhớ lại trường hợp của tôi khi ở nhà máy đóng gói thịt ở Chicago, đó là cách mọi người được đối xử.

Idlewild was like a railway station gone mad. People rushed everywhere, jostling any that stood in their path. An attendant stepped forward, “This way, Customs clearance first.” We were lined up by the side of moving platforms. Great masses of luggage suddenly appeared, moving along the platforms, stretching from the entrance to the Customs man. The Officials walked along, rummaging through open cases. “Where you from, folks?” said an Officer to me.

“Dublin, Ireland,” I replied.

“Where you going?”

“Windsor, Canada,” I said.

“Okay, got any pornographic pictures?” he asked suddenly.

With him settled, we had to show Passports and Visas. It reminded me of a Chicago meat packing factory, the way people were “processed.”

Trước khi rời Ailen, chúng tôi đã đặt chỗ trên máy bay Mỹ để bay đến Detroit. Họ đã đồng ý chở mèo đi cùng chúng tôi. Bây giờ các nhân viên của hãng hàng không đó từ chối bán vé cho chúng tôi và cũng từ chối không chở theo hai con mèo, những con mèo đã bay xuyên Đại Tây Dương mà không hề gây rắc rối hoặc phiền toái gì. Có vẻ như chúng tôi sẽ bị kẹt lại ở New york một thời gian, hãng hàng không không mảy may quan tâm đến chúng tôi. Tôi đã thấy quảng cáo “Taxi hàng không đi bất kỳ đâu” từ sân bay La Guardia. Chúng tôi thuê xe limousine của sân bay để đi vài dặm đến một nhà nghỉ ở ngay bên ngoài sân bay La Guardia. “Chúng tôi có thể mang mèo vào cùng không?” chúng tôi hỏi người đàn ông ở bàn lễ tân. Anh ta nhìn hai cô mèo nhỏ nhắn ngoan ngoãn, và nói, “Đương nhiên rồi, chúng được vào chứ!”. Cô mèo Ku’ei và bà mèo Fifi Greywhiskers thực sự rất vui vì lại có dịp được dạo quanh và khám phá hai căn phòng mới.

Before we left Ireland we had booked seats on an American plane to fly us to Detroit. They agreed to take the cats in the plane with us. Now the officials of the Airline concerned repudiated out tickets, and refused to take our two cats who had crossed the Atlantic without trouble or fuss. For a time it seemed that we were stuck in New York, the Airline was not remotely interested. I saw an advertisement for “Air taxis to anywhere” from La Guardia Airfield. Taking an airport limousine we went the several miles to a Motel just outside La Guardia. “Can we bring in our cats?” we asked the man at the registration desk. He looked at them, two demure little ladies, and said, “Sure, sure, they’re welcome!” The Lady Ku’ei and Mrs. Fifi Greywhiskers were glad indeed to have a chance to walk about and investigate two more rooms.

Sự căng thẳng của chuyến đi bây giờ đang ảnh hưởng đến tôi. Tôi lui về giường ngủ. Vợ tôi chạy qua đường sang bên sân bay La Guardia, cố gắng tìm xem có hãng taxi hàng không nào chấp nhận chở và khi nào chúng tôi có thể đi được. Cuối cùng cô ấy trở về vẻ mặt lo lắng. “Họ tính giá cao lắm!” cô ấy nói.

“Thôi được, nhưng chúng ta không thể ở lại đây, chúng ta phải đi thôi.” Tôi đáp lại. Cô ấy nhấc điện thoại gọi và thu xếp được ngay chuyến bay ngày mai bằng taxi hàng không đi Camada.

The strain of the journey was now telling upon me. I retired to bed. My wife crossed the road to La Guardia, trying to find what an air taxi would cost, and when we could be taken. Eventually she returned looking worried. “It is going to cost a lot of money!” she said.

“Well, we cannot stay here, we have to move,” I replied. She picked up the telephone and soon arranged that on the morrow we would fly by air taxi to Canada.

Chúng tôi ngủ ngon đêm đó. Những con mèo hoàn toàn vô tư, thậm chí hình như còn thích thú nữa. Sáng ra, sau bữa điểm tâm, chúng tôi được đưa sang sân bay. Sân bay La Guardia rộng mênh mông với máy bay lên xuống từng phút suốt cả ngày. Cuối cùng chúng tôi tìm thấy chỗ mình sẽ xuất phát, và chúng tôi, những con mèo, và hành lý được đưa lên một chiếc máy bay nhỏ hai động cơ. Viên phi công, một người đàn ông nhỏ bé với cái đầu cạo trọc, chỉ gật đầu với chúng tôi, và rồi máy bay chạy ra đường băng. Chúng tôi chạy khoảng hai dặm và rồi đừng ở một ô trống để chờ đến lượt cất cánh. Phi công của một chiếc máy bay to bay xuyên lục địa vẫy chúng tôi và vội vàng nói vào micro. Phi công của chúng tôi thốt ra những từ mà tôi không thể nhắc lại, và nói, “Máy bay bị thủng lốp rồi.”

We slept well that night. The cats were quite unconcerned, it even seemed that they were enjoying themselves. In the morning, after breakfast, we were driven across the road to the Airport. La Guardia is immense, with a plane taking off or landing every minute of the day. At last we found the place from whence we were to go, and we, our cats, and our luggage were loaded aboard a small twin-engined plane. The pilot, a little man with a completely shaven head, nodded curtly to us, and off we taxied to a runway. For some two miles we taxied and then pulled in to a bay to wait our turn to take off. The pilot of a big intercontinental plane waved to us, and spoke hurriedly into his microphone. Our pilot uttered some words which I cannot repeat, and said, “We have a **** puncture.”

Không khí như bị xé toang bởi tiếng rú còi của xe cảnh sát. Một chiếc xe cảnh sát chạy như điên trên đường nội bộ và phanh gấp bên máy bay của chúng tôi với tiếng rít của lốp xe. “Cảnh sát à? Chúng tôi phải làm gì bây giờ?”. Tôi tự nhủ. Lại thêm những tiếng còi khác nữa, và một đội xe cứu hỏa chạy đến, những người đàn ông nhảy tràn xuống khi xe chạy chậm lại. Viên cảnh sát bước lại nói chuyện với phi công của chúng tôi. Họ đi đến chỗ xe cứu hỏa, rồi cuối cùng cả cảnh sát và lính cứu hỏa đều rời đi. Một chiếc xe chuyên sửa chữa chạy ra, kích chiếc máy bay mà chúng tôi đang ngồi trên đó, tháo chiếc bánh xe bị hỏng-rồi mang đi. Chúng tôi ngồi đó hai tiếng đồng hồ chờ họ mang chiếc bánh xe trở lại.

The air was rent by a screaming police siren. A police cruiser raced madly along a service road and pulled up alongside us with a mad squeal of tires. “Police? What have we done now?” I asked myself. More sirens, and the fire brigade arrived, men spilling off as the machines slowed. The policemen came across and spoke to our pilot. They moved away to the fire engine, and at last the police and firemen moved off. A repair car raced along, jacked up the plane in which we were sitting, removed the offending wheel—and raced off. For two hours we sat there waiting for the wheel to be returned to us.

Cuối cùng bánh xe đã được lắp vào, viên phi công khởi động lại động cơ, rồi máy bay cất cánh. Chúng tôi bay trên dãy núi Alleghany, trước tiên hướng đến Pittsburg. Vừa bay qua những ngọn núi thì đồng hồ đo nhiên liệu -ở ngay trước mặt tôi-dừng ở số 0 và bắt đầu chạm vào điểm dừng. Viên phi công dường như không hay biết gì. Tôi chỉ cho anh ta thấy và anh ta nói giọng thì thầm, “À, chắc chắn rồi, lúc nào chúng ta cũng có thể hạ cánh!” Mấy phút sau chúng tôi bay đến một khoảng trống giữa các ngọn núi, nơi mà nhiều máy bay hạng nhẹ có thể hạ cánh dừng nghỉ. Viên phi công lượn một vòng rồi hạ cánh, chạy đến trạm bơm dầu. Chúng tôi tạm dừng đủ để máy bay được tiếp đầy dầu, rồi lại cất cánh từ đường băng phủ đầy tuyết và đóng băng. Những bờ dốc đầy tuyết trải dọc hai bên, tạo thành những đụn tuyết lớn trong thung lũng. Bay thêm một chút nữa chúng tôi tới Pittsburg. Chúng tôi phát ốm về những chuyến đi, vất vả và mệt mỏi. Chỉ có cô mèo Ku’ei là tỉnh táo, nó ngồi nhìn ra cửa sổ và có vẻ như hài lòng với tất cả mọi thứ.

At last the wheel was on, the pilot started his engines again, and we took off. Off we flew, over the Alleghany range, headed first for Pittsburg. Right over the mountains the fuel gauge—right in front of me—dropped to zero and started knocking against the stop. The pilot seemed blandly unaware of it. I pointed it out and he said, in a whisper, “Ah, sure, we can always go down!” Minutes after we came to a level space in the mountains, a space where many light planes were parked. The pilot circled once, and landed, taxiing along to the petrol pumps. We stopped just long enough to have the plane refuelled, and then off again from the snow-covered, frozen runway. Deep banks of snow lined the sides, great drifts were in the valleys. A short flight, and we were over Pittsburg. We were sick of traveling, stiff and weary. Only the Lady Ku’ei was alert, she sat and looked out of a window and appeared pleased with everything.

Khi Cleveland đã ở dưới cánh máy bay, chúng tôi nhìn thấy hồ Erie ngay ở phía trước. hàng đống băng lớn bị dồn lại, trong khi rất nhiều vết nứt vỡ chạy khắp mặt hồ đóng băng. Viên phi công chấp nhận bay qua hồ hướng thẳng đến đảo Pelee, tiết kiệm được nửa đường. Từ đó chúng tôi bay đến Amherstburg và rồi đến sân bay Winsor. Sân bay yên ắng đến kỳ lạ. Không có những hoạt động nhộn nhịp. Chúng tôi di chuyển đến tòa nhà hải quan, bước xuống máy bay và đi vào bên trong. Có mỗi một nhân viên hải quan vừa tan sở – bây giờ đã là sau sáu giờ tối. Anh ta rầu rĩ nhìn đống hành lý của chúng tôi. “Không có nhân viên xuất nhập cảnh ở đây,”anh ta nói. “Mọi người phải chờ ở đây cho đến khi có người đến.” Chúng tôi ngồi xuống và đợi. Thời gian chậm chạp trôi đi. Nửa tiếng đã trôi qua, thời gian như ngừng lại, chúng tôi đã không ăn uống gì từ lúc 8 giờ sáng. Đồng hồ đã điểm 7 giờ. Một nhân viên Hải quan đến thay phiên, đi đi lại lại, và nói, “ Tôi không thể làm gì cho đến khi có viên chức xuất nhập cảnh làm thủ tục cho ông bà.” Thời gian như trôi đi chậm hơn. 7 giờ 30. Một người đàn ông cao lớn đến và đi vào quầy Xuất nhập cảnh. Có vẻ thất vọng và hơi đỏ mặt, anh ta đến chỗ nhân viên hải quan. “Tôi không thể mở được bàn làm việc.” anh ta nói. Hai người thì thầm nói với nhau một lúc, rồi thử các chìa khóa, đập đập, đẩy đẩy. Cuối cùng trong lúc tuyệt vọng, họ lấy một cái tuốc nơ vít và phá ổ khóa bàn. Nhưng không phải cái bàn này vì nó trống rỗng.

With Cleveland beneath us, we saw Lake Erie right in front. Great masses of ice were piled up, while fantastic cracks and fissures ran across the frozen lake. The pilot, taking no risks, made course for Pelee Island, half way across the lake. From there he flew on to Amherstburg, and on to Windsor Airport. The Airport looked strangely quiet. There was no bustle of activity. We moved up to the Customs Building, alighted from the plane, and went inside. A solitary Customs man was just going off duty—it was after six at night. Gloomily he contemplated our baggage. “There is no Immigration Officer here,” he said. “You will have to wait until one comes.” We sat and waited. The slow minutes crawled by. Half an hour, time itself seemed to stand still, we had had no food or drink since eight o’clock that morning. The clock struck seven. A relief Customs man came in and dawdled about. “I can’t do a thing until the Immigration Officer has cleared you,” he said. Time seemed to be going more slowly. Seven-thirty. A tall man came in and went to the Immigration Officer’s office. Looking frustrated and a little red in the face, he came out to the Customs man. “I can’t get the desk open,” he said. For a time they muttered together, trying keys, banging, pushing. At last, in desperation, they took a screwdriver and forced the desk lock. It was the wrong desk, it was quite empty.

Cuối cùng cũng tìm thấy form để khai báo. Chúng tôi mệt mỏi điền vào form, ký chỗ này chỗ kia. Viên chức xuất nhập cảnh cộp dấu vào hộ chiếu của chúng tôi “Đã nhập cảnh”.

“Bây giờ ông sang bên quầy Hải quan” ông ta nói. Vali và các hòm hộp được mở ra. Trên tờ khai ghi rõ chi tiết các đồ đạc của chúng tôi là “Định cư lâu dài”-Thêm vài con dấu nữa, và cuối cùng chúng tôi được tự do nhập cảnh vào Canada tại Winsor, Ontario. Viên chức Hải quan trở nên nhiệt tình hơn khi biết chúng tôi đến từ Ailen. Bản thân là người gốc Ailen, với cha mẹ là người Ailen vẫn còn sống, anh ta hỏi rất nhiều câu hỏi và – thật tuyệt vời – anh ta đã giúp chúng tôi mang đồ ra chiếc xe đang đứng đợi.

Eventually the forms were found. Wearily we filled them in, signing here, signing there. The Immigration Officer stamped our Passports “Landed Immigrant”.

“Now you go to the Customs Officer,” he said. Cases to open, boxes to unlock. Forms to show, giving details of our belongings as “Settlers”—More rubber stamps, and at last we were free to enter Canada at Windsor, Ontario. The Customs Officer warmed up considerably when he knew we came from Ireland. Of Irish descent himself, with his Irish parents still living, he asked many questions and—wonder of wonders—he helped carry our luggage to the waiting car.

Ra ngoài sân bay còn lạnh hơn, tuyết phủ dầy trên mặt đất. Vừa qua sông Detroit, các tòa nhà vươn lên trời cao, tạo thành những mảng ánh sáng khi tất cả các văn phòng và căn hộ đã lên đèn, vì Giáng sinh đã đến gần.

Chúng tôi chạy xe vào đại lộ rộng lớn Ouellette, con phố chính của Windsor. Không còn nhìn thấy sông nữa, trông có vẻ như là chúng tôi đang lái xe thẳng sang nước Mỹ. Cậu thanh niên đang lái xe cho chúng tôi hình như không biết đường; bỏ lỡ một ngã tư chính, anh ta làm một động tác khác thường khiến chúng tôi dựng tóc gáy. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được căn nhà đã thuê và thật mừng vì đã xuống xe.

Outside the Airport it was bitter, the snow was thick upon the ground. Just across the Detroit River the skyscrapers towered aloft, a mass of light as all the offices and rooms were illuminated, for Christmas was at hand.

We drove down the wide Ouellette Avenue, the main street of Windsor. The River was invisible, and it looked as if we were going to drive straight to America. The fellow who was driving us did not seem at all sure of his directions; missing a main intersection, he made a remarkable maneuver which made our hair stand on end. Eventually we reached our rented house and were glad indeed to alight

Ngay lập tức tôi có trát gọi của Bộ y tế yêu cầu tôi có mặt, dọa sẽ có biện pháp mạnh – kể cả trục xuất – nếu tôi không tới. Thật không may, đe dọa dường như là biện pháp yêu thích của các quan chức Ontario, và đó là lý do vì sao chúng tôi lại chuẩn bị đi tiếp, đến một nơi khác thân thiện hơn.

Tại Bộ y tế tôi phải chụp X-quang, và phải kiểm tra thêm một vài bộ phận khác nữa, và cuối cùng tôi lại được về nhà. Khí hậu ở Windsor thật kinh khủng, cùng với thái độ của các viên chức ở đây khiến chúng tôi phải quyết định sẽ rời đi ngay khi cuốn sách này được viết ra.

Very soon I had a communication from the Board of Health demanding my presence, threatening terrible things—including deportation—if I did not attend. Unfortunately threats seem to be the main hobby of the Ontario officials, that is why we are now going to move again, to a more friendly Province.

At the Board of Health I was X-rayed, more details were taken, and at last I was allowed to go home again. Windsor has a terrible climate, and that and the attitude of officials soon decided us to move as soon as this book is written.

Bây giờ thì Câu chuyện của Rampa đã kết thúc. Tôi đã kể ra tất cả sự thật, giống như hai cuốn sách khác của tôi. Tôi có rất nhiều điều có thể nói về thế giới phương Tây, bởi vì trong chuyến du hành thể vía, tôi mới chỉ chạm vào phần rìa của sự việc. Tại sao phải dùng máy bay do thám với những rủi ro đi kèm khi mà người ta có thể du hành trong thể vía và có thể quan sát được cả bên trong Nhà Hội đồng? Con người có thể nhìn thấy và con người cũng có thể ghi nhớ được. Trong một số hoàn cảnh nhất định, con người ta có thể dùng ý chí để di chuyển một số đồ vật, nếu việc đó là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng người phương Tây lại nhạo báng những điều mà anh ta không hiểu, gọi những người có những khả năng mà anh ta không có được, là “kẻ lừa đảo”, và tự lao vào xỉ vả điên cuồng những người dám bất chấp làm những việc “khác người”.

Với tâm trạng vui vẻ, tôi đặt máy chữ sang một bên và nghỉ tay chơi đùa với cô mèo Ku’ei và bà mèo mù già Fifi Greywhiskers, cả hai đã kiên trì ngồi chờ tôi đã lâu.

Now the Rampa Story is finished. The truth has been told, as in my other two books. I have much that I could tell the Western world, for in astral traveling I have touched merely upon the fringe of things which are possible. Why send out spy planes with its attendant risks when one can travel in the astral and see inside a council chamber? One can see and one can remember. Under certain circumstances one can teleport articles, if it be wholly for good. But Western man scoffs at things he does not understand, yells “faker” to those who have abilities which he himself does not possess, and works himself into a frenzy of vituperation against those who dare to be in any way “different”.

Happily I put aside my typewriter and settled down to entertain the Lady Ku’ei and blind Mrs. Fifi Greywhiskers who both had waited so patiently.

Đêm đó, bằng thần giao cách cảm, tôi lại nhận được một tin nhắn. “Lobsang! Bây giờ con chưa kết thúc cuốn sách này được!” Tim tôi chùng xuống, tôi ghét phải viết, mặc dù vẫn biết rằng có rất ít người có khả năng nhận thức được Sự thật. Tôi viết về những điều mà trí tuệ của con người có thể làm được. Thậm chí những giai đoạn cơ bản ban đầu được mô tả trong cuốn sách này cũng sẽ là khó tin, bây giờ nếu có người nói rằng người Nga đã đưa được người lên sao Hỏa thì họ sẽ tin ngay! Con người rất sợ sức mạnh của trí tuệ nhân loại, và chỉ chú tâm vào những thứ vô bổ như tên lửa hay tàu vũ trụ. Con người sẽ đạt được những thành tựu lớn hơn bằng cách sử dụng các phương pháp trí tuệ này.

That night, telepathically, came the Message again. “Lobsang! You have not yet finished your book!” My heart sank, I hated writing, knowing that so few people had the capacity to perceive Truth. I write of the things which the human mind can accomplish. Even the elementary stages described in this book will be disbelieved, yet if one were to be told that the Russians had sent a man to Mars, that would be believed! Man is afraid of the powers of Man’s mind, and can contemplate only the worthless things like rockets and space satellites. Better results can be achieved through mental processes.

“Lobsang!Sự thật à? Con có nhớ câu chuyện cổ tích Hebrew không? Lobsang, hãy viết đi, và viết cả những gì có thể xảy ra ở Tây Tạng nữa!”

Một học giả người Do thái, nổi tiếng bởi kiến thức và sự thông minh của ông, đã từng được hỏi tại sao ông thường minh họa một sự thật vĩ đại chỉ bằng việc kể một câu chuyện giản dị. Vị học giả khôn ngoan nói, “Việc đó tốt nhất là được minh họa bằng một câu chuyện ngụ ngôn! Ngụ ngôn nói về Ngụ ngôn. Có một lần Sự thật đi giữa những người không trang điểm, trần trụi như Sự thật vậy. Bất cứ ai nhìn thấy Sự thật đều quay mặt đi vì sợ hãi và xấu hổ bởi vì họ không dám đối mặt với Sự thật. Sự thật đi lang thang giữa mọi người trên trái đất, không được chào đón, bị cự tuyệt và cũng không bị truy nã. Một ngày, không bạn bè và cô độc, Sự thật gặp Ngụ ngôn đang đi dạo rất vui vẻ, mặc quần áo đẹp và sặc sỡ. “Sự thật, sao trông cậu buồn rầu và khốn khổ thế?” Ngụ ngôn tươi cười hỏi. “Bởi vì tôi già và xấu xí nên mọi người tránh xa tôi,” Sự thật nói vẻ nghiêm trọng. “Vô lý!” Ngụ ngôn cười to, nói. “Đó không phải là lý do mọi người tránh mặt cậu. Hãy mượn vài bộ đồ của tôi, rồi đi gặp mọi người xem chuyện gì sẽ xảy ra.” Vậy là Sự thật mặc vài bộ quần áo trông dễ thương của Ngụ ngôn, và bây giờ bất cứ chỗ nào anh ấy đến anh ấy cũng được đón chào.” Vị học giả tinh quái mỉm cười và nói, “Con người không thể đối diện với Sự thật trần trụi, họ thích nó được che đậy trong bộ đồ của Ngụ ngôn hơn.”

“Lobsang! Truth? Do you remember the Hebrew tale? Write it down, Lobsang, and write also of what could be, in Tibet!”

A Rabbi, famed for his learning and his wit, was once asked why he so often illustrated a great truth by telling a simple story. “That,” said the wise Rabbi, “can best be illustrated by a parable! A parable about Parable. There was a time when Truth went among people unadorned, as naked as Truth. Whoever saw Truth turned away in fear or in shame because they could not face him. Truth wandered among the peoples of the Earth, unwelcome, rebuffed, and unwanted. One day, friendless and alone, he met Parable strolling happily along, dressed in fine and many coloured clothes. ‘Truth, why are you so sad, so miserable?’ asked Parable, with a cheerful smile. ‘Because I am so old and so ugly that people avoid me,’ said Truth, dourly. ‘Nonsense!’ laughed Parable. ‘That is not why people avoid you. Borrow some of my clothes, go among people and see what happens.’ So Truth donned some of Parable’s lovely garments, and wherever he now went he was welcome.” The wise old Rabbi smiled and said, “Men cannot face naked Truth, they much prefer him disguised in the clothing of Parable.”

“Đúng thế, đúng thế, Lobsang, đó là cách diễn đạt rất tốt những suy nghĩ của con, còn bây giờ là một câu chuyện khác.”

Những con mèo lững thững đi ra ngồi vào ổ của chúng và đợi cho đến khi tôi thực sự kết thúc. Tôi lại nhấc máy chữ lên, cài giấy vào và tiếp tục…

Từ rất xa, Người quan sát tăng tốc, ánh lên màu xanh lam ma quái khi lướt qua các lục địa và đại dương, bỏ lại một phần trái đất nằm trong bóng tối. Trong trạng thái vía chỉ có những người có khả năng thấu thị mới nhìn thấy anh ta, còn anh ta lại có thể nhìn thấy mọi thứ và, khi trở về thân xác của mình, anh ta vẫn nhớ lại tất cả. Anh ta thả mình trôi đi, miễn nhiễm với cái lạnh, không bị ảnh hưởng bởi không khí loãng, anh bay đến nấp ở trên đỉnh núi cao, và chờ đợi.

“Yes, yes, Lobsang, that is a good translation of our thoughts, now the Tale.”

The cats wandered off to sit on their beds and wait until I really had finished. I picked up the typewriter again, inserted the paper, and continued . . .

From afar the Watcher sped, gleaming a ghostly blue as he flashed over continents and oceans, leaving the sunlit side of the Earth for the dark. In his astral state he could be seen only to those who were clairvoyant, yet he could see all and, returning later to his body, remember all. He dropped, immune to cold, untroubled by thinness of air, to the shelter of a high peak, and waited.

Những tia nắng ban mai đầu tiên hắt lên những đỉnh núi đá cao nhất, biến chúng thành màu vàng, phản chiếu vô số màu sắc từ tuyết trong các khe núi. Những vệt sáng yếu ớt chiếu rọi lên bầu trời khi mặt trời ló rạng từ đường chân trời xa xa.

Ở dưới thung lũng có nhiều việc kỳ lạ đang diễn ra. Những ánh đèn được che chắn cẩn thận di chuyển chỗ này chỗ khác như thể xe đang chạy. Dòng sông Hạnh phúc mờ ảo như sợi chỉ bạc, phát ra những đốm sáng lấp lánh. Có nhiều hoạt động lạ lùng đang được giấu diếm ở đây. Những công dân hợp pháp của Lhasa đang trốn trong nhà họ, hoặc đang bị canh giữ trong các trại lao động cưỡng bức.

The first rays of the morning sun glinted briefly on the highest pinnacles of rock, turning them to gold, reflecting a myriad of colours from the snow in the crevices. Vague streaks of light shot across the lightening sky as slowly the sun peeped across the distant horizon.

Down in the valley strange things were happening. Carefully shielded lights moved about, as if on trailers. The silver thread of the Happy River gleamed faintly, throwing back flecks of light. There was much activity, strange, concealed activity. The lawful inhabitants of Lhasa hid in their homes, or lay under guard in the forced-labour barracks.

Mặt trời dần hiện ra theo quỹ đạo của nó. Những tia sáng đầu tiên xuất hiện phản chiếu một hình thù kỳ lạ còn lờ mờ phía dưới thung lũng xa xa. Khi ánh nắng trở nên rực rỡ hơn, Người quan sát đã thấy rõ hơn hình dạng to lớn của một vật thể. Nó rất lớn, hình trụ,và trên một đầu nhọn hướng lên trời có vẽ những con mắt và cái mồm đầy răng. Nhiều thế kỷ nay những thủy thủ Trung Quốc vẫn hay vẽ những con mắt lên con tàu của họ. Bây giờ trên con quái vật này những đôi mắt ánh lên vẻ giận dữ.

Gradually the sun moved upon its path. Soon the first rays, probing downwards, glinted upon a strange shape that loomed up far across the Valley floor. As the sunlight grew brighter the Watcher saw the immense shape more clearly. It was huge, cylindrical, and on its pointed end, facing the heavens above, were painted eyes and a tooth-ensnagged mouth. For centuries the Chinese seamen had painted eyes upon their ships. Now, upon this Monster the eyes glared hate.

Mặt trời lên cao. Chẳng mấy chốc cả thung lũng tràn ngập ánh nắng. Một cấu trúc kim loại kỳ dị đang được kéo ra khỏi con quái vật, bây giờ chỉ còn một phần bị che khuất trong cái ổ của nó. Một quả tên lửa khủng, dựng đứng trên cái đuôi của nó, toát lên vẻ độc ác và chết chóc. Tại căn cứ này, các kỹ thuật viên đeo tai nghe đang chạy lăng xăng trông như một đàn kiến vỡ tổ. Một tiếng còi rú lên chói tai, rồi những âm thanh vang dội lại từ tảng đá này sang tảng đá khác, từ vách núi này đến vách núi khác, chúng hòa vào nhau thành một thứ âm thanh hỗn độn đáng sợ và khủng khiếp, thứ âm thanh này ngày càng lớn dần. Lính chiến, lính canh, những người lao động, ngay lập tức quay ra bỏ chạy nhanh nhất có thể đến ẩn nấp dưới những tảng đá phía xa.

Gradually the sun moved upon its path. Soon the first rays, probing downwards, glinted upon a strange shape that loomed up far across the Valley floor. As the sunlight grew brighter the Watcher saw the immense shape more clearly. It was huge, cylindrical, and on its pointed end, facing the heavens above, were painted eyes and a tooth-ensnagged mouth. For centuries the Chinese seamen had painted eyes upon their ships. Now, upon this Monster the eyes glared hate.

The sun moved on. Soon the whole Valley was bathed in light. Strange metal structures were being towed away from the Monster, now only partly enshrouded in its cradle. The immense rocket, towering on its fins, looked sinister, deadly. At its base technicians with headphones on were running about like a colony of disturbed ants. A siren sounded shrilly, and the echoes rebounded, from rock to rock, from mountain wall to mountain wall, blending into a fearful, horrendous cacophony of sound which built up, becoming louder and louder. Soldiers, guards, labourers, turned on the instant and ran as fast as they could to the shelter of the distant rocks.

Lưng chừng sườn núi ánh nắng rọi vào một nhóm nhỏ những người đàn ông đang tụ tập quanh một thiết bị vô tuyến điện. Một người đàn ông cầm chiếc mic lên và nói với những người đang trú trong căn hầm bê tông cốt thép lớn nằm nửa chìm nửa nổi cách khu vực tên lửa khoảng một dặm. Một giọng nói ọ ẹ phát ra được vài giây rồi tịt ngóm.

Trong một thời gian ngắn không có gì diễn ra, không khí thật yên bình. Chỉ có những làn hơi nước nhè nhẹ rỉ ra từ quả tên lửa là thứ duy nhất đang hoạt động. Thế rồi hơi nước phụt ra, tiếng gầm rú càng ngày càng lớn khiến cho các hòn đá nhỏ bắt đầu rơi. Bản thân mặt đất dường như rung lên và rên rỉ. Âm thanh càng ngày càng lớn đến mức dường như màng nhĩ bị vỡ tung dưới cường độ mạnh như vậy. Một cục lửa cực lớn cùng với hơi nước xuất hiện từ bệ phóng tên lửa, che khuất toàn bộ bên dưới. Như thể phải cố gắng ghê gớm lắm,quả tên lửa từ từ bay lên. Tại một thời điểm, nó đường như đứng yên tại chỗ trên cái đuôi lửa của mình, thế rồi nó tăng tốc bay vọt lên trời cao đang rung chuyển, bùng nổ và gầm vang thách thức nhân loại. Nó cứ bay lên, bay lên mãi, để lại luồng khói và hơi nước chạy dài bên dưới. Tiếng rú rít rung lên giữa các đỉnh núi còn lưu lại rất lâu sau khi hình ảnh của nó biến mất.

Halfway up the mountain side the light glinted on a little group of men clustered around radio equipment. A man picked up a microphone and spoke to the inhabitants of a great concrete and steel shelter lying half concealed about a mile from the rocket. A droning voice counted out the seconds and then stopped.

For scant moments nothing happened, there was peace. The lazy tendrils of vapour seeping from the rocket were the only things that moved. A gush of steam, and a roaring that grew louder and louder, starting small rock-falls. The earth itself seemed to vibrate and groan. The sound became louder and louder until it seemed that the ear-drums must shatter under such intensity. A great gout of flame and steam appeared from the base of the rocket, obscuring all below. Slowly, as if with immense, with stupendous effort, the rocket rose. At one time it seemed to be standing stationary on its tail of fire, then it gathered speed and climbed up into the quaking heavens, booming and roaring defiance to mankind. Up, up it went, leaving a long train of steam and smoke. The scream vibrated among the mountain tops long after all sight of it had gone.

Nhóm kỹ thuật bên sườn núi đang cuống cuồng theo dõi ra đa, ồn ào nói qua mic hoặc dùng ống nhòm công suất lớn để rà soát bầu trời. Xa xa phía trên đầu, một tia sáng lóe lên khi chiếc tên lửa đồ sộ chuyển hướng và đi vào quỹ đạo đã định sẵn của nó.

Những bộ mặt sợ hãi ló ra sau những tảng đá. Họ tụ tập thành từng nhóm nhỏ, lúc này tạm quên đi sự phân biệt giữa lính canh và lao động khổ sai. Thời gian trôi đi. Các kỹ thuật viên đã tắt hệ thống ra đa của họ vì tên lửa đã bay quá phạm vi của họ. Thời gian vẫn lặng lẽ trôi.

The group of technicians on the mountainside feverishly watched their radarscopes, yammered into their microphones, or scanned the skies with high-power binoculars. Far, far overhead a vagrant gleam of light flashed down as the mighty rocket turned and settled on its course.

Scared faces appeared from behind rocks. Little groups of people congregated, with all distinction between guards and slave-labourers temporarily forgotten. The minutes ticked on. Technicians switched off their radar sets, for the rocket had soared far beyond their range. The minutes ticked on.

Đột nhiên đám kỹ thuật nhẩy cẫng lên, hoa chân múa tay như điên, quá khích đến quên cả bật mic. Chiếc tên lửa với đầu đạn hạt nhân đã rơi xuống một đất nước xa xôi, yêu hòa bình. Đất nước này đã trở thành một đống đổ nát với các thành phố bị tàn phá, người dân bị chết cháy trong ngọn lửa dữ dội. Những người Trung cộng với đủ các loại loa, la hét, gào thét vì sung sướng, không còn dấu giếm niềm vui trước thành tựu chết người của họ. Giai đoạn đầu của cuộc chiến đã kết thúc, giai đoạn hai sắp bắt đầu. Đám kỹ thuật đắc chí vội vàng chuẩn bị phóng quả tên lửa thứ hai.

Suddenly the technicians leapt to their feet, gesticulating madly, forgetting to switch on the microphones in their excitement. The rocket, with an atomic warhead, had landed in a far distant, peace-loving country. The land was a shambles, with cities wrecked, and people vaporized to incandescent gas. The Chinese Communists, with the loudspeakers full on, screamed and shouted with glee, forgetting all reserve in the joy of their dreadful accomplishment. The first stage of war had ended, the second was about to start. Exulting technicians rushed to make the second rocket ready.

Đó là một câu chuyện tưởng tượng? Nó có thể là hiện thực! Điểm phóng tên lửa càng cao; lực cản của không khí lên nó càng nhỏ và nó càng tiêu tốn ít nhiên liệu hơn rất rất nhiều. Một quả tên lửa được phóng đi từ bình nguyên của Tây tạng, cao hơn mực nước biển 17.000 feet thì sẽ hiệu quả hơn nhiều quả tên lửa được phóng đi từ vùng đất thấp. Như vậy những người cộng sản đang có được lợi thế khó lường so với phần còn lại của thế giới, họ có những địa điểm cao nhất, hiệu quả nhất để từ đó phóng những quả tên lửa hoặc lên vũ trụ hoặc tới các nước khác.

Is it fantasy? It could be fact! The higher the launching point of a rocket; the less the atmosphere impedes it and so it takes far, far less fuel. A rocket launched from the flat lands of Tibet, seventeen thousand feet above sea level, would be more efficient than one launched from the lowlands. So the Communists have an incalculable advantage over the rest of the world, they have the highest and most efficient sites from which to launch rockets either into space or at other countries.

Trung quốc đã tấn công Tây Tạng – nhưng không chiến thắng được nó – để họ có được lợi thế to lớn này trước các cường quốc phương Tây. Trung Quốc đã tấn công Tây Tạng để mở đường sang Ấn Độ, khi họ đã đủ điều kiện, và có thể họ sẽ qua Ấn Độ để vươn tới châu Âu. Cũng có thể là Trung Quốc và Nga sẽ cấu kết với nhau gây ra một cuộc tấn công theo thế gọng kìm đè bẹp cuộc sống tự do của tất cả các quốc gia nằm trên đường đi của họ. Điều đó có thể xảy ra – trừ khi chúng ta phải hành động ngay. Ba Lan? Trân Châu Cảng?Tây Tạng? “Các chuyên gia” sẽ nói rằng những tội ác như thế sẽ không thể tồn tại. Họ đã nhầm! Liệu họ sẽ còn tiếp tục sai lầm nữa không?

************************************************

China has attacked Tibet—not conquered it—so that she shall have this great advantage over Western powers. China has attacked Tibet so that she shall have access to India, when she is ready, and perhaps drive on through India to Europe. It could be that China and Russia will combine to make a pincer thrust which could crush out the free life of all countries that stood in their way. It could be—unless something is done soon. Poland? Pearl Harbor? Tibet? “Experts” would have said that such enormities could not be. They were wrong! Are they going to be wrong again?

*****************************

 

LÒNG TỐT ĐỐI VỚI NHÀ XUẤT BẢN

Trong nhiều năm kể từ khi “Con mắt thứ ba” được xuất bản lần đầu tiên, tôi đã nhận được một lượng khủng các bức thư, và cho đến bây giờ tôi vẫn luôn trả lời các bức thư đó. Bây giờ tôi buộc phải nói rằng tôi không còn có thể trả lời cho bất cứ bức thư nào nữa trừ khi nó phải được gửi kèm theo đầy đủ phí bưu điện để gửi lại thư phúc đáp. Vậy nên xin hãy đừng gửi thư đến nhà xuất bản của tôi để họ chuyển tiếp cho tôi bởi vì tôi đã yêu cầu nhà xuất bản không được chuyển bất cứ một lá thư nào đến cho tôi nữa.

“KINDNESS TO PUBLISHERS” DEPARTMENT

 Throughout the years since “The Third Eye” first appeared I have had a tremendous amount of mail, and up to the present I have always answered that mail. Now I have to say that I am no longer able to reply to any mail at all unless adequate return postage is enclosed. So please do NOT send letters to my Publisher for forwarding to me because I have asked my Publisher not to forward any letters

 

Mọi người quên mất rằng họ trả tiền cho cuốn sách và không phải cả đời được hưởng miễn phí bưu điện cho dịch vụ tư vấn. Nhà xuất bản là Nhà xuất bản – không phải là làm dịch vụ đưa thư.

Tôi đã nhận được các bức thư từ khắp nơi trên thế giới, thậm chí từ nơi đằng sau tấm rèm sắt, nhưng không có ai trong số hàng nghìn người có gửi phí bưu điện cho thư trả lời, và chi phí đó rất lớn đến mức tôi không thể tiếp tục phúc đáp thư được nữa.

People forget that they pay for a BOOK and NOT a lifetime of free postpaid advisory service. Publishers are PUBLISHERS—not a letter forwarding service.

I have had letters from all over the world, even from well behind the Iron Curtain, but not one in several thousand people encloses return postage, and the cost is so much that I can no longer undertake replies.

Cũng có những người đề nghị những thứ thật kỳ cục. Dưới đây chỉ là một vài ví dụ:

Có một bức thư đầy tuyệt vọng gửi từ nước Úc cho tôi khi tôi đang ở Ailen. Vấn đề có vẻ như thực sự khẩn cấp nên tôi đã gửi điện báo bằng tiền của tôi đến nước Úc, nhưng rồi tôi đã không nhận được thậm chí là một lời cảm ơn.

Có một quý ông nào đó ở Hoa kỳ đã viết cho tôi một bức thư đề nghị tôi hãy viết ngay một bản luận văn và gửi bằng máy bay cho ông ta. Ông ta muốn dùng nó như là luận văn của mình để lấy Bằng tiến sỹ triết học phương Đông. Tất nhiên là ông ta không gửi theo một chút phí bưu điện nào;nó chỉ đơn thuần là một đề nghị mang tính đe dọa!

People ask such peculiar things too. Here are just some:

There was a very desperate letter from Australia which reached me when I was in Ireland. The matter was (apparently) truly urgent so at my own expense I sent a cable to Australia, and I did not even receive a note of thanks.

A certain gentleman in the U.S.A wrote me a letter DEMANDING that I should immediately write a thesis for him and send it by return airmail. He wanted to use it as his thesis to obtain a Doctorate in Oriental Philosophy. Of course he did not enclose any postage; it was merely a somewhat threatening demand!

 

Có một người Anh đã viết cho tôi một bức thư rất rất ngạo mạn đứng tên một người khác, yêu cầu tôi cung cấp các bằng cấp của mình. Và nếu như chúng hoàn toàn thỏa mãn được anh ta thì liệu anh ta có cân nhắc đến việc làm học trò của tôi không, kể cả không mất tiền học phí. Nói một cách khác, là tôi cần phải được kính trọng. (Tôi không nghĩ rằng anh ta sẽ thích câu trả lời của tôi!)

Một người khác cũng viết cho tôi và nói rằng liệu tôi “và các bạn thân của tôi” có thể đến từ Tây tạng và quây quần xung quanh giường của anh ta ở thể vía vào ban đêm được không để khi đó anh ta có thể cảm nhận được sự thú vị trong du hành thể vía.

An Englishman wrote me a very, very haughty letter in the third person, demanding my credentials. And only if they were completely satisfactory to this person would he consider placing himself under my tuition, provided that there would be no charge for it. In other words, I was supposed to be honoured. (I do not think he would like my reply!)

Another one wrote to me and said that if I “and my chums” would come from Tibet and cluster around his bed in the astral at night then he would be able to feel more happy about astral traveling.

Lại có người viết cho tôi và yêu cầu tôi đủ thứ từ những điều bí ẩn cao siêu (thứ mà tôi chỉ có thể trả lời nếu tôi muốn) đến làm thế nào để giữ được quan hệ vợ chồng! Họ cũng đã cân nhắc chỉ viết cho tôi khi họ cần, nhưng rồi họ lại trở mặt công kích tôi nếu tôi không gửi thư phúc đáp bằng máy bay cho họ.

Tôi sẽ xin các bạn đừng làm phiền Nhà xuất bản của tôi nữa, thực tế tôi đã yêu cầu họ đừng chuyển bất cứ lá thư nào cho tôi nữa bởi vì họ là Nhà xuất bản.Đối với nhưng ai thực sự cần câu trả lời (mặc dù tôi không khuyến khích gửi thư) thì tôi có địa chỉ nhà tôi, như sau :

Bác sỹ T Lobsang Rampa

BM/TLR

London W.C.I.,England

Tôi không bảo đảm sẽ trả lời, và nếu bạn dùng địa chỉ này bạn sẽ phải gửi kèm theo đủ phí bưu điện bởi vì các bức thư sẽ được chuyển thẳng đến cho tôi và tôi sẽ phải trả tiền, vì vậy tôi sẽ không có đủ hứng thú để trả lời trừ khi bạn biến chi phí của tôi thành của bạn. Ví dụ, tôi sẽ phải trả ít nhất 1 đô la khi gửi thư đi.

An Englishman wrote me a very, very haughty letter in the third person, demanding my credentials. And only if they were completely satisfactory to this person would he consider placing himself under my tuition, provided that there would be no charge for it. In other words, I was supposed to be honoured. (I do not think he would like my reply!)

Another one wrote to me and said that if I “and my chums” would come from Tibet and cluster around his bed in the astral at night then he would be able to feel more happy about astral traveling.

Dịch giả: Phạm Thị Liễu

Biên tập: VMC