Những ngày trôi qua lê thê buồn tẻ, kéo dài thành tuần, rồi thành tháng, thành năm. Cuối cùng cũng có một sự kiện khác thường trong cuộc sống đơn điệu hàng ngày của việc chữa trị cho các bệnh nhân. Một hôm, bọn lính hối hả chạy đi chạy lại với những sấp giấy trong tay, ra hiệu gọi một tù nhân này, một tù nhân khác. Tôi cũng có tên trong danh sách. Chúng tôi tập hợp trên một bãi đất đối diện những túp lều của mình. Chúng tôi phải đứng yên nhiều giờ, và sau đó, khi ngày đã gần tàn, tên chỉ huy đến trước chúng tôi và nói:
– Những kẻ gây rối chúng mày, những kẻ đã xúc phạm Thiên Hoàng, chúng mày sẽ bị chuyển đi nơi khác để trừng trị. Chúng mày sẽ rời khỏi đây trong mười phút nữa.
Hắn quay ngoắt và đi khỏi. Chúng tôi ít nhiều choáng váng. Chuẩn bị sẵn sàng trong mười phút ư? Phải, ít nhất thì chúng tôi cũng không có tài sản gì. Tất cả những gì cần làm là nói vài lời tạm biệt qua loa và quay trở lại chỗ tập trung.
THE days crawled by with soul-searing monotony, lengthening into weeks, spreading into months, into years. At last there came a diversion from the everyday sameness of treating those who were afflicted. One day the guards came hurrying around with sheaves of paper in their hands, beckoning to a prisoner here, to a prisoner there. I was on that list. We were assembled on the square facing our huts. We were kept for some hours just standing idly, and then, as the day had almost ended, the commandant came before us and said, “You trouble-makers, you who have insulted our Emperor, you are going elsewhere for further treatment. You will leave in ten minutes.” He turned abruptly and marched away. We stood more or less stunned. Ready in ten minutes? Well, at least we had no possessions. All we had to do was to say a few hurried farewells and then return to the compound.
Vậy là chúng tôi sẽ bị đưa đến một trại giam khác? Chúng tôi cố suy đoán về trại giam mới này, liệu nó sẽ ở đâu. Nhưng, cũng như mọi tình huống không thể tránh khỏi, không ai thực sự chắc chắn được điều gì. Cuối cùng, sau mười phút, tiếng còi vang lên, bọn lính lại vội vã đến vây xung quanh, và khoảng ba trăm người bị lùa đi. Đi qua cổng ra bên ngoài; chúng tôi tràn ngập những suy đoán và băn khoăn, trại giam mới là đâu? Chúng tôi bị xem như những kẻ phá rối vì đã không tin vào những lời dối trá của người Nhật. Chúng tôi biết chúng là hạng người thế nào. Và cũng biết rằng cho dù trại giam mới này ở đâu thì nó cũng không phải là một nơi dễ chịu.
So we were going to be taken to another camp? We speculated on the sort of camp, on where it would be. But, as is inevitable in such cases, no one had any really constructive thought. At the end of ten minutes whistles were blown, guards came hurrying around again, and we were marched off, some three hundred of us. We marched out through the gates; we left full of wonder, full of speculation, what sort of camp would this be? We were acknowledged trouble-makers. We had never given in to the Japanese blandishments. We knew them for what they were. We knew, though, that wherever we were going it was not to a pleasant camp.
Chúng tôi đi ngược chiều với những toán lính đang hành quân từ hướng ngược lại. Chúng có vẻ đang cao hứng. Đương nhiên, chúng tôi nghĩ, bởi vì theo những tin tức đến được với chúng tôi thì quân Nhật đang giành được chiến thắng khắp mọi nơi. Chúng tôi được cho biết rằng chúng sẽ sớm kiểm soát toàn bộ thế giới. Thật sai lầm biết bao! Nhưng lúc bấy giờ, chúng tôi chỉ có thể tin những gì người Nhật nói bởi vì chẳng có nguồn tin tức nào khác. Những tên lính này thật hung hăng khi đi ngang qua, chúng không bỏ lỡ một cơ hội nào để đánh tù nhân, đánh đập một cách dữ dội, vô lý, chỉ để vui tai khi nghe báng súng nện thình thịch vào một cơ thể đang run rẩy. Chúng tôi tiếp tục đi, bị thúc bởi những lời chửi bới của bọn lính. Chúng ra sức dùng báng súng. Những người ốm sẽ ngã lăn ra vệ đường là việc quá thường xuyên, khi ấy họ sẽ bị bọn lính đánh nhừ tử. Nếu họ không thể đứng lên hoặc loạng choạng và cần bạn tù khác dìu, bọn lính sẽ bước đến cho một nhát đâm để kết thúc sự đau khổ. Đôi khi chúng chặt đầu nạn nhân và cắm cái nó vào đầu lưỡi lê. Sau đó, chúng sẽ chạy dọc theo hàng tù nhân khốn khổ, cười quái đản trước cái nhìn kinh hoàng của chúng tôi.
We marched past soldiers going the other way. They appeared to be in a high state of humour. No wonder, we thought, because according to the reports reaching us the Japanese were winning everywhere. Soon, we were told they would be in control of the whole world. How mistaken they were! At that time though we could only believe what the Japanese told us, we had no other source of information. These soldiers were most aggressive as they passed by and they lost no opportunity of dealing a blow at us—striking out wildly, irrationally, just for the sheer joy of hearing a rifle butt thud on shrinking flesh. We marched on, driven on by the curses of the guards. They too freely used their rifle butts. All too frequently the sick fell by the wayside where they were belabored by the guards. If they could not regain their feet and stumble blindly perhaps supported by others, then the guards stepped up and a bayonet thrust would end the struggle. Sometimes though the guard would decapitate the victim and stick the severed head on the end of his bayonet. He would then run up and down the lines of toiling prisoners, grinning fiendishly at our looks of horror.
Cuối cùng, sau nhiều ngày lê bước mệt mỏi, kiệt sức, với khẩu phần ăn quá ít, chúng tôi đến một bến cảng nhỏ và bị lùa vào trại giam thô sơ được dựng cạnh cảng. Ở đây đã có nhiều người đến từ nhiều quốc gia, những kẻ gây rối giống như chúng tôi. Họ thờ ơ vì kiệt sức và bị hành hạ đến mức chẳng buông nhìn lên khi chúng tôi bị lùa vào. Số lượng người của chúng tôi lúc này đã bị giảm đi một cách đáng buồn. Trong số hơn ba trăm người lúc đầu, giờ chỉ còn lại có bảy mươi lăm. Đêm đó, chúng tôi nằm dài trên mặt đất trong trại giam, phía sau hàng rào dây thép gai. Không có mái che, không có sự riêng tư, nhưng chúng tôi đã quen với điều đó. Đàn ông và đàn bà nằm lê lết trên mặt đất, hoặc làm những gì phải làm dưới cái nhìn của lính gác Nhật suốt đêm đó.
Eventually, after many days of tiring, grueling marching, with far too little food, we arrived at a small port and were driven into a rude camp which had been constructed by the harbor. Here there were a number of men, men of all nations, trouble-makers like us. They were so apathetic with weariness and with ill-treatment that they hardly looked up as we entered. Our number was now sadly reduced. Of three hundred or so who had started out only about seventy-five arrived. That night we stayed sprawled on the ground in the encampment behind barbed wire. There was no shelter for us, no privacy, but we were used to that by now. Men and women lay on the ground, or did what they had to do under the eyes of the Japanese guards who kept searchlights trained upon us for every moment of that long night.
Vào buổi sáng, sau khi điểm danh, chúng tôi đứng thành một hàng tơi tả trong hai hoặc ba giờ. Cuối cùng, lính gác mới hạ cố đến và đưa tù nhân đi, áp giải xuống bến cảng, tới một cầu cảng nơi có một con tàu nặng nề cũ kĩ ,một con tàu bỏ hoang đúng nghĩa . Tôi không phải là chuyên gia về tàu thuyền. Trên thực tế, hầu hết tất cả mọi người đều am hiểu về biển hơn tôi, nhưng ngay cả tôi cũng nhận thấy con tàu này có thể chìm ngay tại phao neo của nó bất kỳ lúc nào. Chúng tôi đi lên tàu dọc theo những tấm ván ọp ẹp, mục nát bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đổ sụp và ném chúng tôi xuống mặt biển ngầu bọt, lềnh bềnh mảnh vụn, vỏ hộp, chai lọ và xác chết.
In the morning we had a roll-call, and then we were kept standing in a ragged line for two or three hours. Eventually, the guards condescended to come and march us out, march us further down to the harbor, to a quay where there was a rusty old tramp ship, a really derelict affair. I was not by any means an expert on shipping. In fact almost every one of the prisoners knew more about nautical affairs than I, yet even to me this ship looked as if at any moment it would sink at its moorings. We were marched aboard along a creaking, rotted gang plank which also threatened to collapse at any moment and throw us into the scummy sea, which was littered with debris, floating boxes, empty tins, bottles, dead bodies.
Lên tàu, chúng tôi bị đẩy xuống phòng giam phía trước. Ba trăm người bị giữ tại đây. Không đủ chỗ để ngồi, càng không đủ chỗ để di chuyển xung quanh. Những tù nhân cuối cùng của nhóm bị đẩy vào bằng báng súng và những lời chửi mắng của quân Nhật. Sau đó là một tiếng kêu vang rền như thể Cánh cửa tận thế vừa đóng lại phía trên chúng tôi. Cánh cửa khoang cũng được đóng sầm lại, kéo theo một đám bụi mù mịt. Chúng tôi nghe thấy âm thanh của búa đóng vào nêm gỗ, và rồi toàn bộ ánh sáng bị che kín. Sau đó rất lâu, con tàu bắt đầu rung chuyển. Có tiếng ùng ục kẽo kẹt của động cơ cũ kỹ đã bị vứt xó từ lâu. Cảm tưởng như toàn bộ khung tàu sắp rơi ra thành từng mảnh và thả rơi chúng tôi qua đáy tàu.
Từ boong tàu, chúng tôi có thể nghe văng vẳng những tiếng la và những mệnh lệnh inh ỏi bằng tiếng Nhật. Con tàu vẫn tiếp tục rung chuyển. Ngay sau đó là một đợt sóng trồi và tròng trành dữ dội báo hiệu chúng tôi đã vượt ra khỏi bến tàu và ra đến biển. Chuyến đi này thực sự nhọc nhằn. Biển chắc hẳn đang trong lúc dữ dội. Chúng tôi liên tục bị va vào nhau, ngã lộn và đạp lên nhau. Tù nhân bị giam chặt trong khoang vốn được dùng để chất hàng hóa và chỉ được phép lên boong một lần duy nhất, trong đêm tối. Trong hai ngày đầu tiên hoàn toàn không có thức ăn. Và chúng tôi biết lý do tại sao. Đó là để bẻ gãy tinh thần của người tù. Nhưng nó thực chả thấm vào đâu. Sau hai ngày, mỗi người tù được chia cho khoảng một chén cơm mỗi ngày.
As we boarded the ship we were forced down a hold in the forward part. Some three hundred of us were there. There was not enough room for us to sit down, certainly not enough room to move around. The last of the party was forced down with blows of rifle butts and with the curses of the Japanese guards. Then came a clang as if the Gates of Doom were closing upon us. The cover of the hatch was slammed down, sending clouds of stinking dust upon us. We heard the sound of mallets driving home wooden wedges, and all light was excluded. After what seemed to be a terribly long time the ship started to vibrate. There was the creaking rumble of the derelict old engine. It really felt as if the whole framework would shake itself to pieces and drop us out through the bottom of the ship. From the deck we could hear muffled shouts and screamed instructions in Japanese. The chugging continued. Soon there was a terrific rolling and pitching which told us that we had gone beyond the harbor and had reached the open sea. The journey was very rough indeed. The sea must have been tumultuous. We were continually thrown against each other, toppled over to be trampled on by others. We were shut down in the hold of that cargo boat and allowed on deck once only, during the hours of darkness. For the first two days no food at all was given to us. We knew why. It was to make sure that our spirit was broken. But it had little effect upon us. After two days we had about a cupful of rice each for each day.
Nhiều tù nhân yếu hơn, sớm chết ngạt vì bị giam chặt trong một cái hố hôi thối. Không có đủ ô-xy để giữ cho tất cả sống sót. Nhiều người đã chết,đổ gục giống như những con búp bê cũ gãy nát trên sàn thép bên dưới. Những người sống sót cũng chẳng may mắn gì hơn khi không có lựa chọn nào khác ngoài đứng trên những xác chết đang phân hủy. Bọn lính không cho phép chúng tôi đưa những cái xác ra ngoài. Tất cả đều là tù nhân, và việc chúng tôi sống hay chết không quan trọng với chúng, miễn là số lượng vẫn đúng như trên giấy tờ. Vì vậy, những tử thi thối rữa được giữ lại trong phòng giam cùng với người sống cho đến khi thuyền đến được bến cảng, ở đó cả tử thi và người sống sẽ được kiểm đếm.
Many of the weaker prisoners soon died in the suffocating stench, shut down in that stinking hold. There was not enough oxygen to keep us alive. Many died and collapsed like broken discarded dolls upon the steel floor beneath us. We, the hardly more fortunate survivors, had no choice but to stand on the dead and decomposing bodies. The guards would not allow us to move them out. We were all prisoners and it did not matter to the guards whether we were dead or alive, we had to be the correct number as shown on their papers. So the rotting dead had to be kept in the hold with the suffering living until we arrived at our port of destination, when bodies dead and alive would be counted.
Chúng tôi đã mất tất cả dấu vết về thời gian, nhưng cuối cùng, cũng không biết sau bao lâu, có một sự thay đổi trong tần suất của động cơ. Sự rung lắc và tròng trành giảm đi. Nhịp điệu đã thay đổi và chúng tôi đã đúng khi đoán rằng thuyền đang đến gần một bến cảng. Sau rất nhiều náo loạn, om sòm, là tiếng kêu vang của xích sắt và neo tàu được thả xuống. Sau một khoảng thời gian dài như vô tận, cửa khoang chứa hàng được mở và bọn lính bắt đầu leo xuống cùng với một nhân viên y tế người Nhật. Xuống được nửa đường chúng dừng lại với vẻ ghê tởm. Gã nhân viên y tế Nhật nôn mửa trước mùi hôi thối và nôn cả vào tù nhân ở bên dưới. Sau đó vứt hết thể diện, bọn chúng cuống quít trở lên boong tàu.
We lost all track of days, but eventually after an unspecified time there was a change in the note of the engine. The pitching and tossing lessened. The vibration altered and we surmised correctly that we were approaching a harbor. After much noise and fuss there came the clatter of chains and the anchors were dropped. After what seemed to be an interminable time the hatches were flung off and Japanese guards started to descend with a Japanese port medical officer with them. Half way down they stopped in disgust. The Medical Officer vomited with the stench, vomited over us beneath. Then throwing dignity to the winds, they beat a hasty retreat up to the deck.
Điều tiếp theo mà chúng tôi biết là những ống dẫn nước được đưa vào và nước tuôn sối xả xuống những người bên dưới. Chúng tôi suýt thì chết đuối. Nước dâng đến thắt lưng, rồi đến ngực, cằm, những mẩu xác chết mục nát trôi nổi quanh miệng người tù. Sau đó là những câu la hét bằng tiếng Nhật và dòng nước ngưng lại. Một sĩ quan trên boong tàu đi đến và ngó xuống, bọn chúng bàn bạc với nhau. Ông ta nói rằng tàu sẽ chìm nếu tiếp tục bơm nước vào. Vì vậy, một ống lớn lại được đưa vào và hút toàn bộ nước từ trong tàu ra.
The next thing we knew was that hoses were being brought and streams of water rained down upon us. We were half drowned. The water was rising to our waists, our chests, to our chins, floating particles of the dead, the rotted dead, to our mouths. Then there were shouts and exclamations in Japanese and the water flow stopped. One of the deck officers came and peered over, and there was much gesticulation and discussion. He said that the boat would sink if any more water was pumped in. So a larger hose was dropped in and all the water was pumped out again.
Cả ngày và đêm hôm đó, chúng tôi tiếp tục bị giam giữ dưới hầm tàu, run rẩy trong những mảnh giẻ ướt nhẹp, và nôn nao vì mùi hôi thối của những xác chết đang phân hủy. Ngày tiếp theo, chúng tôi được phép lên boong tàu, hai hay ba người một lúc. Cuối cùng khi đến lượt mình, tôi đi lên trên boong tàu. Tôi được thẩm vấn qua loa, thẻ căn cước của tôi đâu? Tên của tôi được tích vào danh sách và tôi bị đẩy sang một bên, vào trong một cái sà lan đã chật ních người, một đám người đang run rẩy như những chú bù nhìn sống được che dưới những mảnh quần áo tàn tạ. Một số người còn không có gì để mặc cả. Cuối cùng, nước đã mấp mé bên mép và sà lan có nguy cơ chìm nếu bị nhét thêm người, bọn lính quyết định không đưa thêm tù nhân lên nữa. Một chiếc xuồng máy di chuyển chậm chạp đến và một sơi dây thừng được móc vào đầu sà lan. Chiếc xuồng bắt đầu đi vào bờ kéo theo chiếc sà lan cũ nát chở chúng tôi phía sau.
All that day and all that night we were kept down there, shivering in our wet rags, sick with the stench of the decayed dead. The next day we were allowed up, two or three at a time. Eventually my turn came and I went up on deck. I was roughly questioned. Where was my identity disc? My name was checked against a list, and I was roughly shoved over the side into a barge which was already crowded, and overcrowded, with a shivering collection of humanity, living scarecrows clad in the last vestiges of clothing. Some, indeed, were not clad at all. At last with the gunwales awash and with the barge threatening to sink if another person was put aboard, the Japanese guards decided that no more could safely be crammed in. A motor boat chugged up to the bows and a rope was made fast. The motor boat started for the shore dragging us in the decrepit old barge behind.
Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy đất nước Nhật Bản. Chúng tôi đã đặt chân đến đất Nhật và ngay khi lên bờ đã bị đẩy ngay vào một trại tập trung, đặt trên đất trống với dây thép gai bao quanh. Chúng tôi bị giam giữ ở đó trong vài ngày, trong khi bọn lính thẩm vấn từng người một, cả đàn ông lẫn đàn bà, rồi sau đó, cuối cùng, một số người trong chúng tôi bị tách ra và phải đi vài dặm nữa sâu vào đất liền nơi có một nhà tù được để trống đang đợi sẵn.
That was my first sight of Japan. We had reached the Japanese mainland and once ashore we were put into an open camp, a camp upon waste ground surrounded by barbed wire. For a few days we were kept there while the guards interrogated each man and woman, and then eventually a number of us were segregated and marched off a few miles into the interior where there was a prison which had been kept vacant to await our arrival.
Một trong số các tù nhân, một người đàn ông da trắng, đã khuất phục trước sự tra tấn và để lộ rằng tôi đã giúp đỡ các tù nhân trốn trại, rằng tôi có thông tin quân sự được tiết lộ từ những người tù đã chết.
Vì vậy, một lần nữa, tôi bị gọi đến để thẩm vấn. Người Nhật có vẻ rất hăng hái trong việc cố gắng bắt tôi khai báo. Bọn chúng đã thấy trong hồ sơ của tôi rằng tất cả những nỗ lực trước đó đều thất bại, vì thế lần này chúng quyết tâm tới cùng. Móng tay của tôi, đã mọc lại, bị tách ngược ra và sát muối. Nhưng điều đó vẫn không làm tôi nói, nên tôi bị buộc hai ngón cái rồi treo lên xà nhà suốt cả ngày. Cách tra tấn này đã làm tôi đau đớn, nhưng bọn lính Nhật vẫn không hài lòng.
One of the prisoners, a white man, gave way under the torture and said that I had been helping prisoners escape, that I had military information given me by dying prisoners. So once again I was called in for interrogations. The Japanese were most enthusiastic about trying to make me talk. They saw from my record that all previous attempts had failed, so this time they really excelled themselves. My nails, which had regrown, were split off backwards and salt was rubbed into the raw places. As that still did not make me speak I was suspended by my two thumbs from a beam and left for a whole day. That made me very sick indeed, but the Japanese were still not satisfied.
Sợi dây thừng được nới và tôi rơi xuống nền cứng của nhà giam, kèm theo đó là một nhát đánh từ báng súng vào ngực. Tên lính tì đầu gối lên bụng, chỗ dạ dày của tôi, hai cánh tay bị kéo ra và ghìm chặt vào thành vòng tròn – rõ ràng là chúng đã rất thành thạo trong phương pháp tra tấn này trước đây! Một cái ống được ép xuống cổ họng và nước bắt đầu mở. Tôi cảm tưởng rằng mình sẽ chết, một là chết ngạt do thiếu không khí, hai là chết đuối vì sặc nước, nếu không cũng vỡ mạch máu vì áp lực. Dường như mọi lỗ chân lông trên cơ thể tôi đều đang rỉ nước; tôi như bị thổi phồng lên giống như một quả bóng. Đau đớn dữ dội. Rồi tôi nhìn thấy ánh sáng chói lóa. Có một sức ép khủng khiếp lên não, và cuối cùng thì tôi ngất đi.
The rope suspending me was cast loose, and I dropped with a bone shaking thud to the hard floor of the compound. A rifle butt was jammed in my chest. Guards knelt upon my stomach, my arms were pulled out and I was pegged down to ringbolts—apparently they had specialized in this method of treatment before! A hose was forced down my throat and water turned on. I felt that I was either going to suffocate through lack of air, or drown through too much water, or burst with the pressure. It seemed that every pore of my body was oozing water; it seemed that I was being blown up like a balloon. The pain was intense. I saw bright lights. There seemed to be an immense pressure on my brain and eventually I fainted.
Tôi được cho uống thuốc và tỉnh lại một lần nữa. Lúc này tôi đã quá ốm yếu đến nỗi không thể tự đứng được, vì thế ba tên lính Nhật phải đỡ – vì tôi khá cồng kềnh – và lại kéo lê tôi đến chỗ cái xà mà lúc trước tôi đã bị treo lên ở đó. Một tên sĩ quan Nhật đến và nói:
– Mày trông ướt nhẹp. Tao nghĩ giờ là lúc mày phải được hong khô. Điều này có thể giúp mày nói đấy. Kéo nó lên.
I was given restoratives which brought me around to consciousness again. By now I was far too weak and ill to get to my feet, so three Japanese guards supported me—I was quite a bulky man—and dragged me again to that beam from whence I had previously been suspended. A Japanese officer came and said, “You look quite wet. I think it is time you were dried off. It might help you to talk more. String him up.”
Hai tên lính Nhật cúi xuống và kéo giật hai cổ chân tôi khỏi sàn một cách đột ngột đến nỗi tôi ngã gục xuống và đập đầu xuống sàn bê tông. Một sợi dây thừng buộc quanh cổ chân được ném qua xà ngang một lần nữa, trong khi chúng gồng người như đang làm một việc nặng nhọc, tôi bị nhấc bổng lên, treo trên cao, chân ở trên đầu lộn xuống dưới, cách mặt sàn hơn một yard[1].
Sau đó, một cách từ từ, như thể chúng đang thưởng thức từng giây phút, bọn lính Nhật trải giấy và vài thanh gỗ xuống sàn nhà bên dưới. Nhoẻn miệng cười khoái trá, một tên châm lửa đốt giấy. Dần dần hơi nóng bốc lên. Những thanh gỗ bắt lửa, tôi cảm thấy da đầu mình cháy xém và nhăn lại trong hơi nóng. Một giọng nói cất lên:
– Nó sắp chết rồi. Đừng có để nó chết nếu không tao sẽ bắt mày phải chịu trách nhiệm. Phải làm cho nó nói.
Sau đó, sợi dây thừng được tháo ra, tôi rơi cắm đầu xuống đám than đang cháy và một lần nữa lại ngất đi.
Two Japanese guards bent suddenly and snatched my ankles from the ground, snatched so abruptly that I fell violently and banged my head on the concrete. A rope was passed around my ankles and thrown over the beam again and while they puffed like men having a hard task, I was hoisted feet uppermost, a yard or so from the ground. Then slowly, as if they were enjoying every moment of it, the Japanese guards spread paper and a few sticks on the ground beneath me. Grinning maliciously, one struck a match and lit the paper. Gradually waves of heat came upon me. The wood ignited, and I felt the skin of my head shriveling, wrinkling in the heat. I heard a voice say, “He is dying. Do not let him die or I will hold you responsible. He must be made to talk.” Then again a stunning thud as the rope was cast off, and I dropped head first into the burning embers. Once again I fainted.
Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang ở trong xà lim dưới tầng trệt, nằm ngửa trên một vũng nước dưới sàn. Chuột chạy nhốn nháo xung quanh, khi tôi vừa cựa mình, chúng sợ hãi bỏ chạy hỗn loạn. Nhiều giờ sau đó, lính gác đến và kéo tôi đứng lên, vì tôi vẫn chưa thể tự đứng được. Chúng vừa thúc vừa chửi rủa, vừa lôi tôi đến bên cửa sổ có song sắt cao vừa tầm mặt đất bên ngoài. Ở đây, cổ tay tôi bị còng vào song sắt để mặt tôi ép vào những thanh sắt đó. Một tên sĩ quan đá tôi và nói:
– Mày sẽ phải xem tất cả những gì xảy ra ở đây. Nếu mày quay đi hoặc nhắm mắti, mày sẽ nhận một lưỡi lê vào người.
Tôi quan sát, nhưng không có gì để nhìn, ngoại trừ mặt đất vừa tầm mắt.
Chẳng bao lâu có tiếng náo động ở phía xa và một số tù nhân xuất hiện trong tầm nhìn, họ đang bị bọn lính gác đẩy đi một cách tàn bạo. Nhóm người đến ngày càng gần hơn, sau đó những người tù bị buộc phải quỳ xuống ngay phía trước cửa sổ của tôi. Tay họ bị trói quặt sau lưng. Lúc này, họ bị uốn cong lưng ra sau như một cánh cung, và sau đó cổ tay bị trói cùng với cổ chân. Vô tình tôi đã nhắm mắt lại, nhưng ngay lập tức buộc phải mở mắt ra vì một cơn đau xuyên qua người. Một tên lính Nhật đã sọc lưỡi lê và tôi có thể cảm thấy máu nhỏ giọt xuống chân.
When I regained consciousness I found that I was in a semi-basement cell lying on my back in the dank pool of water on the floor. Rats were scurrying about. At my first movement they jumped away from me, squeaking in alarm. Hours later guards came in and hoisted me to my feet, for I still could not stand. They carried me with many a prod and a curse to the iron barred window which was just level with the ground outside. Here my wrists were handcuffed to the iron bars so that my face was pressed against those bars. An officer gave me a kick and said, “You will watch all that happens now. If you turn away or close your eyes you will have a bayonet stuck into you.” I watched, but there was nothing to see except this level stretch of ground—ground just about level with my nose. Soon there was a commotion at the end and a number of prisoners came into view, being propelled by guards who were treating them with excessive brutality. The group came nearer and nearer, then the prisoners were forced to kneel just in front of my window. Their arms were already bound behind them. Now they were bent back like a bow, and then their wrists were tied to their ankles. Involuntarily I closed my eyes, but I was soon forced to open them as a white hot pain shot through my body. A Japanese guard had inserted a bayonet, and I could feel the blood trickling down my legs.
Tôi nhìn ra ngoài. Đó là một vụ hành hình hàng loạt. Một số người tù bị đâm bằng lưỡi lê, những người khác bị chặt đầu. Một kẻ bất hạnh khốn khổ hình như đã đắc tội khủng khiếp với lính Nhật và anh ta đã bị mổ bụng và để máu chảy đến chết. Việc này diễn ra trong nhiều ngày.Những người tù được đưa đến trước mặt tôi và hành hình bằng cách bắn, đâm, hoặc chặt đầu. Máu liên tục chảy vào trong xà lim nơi tôi bị giam giữ, những con chuột to tướng không ngừng bu vào theo dòng máu.
I looked outside. It was a mass execution. Some of the prisoners were bayoneted, others were beheaded. One poor wretch had apparently done something dreadful according to Japanese guards’ standards, for he was disemboweled and left to bleed to death. This went on for several days. Prisoners were brought in front of me and executed by shooting, by bayoneting, or by beheading. The blood used to flow into my cell and huge rats used to swarm in after it.
Từ đêm này sang đêm khác, tôi bị người Nhật thẩm vấn, rà hỏi những thông tin mà chúng hy vọng tôi sẽ có. Nhưng lúc này, tôi đang chìm trong đám sương mù màu đỏ của sự đau đớn không ngừng, tôi chỉ hy vọng rằng chúng sẽ giết tôi luôn cho xong. Sau mười ngày dài như cả trăm, tôi được thông báo rằng tôi sẽ bị bắn nếu không khai ra những thông tin mà quân Nhật muốn biết. Các sĩ quan đã nói rằng, chúng phát ốm vì tôi, rằng thái độ của tôi là sự xúc phạm tới Hoàng đế. Nhưng tôi vẫn từ chối nói bất cứ điều gì.
Vì vậy tôi bị đưa trở về xà lim, và bị ném vào đó và va vào sàn bê tông. Tên lính gác quay ra cửa và nói:
– Không có thức ăn cho mày nữa. Mày sẽ không cần tới nó sau ngày mai.
Night after night I was questioned by the Japanese, questioned for the information which they hoped to get out of me. But now I was in a red haze of pain, continual pain, day and night, and I hoped that they would just execute me and get it over. Then after ten days, which seemed like a hundred, I was told I was going to be shot unless I gave all the information which the Japanese wanted. The officers told me that they were sick of me, that my attitude was an insult to the Emperor. Still I declined to say anything. So I was taken back to my cell and flung in through the door to crash, half stunned against my concrete bed. The guard turned at the door and said, “No more food for you. You won’t need any after tomorrow.”
Khi tia sáng đầu tiên le lói xuất hiện vào sáng ngày hôm sau, cửa xà lim bật mở, một tên sĩ quan Nhật cùng một đội lính mang súng trường bước vào. Tôi bị lôi đến nơi hành hình, nơi mà tôi đã nhìn thấy quá nhiều tù nhân bị giết. Tên sĩ quan chỉ vào mặt đất sũng máu và nói:
– Chỗ của mày cũng ở đây, sớm thôi. Nhưng mày sẽ có một nấm mồ riêng, và mày sẽ phải tự đào nó.
Chúng mang đến một cái xẻng, và tôi, bị thúc bởi lưỡi lê, phải đào một cái mộ nông cho riêng mình. Sau đó, tôi bị trói vào một cái cột để khi bị bắn, chỉ cần cắt sợi dây là tôi sẽ rơi lộn cổ vào trong nấm mộ mà tôi đã tự đào. Tên sĩ quan làm điệu bộ rồi đọc lời kết án rằng tôi sẽ bị bắn vì bất hợp tác với những người con của Thiên Hoàng. Hắn nói:
– Đây là cơ hội cuối cùng của mày. Khai ra thông tin mà chúng tao muốn nếu không mày sẽ được gửi tới gặp ông bà tổ tiên nhà mày.
Tôi không trả lời, dường như chẳng có điều gì phù hợp để nói, thế là hắn lặp đi lặp lại lời tuyên bố của mình. Tôi vẫn giữ im lặng. Theo lệnh của hắn, đội lính nâng súng lên. Tên sĩ quan lại đến bên tôi một lần nữa, và nói rằng đây thực sự là cơ hội cuối cùng của tôi, hắn nhấn mạnh bằng cách tát vào mặt tôi sau mỗi lời nói. Tôi vẫn không đáp, thế là hắn đánh dấu vị trí trái tim rồi ra hiệu cho những tên lính cầm súng trường, sau đó hắn cầm thanh kiếm đập vào mặt tôi, rồi phỉ nhổ vào tôi trước khi quay đi ghê tởm, và trở lại với đồng đội.
As the first faint rays of light shot across the sky the next morning the door of the cell opened with a crash, and a Japanese officer and a squad of riflemen came in. I was marched out to the execution ground where I had seen so many killed. The officer pointed to the blood-saturated ground and said, “Yours will be here, too, soon. But you will have your own grave, you shall dig it.” They brought a shovel and I, prodded on by bayonets, had to dig my own shallow grave. Then I was tied to a post so that when I was shot the rope could be just cut and I would fall head first into the grave which I, myself, had dug. The officer struck a theatrical pose, as he read out the sentence which said that I was to be shot for not co-operating with the Sons of Heaven. He said, “This is your last chance. Give the information that we want or you will be sent to join your dishonoured ancestors.” I made no reply—there did not seem to be anything suitable to say—so he repeated his statement. I still kept silent. At his command the squad of men raised their rifles. The officer came to me once again, and said that it really was my last chance, He emphasized it by smacking my face left and right with every word. I still made no reply, so he marked the position of my heart for the riflemen, and then for good measure he smacked my face with the flat of his sword and spat at me before turning away in disgust to rejoin his men.
Đứng giữa tôi và bọn lính, nhưng rất cẩn thận để không lọt vào đường đi của đạn, hắn nhìn về phía bọn lính, hạ lệnh ngắm bắn. Những tên lính nâng súng trường, nòng súng hướng về tôi. Thế giới, đối với tôi lúc đó chỉ là những lỗ đen khổng lồ; những lỗ đen của họng súng. Chúng lớn dần, lớn dần đến đáng ngại, và tôi biết rằng bất cứ lúc nào, chúng cũng có thể bật ra cái chết. Chậm rãi, tên chỉ huy nâng thanh kiếm lên và chém xuống dứt khoát kèm theo mệnh lệnh “BẮN!”
Half way between me and them—but being very careful not to stand in the line of fire—he looked toward them, and gave the order to take aim. The men lifted their rifles. The barrels converged upon me. It seemed to me that the world was full of huge black holes; the black holes were the muzzles of the rifles. They seemed to grow larger and larger, ominous, and I knew that at any moment they would spit death. Slowly the officer raised his sword and brought it down violently with the command, “FIRE!”
Cả thế giới tan chảy trong lửa và đau đớn, và những đám mây khói mù mịt. Tôi có cảm giác như mình vừa bị đá bởi những con ngựa khổng lồ có móng cháy đỏ. Mọi thứ xung quanh đảo lộn. Cả thế giới như vừa sụp đổ. Điều cuối cùng mà tôi nhìn thấy là một đám mây đỏ, máu đang rỉ xuống, sau đó là bóng tối, bóng tối gầm rú. Và rồi tôi gục xuống – những gì sau đó là hư không.
The world seemed to dissolve in flame and pain, and clouds of choking smoke. I felt as if I had been kicked by giant horses with red-hot hooves. Everything spun around. The world seemed to be crazy. The last thing I saw was a red haze, blood pouring down, then blackness, a roaring blackness. Then as I sagged at my bonds—nothingness.
Sau đó, tôi tỉnh dậy với sự ngạc nhiên rằng Thiên Đường hay Thế giới bên kia có vẻ rất quen thuộc. Nhưng rồi mọi thứ sụp đổ, tôi vẫn đang úp mặt xuống nấm mồ. Bất giác, tôi bị xiên bởi một lưỡi lê. Qua khóe mắt, tôi nhìn thấy tên sĩ quan Nhật. Hắn đang nói rằng những viên đạn của đội lính đã được chuẩn bị một cách đặc biệt. Hắn nói:
– Chúng tao đã thử nghiệm trên hơn hai trăm tù nhân.
Chúng đã rút bớt thuốc súng, loại bỏ đầu đạn và thay thế nó bằng một cái khác, sao cho tôi chỉ bị thương nhưng không chết, chúng vẫn muốn moi thông tin.
– Và chúng tao sẽ có nó, tên sĩ quan nói, chúng tao sẽ phải dùng những phương pháp khác. Rồi thì chúng tao cũng sẽ lấy được, mày càng ngoan cố, thì mày càng phải chịu đau đớn.
Later I recovered consciousness with some astonishment that the Heavenly Fields or the Other Place seemed so familiar. But then everything was spoiled for me. I was resting face down in the grave. Suddenly I was plodded with a bayonet. Out of the corner of my eye I saw the Japanese officer. He said that the bullets of the execution squad had been specially prepared. “We experimented on more than two hundred prisoners,” he said. They had withdrawn some of the charge and had also removed the lead bullet and replaced it with something else, so that I should be hurt but not killed—they still wanted that information. “And we shall get it,” the officer said, “we shall have to devise other methods. We will get it in the end, and the longer you hold out, the more pain you will endure.”
Cuộc đời tôi là những ngày tháng vất vả, trải qua sự đào tạo nghiêm ngặt và tự kỷ luật khắt khe, chính sự huấn luyện đặc biệt của tôi ở lạt ma viện là thứ duy nhất cho phép tôi sống sót và còn sáng suốt. Tôi ngờ rằng những người chưa được trải qua sự đào tạo này sẽ có thể sống sót.
Những vết thương mà tôi nhận được từ cuộc “hành hình” làm bệnh viêm phổi nặng lên gấp đôi. Trong suốt thời gian này, tôi đã bệnh nặng, mấp mé bên bờ vực của cái chết, bị từ chối mọi sự chăm sóc y tế, bị khước từ mọi tiện nghi. Tôi nằm trong xà lim, trên sàn bê tông không một mảnh chăn, không có bất cứ thứ gì, chỉ run rẩy và chằn chọc, hy vọng được chết.
My life had been a hard life indeed, full of rigorous training, full of self discipline, and the special training which I had had at the lamasery was the only thing which enabled me to keep going, to keep sane. It is doubtful in the extreme if anyone without that training would have been able to survive.
The bad wounds which I received at the “execution” caused double pneumonia. For the time being I was desperately ill, hovering on the brink of death, denied any medical attention at all, denied any comfort. I lay in my cell on the concrete floor without blankets, without anything, and shivered and tossed, and hoped to die.
Một cách chậm chạp, tôi hồi phục phần nào, và trong một thời gian tôi đã ý thức được về tiếng kêu đều đều của động cơ máy bay, những động cơ xa lạ. Không phải là máy bay Nhật, thứ mà tôi đã biết quá rõ, tôi tự hỏi thực sự điều gì đang xảy ra. Nhà tù ở trong một ngôi làng gần Hiroshima, và tôi đã hình dung là người Nhật đã chiến thắng ở mọi nơi và đang bay về trên những chiếc máy bay chiếm được.
Slowly I recovered somewhat, and for some time I had been conscious of the drone of aircraft engines, unfamiliar engines they appeared to be, too. Not the Japanese ones which I had come to know so well, and I wondered what was really happening. The prison was at a village near Hiroshima, and I imagined that the Japanese victors—the Japanese were winning everywhere—were flying back the captured aircraft.
Một hôm, khi ấy tôi vẫn còn đang rất yếu, xuất hiện âm thanh của động cơ máy bay. Đột nhiên, mặt đất rung chuyển, một tiếng nổ uỳnh dữ dội Những đám mây bụi choán lấy bầu trời, và nồng nạc mùi ấm mốc, rêu phong. Không khí có vẻ sợ hãi, căng thẳng. Trong khoảnh khắc, dường như tất cả hoàn toàn bất động. Thế rồi lính gác bỏ chạy trong sự kinh hoàng, la hét khiếp sợ, cầu xin Thiên Hoàng bảo vệ chúng khỏi những điều bất trắc. Đó là vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima ngày 6 tháng 8 năm 1945. Trong một lúc, tôi nằm tự hỏi phải làm gì lúc này. Sau đó rõ ràng là người Nhật đã quá bận rộn để nghĩ đến tôi, vì thế tôi run rẩy đứng lên, cố gắng lê ra đến cửa. Cửa không khóa. Tôi ốm quá nặng đến nỗi chúng chẳng hề lo lắng tôi sẽ trốn thoát. Vả lại, lính gác thường xuyên đứng xung quanh, nhưng lúc này, bọn lính đã lặn mất tăm. Sự hoảng loạn tràn ngập khắp nơi, người Nhật nghĩ rằng Thiên Hoàng đã bỏ mặc chúng, và chúng cuống cuồng chạy trốn như bầy kiến vỡ tổ, cuống cuồng trong sự quẫn bách kinh hoàng. Súng trường, quân phục, thực phẩm, … tất cả mọi thứ, bị quẳng khắp nơi. Từ những hầm trú bom dội lại tiếng la hét om sòm khi tất cả chúng đều tranh nhau chui vào.
One day when I was still very ill indeed, there was a sound of aircraft engines again. Suddenly the ground shook and there was a thudding, throbbing roar. Clouds of dust fell out of the sky and there was a stale, musty odour. The air seemed to be electric, tense. For a moment nothing seemed to move. Then the guards ran in terror, screaming in fright, calling upon the Emperor to protect them from they knew not what. It was the atom bombing of Hiroshima of 6th August 1945. For some time I lay wondering what to do. Then it seemed obvious that the Japanese were far too busy to think about me, so I got shakily to my feet and tried the door. It was unlocked. I was so seriously ill that it was considered impossible for me to escape. Besides, normally there were guards about, but those guards had disappeared. There was panic everywhere. The Japanese thought that their Sun God had deserted them, and they were milling around like a colony of disturbed ants, milling around in the last extremity of panic. Rifles had been discarded, bits of uniform, food—everything. In the direction of their air raid shelters there were confused shouts and screams as they all tried to get in at the same time.
Tôi rất yếu, yếu đến mức gần như không thể đứng được. Tôi cúi xuống nhặt một cái áo và mũ của người Nhật, suýt nữa bổ nhào vì chóng mặt. Tôi quỳ xuống trên tay và đầu gối, mặc áo và đội mũ. Ngay gần đó có một đôi xăng đan dày. Tôi đi dép vào, bởi vì lúc ấy tôi đang đi chân đất. Sau đó, từ từ, tôi bò vào bụi cây và tiếp tục bò trong đau đớn. Có rất nhiều tiếng rơi và tiếng va đập, tất cả các loại súng phòng không đều đang bắn liên hồi. Bầu trời đỏ rực các mảng khói đen và vàng. Dường như cả thế giới đang vỡ tung và lúc đó tôi tự hỏi tại sao mình lại cố gắng thoát ra khi mà rõ ràng đây là dấu chấm hết của mọi thứ.
I was weak. I was almost too weak to stand. I bent to pick up a Japanese tunic and cap, and I almost fell over as giddiness overtook me. I dropped to my hands and knees and struggled into the tunic and put the cap on. Just near there was a pair of heavy sandals. I put on these, too, because I was bare footed. Then slowly I crawled into the bushes and continued to crawl, painfully. There were many thuds and thumps, and all the anti-aircraft guns were firing. The sky was red with vast banners of black and yellow smoke. It seemed that the whole world was breaking up and I wondered at the time why I was making such an effort to get away when obviously this was the end of everything.
Suốt đêm tôi chậm chạp, đau đớn tiến về con đường đến bên bờ biển, nơi tôi biết rõ, chỉ cách nhà tù vài dặm[2]. Tôi đang ốm rất nặng, hơi thở khản đặc trong họng, trong khi toàn thân run rẩy. Phải vận dụng tất cả mọi sức lực để ép mình đi tiếp, cuối cùng, trong ánh sáng bình minh, tôi đến được bờ biển, đến tận mép nước. Dở sống dở chết vì mệt mỏi và đau ốm, tôi thận trọng quan sát từ trong bụi rậm, và thấy trước mặt mình là một chiếc thuyền đánh cá nhỏ đang bập bềnh tại phao neo. Nó được bỏ không, rõ ràng là chủ nhân đã hoảng sợ và vội vã chạy vào đất liền.
Rón rén, tôi đi đến chiếc thuyền, cố gắng trườn qua mép thuyền trong đau đớn. Chiếc thuyền trống trơn, tôi đặt một chân lên dây neo thuyền, và với nỗ lực to lớn, tôi nâng mình lên. Sau đó, dồn hết sức, lật người rơi vào đáy thuyền, vào trong lớp nước đọng dơ dáy ở đáy thuyền với vài mẩu cá ươn, chắc được dùng để làm mồi. Tôi mất một thời gian dài, dồn hết sức để cắt dây neo thuyền bằng một con dao mà tôi tìm được. Sau đó, tôi lại đổ sụp xuống đáy thuyền khi nó rời khỏi bờ, trôi dạt ra khỏi lạch lúc thủy triều đang xuống. Tôi lết về đuôi tàu và nép mình ở đó, hoàn toàn kiệt sức. Sau vài giờ, tôi cũng xoay xở treo được cánh buồm rách nát khi gió thuận chiều. Kiệt sức tôi lại gục trở lại vào đáy thuyền, ngất lịm.
Throughout the night I made my slow, torturous way to the seashore, which, as I well knew, was a very few miles from the prison. I was indeed sick. The breath rasped in my throat and my body shook and quivered. It took every bit of self control that I could muster to force myself along, At last in the dawn light I reached the shore, reached a creek. Warily, half dead with fatigue and illness, I peered out of the bushes and saw before me a small fishing boat rocking at its moorings. It was deserted. Apparently the owner had panicked and rushed off inshore. Stealthily I made my way down to it and managed painfully to pull myself upright to look over the gunwale. The boat was empty. I managed to put one foot on the rope mooring the boat, and with immense effort I levered myself up. Then my strength gave out and I toppled head first to the bottom of the boat among the bilge water and a few pieces of stale fish which apparently had been kept for bait. It took me a long time to gather enough strength to cut the mooring rope with a knife which I found. Then I slumped back into the bottom again as the vessel drifted out of the creek on the ebb tide. I made my way to the stern and crouched there utterly exhausted. Hours later I managed to hoist the ragged sail as the wind appeared favourable. The effort was too much for me and I sank back into the bottom of the boat in a dead faint.
Phía sau, trên đất liền Nhật Bản, một quyết định cứng rắn đã được thực hiện. Những trái bom nguyên tử đã được thả và loại bỏ nước Nhật ra khỏi cuộc chiến. Chiến tranh đã chấm dứt, nhưng tôi chẳng hề hay biết. Chiến tranh cũng đã kết thúc đối với tôi, hay là tôi nghĩ thế, vì ở đây tôi đang trôi dạt trên vùng biển Nhật Bản, không có thức ăn nước uống trừ mấy mẩu cá ươn dưới đáy thuyền. Tôi đứng bám vào cột buồm, quàng tay ôm lấy nó, tì cằm vào nó, tự giữ mình vững nhất có thể. Ngoái đầu về phía đuôi tàu, tôi ngắm nhìn bờ biển nước Nhật đang lùi xa dần. Một đám mây mờ bao phủ nó, quay về phía mũi thuyền, chẳng có gì ở phía trước.
Behind me on the mainland of Japan the decisive step had been taken. The atom bomb had been dropped and had knocked the fight out of the Japanese. The war had ended and I knew it not. The war had ended for me, too, or so I thought, for here I was adrift upon the Sea of Japan with no food except the bits of rotten fish in the bottom, and with no water. I stood and clung to the mast for support, bracing my arms around it, putting my chin against it, holding myself up as best I could. As I turned my head toward the stern I could see the coast of Japan receding. A faint haze enveloped it. I turned toward the bows. Ahead there was nothing.
Tôi nghĩ về tất cả những gì đã trải qua, nghĩ về những lời tiên tri. Như thể từ rất xa, tôi nghe thấy tiếng nói của Thầy, Lạt ma Minh Gia Đại Đức:
– Con đã làm rất tốt, Lobsang của ta. Con đã làm rất tốt. Đừng nản chí, vì đây chưa phải là kết thúc.
Phía trên mũi thuyền, tia nắng mặt trời của buổi ban mai sáng lên trong một lúc, làn gió tươi mát, cùng những gợn sóng róc rách ở mũi thuyền đang rẽ nước tạo ra tiếng lăn tăn dễ chịu. Còn tôi? Tôi vẫn đang tiến bước – về đâu ư? Tất cả những gì tôi biết lúc đó là tôi tự do, tự do thoát khỏi đòn tra tấn, tự do thoát khỏi ngục tù, tự do thoát khỏi địa ngục trần gian của cuộc sống trong trại tập trung. Có vẻ tôi cũng được tự do để chết.
Nhưng không, mặc dù tôi đã mong mỏi sự bình an từ cái chết, để được giải thoát khỏi đau khổ, tôi vẫn biết rằng mình chưa thể ra đi, vì Định mệnh đã nói rằng tôi sẽ chết trên đất của người da đỏ, hay châu Mĩ. Còn ở đây, tôi đang trôi nổi, một mình, đói khát, trong một chiếc thuyền không mui trên biển Nhật Bản. Những cơn đau bao chùm lấy tôi. Tôi cảm thấy một lần nữa mình đang bị tra tấn. Hơi thở cào xé trong cuống họng, và mắt thì mờ đi. Tôi đã nghĩ rằng có thể ngay lúc này người Nhật đã phát hiện ra sự đào thoát của tôi và đang cho tàu đuổi theo. Suy nghĩ ấy là quá nhiều với tôi. Tuột tay khỏi cột buồm, tôi rũ xuống, ngã xuống, ngất lịm, và tôi lại một lần nữa, chìm vào bóng tối, bóng tối của lãng quên. Chiếc thuyền tiếp tục trôi về một nơi xa lạ.
I thought of all that I had gone through. I thought of the Prophecy. As if from afar I seemed to hear the voice. of my Guide, the Lama Mingyar Dondup, “You have done well, my Lobsang. You have done well. Be not disheartened, for this is not the end.” Over the bows a ray of sunshine lit up the day for a moment, and the wind freshened, and the little ripplets of bow waves sprang away from the boat and made a pleasant hissing. And I? I was headed—where? All I knew was that for the moment I was free, free from torture, free from imprisonment, free from the living hell of camp life. Perhaps I was even free to die. But no, although I longed for the peace of death, for the relief that it would give me from my suffering, I knew that I could not die yet, for my Fate said that I would have to die in the land of the red man, America. And here I was afloat, alone, starving, in an open boat on the Sea of Japan. Waves of pain engulfed me. I felt once again I was being tortured. The breath rasped in my throat and my eyes grew dim. I thought that possibly at that moment the Japanese had discovered my escape and were sending a fast boat in pursuit. The thought was too much for me. My grip of the mast slipped. I sagged, sank, and toppled, and once again I knew blackness, the blackness of oblivion. The boat sailed on into the unknown.