Chương XIII: Trở Về Nhà – Con Mắt Thứ Ba- Lobsang Rampa

Chúng tôi trở về đúng dịp lễ Logsar, tức là ngày lễ đầu năm mới của Tây Tạng, nhà nhà đều quét dọn, lau chùi sạch bóng và trang hoàng thật đẹp. Ngày rằm tháng giêng, đức Đạt-lai Lạt-ma xuất hành đi lễ bái ở ngôi đền Jo-Kang. Khi cuộc lễ chấm dứt, ngài bắt đầu tham dự cuộc diễu hành một vòng lớn trên con đường Barkhor, tức con đường vòng quanh ngôi đền Jo-Kang và Dinh Quốc hội, ngang qua trước chợ và đến khu thương mại. Tại đây là nơi cuộc diễu hành kết thúc, sự trang nghiêm, trịnh trọng sẽ nhường chỗ cho sự vui đùa, hưởng lạc.

Khi tan cuộc lễ bái ở các đền thờ, và mọi người đã thi hành xong bổn phận đối với các đấng thần minh, thì giờ phút ăn chơi, tiêu khiển đã điểm. Trên những đài cao từ mười đến mười lăm thước, người ta đặt những mô hình nổi khổng lồ đúc bằng bơ có tô màu, để triển lãm những cảnh tượng huyền thoại trích ra từ các kinh điển.

Đức Đạt-lai Lạt-ma dừng chân để chiêm ngưỡng trước mỗi tác phẩm trình bày và ban giải thưởng hằng năm cho những tác phẩm khéo léo nhất. Những giải thưởng này sẽ được chuyển giao cho các tu viện đã triển lãm những tác phẩm ưu tú.

Tại tu viện Chakpori, chúng tôi không thích môn giải trí này. Chúng tôi thấy trò chơi đó thật ngây ngô và phiền phức, giống như những cuộc đua ngựa không người cưỡi trên vùng đồng bằng Lhasa.

Cuộc diễu hành những pho tượng khổng lồ của các nhân vật thần thoại làm chúng tôi thích thú hơn. Mỗi pho tượng gồm một sườn gỗ nhẹ bọc vải ở ngoài làm thân, bên trong ruột trống rỗng, và phía trên gắn một cái đầu rất lớn được tạo hình thật tự nhiên.

Bên trong đầu pho tượng, ở chỗ ngang cặp mắt có gắn những ngọn đèn bơ; ánh đèn lung linh lập lòe làm cho cặp mắt pho tượng dường như đảo liếc và linh động. Những nhà sư cao lớn lực lưỡng, chân đi trên hai cây cà khêu cao đến ba thước, chui vào bên trong các pho tượng, và bắt đầu cuộc diễu hành như những người khổng lồ.

Đôi khi họ là nạn nhân của những thứ tai nạn dị kỳ. Có khi một trong hai cây cà khêu bị sụp ổ gà trên đường, những kẻ bất hạnh này đành phải đánh đu giữ thăng bằng trên một chân! Có khi cả hai cây cà khêu đều trượt tới vì đường trơn trợt, và sự té ngã là không tránh khỏi! Nhưng khi những ngọn đèn bơ bị rung chuyển quá mạnh và đổ, ngọn lửa thiêu cháy pho tượng thì mới là một thảm họa thật sự!

We had arrived back in time for the Logsar, or New Year, ceremonies. Everything had to be cleaned, everywhere tidied. On the fifteenth day the Dalai Lama went to the Cathedral for a number of services. With them ended, he came out for his tour of the Barkhor, the ring road which went outside the Jo-Kang and Council Hall, round by the market-place, and completed the circuit between the big business houses. At this time of the celebrations, the solemnity was being replaced by jollity. The gods were pleased, and now was the time for pleasure and enjoyment. Huge frameworks, from thirty to forty feet high, supported images made of coloured butter. Some of the frames had “butter pictures” in relief of various scenes from our Sacred Books. The Dalai Lama walked around and examined each one. The most attractive exhibit earned for the lamasery making it the title of the best butter modellers of the year. We of Chakpori were not at all interested in these carnivals, it all seemed rather childish and unamusing to us. Nor were we interested in the other proceedings when riderless horses raced across the Plain of Lhasa in open competition. We were more interested in the giant figures representing characters from our legends. These figures were constructed on a light wooden framework to represent the body, and a very realistic huge head was fitted. Inside the head were butter-lamps which shone through the eyes, and, in flickering, appeared to make the eyes move from side to side. A strong monk on stilts would be inside the frame of the figure, with his eyes giving a very indifferent view through the giant’s mid-section. All kinds of unusual accidents would happen to these performers. The poor wretch would put one stilt in a pot-hole and find that he was balancing on one stilt, or one stilt would perhaps skid on some slippery substance on the road. One of the worst things was when the lamps were jerked loose—and set fire to the whole figure!

Vài năm về sau, trong một cuộc rước lễ đầu năm, tôi được đề cử mang pho tượng đức Phật, bề cao đến tám thước. Trong khi tôi đi cà khêu bên trong tượng Phật, gió thổi vạt áo dài quyện vào chân tôi, và những con mọt bay vần vũ quanh tôi vì bộ áo cà sa của tượng Phật vừa mới được lấy từ trong kho ra. Khi tôi vừa đi được vài bước khập khiễng trên hai cây cà khêu thì bụi trong áo cà sa bay ra làm cho tôi hắt hơi liên hồi không dứt, mà mỗi cái hắt hơi đều đe dọa sự thăng bằng của tôi một cách rất nguy hiểm. Mỗi lần hắt hơi, thân mình tôi rung chuyển, và tình trạng bất ổn của tôi càng trầm trọng hơn khi những ngọn đèn bơ bị lung lay làm đổ tràn những giọt bơ nóng bỏng chảy xuống cái sọ dừa cạo trọc của tôi, và… vì cạo trọc nên nó càng “nhạy cảm” hơn.

Khí trời nóng bức một cách kinh khủng. Tôi bị ngộp thở muốn đứng tim vì hít phải mùi hàng lụa cũ, mốc meo của chiếc áo cà sa cất giữ trong kho đã lâu ngày. Tôi bị vây khổn bởi những đám mối mọt bay vần vũ như điên quanh tôi, và tôi bị phỏng rát da đầu vì bơ nóng của các ngọn đèn. Tình cảnh của tôi lúc ấy thật vô cùng bi đát! Cái lỗ nhỏ khoét ở giữa thân mình pho tượng để nhìn ra ngoài lại không ngang tầm với cặp mắt tôi. Tôi không thể nào điều chỉnh được chi tiết quan trọng đó mà không để rớt hai cây cà khêu! Thành thử, tôi chỉ nhìn thấy cái lưng của nhân vật đi phía trước tôi, và xét về cách đi đứng xiêu vẹo và run rẩy của y, thì đủ biết rằng kẻ bất hạnh này cũng không thoải mái sung sướng gì hơn tôi lúc ấy!

Nhưng đức Đạt-lai Lạt-ma đang nhìn chúng tôi, và chúng tôi phải tiếp tục diễu hành trong tình trạng đó, vừa bị ngộp thở lại vừa bị nướng hết phân nửa cái sọ dừa! Chắc hẳn là tôi đã sút mất vài kí lô trong ngày hôm đó!

Chiều hôm ấy, một vị quan chức cao cấp khen tặng tôi: ‘Lobsang, con đã trình diễn rất khéo. Con rất có khả năng trở thành một tài tử thiện nghệ!’ Tôi phải giữ kín không dám tiết lộ cho ông ta biết rằng, thật ra thì những cử chỉ mà tôi đã làm cho ông ta thích thú chỉ hoàn toàn ngoài ý muốn. Và kể từ đó, tôi không bao giờ dám nhận lãnh việc đi diễu hành trong pho tượng nữa!

Once, in later years, I was persuaded to carry round the figure of Buddha the God of Medicine. It was twenty-five feet high. The flowing robes flapped round my stilted legs, moths flapped around as well, for the garments had been stored. As I jerked along the road, dust was shaken from the folds, and I sneezed and sneezed and sneezed. Every time I did so I felt that I was going to topple over. Every sneeze caused a further jerk, and added to my discomfort by spilling hot butter from the lamps over my shaven and suffering pate. The heat was terrible. Swaths of mouldy old clothes, swarms of bewildered moths, and hot butter. Normally butter in a lamp is solid with the exception of a little pool around the wick. Now, in this stifling heat, the whole lot had melted. The little peephole in the mid-section of the figure was not in line with my eyes, and I could not let go of the stilts in order to rearrange it. All I could see was the back of the figure in front of me, and by the way it was hopping about and swaying, the poor wretch inside was having as bad a time as I. However, with the Dalai Lama watching there was nothing to do but to march on, suffocated with cloth and half roasted in butter fat. With the heat and exertion I am sure that I lost pounds of weight that day! A high lama that night said: “Oh, Lobsang, your performance was good, you would be a very excellent comedian!” I certainly did not tell him that the “antics” which amused him so much were entirely involuntary. Most definitely I did not carry a figure again!

Sáu tháng sau cuộc “trình diễn” đó, một cơn giông bão thình lình nổi dậy, cuốn lên những đám mây bụi cát và đá sỏi. Lúc ấy, tôi cùng với một chú tiểu đang ngồi trên nóc tu viện và sắp đặt lại những viên ngói để sửa chữa các chỗ bị dột. Cơn giông làm cho tôi bị hất rớt xuống một cái nóc nhà khác thấp hơn chừng sáu bảy thước, và từ đó cơn gió thổi mạnh cuốn tôi đi tiếp, làm cho tôi lại rơi một lần nữa xuống mặt đất, gần đường Lingkhor, từ một bề độ cao khoảng một trăm thước.

Thật may mắn vì phía dưới là một vùng ao đầm ẩm thấp, và tôi rơi xuống một chỗ nước sâu ngập khỏi đầu. Nhưng tai nạn đủ làm cho tôi chấn động mạnh và mất bình tĩnh. Khi tôi cố gắng ngoi lên khỏi vũng lầy lội, tôi cảm thấy đau nhói ở khuỷu tay và ở bả vai bên trái. Tôi bò trên hai đầu gối, rồi đứng dậy và lết đi một cách khó nhọc trên đường lộ dưới ánh mặt trời nóng gắt.

Bị té đau, không đủ sáng suốt để suy nghĩ gì nữa, tôi chỉ có một ý nghĩ là trở về tu viện càng sớm càng hay. Như một người mù, tôi bước tới một cách chập choạng, mỗi bước đi lại vấp ngã. Dọc đường tôi gặp những nhà sư vừa chạy tới để xem kết quả tai nạn đã xảy ra cho tôi và đứa trẻ kia. Nhưng đứa trẻ này đã chết vì té xuống chỗ có tảng đá. Các nhà sư khiêng tôi vào phòng. Sư phụ tôi khám nghiệm bệnh tình của tôi và nói: ‘Ôi, tội nghiệp cho những đứa trẻ này! Đáng lẽ ta không nên để chúng ra ngoài trong thời tiết như vậy!’ Kế đó, người nhìn tôi vào tận mắt: ‘Lobsang à! Một cánh tay và một xương đòn gánh bị gãy… Phải nắn xương lại tức khắc. Con sẽ phải chịu đau đớn, nhưng thầy sẽ làm cho con chỉ bị đau ở mức tối thiểu mà thôi.’

Not long after this, I think it may have been five or six months, there was a sudden terrific gale of wind, with flying clouds of dust and grit. I was on the roof of a storehouse being instructed in how to lay sheet gold to make the roof waterproof. The gale caught me and whirled me off the flat roof, to bump first on another roof some twenty feet lower. Another gust caught me and blew me over the edge and over the side of the Iron Mountain and down to the side of the Lingkhor road some three hundred and fifty feet below. The ground was swampy and I landed with my face in the water. Something snapped, another branch, I thought. Dazedly I tried to lift myself out of the mud, but found that the pain was intense when I tried to move my left arm or shoulder. Somehow I got to my knees, to my feet, and struggled along to the dry road. I felt sick with pain, and I could not think clearly, my sole thought was to get up the mountain as quickly as possible. Blindly I struggled and stumbled along, until, about halfway up, I met a party of monks rushing down to see what had happened to me and to another boy. He had landed on rocks, and so was dead. I was carried up the rest of the way, to the room of my Guide. Quickly he examined me: “Oe, Oe, poor boys, they should not have been sent out in such a gale!” He looked at me: “Well, Lobsang, you have a broken arm and a broken collar-bone. We shall have to set them for you. It will hurt, but not more than I can help.”

Sư phụ vừa nói vừa làm ngay, và trước khi tôi kịp ý thức được việc gì xảy ra thì người đã nắn lại cái xương đòn gánh bị trật và đặt lại đúng khớp. Khi sư phụ nắn chỗ khuỷu tay bị gãy, tôi cảm thấy đau hơn, nhưng không lâu, vì người đã nhanh chóng ráp cái xương bị trật vào đúng khớp của nó.

Ngày đó tôi nằm yên một chỗ không cử động. Qua hôm sau, sư phụ đến gặp tôi và nói: ‘Con đã bớt đau và có thể tiếp tục việc học, không nên bê trễ. Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau ngay trong phòng này. Cũng như tất cả mọi người, con sẽ cảm thấy e ngại khi phải học những đề tài mới… Thầy sẽ giúp con loại trừ sự e ngại đó bằng phương pháp thôi miên.’

Sư phụ đóng các cửa sổ và gian phòng chìm trong bóng tối. Chỉ còn những ngọn đèn nhỏ cháy leo lét trên bàn thờ. Sư phụ bèn đặt tôi vào trạng thái giấc ngủ thôi miên.

While he was talking, and almost before I knew, he had set the collar-bone and bound splinting in place to hold the broken bones. The upper arm was more painful, but soon that, too, was set and splinted. For the rest of that day I did nothing but lie down. With the arrival of the next day, the Lama Mingyar Dondup said: “We cannot let you fall behind in studies, Lobsang, so you and I will study together here. Like all of us you have a certain little dislike of learning new things, so I am going to remove that ‘study antagonism’ hypnotically.” He closed the shutters and the room was in darkness except for the faint light from the altar lamps. From somewhere he took a small box which he stood on a shelf in front of me. I seemed to see bright lights, coloured lights, hands and bars of colour, and then all appeared to end in a silent explosion of brightness.

Khi thức tỉnh, tôi nhìn qua cánh cửa sổ mở và thấy cảnh vật ban đêm hiện ra chập chờn trong thung lũng. Những ánh lửa của các ngọn đèn bơ chiếu lập lòe ở các cửa sổ trong điện Potala và chung quanh các vách tường rào, đó là những nhà sư có phận sự trực đêm đang đi tuần. Tôi cũng nhìn thấy ở dưới chân đồi, thành phố Lhasa đang vươn mình trong sự sinh hoạt ban đêm. Khi đó, sư phụ tôi bước vào và nói: ‘À, con đã thức tỉnh! Chúng ta nghĩ rằng có lẽ con đã thấy cảnh giới tâm linh vui thích đến nỗi con muốn kéo dài trạng thái trong đó. Thầy chắc rằng bây giờ con đã đói.’

Đến đây, tôi mới sực nghĩ ra là thật tình tôi đang đói bụng. Người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn, và trong khi tôi ngồi ăn uống lấy sức, sư phụ nói với tôi: ‘Trong trường hợp thông thường, có lẽ con đã chết vì tai nạn vừa qua. Nhưng khoa chiêm tinh đã nói rằng cuộc đời con chỉ kết thúc trong nhiều năm sau ở một nơi xa lạ, tận bên xứ của những người da đỏ. Lúc này, các nhà sư đang cầu siêu cho linh hồn đứa trẻ vừa từ giã chúng ta. Nó đã chết ngay trong tai nạn.’

Những kinh nghiệm trong cảnh giới tâm linh khiến tôi vô cùng thú vị. Và tôi không còn thấy sợ hãi cái chết, vì tôi biết rằng đó cũng chỉ là một sự thay đổi đi, vào cảnh giới tâm linh. Nhưng tôi cũng biết rằng tuy không ai thích cõi trần gian đầy ô trược, nhưng người ta vẫn phải sống thật tốt kiếp sống của mình, vì đó chính là cơ hội để tu học và đạt đến sự giải thoát… Cuộc đời trên thế gian là gì, nếu không phải là một môi trường để tu tập đạo giải thoát? Và đó là một môi trường rất gian khổ! Tôi thầm nghĩ: ‘Trong cuộc sống này, tôi đã bị gãy mất hai cái xương, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục tu học!’

It must have been many hours later when I awoke. The window was again open, but the purple shadows of night were beginning to fill the valley down below. From the Potala, little lights were twinkling in and around the buildings as the evening guard went their rounds making sure that all was secure. I could look across the city where, too, the night life was now commencing. Just then, my Guide came in: “Oh!” he said, “so you have returned to us at last. We thought that you found the astral fields so pleasant that you were staying a while. Now, I suppose—as usual—you are hungry.” As he mentioned it, I realized that I was, definitely. Food was soon brought, and as I ate he talked. “By ordinary laws you should have left the body, but your stars said you would live to die in the Land of the Red Indians (America) in many years’ time. They are having a service for the one who did not stay. He was killed on the instant.”

It appeared to me that the ones who had passed over were the lucky ones. My own experiences in astral traveling had taught me that it was very pleasant. But then I reminded myself that we did not really like school, but we had to stay to learn things, and what was life on Earth but a school? A hard one, too! I thought: “Here am I with two broken bones, and I have to go on learning!”

Trong hai tuần lễ sau đó, việc học của tôi càng được thúc đẩy ráo riết hơn lúc bình thường. Người ta nói rằng đó là cách để cho tôi quên đi, đừng nghĩ đến những cái xương gãy của tôi. Sau hai tuần lễ đó, những chỗ trặc xương đã được lành lặn như cũ, nhưng tôi cảm thấy khớp xương cứng đơ, và tôi vẫn còn thấy đau.

Một buổi sáng, vừa bước vào phòng, tôi thấy Đại đức Minh Gia đang đọc một bức thư. Sư phụ ngước nhìn tôi và nói: ‘Lobsang, chúng ta có một gói dược thảo gửi tặng cho thân mẫu con. Con sẽ cầm về cho thân mẫu vào sáng mai, và con có thể ở lại nhà trọn ngày.’ Tôi đáp: ‘Con chắc rằng cha con không muốn gặp con. Hôm trước cha con đã không nhìn con ngay cả khi người đi ngang qua trước mặt con trên cầu thang của điện Potala.’

‘Đó là việc rất thông thường. Cha con biết rằng con vừa có cái hân hạnh được đức Đạt-lai Lạt-ma tiếp kiến. Bởi đó, người không thể nói chuyện với con trong khi vắng mặt thầy, vì chính đức Đạt-lai Lạt-ma đã đích thân gửi gắm con cho thầy.’ Sư phụ nhìn tôi với cặp mắt tinh anh và vừa cười vừa nói, ‘Dù sao, cha con sẽ không có ở nhà vào ngày mai. Người đã đi Gyangtsé trong vài ngày.’

For two weeks I had even more intensive teaching than usual, I was told it was to keep my mind from thinking of my broken bones. Now, at the end of the fortnight, they had united, but I was stiff, and both my shoulder and arm were painful. The Lama Mingyar Dondup was reading a letter when I went into his room one morning. He looked up at me as I entered.

“Lobsang,” he said, “we have a packet of herbs to go to your Honourable Mother. You can take it tomorrow morning and stay the day.”

“I am sure my father would not want to see me,” I answered. “He ignored me completely when he passed me on the steps of the Potala.”

“Yes, of course he did. He knew that you had just come from the Precious One, he knew that you had been specially favoured, and so he could not speak unless I was with you, because you are now my ward by order of the Precious One Himself.” He looked at me, and the corners of his eyes crinkled as he laughed: “Anyhow, your father will not be there tomorrow. He has gone to Gyangtse for several days.”

Qua hôm sau, sư phụ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân và nói: ‘Con có vẻ hơi xanh xao, nhưng con ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề, và điều đó rất quan trọng đối với một người mẹ. Đây là một khăn quàng cổ, con đừng quên rằng con là một vị Lạt-ma, là người phải tôn trọng tất cả mọi qui tắc. Trước kia, con đi bộ đến đây. Bây giờ, con hãy cưỡi một trong những con ngựa bạch quý nhất của tu viện để trở về nhà. Con hãy cưỡi con ngựa của thầy, nó đang cần phải vận động.’

Sư phụ đưa cho tôi cái bao da đựng dược thảo, bọc trong một cái khăn quàng lụa theo truyền thống để tỏ lòng cung kính. Tôi nhìn kỹ cái khăn quàng một cách hoài nghi, vì không nên để cho nó bị lấm lem trước khi đưa quà biếu. Sau cùng, tôi quyết định cất nó trong túi áo tràng, và chỉ rút nó ra trước khi về tới nhà.

Tôi giục ngựa đi xuống chân đồi. Xuống được nửa đường, con ngựa dừng lại, quay đầu nhìn tôi. Rõ ràng nó không nghĩ nhiều về những gì nó đã nhìn thấy, bởi vì nó hí lên một tiếng thật lớn, và vội vã lên đường như thể nó không thể chịu đựng được hơn nữa khi nhìn thấy tôi. Tôi thông cảm với nó, vì tôi có ý nghĩ giống hệt như vậy về nó! Ở Tây Tạng, những vị Lạt ma chính thống nhất sẽ cưỡi con la vì chúng có bổn phận làm con vật vô tính. Những vị Lạt ma không quá cầu kỳ sẽ cưỡi ngựa đực hoặc con lừa. Đối với bản thân mình, tôi thích đi bộ hơn nếu được phép. Đến chân đồi, chúng tôi rẽ phải. Tôi thở phào nhẹ nhõm; con ngựa đồng ý với tôi là nên rẽ phải. Có thể bởi vì người ta luôn đi qua đường Linkhor theo chiều kim đồng hồ vì lý do tôn giáo. Vì vậy chúng tôi rẽ phải và vượt qua đường Drepung để lại tiếp tục đi dọc theo đường Lingkhor. Dọc con đường qua cung điện Potala mà theo tôi nghĩ không thể so sánh với tu viện Chakpori của chúng tôi về sự lôi cuốn,  và đi ngang qua con đường đi Ấn Độ, để lại Kaling Chu ở bên trái và Đền Rắn ở bên phải chúng tôi.

In the morning my Guide looked me over and said: “Hmm, you look a little pale, but you are clean and tidy and that should count a lot with a mother! Here is a scarf, don’t forget that you are now a lama and must conform to all the Rules. You came here on foot. Today you will ride on one of our best white horses. Take mine, it needs some exercise.”

The leather-bag of herbs, handed to me as I left, had been wrapped in a silk scarf as a sign of respect. I looked at it dubiously, wondering how I was going to keep the wretched thing clean. In the end I took off the scarf and tucked it into my robe pouch until I was nearer home.

Down the steep hill we went, the white horse and I. Halfway down the horse stopped, turned his head round to get a good look at me. Apparently he did not think much of what he saw, because he gave a loud neigh, and hurried on as if he could not bear the sight of me any longer. I sympathized with him as I had identical opinions about him! In Tibet, the most orthodox lamas ride mules as they are supposed to be sexless affairs. Lamas who are not so finiky ride a male horse or pony. For myself, I preferred to walk if at all possible. At the bottom of the hill we turned right. I sighed with relief; the horse agreed with me that we turn right. Probably because one always traverses the Lingkhor road in a clockwise direction for religious reasons. So we turned right and crossed the Drepung-City road to continue along the Lingkhor circuit. Along past the Potala which I thought was not to be compared to our Chakpori for attractiveness, and across the road to India, leaving the Kaling Chu on our left and the Snake Temple on our right.

Tôi đã nhìn thấy từ xa cái cổng lớn của nhà tôi. Khi các gia nhân nhận ra tôi, họ bèn hối hả mở cổng. Tôi cho ngựa đi qua cổng để vào tận sân nhà với một hy vọng trong lòng rằng tôi sẽ không bị té rớt xuống yên ngựa. May mắn thay, một người giữ ngựa chạy đến nắm lấy dây cương trong khi tôi nhảy xuống đất. Người quản gia chạy ra tiếp đón tôi, chúng tôi bèn trao đổi khăn quàng một cách lễ nghi trịnh trọng. Ông ta nói: ‘Thưa ngài Lạt-ma y sĩ và đại gia công tử, xin công tử hãy ban ân huệ cho gia đình và toàn thể gia nhân trong nhà này.’ Tôi đáp: ‘Cầu xin Phật Tổ Như Lai ban ân huệ và ban cho ông sức khỏe trường cửu.’ ‘Thưa đại gia công tử, lệnh bà có truyền lệnh cho tôi đưa công tử vào.’

Trong khi chúng tôi bước vào, người quản gia đi trước dẫn đường, như thể là tôi không biết đường đi một mình. Tôi rút cái khăn quàng ra và phủ ngoài bao da một cách cẩn thận. Chúng tôi bước lên tầng lầu trên để vào phòng khách của mẹ tôi. Tôi thầm nhớ lại, ‘Lúc nhỏ tôi không bao giờ được phép đến đây.’

Nhưng ý nghĩ đó liền nhường chỗ cho ý muốn mãnh liệt là chạy vắt giò lên cổ để thoát thân ngay lập tức khi tôi thấy rằng phòng khách của mẹ tôi đầy những khách… đàn bà!

Trong khi tôi còn đang lúng túng, tiến thoái lưỡng nan thì mẹ tôi đã bước đến gần và mở lời tiếp đón tôi trước: ‘Đại đức Lạt-ma, hỡi con, đức Đạt-lai Lạt-ma đã ban danh dự cho con rất nhiều. Các bà bạn của mẹ hôm nay đến đây để được nghe chính miệng con kể lại cái vinh dự ấy.’ Tôi đáp: ‘Thưa mẫu thân, những qui định trong tu viện không cho phép con tiết lộ những gì ngài đã nói với con. Đại đức Minh Gia có truyền cho con kính dâng lên mẹ bao dược thảo này cùng với một khăn quàng bằng lụa.’

At the entrance to my former home, a little way farther on, servants saw me coming and hastened to swing open the gates. Straight into the courtyard I rode, with a swagger and a hope that I would not fall off. A servant held the horse, fortunately, while I slid off.

Gravely the Steward and I exchanged our ceremonial scarves. “Bless this house and all that be in it, Honourable Medical Lama, Sir!” said the Steward. “May the Blessing of Buddha, the Pure One, the All-seeing One be upon you and keep you healthy,” I replied. “Honourable Sir, the Mistress of the House commands me lead you to her.” So off we went (as if I could not have found my own way!), with me fumbling to wrap up the bag of herbs with the wretched scarf again. Upstairs, into mother’s best room. “I was never allowed here when I was merely a son,” I thought. My second thought was to wonder if I should turn and run for it, the room was full of women!

Before I could, my mother came towards me and bowed, “Honourable Sir and Son, my friends are here to hear of your account of the honour conferred upon you by the Precious One.”

“Honourable Mother,” I replied, “the Rules of my Order prevent me from saying what the Precious One told me. The Lama Mingyar Dondup instructed me to bring you this bag of herbs and to present you with his Scarf of Greeting.”

‘Hỡi con yêu quý, các bà mệnh phụ này đến từ những vùng xa xôi để được nghe câu chuyện trong cung điện của đức Đạt-lai Lạt-ma và nghe nói chuyện về ngài. Phải chăng ngài vẫn thường xem những tạp chí Ấn Độ? Và phải chăng ngài thường sử dụng một thứ kiếng có thể nhìn xuyên qua vách tường nhà?’ Tôi đáp: ‘Thưa mẫu thân, con chỉ là một Lạt-ma y sĩ nghèo, vừa mới xuống núi, và thật là không xứng đáng để nói chuyện về đức Chưởng giáo của giới tu sĩ. Con chỉ là một kẻ chuyển giao thư tín mà thôi.’

Lúc ấy, một thiếu nữ bước đến gần tôi và nói: ‘Đại Đức Lạt-ma không nhận ra tôi sao? Tôi là Yaso đây!’

Quả thật tôi không nhận ra chị tôi, vì chị tôi đã trở nên một thiếu nữ dậy thì, nở nang trọn vẹn. Tôi cảm thấy e dè sợ hãi. Tất cả là tám hay chín người phụ nữ có mặt tại đó. Thật là quá nhiều đối với tôi. Tôi đã biết cách ứng xử đối với những người thuộc nam giới, nhưng còn nữ giới thì tôi chưa từng tiếp xúc nhiều!

Họ nhìn tôi với những cặp mắt tò mò và soi mói, dường như muốn nuốt sống lấy tôi. Tôi chỉ còn giải pháp duy nhất là tìm cách thoát thân. Tôi nói: ‘Thưa mẫu thân, con đã chuyển giao thông điệp và quà tặng của sư phụ con xong rồi, bây giờ con phải trở về với bổn phận hằng ngày. Con hãy còn đau và con có nhiều việc phải làm.’

“Honourable Lama and Son, these ladies have traveled far to hear of the events of the Inmost House and of the Precious One within. Does he really read Indian magazines? And is it true that he has a glass which he can look through and see through the walls of a house?”

“Madam,” I answered, “I am but a poor Medical Lama who has recently returned from the hills. It is not for such as I to speak of the doings of the Head of our Order. I have come only as messenger.”

A young woman came up to me and said: “Don’t you remember me? I am Yaso!”

To be truthful, I hardly could recognize her, she had developed so much, and was so ornamental! . . . I had misgivings. Eight no, nine women were too much of a problem for me. Men, now I knew how to deal with them, but women! They looked at me as if I were a juicy morsel and they hungry wolves on the plains. There was but one course of action: retreat.

“Honourable Mother,” I said, “I have delivered my message and now I must return to my duties. I have been ill and have much to do.”

Nói xong, tôi chào từ giã tất cả các quan khách, và quay lưng đi mau với một tốc lực tối đa mà sự lễ nghi cho phép. Vị quản gia đã trở lại văn phòng của người, và một người giữ ngựa dắt ngựa đến cho tôi. Tôi nói: ‘Anh hãy cẩn thận khi đỡ tôi lên yên, vì tôi vừa mới bị gãy xương ở tay và vai và tôi không thể lên yên ngựa một mình.’ Người giữ ngựa mở cổng cho tôi đi ra, đúng vào lúc mẹ tôi xuất hiện trên bao lơn và nhìn theo sau lưng tôi. Khi tôi trở về tu viện, tôi đến gặp Đại đức Mingyar, sư phụ nhìn tôi vào tận mắt và hỏi: ‘Lobsang, con có vẻ ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tại sao vậy?’ Tôi đáp: ‘Bạch sư phụ, lúc về nhà con gặp một toán phụ nữ muốn nghe chuyện về đức Đạt-lai Lạt-ma và muốn biết những gì Ngài đã nói với con. Con đáp rằng qui luật trong tu viện không cho phép con tiết lộ bất cứ chuyện gì. Và con đã chạy thoát thân… Sư phụ hãy tưởng tượng xem, tất cả các bà mệnh phụ ấy đều trố mắt nhìn con như cọp rình mồi!’

Sư phụ tôi bật cười vang; tôi càng ngạc nhiên về sự vui vẻ của sư phụ thì người lại càng cười giòn giã hơn nữa. Người nói: ‘Đức Đạt-lai Lạt-ma muốn biết xem con có muốn ở lại tu viện suốt đời hay còn nghĩ đến việc trở về với gia đình.’

With that, I bowed to them, turned, and made off as fast as I decently could. The Steward had returned to his office, and the groom brought out the horse. “Help me to mount carefully,” I said, “for I have recently had an arm and a shoulder broken and cannot manage alone.” The groom opened the gate, I rode out just as mother appeared on the balcony and shouted something. The white horse turned left so that we could again travel clockwise along the Lingkhor road. Slowly I rode along. Slowly, as I did not want to get back too quickly. Past Gyü-po Linga, past Muru Gompa, and along the complete circuit.

Once again home, on the Iron Mountain, I went to the Lama Mingyar Dondup. He looked at me: “Why, Lobsang, have all the wandering ghosts chased you around the City? You look shaken!”

“Shaken?” I answered, “shaken? My mother had a batch of women there and they all wanted to know about the Inmost One and what He said to me. I told them the Rules of the Order would not allow me to say. And I made off while I was safe, all those women staring at me! . . .”

My Guide shook and shook with laughter. The more I stared at him in amazement, the more he laughed.

“The Precious One wanted to know if you had settled down or if you still had thoughts of home.”

Đời sống ở tu viện đã làm đảo lộn mọi quan niệm của tôi về đời sống xã hội. Hồi đó, tôi cho rằng phụ nữ là những nhân vật lạ lùng; mà cho đến bây giờ tôi vẫn thấy như vậy. Tôi đáp: ‘Gia đình con là ở đây. Con không muốn trở về nhà. Tất cả những bà mệnh phụ ấy với những bộ mặt sơn phết và tóc bôi mỡ trơn bóng làm cho con phát ngấy… Và họ nhìn con với một vẻ mặt… lạ lùng, chẳng khác nào những người đồ tể ở làng Sho nhìn một con trừu trúng giải nhất trong cuộc triển lãm nông nghiệp! Họ thốt ra những tiếng kêu chát chúa và những màu sắc biểu lộ trên hào quang của họ thật là dễ sợ! Bạch sư phụ, xin sư phụ đừng bảo con trở về nhà nữa!’

Trong vài ngày, tôi không được phép quên câu chuyện này đi: “Ồ, Lobsang, tháo chạy chỉ vì một toán đàn bà!” hoặc, “Lobsang, tôi muốn bạn đến với mẫu thân của bạn, hôm nay bà ấy mở tiệc và họ cần được vui lòng.”

Nhưng một tuần lễ sau đó, người ta lại nói cho tôi biết rằng đức Đạt-lai Lạt-ma rất chú ý đến tôi, và đã quyết định cho phép tôi trở về nhà một hai ngày mỗi khi mẹ tôi tổ chức những cuộc tiếp tân trong gia đình.

Không ai có thể trái lệnh Đức Đạt Lai Lạt Ma, tất cả chúng tôi đều yêu quý Ngài, không chỉ đơn thuần như một Thượng Đế của Trái đất, mà thực sự là một người cao cả. Tính khí ngài có đôi chút nóng nảy, nhưng chỉ là ý kiến của tôi, và Ngài không bao giờ để thành kiến cá nhân can thiệp vào những nhiệm vụ của Quốc gia. Ngài cũng không ở trạng thái nóng nảy quá một phút. Ngài là người đứng đầu Nhà nước và Giáo hội.

Lamasatic life had upset my “social” values, women were strange creatures to me (they still are!), and . . . “But I am home. Oh no, I do not want to return to the House of my Father. The sight of those women, painted, stuff on their hair, and the way they looked at me: as if I were a prize sheep and they butchers from Shö. Screeching voices, and”—I am afraid my voice must have sunk to a whisper—“their astral colours. Dreadful! Oh, Honourable Lama Guide, do not let us discuss it!”

For days I was not allowed to forget it: “Oh, Lobsang, put to flight by a pack of women!” or, “Lobsang, I want you to go to your Honourable Mother, she has a party today and they need entertaining.” But after a week I was again told that the Dalai Lama was very, very interested in me, and had arranged for me to be sent home when my mother had one of her numerous social parties. No one ever obstructed the Precious One, we all loved him, not merely as a God on Earth, but as the true Man that he was. His temper was a bit hasty, but so was mine, and he never let personal bias interfere with the duties of the State. Nor did he stay in a temper for more than minutes. He was the Supreme Head of State and Church.

Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt

Dịch bổ sung và biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam – VMC