Một buổi sáng, khi tôi đang thanh thản, và tự hỏi làm gì cho hết nửa giờ nhàn rỗi trước khi đến buổi lễ cầu nguyện tiếp theo, Đại Đức Minh Gia đến tìm tôi và nói: ‘Chúng ta đi dạo một vòng, Lobsang. Thầy có một việc nhỏ cho con làm.’ Tôi liền đứng bật dậy, vui mừng khi được đi với Thầy. Không mất mấy thời gian để chuẩn bị, và sau đó chúng tôi lên đường. Khi chúng tôi rời khỏi đền thờ, một trong những con mèo đến bên và biểu lộ tình cảm quấn quít, chúng tôi không thể bỏ nó đó cho tới khi tiếng rừ rừ ầm ĩ kết thúc và cái đuôi bắt đầu vẫy ngoe nguẩy. Đây là một chú mèo to lớn, chúng tôi gọi nó là “mèo”, tất nhiên trong tiếng Tây Tạng sẽ là shi-mi. Hài lòng là tình thương yêu của mình đã được đáp lại thắm thiết, chàng ta trang trọng bước đi bên cạnh chúng tôi cho tới nửa đường đi xuống chân núi. Sau đó, rõ ràng nó nhớ ra rằng đã để lại những viên đá quý không được bảo vệ nên hối hả quay về.
Những con mèo ở trong đền thờ của chúng tôi không chỉ để cho vui, mà chúng còn là người bảo vệ hết sức tận tụy vô vàn đá quý còn nguyên sơ trải khắp xung quanh những hình tượng linh thiêng. Những con chó nhà là những người bảo vệ, những con chó ngao to lớn có thể vật ngã một người đàn ông và cắn anh ta. Nhưng những con chó này có thể bị dọa nạt và đuổi đi. Với mèo thì không như vậy. Một khi chúng đã tấn công, thì chỉ có cái chết mới dừng chúng lại được. Chúng thuộc loài mà đôi khi người ta gọi là “Xiêm”. Đất nước Tây Tạng rất lạnh, vì thế những con mèo này hầu như đều có màu đen. Ở những nước có khí hậu nóng, tôi được nghe nói rằng chúng có màu trắng, nhiệt độ ảnh hưởng đến màu lông của chúng. Mắt chúng xanh, và hai chân sau dài, điều đó làm cho chúng có dáng vẻ “khác biệt” khi bước đi. Đuôi chúng dài và giống một cái roi, còn giọng của chúng! … Không có loài mèo nào có tiếng kêu giống như loài này. Âm lượng và phạm vi của âm thanh gần như không thể tin được.
One morning, when I was at peace with the world, and wondering how to fill in an idle half hour before the next service, the Lama Mingyar Dondup came to me. “Let us take a walk, Lobsang. I have a small job for you to do.” I jumped to my feet, glad to be going out with my Guide. It did not take us long to get ready, and then we set off. As we were leaving the Temple one of the cats displayed marked affection and we could not leave him until the roaring purr had stopped and the tail started to wag. This was a huge cat, we called him “cat”, in Tibetan, of course, and that was shi-mi. Satisfied that his affection was fully reciprocated, he walked solemnly beside us until we were halfway down the mountain. Then, apparently, he remembered that he had left the jewels unguarded, and off he rushed in a very great hurry.
Our temple cats were not for ornament only, they were fierce guardians of the masses of uncut gems strewn around the holy figures. In houses dogs were the guardians, immense mastiffs who would pull a man down and savage him. These dogs could be cowed and driven off. Not so with the cats. Once they attacked, only death could stop them. They were of the type sometimes named “Siamese”. Tibet is cold, so these cats were nearly black. In hot countries, so I have been told, they are white, the temperature affecting the fur colour. Their eyes were blue, and their hind legs were long, giving them a “different” appearance when they walked. Their tails were long and whip-like, and their voices!. . . No cat ever had a voice like these. The volume and range of tones was almost beyond belief.
Đến phiên làm việc, những con mèo này lảng vảng trong những ngôi đền, bước chân lặng lẽ và cảnh giác, giống như những cái bóng đen của màn đêm. Nếu bất cứ ai cố gắng lấy đi những vật quý không được bảo vệ, một con mèo sẽ xuất hiện và lao vào cánh tay của hắn ta. Trừ khi hắn ta bỏ vật quý ra ngay lập tức, nếu không con mèo khác, có lẽ là từ Hình ảnh Thiêng liêng, sẽ nhảy thẳng vào họng tên trộm. Những con mèo này có móng vuốt dài gấp đôi móng vuốt của những con mèo bình thường – và chúng sẽ không để cho kẻ trộm thoát. Những con chó có thể bị đánh đuổi, hoặc có thể bắt hoặc đánh bả. Với mèo thì không như vậy. Chúng có thể buộc những con chó ngao hung dữ bỏ chạy. Chỉ những người nào quen thân với những con mèo này mới có thể đến gần chúng khi chúng đang làm nhiệm vụ.
Chúng tôi tiếp tục tản bộ. Xuống đến chân núi, chúng tôi rẽ phải đi qua Pargo Kaling và đi tiếp qua làng Sho. Tiếp tục đi qua cây cầu màu ngọc lam và rẽ phải lần nữa đến trụ sở của phái bộ ngoại giao, tới nơi Phái đoàn Trung Quốc cũ đang trú ngụ. Sư phụ tôi vừa đi vừa nói: ‘Một phái đoàn Trung Quốc vừa mới đến, như thầy đã nói chuyện với con. Chúng ta hãy nhìn qua từng nhân viên phái đoàn ấy để xem họ là người như thế nào.’
Ấn tượng đầu tiên của tôi rõ ràng là không tốt đẹp. Bên trong trụ sở của phái bộ, các nhân viên người nước ngoài lăng xăng qua lại trong các phòng, vẻ mặt dương dương tự đắc, hoặc đang lom khom mở các rương tráp và những thùng đồ đạc. Tôi nhận thấy họ có một số vũ khí khá nhiều, đủ để vũ trang cho một đạo binh nhỏ.
Vóc người nhỏ thó của tôi cho phép tôi mở cuộc “do thám” dễ dàng hơn một người lớn. Thật vậy, tôi đã lẻn bò lại gần một cửa sổ mở, xuyên qua đó tôi có thể rình xem cho đến khi một người trong bọn họ bất chợt ngẩng đầu lên. Khi người ấy nhìn thấy tôi, ông ta nổi giận thốt lên một câu nguyền rủa bằng tiếng Trung Quốc, hẳn có tính cách xúc phạm đến cả tổ tiên của tôi. Rồi ông ta nhìn quanh tìm một vật gì đó để ném tôi, nhưng tôi đã kịp rút lui trước khi ông ta có thể ra tay.
On duty these cats prowled in the temples, silent-footed and alert, like dark shadows of the night. If anyone tried to reach the jewels, which were otherwise unguarded, a cat would emerge and leap at the man’s arm. Unless he let go immediately, another cat would jump, perhaps from the Holy Image, straight at the thief’s throat. And those cats had claws twice as long as those of the “average” cat—and they did not let go. Dogs could be beaten off, or perhaps held or poisoned. Not so with the cats. They would put the fiercest mastiffs to flight. Only men who personally knew those cats could approach them when they were on duty.
We sauntered on. Down at the road we turned right through the Pargo Kaling and walked on past the village of Shö. On over the turquoise Bridge and right again at the House of Doring. This brought us to the side of the old Chinese Mission. As we walked the Lama Mingyar Dondup talked to me. “A Chinese Mission has arrived, as I told you. Let us have a look at them and see what they are like.”
My first impression was a very unfavourable one. Inside the house the men were pacing about arrogantly unpacking boxes and cases. They appeared to have enough weapons to supply a small army. Being a small boy, I could “investigate” in a manner which was quite unsuitable for an older person. I crept through the grounds and silently approached an open window. For a time I stood and watched until one of the men looked up and saw me. He uttered a Chinese oath which threw grave doubts upon my ancestry, but left none whatever about my future. He reached for something, so I withdrew before he could throw it.
Trên đường về, tôi nói với Đại đức Minh Gia: ‘Sư phụ biết không, họ có những vầng hào quang màu đỏ! Và họ có một lối vung dao găm rất dễ sợ!’
Sư phụ tôi có vẻ trầm tư trên suốt con đường về. Sau bữa ăn chiều, người nói với tôi: ‘Thầy đã suy nghĩ nhiều về phái đoàn Trung Quốc ban nãy, và thầy sẽ đề nghị với đức Đạt-lai Lạt-ma hãy sử dụng năng khiếu thần nhãn của con. Trong trường hợp đó, con có thể quan sát họ xuyên qua một bức bình phong được chăng?’ Tôi đáp: ‘Nếu sư phụ nghĩ rằng con có thể, thì chắc là con sẽ làm được.’
Tôi không gặp sư phụ suốt cả ngày hôm sau. Qua ngày kế đó, người để tôi làm việc suốt buổi sáng và sau bữa ăn trưa mới nói với tôi: ‘Lobsang, trưa nay chúng ta sẽ đi chơi một vòng. Đây là một cái khăn quàng hảo hạng. Không cần phải có thần thông mới biết rằng chúng ta sẽ đi đâu. Con có mười phút để chuẩn bị, rồi sau đó hãy đến gặp thầy. Thầy cần phải báo trước với vị Sư trưởng.’
Một lần nữa, chúng tôi lại noi theo con đường cheo leo đi xuống chân núi. Một con đường tắt xuyên qua sườn núi phía tây nam đưa chúng tôi đến Norbu Linga rất mau chóng. Đức Đạt-lai Lạt-ma rất thích khu vườn Ngọc Uyển này, tại đây Ngài thường đến thưởng ngoạn trong những giờ nhàn rỗi. Nhìn bên ngoài, Potala là một nơi tuyệt đẹp, nhưng bên trong rất ngột ngạt vì không được thông gió đầy đủ và có quá nhiều ngọn đèn bơ thắp quanh năm suốt tháng. Nhiều bơ đã bị đổ xuống sàn nhà trong suốt những năm qua, và cũng không còn là kinh nghiệm mới mẻ gì việc các vị Lạt ma cao quý, với dáng vẻ trịnh trọng khi đang đi xuống một đoạn sàn dốc, giẫm phải một tảng bơ phủ đầy bụi bẩn, và ông ta sẽ đến được nơi cuối cùng của đoạn dốc với một tiếng “Uỳnh!” trong sự ngạc nhiên, khi cơ thể như bộ xương của ông va vào sàn đá. Đức Đạt Lai Lạt Ma không muốn có rủi ro trở thành nhân vật của cảnh tượng đáng sợ như vậy, vì thế ngài ở lại Norbu Linga bất cứ khi nào có thể.
On the Lingkhor road again, I said to my Guide: “Oh! How their auras turned red! And they wave knives about so.”
For the rest of the way home the Lama Mingyar Dondup was thoughtful. After our supper he said to me: “I have been thinking quite a lot about these Chinese. I am going to suggest to the Precious One that we make use of your special abilities. Do you feel confident that you can watch them through a screen if it can be arranged?”
All I could say was: “If you think I can do it, then I can.”
The next day I did not see my Guide at all, but the following day he taught me in the morning and after the midday meal said: “We will take a walk this afternoon, Lobsang. Here is a scarf of the first quality, so you do not need to be a clairvoyant to know where we are going. Ten minutes to get yourself ready and then meet me in my room. I have to go and see the Abbot first.”
Once again we set off on the precipitous path down the mountain-side. We took a short cut down over the south-west side of our mountain and, after a very short walk, arrived at the Norbu Linga. The Dalai Lama was very fond of this Jewel Park and spent most of his free time there. The Potala was a beautiful place, outside, but inside it was stuffy through insufficient ventilation and too many butter-lamps burning for too long. Much butter had been spilled on the floors throughout the years, and it was not a new experience for a dignified lama to pursue his stately way down a sloping ramp, tread on a lump of butter covered in dust, and arrive at the bottom of the ramp with an “Ulp!” of astonishment, as part of his anatomy hit the stone flooring. The Dalai Lama did not wish to risk being the subject of such an unedifying spectacle, so he stayed at the Norbu Linga whenever possible.
Vườn Ngọc Uyển được bao quanh bởi một bức tường đá cao gần bốn mét. Khu vườn chỉ mới khoảng một trăm năm tuổi. Cung điện ở bên trong có những tháp nhỏ bằng vàng và bao gồm ba khu nhà mà chúng được sử dụng cho những công việc của chính quyền và quốc gia. Nội cung, cũng được bao quanh bởi một bức tường cao, được Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng như một vườn cảnh. Ai đó đã từng viết rằng các các quan chức bị cấm vào trong đó. Chắc chắn không phải như vậy. Họ bị cấm làm bất cứ công việc chính quyền nào trong đó. Tôi đã từng vào đó khoảng ba mươi lần và biết rất rõ về nó.
Trong khu vườn này có một cái hồ sen nhân tạo rất đẹp, với hai cù lao, trên mỗi cù lao có dựng lên một nhà mát để nghỉ hè. Ở góc phía Tây Bắc, có một con đường rộng đắp băng đá, từ đó có thể đi đến hai cù lao và các ngôi nhà trên đó. Đức Đạt-lai Lạt-ma thường đến những cù lao trên hồ sen này, tại đây Ngài tham thiền nhiều giờ mỗi ngày.
Bên trong vườn Ngọc Uyển có dinh trại của toán Ngự lâm quân gồm độ năm trăm người, có phận sự bảo vệ an ninh cho đức Đạt-lai Lạt-ma. Đó là nơi Đại Đức Minh Gia đang đưa tôi đến. Đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi.
Sau khi đi qua những khu vườn sầm uất, chúng tôi bước qua một cánh cửa rất đẹp đưa vào một khoảnh vườn bên trong. Những loài chim đủ màu sặc sỡ đang ăn dưới đất. Chúng không màng nhìn thầy trò tôi, nên chúng tôi cũng không muốn quấy rầy chúng. Mặt hồ phẳng lặng chiếu sáng như một tấm gương trong. Con đường lót đá đã được quét vôi trắng và chúng tôi noi theo để đi tới cái cù lao xa nhất. Tại đây, đức Đạt-lai Lạt-ma đang đắm chìm trong một cơn thiền định thâm sâu.
Khi chúng tôi bước đến gần, Ngài ngước mắt lên và mỉm cười với chúng tôi. Chúng tôi liền quì xuống, đặt cái khăn quàng dưới chân Ngài và Ngài mời chúng tôi ngồi xuống trước mặt. Kế đó Ngài gõ chuông để ra hiệu cho một vị Lạt-ma hầu cận dâng trà, một thủ tục thông thường trước khi bắt đầu mọi câu chuyện. Trong khi chờ đợi, Ngài nói chuyện với tôi về những loại cầm thú nuôi trong vườn Ngọc Uyển và hứa sẽ cho tôi xem sau này.
This Jewel Park was surrounded by a stone wall some twelve feet high. The Park is only about a hundred years old. The Palace within had golden turrets and consisted of three buildings which were used for official and state work. An Inner Enclosure, which also had a high wall, was used by the Dalai Lama as a pleasure garden. Some people have written that officials were forbidden to enter this enclosure. That definitely is not so. They were forbidden to do any official business within the enclosure. I have been there some thirty times and know it well. It contained a very beautiful artificial lake with two islands, upon which there were two summer-houses. At the north-west corner a wide stone causeway enabled one to reach the islands and the summer-house on each. The Dalai Lama spent much time on one or other of these islands and spent many hours each day in meditation there. Inside the Park there were barracks which housed some five hundred men who acted as personal bodyguards. It was to this place that the Lama Mingyar Dondup was taking me. This was my first visit. We walked through the very beautiful land and through an ornamental gateway leading to the Inner Enclosure. All manner of birds were pecking food from the ground as we entered, and they took no notice of us, we had to get out of their way! The lake was placid, like a highly polished metal mirror. The stone causeway had been newly whitewashed, and we made our way to the farthest island where the Inmost One was sitting in deep meditation. At our approach he looked up and smiled. We knelt and laid our scarves at his feet and he told us to sit in front of him. He rang a bell for the buttered tea without which no Tibetan could carry out a discussion. While we were waiting for it to be brought, he told me of the various animals he had in the Park and promised that I should see them later.
Vị quan hầu cận dâng trà xong, vừa lui ra thì đức Đạt-lai Lạt-ma nhìn tôi và nói: ‘Đạo hữu Minh Gia có nói cho ta biết rằng con không ưa những hào quang của phái đoàn Trung Quốc. Người nói rằng tất cả bọn họ đều có mang đầy đủ khí giới. Trong các cuộc thử thách bí mật hay công khai trước đây, năng khiếu thần nhãn của con đã tỏ ra chính xác và không hề lầm lẫn. Vậy con nghĩ sao về những người ấy?’
Câu hỏi của ngài làm cho tôi bối rối. Tôi không thích nói cho ai nghe trừ phi với sư phụ tôi, những gì tôi nhìn thấy trong hào quang của người khác, và những màu sắc ấy có ý nghĩa gì đối với tôi. Thật vậy, tôi nghĩ rằng nếu một người không thể nhìn thấy và tự diễn đạt lấy ý nghĩa các hào quang ấy cho riêng mình, thì điều đó có nghĩa là người ấy không có cái định mệnh được biết những gì tôi biết. Nhưng làm sao tôi dám nói điều ấy với một vị nguyên thủ quốc gia? Nhất là một vị nguyên thủ không có năng khiếu thần nhãn? Tôi bèn đáp: ‘Thưa Đức Thái Tuế, con rất vụng về trong việc nhìn xem hào quang của người khác, và bởi đó con không đủ tư cách để bày tỏ một ý kiến nào cả.’
Tôi không đạt được kết quả gì với lời từ chối đó, vì đức Đạt-lai Lạt-ma lại nói tiếp: ‘Con thuộc về thành phần những người bẩm sinh đã sẵn có những khả năng thiên phú. Những khả năng đó đã được phát triển nhờ sự tu luyện theo các pháp môn bí truyền. Con có bổn phận phải nói. Con đã được nuôi nấng dạy dỗ chỉ vì mục đích đó mà thôi. Ta nghe đây.’
With the arrival of the tea and the departure of the lama attendant, the Dalai Lama looked at me and said: “Our good friend Mingyar tells me that you do not like the auric colours of this Chinese Delegation. He says that they have many weapons upon their persons. In all the tests, secret and otherwise, upon your clairvoyance, you have never failed. What is your opinion, of these men?”
This did not make me happy, I did not like telling others—except the Lama Mingyar Dondup—what I saw in the “colours” and what they meant to me. In my reasoning, if a person could not see for himself, then he was not meant to know. But how does one say that to the Head of a State? Particularly to a Head who was not clairvoyant.
To the Dalai Lama my reply was: “Honourable Precious Protector, I am quite unskilled in the reading of foreign auras. I am unworthy to express an opinion.”
This reply did not get me anywhere. The Inmost One replied: “As one possessed of special talents, further increased by the Ancient Arts, it is your duty to say. You have been trained to that end. Now say what you saw.”
‘Thưa Đức Thái Tuế, những nhân viên trong phái đoàn nước ngoài đó đều có những ý đồ rất xảo trá, quỉ quyệt. Những màu sắc trong hào quang của họ biểu lộ một ý định lường gạt và phản bội.’ Tôi không nói gì thêm nữa, nhưng đức Đạt-lai Lạt-ma có vẻ hài lòng. Ngài nói: ‘Tốt lắm, con đã lặp lại đúng như những lời con đã nói với đạo hữu Minh Gia. Ngày mai, con sẽ đứng núp phía sau tấm bình phong này và con sẽ quan sát phái đoàn Trung Quốc khi họ đến đây. Chúng ta cần biết rõ ý đồ của họ. Con hãy núp ngay bây giờ thử xem có ai nhìn thấy không?’
Tôi bèn tuân lệnh đứng núp sau bình phong, các nhà sư cũng giúp dời những con sư tử đá chắn thêm ở phía ngoài để cho tôi được hoàn toàn kín đáo. Người ta thử tập dượt qua một lần cuộc viếng thăm này, những vị Lạt-ma đóng vai trò của phái đoàn nước ngoài. Họ cố gắng tìm ra chỗ tôi ẩn núp. Tôi đọc được ý nghĩ của một người trong bọn: “Nếu mình tìm thấy nó, mình sẽ được thăng thưởng!”
Nhưng rốt cuộc ông ta cũng chẳng được gì, vì ông ta nhìn về một phía khác. Sau cùng, đức Đạt-lai Lạt-ma tỏ ý hài lòng và gọi tôi. Sau vài phút nói chuyện, Ngài dặn chúng tôi hãy trở lại vào ngày hôm sau vì phái đoàn Trung Quốc có lẽ sẽ tìm cách buộc Ngài ký một hiệp ước gì đó về Tây Tạng. Chúng tôi từ biệt Ngài và trở về tu viện Chakpori.
“Honourable Precious Protector, these men have evil intentions. The colours of their auras show treachery.” That was all I said.
The Dalai Lama looked satisfied. “Good, you have repeated it as you told Mingyar. You will conceal yourself behind that screen tomorrow, and watch when the Chinese are here. We must be sure. Conceal yourself now, and we will see if you are adequately hidden.”
I was not, so attendants were called, and the Chinese lions were shifted slightly that I might be entirely concealed. Lamas came in rehearsal as if they were the visiting delegation. They tried hard to locate my hiding-place. I caught the thought of one: “Ah! Promotion for me if I can see him!” But he did not get promotion, as he was looking on the wrong side. Eventually the Inmost One was satisfied, and called me out. He spoke for a few moments and told us to come again tomorrow, as the Chinese Delegation were going to visit him in an attempt to force a treaty upon Tibet. So with that thought before us, we took our leave of the Inmost One and wended our way up the Iron Mountain.
Ngày hôm sau, vào khoảng mười một giờ, chúng tôi đã có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Đức Đạt-lai Lạt-ma tiếp đón tôi với một nụ cười và nói rằng tôi cần phải ăn uống (Điều này lúc nào tôi cũng sẵn sàng!) trước khi vào núp phía sau tấm bình phong.
Theo lệnh Ngài, người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn thịnh soạn, với những đồ thực phẩm nhập từ Ấn Độ mà tôi thậm chí chưa từng biết tên gọi là gì. Điều mà tôi biết là lần đầu tiên tôi được ăn một bữa ăn lạ miệng và hoàn toàn khác hẳn với các món ăn “truyền thống” là trà bơ, tsampa và củ cải!
Sau khi đã ăn uống no lòng, tôi cảm thấy hăng hái hơn để có thể đương đầu với cái viễn ảnh phải ngồi yên bất động trong một thời gian dài. Thật ra, sự ngồi yên bất động hoàn toàn là điều kiện tất yếu của môn thiền định, không có gì là khó khăn đối với các vị Lạt-ma. Từ thuở ấu thơ, nói đúng ra là từ năm tôi lên bảy, người ta đã tập cho tôi ngồi yên không cử động trong nhiều giờ. Để thực tập, người ta đặt một cái đèn thắp bằng bơ lên đầu tôi và tôi phải ngồi trong tư thế hoa sen cho đến khi chất bơ trong đèn đã cạn, tức là suốt mười hai giờ. Như vậy, ngồi yên không cử động suốt ba hay bốn tiếng đồng hồ không phải là một điều khó đối với tôi.
Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng ngồi trong tư thế hoa sen đối diện với tôi, trên một chiếc ngai cao hơn mặt đất độ hai thước. Ngài ngồi yên không cử động, và tôi cũng vậy.
Thình lình có những tiếng kêu và nhiều tiếng chào bằng tiếng Trung Quốc từ xa vọng đến tai chúng tôi. Về sau tôi nghe nói rằng hôm ấy y phục của phái đoàn Trung Quốc đó có nhiều chỗ độn lên rất khả nghi, và người ta đã phải lục soát trong mình họ để tước khí giới.
Sau đó, dưới sự hướng dẫn của quân Ngự lâm, họ được đưa vào nội cung và chúng tôi nhìn thấy họ đi theo con đường lót đá đến trước tư dinh đức Đạt-lai Lạt-ma.
Một vị Lạt-ma cao cấp cất tiếng ngân nga: ‘Om Mani padme hum!’ Nhưng thay vì phải lặp lại câu chân ngôn ấy như nghi lễ bắt buộc của Tây Tạng, phái đoàn Trung Quốc đã đáp lễ bằng một câu tiếng Trung Quốc của họ. Tôi tự nhủ: “Tốt lắm, Lobsang, công việc của ngươi thật dễ dàng; họ thể hiện những màu sắc đúng bản chất của họ.”
The following day, at about the eleventh hour, we again descended the rocky slope and made our entrance to the Inner Enclosure. The Dalai Lama smiled upon me and said that I must eat—I was ready for that!—before secreting myself. At his order some very palatable food was brought to the Lama Mingyar Dondup and me, comestibles imported from India in tins. I do not know what they were called, I know only that they were a very welcome change from tea, tsampa, and turnip. Well fortified, I was able to face the prospect of several hours’ immobility more cheerfully. Utter immobility was a simple matter to me, and to all lamas: we had to keep still in order to meditate. From a very early age, from seven years of age to be precise, I had been taught to sit motionless for hours on end. A lighted butter-lamp used to be balanced on my head and I had to remain in the lotus attitude until the butter was finished. This could be as long as twelve hours. So now, three or four hours imposed no hardship.
Directly in front of me the Dalai Lama sat in the lotus attitude on his throne six feet above the floor. He, and I, remained motionless. From without the walls came hoarse cries, and many exclamations in Chinese. Afterwards I discovered that the Chinese had had suspicious bulges under their robes, and so had been searched for weapons. Now they were permitted to enter the Inner Enclosure. We saw them coming, being led in by the Household Guards, across the causeway and on to the porch of the Pavilion. A high lama intoned: “O! Ma-ni pad-me Hum,” and the Chinamen, instead of repeating the same mantra as a courtesy, used the Chinese form: “O-mi-t’o-fo” (meaning: “Hear us, O Amida Buddha!”).
I thought to myself: “Well, Lobsang, your work is easy; they show their true colours.”
Từ chỗ ẩn núp, tôi nhìn thấy những hào quang của họ. Tôi quan sát những màu sắc xám lợt thỉnh thoảng lại phóng ra những tia màu đỏ bầm, biểu lộ những tư tưởng oán ghét, hận thù. Hào quang của họ có những lằn và vệt ngang màu rất xấu, không có những màu sắc trong sáng và tinh khiết của những tư tưởng thanh cao. Những hào quang màu sắc đục ngầu và xấu xí của họ biểu lộ tâm hồn đầy dục vọng vật chất và tội lỗi. Đó chính là những người được diễn tả rất đúng bởi câu ngạn ngữ “Khẩu Phật, tâm xà”.
Tôi nhìn đức Đạt-lai Lạt-ma, hào quang của Ngài biểu lộ sự buồn rầu, vì Ngài đang nhớ lại thời kỳ xa xưa khi Ngài phải lưu vong sang Trung Quốc. Tác phong của Ngài làm cho tôi rất cảm mến; xứ Tây Tạng chưa hề có một vị quốc vương nào xứng đáng hơn Ngài. Ngài có một tính chất cương nghị, thậm chí có khi hơi nóng nảy, vì có những tia đỏ xẹt ngang qua hào quang của Ngài, nhưng lịch sử sẽ nhắc nhở rằng Ngài là vị Đạt-lai Lạt-ma cao cả nhất và đã từng quên mình trọn vẹn trong công việc phụng sự đất nước.
Tôi có một lòng kính yêu thật sự đối với Ngài và trong lòng tôi Ngài chiếm được một ưu thế ngay sau Đại đức Minh Gia, sư phụ tôi.
As I looked at them from my place of concealment I observed the shimmering of their auras, the opalescent sheen, shot with murky red. The turgid swirling of hate-filled thoughts. Bands and striations of colour, unpleasant colours, not the clear, pure shades of higher thought, but the unwholesome, contaminated hues of those whose life forces are devoted to materialism and evil-doing. They were those of whom we say: “Their speech was fair but their thoughts were foul.”
I also watched the Dalai Lama. His colours indicated sadness, sadness as he remembered the past when he had been to China. All that I saw of the Inmost One I liked, the best Ruler ever of Tibet. He had a temper, quite a hot one, and then his colours did flash red; but history will record that there never was a better Dalai Lama, one who was utterly devoted to his country. Certainly I thought of him with very great affection, second only to the Lama Mingyar Dondup for whom I felt more than affection.
Cuộc hội kiến kéo dài mà không đem lại một kết quả hữu ích, vì những người ấy đến đây không phải với tấm lòng của những người bạn, mà là sự thù nghịch. Họ có những ý nghĩ đã định sẵn, cùng những phương pháp để thực hiện ý đồ của họ. Họ muốn chiếm thêm đất đai lãnh thổ, điều khiển nền chính trị của Tây Tạng, và trên hết là họ muốn lấy… vàng!
Vàng đã từng là mục tiêu tham vọng của con người tự muôn đời. Vàng có đến hàng trăm tấn ở Tây Tạng, nhưng ở xứ này nó được xem như một loại kim khí linh thiêng. Theo tín ngưỡng của dân bản xứ, đào mỏ tìm vàng là làm mất đi khí thiêng của xứ sở, xúc phạm đến thần linh, nên không ai có ý định làm việc ấy. Ở Tây Tạng có những sông rạch mà người ta có thể đãi cát lấy vàng do giòng nước cuốn trôi xuống từ trên núi. Trong vùng Chang Tang, tôi đã thấy vàng đọng lại như cát ở những bờ suối. Thứ vàng này đem nấu chảy ra sẽ dùng làm đồ trang trí các đền thờ, vì loại kim khí linh thiêng này tự nhiên là để dùng vào những mục đích linh thiêng. Những ngọn đèn thắp bằng bơ trong các điện thờ cũng làm toàn bằng vàng.
Nhưng có điều là chất vàng quá mềm, nên sau một thời gian thì các đồ dùng đều méo mó và mất hình thể một cách dễ dàng.
Diện tích Tây Tạng lớn gấp tám lần các đảo thuộc Anh quốc. Nhiều vùng rộng lớn vẫn chưa được thám hiểm, nhưng từ những chuyến đi với sư phụ, tôi được biết rằng ở đó người ta tìm ra rất nhiều vàng, bạc và uranium. Người Tây Tạng không bao giờ để cho người Tây phương tìm đến các mỏ khoáng chất trong xứ họ, mặc dầu đã có rất nhiều sự vận động ráo riết về vấn đề này – bởi vì trong tục ngữ cổ: “Bất cứ nơi đâu người phương Tây đến, ở đó sẽ có chiến tranh!”
Trong sách này, khi tôi nói đến những cái kèn vàng, đĩa vàng, và “thi hài bọc vàng,” xin độc giả đừng quên rằng, ở Tây Tạng vàng không phải là một loại kim khí hiếm có, mà là loại kim khí linh thiêng!
Xứ Tây Tạng có thể là một kho tài nguyên phong phú vô tận mở rộng cửa cho toàn thế giới, nếu nhân loại chịu hợp nhất và đến với nhau trong hòa bình thay vì tự tiêu diệt nhau trong ảo vọng tranh giành thế lực.
But the interview dragged on to its useless end, useless because these men did not come in friendship, but in enmity. Their one thought was to get their own way and not be too particular about the methods they employed. They wanted territories, they wanted to guide the policy of Tibet, and—they wanted gold! This later had been a lure to them for years past. There are hundreds of tons of gold in Tibet, we regard it as a sacred metal. According to our belief, ground is desecrated when gold is mined, so it is left quite untouched. From certain streams one can pick up nuggets which have been washed down from the mountains. In the Chang Tang region I have seen gold on the sides of swift-flowing streams as sand is seen on the banks of ordinary streams. We melt down some of these nuggets, or “sand”, and make temple ornaments, sacred metal for sacred uses. Even butter-lamps are made of gold. Unfortunately, the metal is so soft that ornaments are easily distorted.
Tibet is about eight times the size of the British Isles. Large areas are practically unexplored, but from my own travels with Lama Mingyar Dondup I know there is gold, silver, and uranium. We have never permitted Western peoples to survey—in spite of their fevered attempts!—because of the old legend: “Where the Men of the West go, there goes war!” It should be remembered, when reading of “gold trumpets”, “gold dishes”, “gold-covered lies”, that gold is not a rare metal in Tibet, but a sacred one. Tibet could be one of the great storehouses of the world if mankind would work together in peace instead of so much useless striving for power.
Một buổi sáng, tôi đang ngồi chép một bản kinh bút tự để đưa cho thợ khắc chữ thì Đại đức Minh Gia đến tìm tôi và nói: ‘Lobsang, con hãy gác lại việc ấy. Đức Đạt-lai Lạt-ma cho gọi chúng ta đến vườn Ngọc Uyển để quan sát hào quang của một người ngoại quốc đến từ phương Tây. Con hãy đi mau, vì Ngài muốn nói chuyện riêng với chúng ta trước khi tiếp khách. Không cần đem theo khăn quàng và không cần nghi lễ chi cả. Con chỉ cần sửa soạn đi gấp, thế thôi!’ Tôi nhìn sư phụ một giây và đáp: ‘Thưa Thầy, để con vào thay áo, rồi con sẽ sẵn sàng.’
Tôi không mất nhiều thời giờ để sửa soạn y phục chỉnh tề. Chúng tôi bước ra khỏi tu viện và cùng nhau đi bộ xuống chân núi, chỉ xa chừng tám trăm mét. Đến chân núi, ngay nơi tôi bị ngã và gãy xương, chúng tôi đi qua một cây cầu nhỏ và đi đến đường Lingkhor, vượt qua nó chúng tôi đi đến cổng vào Norbu Linga, hay là Vườn Ngọc Uyển, như đôi khi nó được gọi như vậy. Những quân canh gác vừa xua tay định bảo chúng tôi đi chỗ khác, nhưng khi họ nhìn ra Đại đức Minh Gia, họ liền thay đổi thái độ ngay tức khắc và mau mắn dẫn đường đưa chúng tôi vào nội cung. Tại đây, đức Đạt-lai Lạt-ma đã ngồi sẵn chờ đợi chúng tôi. Không có khăn quàng để làm lễ ra mắt, tôi cảm thấy hơi vụng về lúng túng vì không biết dùng hai bàn tay để làm gì.
Đức Đạt-lai Lạt-ma mỉm cười nhìn chúng tôi và nói: ‘Đạo hữu Minh Gia hãy an tọa, và cả con nữa, Lobsang. Quý vị đến nhanh lắm.’
One morning the Lama Mingyar Dondup came in to me where I was copying an old manuscript ready for the carvers.
“Lobsang, you will have to leave that for now. The Precious One has sent for us. We have to go to Norbu Linga and together, unseen, we have to analyze the colour of some foreigner from the Western world. You must hurry to get ready, the Precious One wants to see us first. No scarves, no ceremony, only speed!”
So that was that. I gaped at him for a moment, then jumped to my feet. “A clean robe, Honourable Lama Master, and I am ready.”
It did not take me long to make myself look passably tidy. Together we set off down the hill on foot, the distance was about half a mile. At the bottom of the mountain, just by the spot where I had fallen and broken my bones, we went over a little bridge and reached the Lingkhor road. This we crossed, and reached the gate of the Norbu Linga, or Jewel Park, as it is sometimes translated. The guards were just about to warn us off when they saw that the Lama Mingyar Dondup was with me. Then their attitudes changed completely; we were quickly shown into the Inner Garden where the Dalai Lama was sitting on a veranda. I felt a little foolish, having no scarf to present, and not knowing how to behave without it. The Inmost One looked up with a smile: “Oh! Sit down, Mingyar, and you, too, Lobsang. You have certainly hurried.”
Chúng tôi ngồi xuống và đợi Ngài mở lời trước. Ngài ngồi tĩnh tọa và định tâm trong một lúc, dường như để sắp đặt những tư tưởng của Ngài. Kế đó, Ngài nói: ‘Trước đây đã lâu, người Anh đã xâm chiếm xứ sở chúng ta. Khi đó ta phải đi qua Mông Cổ, giai đoạn đầu của một chuyến viễn du dài hạn. Vào năm Kim Tuất (1910), Trung Quốc lại xâm lược đất nước chúng ta. Cuộc chiến tranh này có thể xem là hậu quả trực tiếp sau cuộc tấn công của quân Anh. Lần này ta lại lên đường sang Ấn Độ và chính trong dịp đó ta đã gặp vị sứ thần Anh quốc mà hôm nay ta sẽ triệu kiến. Ta nói những điều đó là để riêng cho con biết, Lobsang, vì Minh Gia vốn đã tháp tùng ta trong những lần xuất ngoại đó. Người Anh đã hứa hẹn với ta nhiều điều mà rốt cuộc họ không giữ lời hứa. Hôm nay, ta muốn biết xem người sứ giả này có thành thật hay không. Lobsang, con sẽ không hiểu những lời nói của ông ta; như vậy, những lời ấy sẽ không ảnh hưởng gì đến con. Con hãy đứng núp phía sau tấm bình phong này, con sẽ có thể quan sát mọi điều mà không ai biết. Con hãy nhìn xem hào quang của ông ta và đưa ra những nhận xét của con như sư phụ con đã dạy. Bây giờ, đạo hữu Minh Gia hãy chỉ chỗ ẩn nấp cho Lobsang, vì cậu ấy đã quen thuộc với sự chỉ dẫn của đạo hữu hơn là của ta, và ta tin chắc rằng trong lòng cậu ta thì đạo hữu còn đáng kính hơn cả một vị Đạt-lai Lạt-ma như ta nữa kìa!’
We sat down and waited for him to speak. He meditated for some time, seeming to marshal his thoughts in an orderly array.
“Some time ago,” he said, “the army of the Red Barbarians (the British) invaded our sacred land. I went to India and from thence traveled most extensively. In the Year of the Iron Dog (1910) the Chinese invaded us as a direct result of the British invasion. I again went to India and there I met the man whom we are to meet today. I say all this for you, Lobsang, for Mingyar was with me. The British made promises and they were not kept. Now I want to know if this man speaks with one or two tongues. You, Lobsang, will not understand his speech and so will not be influenced by it. From this lattice screen you and another will watch unobserved, your presence will not be known. You will write down your astral-colour impressions as taught by our Guide, who speaks so well of you. Now show him to his place, Mingyar, for he is more used to you than to me and—I do believe—he considers the Lama Mingyar Dondup to be superior to the Dalai Lama!”
Núp phía sau bình phong, tôi không ngừng quan sát chung quanh, nhìn các loài chim và các nhánh cây đong đưa theo chiều gió. Thỉnh thoảng, tôi lén nhai vài miếng tsampa mà tôi đã đem theo.
Những đám mây trôi trên bầu trời, và tôi nghĩ thật đẹp biết bao cảm giác đu đưa, rung rinh trên một chiếc diều, với tiếng gió rít qua lớp vài và những tiếng vỗ nhẹ lên sợi dây. Đột nhiên, tôi nhảy dựng lên vì vừa có va chạm. Trong khoảnh khắc, tôi nghĩ mình đang ở một chiếc diều, rồi ngủ thiếp đi và bị rơi ra ngoài!
Thình lình có tiếng động mạnh của cánh cửa vườn trong, những vị Lạt-ma mặc áo vàng trong nhóm các quan hầu cận của đức Đạt-lai Lạt-ma bước vào cùng với một người da trắng ăn mặc một cách thật kỳ dị.
Tôi phải khó khăn lắm mới giữ được sự yên tĩnh, vì tôi cảm thấy thật hết sức buồn cười. Người ấy có vóc dáng cao lớn và hơi gầy. Ông ta có mái tóc trắng, cặp lông mày thưa, đôi mắt rất sâu, và một đôi môi khép chặt, có vẻ đanh thép. Nhưng còn bộ y phục của ông ta mới thật đáng nói! Nó được may bằng một loại vải màu xanh đậm, phía trước ngực có một hàng nút bằng đồng sáng loáng. Bộ y phục này chắc hẳn phải là công trình của một người thợ may rất tồi, vì cái cổ áo quá lớn đến nỗi phải lật ra bên ngoài, ngoài ra lại còn có vài miếng vải vuông chắp vào hai bên. Tôi tự hỏi, phải chăng người Tây phương cũng thích mặc áo vá nhiều miếng như áo cà sa của các nhà sư phương Đông theo gương đức Phật ngày xưa?
Behind the lattice screen I had grown tired of looking about. Tired of watching the birds and the waving of the branches of the trees. Now and then I took surreptitious nibbles at some tsampa which I had with me. Clouds drifted across the sky, and I thought how nice it would be to feel the sway and tremor of a kite beneath me, with the rushing wind whistling through the fabric and thrumming on the rope. Suddenly I jumped as there was a crash. For a moment I thought that I was in a kite, and had fallen asleep and out! But no, the gate to the Inner Garden had been flung open, and golden-robed lamas of the Household escorted in a most extraordinary sight. I was hard put to keep silent; I wanted to explode with laughter. A man, a tall, thin man. White hair, white face, scanty eyebrows, and deep-sunk eyes. Quite a hard mouth. But his dress! Blue cloth of some sort with a whole row of knobs down the front, shiny knobs. Apparently some very bad tailor had made the clothes, for the collar was so big that it had to be folded over. It was folded over certain patches on the sides, too.
I thought that the Westerners must have some symbolic patches such as those we used in imitation of Buddha.
Xin nói thêm rằng, hồi đó tôi chưa biết gì về cái cổ áo lật và kiểu áo có túi của người phương Tây! Ở Tây Tạng, những người nho nhã không phải là dân lao động đều mặc áo rộng, tay rất dài che lấp cả hai bàn tay. Trái lại, tay áo của người sứ giả này rất ngắn, chỉ vừa đến cườm tay thôi. Tôi thầm nghĩ: ‘Tuy vậy, chắc người này không phải một bác thợ cày, vì hai bàn tay của ông ta có vẻ rất mềm mại. Có lẽ là ông ta không biết cách ăn mặc, thế thôi…’ Cái áo của ông ta chỉ dài đến nửa thân mình. Tôi thầm nghĩ chắc là ông ta nghèo lắm. Quần của ông ta mặc quá chật và rõ ràng là quá dài, vì gấu quần lại vén ngược lên. Tôi tự nghĩ: ‘Trong bộ y phục này, chắc hẳn ông ta phải cảm thấy lúng túng trước mặt đức Đạt-lai Lạt-ma.’ Tôi lại tự hỏi, không biết có người nào cũng vừa tầm thước với ông, có thể cho ông ta mượn tạm một bộ y phục thích hợp hơn.
Khi đó, tôi mới nhìn xuống hai bàn chân ông ấy. Thật là một điều rất lạ lùng vì hai bàn chân ông ta bị nhét vào trong những vật rất dị kỳ, màu đen và bóng loáng, dường như bao phủ bằng một lớp nước đá! Những vật này thật là khác hẳn với những đôi ủng bằng nỉ của người Tây Tạng chúng tôi thường dùng. Tôi chưa bao giờ thấy những vật dị kỳ như thế!
Tôi ghi nhận các màu sắc trên hào quang của ông ta, cùng với sự kết luận của tôi. Vị sứ thần đôi khi nói chuyện bằng tiếng Tây Tạng, với một giọng khá chuẩn đối với một người ngoại quốc, nhưng rồi lại thốt ra một tràng những âm thanh lạ lùng mà tôi chưa nghe bao giờ. Về sau tôi mới biết rằng đó là tiếng Anh.
Pockets meant nothing to me in those days, nor did folded collars. In Tibet, those who have no need to do manual work have long sleeves which completely hide the hands. This man had short sleeves, reaching only to his wrists. “Yet he cannot be a labourer,” I thought, “for his hands look too soft. Perhaps he does not know how to dress.” But this fellow’s robe ended where his legs joined his body. “Poor very poor,” I thought. His trousers were too tight in the leg and too long, for the bottoms were turned up. “He must feel terrible looking like that in front of the Inmost One,” I thought. “I wonder if someone his size will lend him proper clothes.” Then I looked at his feet. Very, very strange. He had some curious black things on them. Shiny things, shiny as if they were covered with ice. Not boots of felt such as we wear, no, I decided that I would never see anything stranger than this. Quite automatically I was writing down the colours I saw and making notes of my own interpretation of them. Sometimes the man spoke in Tibetan, quite good for a foreigner, then lapsed into the most remarkable collection of sounds I had ever heard. “English”, as they told me afterwards when I again saw the Dalai Lama.
Khi ông ta thò tay vào cái túi vá ở bên hông và lấy ra một mảnh vải trắng nhỏ, tôi lấy làm ngạc nhiên. Dưới đôi mắt kinh ngạc của tôi, ông ta đưa mảnh vải trắng ấy lên trước mũi và miệng và phát ra một tiếng động giống như tiếng kèn. Tôi thầm nghĩ:
– Chắc hẳn đó là một cách chào đức Đạt-lai Lạt-ma!
Ông ta “chào” xong, liền cẩn thận đút mảnh vải trắng vào chỗ cũ. Kế đó, ông ta đưa tay vào bên trong áo và lấy ra nhiều tờ giấy thuộc một loại mà tôi chưa thấy bao giờ. Loại giấy ở Tây Tạng hơi dày, nhám và có màu vàng, còn loại giấy này trắng, mỏng và láng. Tôi tự hỏi: ‘Làm sao người ta có thể viết trên một tờ giấy như vậy? Không có gì trên đó để giữ lại cây viết chì, vì giấy trơn quá!’
Khi đó, người khách lấy ra một cây viết và viết lên trên giấy những hàng chữ nguệch ngoạc không thể tưởng tượng. Tôi cho rằng ông ta không biết viết, có lẽ ông ta chỉ làm bộ viết cho có dáng vậy thôi! Ông ta chắc hẳn là có tật nên bắt buộc phải ngồi trên một tấm gỗ đặt trên bốn chân, và để hai chân thòng xuống đất. Xương sống ông ta chắc bị tật nên ông ta phải dựa lưng vào hai mảnh gỗ đóng chặt vào phía sau chỗ ngồi.
Tôi cảm thấy động lòng thương hại ông ta vì không những quần áo ông ta chật hẹp và ngắn cũn cỡn trông thật buồn cười, ông ta lại còn không biết viết và thỉnh thoảng cố làm ra vẻ lịch sự bằng cách thổi một tiếng bằng một thứ kèn vải, rồi lại còn không thể ngồi vững vàng như mọi người, mà phải dựa lưng cho đỡ mỏi và để hai chân thòng xuống đong đưa trong khoảng không!
Ông ta cử động luôn luôn, ngồi tréo chân chữ ngũ rồi lại bỏ chân xuống. Thình lình, tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà thấy ông ta đưa chân trái lên, bàn chân chĩa thẳng về phía đức Đạt-lai Lạt-ma, một cử chỉ vô cùng hỗn láo và vô lễ đối với người Tây Tạng. Nhưng có lẽ ông ta chợt nghĩ ra điều đó, vì ông ta lại đổi ngay qua tư thế khác.
Đức Đạt-lai Lạt-ma dành cho ông ta một sự tiếp đãi trọng hậu bằng cách cũng ngồi trên một cái ghế gỗ, và cũng để hai chân thòng xuống như ông ta.
Vị sứ giả này có một cái tên rất lạ: Charles A. Bell, có nghĩa là “cái chuông”. Những màu sắc trên hào quang của ông ta biểu lộ một tình trạng sức khỏe suy kém vì có lẽ khí hậu của xứ này không hợp với thể chất của ông ta.
Ông ta dường như thật tình muốn giúp đỡ, phụng sự, nhưng theo những màu sắc trên hào quang cho thấy thì ông ta hiển nhiên là không muốn làm một việc mạo hiểm có thể liên lụy đến bản thân mình, nếu làm mất lòng chính phủ Anh. Ông ta muốn áp dụng một chính sách nào đó, nhưng vì chính phủ Anh không nghe theo, nên ông ta chỉ còn cách là hy vọng rằng tương lai sẽ chứng minh cho thiện chí của mình.
The man amazed me by reaching into one of the patches at his side and bringing out a piece of white cloth. Before my astounded eyes he put this cloth over his mouth and nose and made it sound like a small trumpet. “Some sort of a salute to the Precious One,” I thought. Salute over, he carefully put away the cloth behind the patch. He fiddled about with other patches and brought out various papers of a type I had not seen before. White, thin, smooth paper. Not like ours which was buff, thick, and rough. “How can one possibly write on that?” I thought. “There is nothing to scrape away the crayon, things would just slide off!” The man took from behind one of his patches a thin stick of painted wood with what looked like soot in the middle. With this he made the strangest squiggles I had ever imagined. I thought he could not write and was just pretending to by making these markings. “Soot? Who ever heard of anyone writing with a streak of soot. Just let him blow on it and see the soot fly off!”
He was obviously a cripple because he had to sit on a wooden framework which rested on four sticks. He sat down on the frame, and let his legs hang over the edge. I thought that his spine must have been damaged, because two more sticks from the frame on which he sat supported it. By now I was feeling really sorry for him: ill-fitting clothes, inability to write, showing off by blowing a trumpet from his pocket, and now, to make it even stranger, he could not sit properly but had to have his back supported and his legs dangling. He fidgeted a lot, crossing and uncrossing his legs. At one time, to my horror, he tipped the left foot so that the sole pointing at the Dalai Lama, a terrible insult if done by a Tibetan, but he soon remembered and uncrossed his legs again. The Inmost One did great honour to this man, for he also sat on one of these wooden frames and let his legs hang over. The visitor had a most peculiar name, he was called “Female Musical Instrument”, and he had two decorations in front of it. Now I should refer to him as “C. A. Bell”. By his auric colours I judged him to be in poor health, most probably caused by living in a climate to which he was not suited. He appeared genuine in his desire to be helpful, but it was obvious from his colours that he was afraid of annoying his government and of having his after-work pension affected. He wanted to take one course, but his government was not willing, so he had to say one thing and hope that his opinions and suggestions would be proved correct by time.
Chúng tôi đã có những tài liệu chính xác về vị sứ thần Charles A. Bell. Chúng tôi đã thu thập được những dữ kiện cần thiết như ngày tháng năm sinh cùng những điểm quan trọng trong đời ông ta. Nói tóm lại là tất cả những gì có thể giúp cho chúng tôi tiên đoán được tương lai của ông ta.
Các nhà chiêm tinh đã phát hiện rằng trong một tiền kiếp, ông ta đã sống ở Tây Tạng và mong ước được đầu thai qua bên Tây phương, với hy vọng là sẽ góp phần vào công việc tạo nên nhịp cầu thông cảm giữa Đông phương và Tây phương.
Gần đây, có người cho tôi hay rằng chính ông ta nói đến vấn đề ấy trong một tác phẩm của mình. Chúng tôi tin chắc rằng nếu ông ta có thể ảnh hưởng đến chính phủ Anh như ý ông ta muốn, thì sau này Tây Tạng đã không phải chịu một cơn binh biến khốc liệt.
Tuy nhiên, cuộc binh biến này đã được tiên tri từ trước, và những lời tiên tri bao giờ cũng được thực hiện. Chính phủ Anh có vẻ rất ngờ vực vì họ sợ rằng Tây Tạng sẽ liên minh với nước Nga, và nếu vậy sẽ không có lợi cho họ chút nào. Vì thế, Anh quốc từ chối không chịu ký hiệp ước với Tây Tạng và đồng thời cũng không muốn cho nước này thiết lập bang giao thân hữu với những nước khác. Sau đó, Sikkim, Bhutan và nhiều nước khác đều lần lượt ký hiệp ước với Anh quốc, nhưng Tây Tạng thì không. Bởi đó, người Anh bắt đầu vất vả lo soạn thảo một kế hoạch để xâm chiếm lãnh thổ xứ Tây Tạng.
Sứ giả Charles A. Bell có mặt tại chỗ vẫn biết chắc rằng chính phủ Tây Tạng không hề muốn liên kết với bất cứ một quốc gia nào. Họ chỉ muốn sống tự do, độc lập, và tránh mọi tiếp xúc với người ngoại quốc, vì những người này trong quá khứ chỉ toàn mang đến cho họ những tai họa, sự tàn phá và đau khổ.
We knew a lot about this Mr. Bell. We had all the data, his birth time, and various “highlights” in his career with which one could plot his course of events. The astrologers discovered that he had previously lived in Tibet and had, during his last life, expressed the wish to reincarnate in the West in the hope of assisting in an understanding between East and West. I have recently been given to understand that he mentions this in some book that he has written. Certainly we felt that if he had been able to influence his government in the way he desired there would have been no Communist invasion of my country. However, the forecasts decreed that there would be such an invasion, and the predictions are never wrong.
The English Government seemed to be very suspicious: they thought that Tibet was making treaties with Russia. This did not suit them. England would not make a treaty with Tibet, nor was she willing for Tibet to make friends with anyone else. Sikkin, Bhutan, anywhere but Tibet could have treaties, but not Tibet. So the English became hot under their peculiar collars in an attempt to invade us or strangle us—they did not mind which. This Mr. Bell, who was on the spot, saw that we had no desire to side with any nation; we wanted to stay on our own, to live life in our own way, and keep clear of all dealings with foreigners who, in the past, had brought us nothing but trouble, loss, and hardship.
Đức Đạt-lai Lạt-ma tỏ vẻ rất hài lòng khi tôi trình bày những nhận xét của tôi, sau khi sứ giả Bell đã lui gót. Nhưng dường như Ngài đang nghĩ đến việc bắt tôi phải làm việc nhiều hơn. Ngài nói: ‘À, phải đấy, chúng ta cần phát triển khả năng của con nhiều hơn nữa. Khả năng đó sẽ giúp ích cho con rất nhiều khi con sống ở các xứ phương xa. Chúng ta sẽ để cho con thụ huấn bằng một phương pháp thôi miên ráo riết hơn, để cho con được thâu thập một số kiến thức tối đa.’
Ngài gõ chuông gọi quan hầu cận và nói: ‘Ta muốn gặp Đại đức Minh Gia. Hãy mời người vào ngay lập tức.’ Vài phút sau, sư phụ tôi đã khoan thai bước đến. Tôi tự hỏi không biết ai là người có thể hối thúc sư phụ tôi đi nhanh hơn? Nhưng vì đức Đạt-lai Lạt-ma xem sư phụ tôi như một bạn hữu, nên Ngài không muốn hối thúc người.
Sư phụ ngồi gần bên tôi, trước mặt đức Đạt-lai Lạt-ma. Một người hầu cận mau mắn dâng trà và vài món thực phẩm của Ấn Độ. Khi chúng tôi đã an tọa đức Đạt-lai Lạt-ma cất tiếng nói: ‘Này đạo huynh Minh Gia, đạo huynh đã không lầm, vì Lobsang rất giỏi. Cậu ta có thể tiến bộ hơn nữa, và nhất định là phải như vậy. Vậy đạo huynh hãy lấy mọi quyết định cần thiết để cho cậu ta được một sự thụ huấn nhanh chóng và toàn hảo đến mức tối đa. Đạo huynh hãy sử dụng tất cả mọi phương tiện có sẵn, vì như chúng ta thường được cho biết trước, những ngày đen tối và tai họa dồn dập sẽ đến với xứ sở chúng ta, nên chúng ta cần có một người tài giỏi có thể biên soạn và gìn giữ những bộ kinh sách huyền vi cổ truyền.’
The Inmost One was pleased indeed with my remarks after this Mr. Bell had left. But he thought of me in terms of more work. “Yes, yes!” he exclaimed, “we must develop you even more, Lobsang. You will find it of the utmost use when you go to the Far Countries. We will have you given more hypnotic treatment, we must cram in all the knowledge that we can.” He reached for his bell and rang for one of his attendants. “Mingyar Dondup, I want him here, now!” he said. A few minutes later my Guide appeared and made his leisurely way across. Not for anyone would that Lama hurry! And the Dalai Lama knew him as a friend and so did not try to hasten him. My Guide sat beside me, in front of the Precious One. An attendant hurried along with more buttered tea and “things from India” to eat. When we were settled, the Dalai Lama said: “Mingyar, you were correct, he has ability. He can be developed still more, Mingyar, and he must be. Take whatever steps you consider necessary so that he is trained as quickly and as thoroughly as possible. Use any and all of our resources for, as we have been so often warned, evil times will come upon our country, and we must have someone who can compile the Record of the Ancient Arts.”
Như thế, hằng ngày tôi càng bận rộn hơn với nhiều công việc. Từ đó, tôi thường được triệu kiến bất ngờ vào điện để “nhận xét” hào quang các vị thượng khách của đức Đạt-lai Lạt-ma. Tôi đã trở nên một nhân vật quen thuộc của điện Potala và vườn Ngọc Uyển.
Ở điện Potala, tôi có thể sử dụng những ống kính viễn vọng mà tôi rất thích. Một trong những ống kính này là loại kính lớn để xem thiên văn, dựng trên một cái giá có ba chân, làm tôi thích thú nhất.Tôi đã từng trải qua nhiều giờ quan sát mặt trăng và các bầu tinh tú cho đến khuya.
Cùng với Đại đức Minh Gia, tôi thường đến Lhasa để nhìn xem các nhân vật của thủ đô. Với năng khiếu thần nhãn cùng kinh nghiệm rộng rãi về người và vật, sư phụ có thể xác minh và phát triển những nhận định của tôi. Thú vị nhất là đi đến các gian hàng và nghe người bán hàng lớn tiếng khen ngợi những sản phẩm đồ gốm của mình, và so sánh với những điều ông ta nghĩ để biết có đáng tin hay không. Trí nhớ của tôi cũng được mở mang, tôi lắng nghe trong nhiều giờ những đoạn kinh, và sau đó phải lặp lại. Không biết giai đoạn đó kéo dài bao lâu, chỉ biết rằng tôi đã nằm trong trạng thái thôi miên trong khi được đọc cho nghe những đoạn trong Kinh Thánh cổ xưa nhất của chúng tôi.
So the tempo of my days were increased. Often, from this time, I was sent for in a hurry to “interpret” the colours of some person, perhaps that of a learned abbot from a far distant lamasery, or a civil leader of some remote province. I became a well-known visitor to the Potala and to the Norbu Linga. In the former I was able to make use of the telescopes which I so enjoyed, particularly one large astronomical model on a heavy tripod. With this, late at night, I would spend hours watching the moon and the stars.
The Lama Mingyar Dondup and I frequently went into Lhasa City to observe visitors. His own considerable powers of clairvoyance, and his wide knowledge of people, enabled him to check and develop my own statements. It was most interesting to go to the stall of a trader and hear the man speak loud in praise of his wares, and compare them with his thoughts, which to us were not so private. My memory, too, was developed, for long hours I listened to involved passages, and then had to say them back. For unknown periods of time I lay in a hypnotic trance while people read to me passages from our oldest Scriptures.
Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Dịch bổ sung và biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam – VMC