Trong thời gian này, chúng tôi đi lên Cao Nguyên Chang Tang. Trong cuốn sách này sẽ chỉ đề cập ngắn gọn về vùng này, để viết về chuyến đi thám hiểm nơi này sẽ cần cần đến vài cuốn sách. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban ân huệ cho từng người một trong đoàn chúng tôi gồm mười lăm người và tất cả chúng tôi lên đường trong sự phấn chấn hăm hở. Trên lưng con la, vì những con la sẽ đi được những nơi mà ngựa không thể, chúng tôi đi chậm rãi theo con đường Tengri Tso, tiếp tục đến những hồ lớn tại Zilling Nor, và đi tiếp về hướng Bắc. Chậm rãi leo qua Tangla Range, và tiếp tục đi vào vùng đất chưa được khám phá. Rất khó để nói chúng tôi đi mất bao nhiêu lâu, bởi vì thời gian không có ý nghĩa với chúng tôi; không có lý do gì để phải vội vàng, chúng tôi đi ở tốc độ phù hợp với mình, tiếp kiệm sức lực và năng lượng cho những công việc khó nhọc hơn sau này.
Khi chúng tôi đi xa hơn, ngày càng sâu hơn vào vùng Cao nguyên, nền đất cũng cao dần lên, làm tôi nhớ đến mặt trăng khi nhìn qua kính thiên văn lớn trong cung điện Potala. Những dãy núi sừng sững bao la và những vực sâu thăm thẳm. Nơi đây phong cảnh giống hệt nhau. Những núi đá triền miên không dứt, và những khe nứt sâu thẳm không đáy. Chúng tôi di chuyển một cách khó khăn qua “phong cảnh mặt trăng” này, nhận thấy tình trạng trở nên khó khăn hơn. Cuối cùng, những con la không thể đi xa hơn được nữa. Trong không khí loãng, chúng sớm bị kiệt sức và không thể vượt qua những hẻm núi đá nơi mà chúng tôi cảm thấy ngây ngất chóng mặt ở cuối sợi dây thừng bện bằng lông con yak. Tại nơi kín gió mưa nhất mà chúng tôi có thể tìm được, chúng tôi để lại những con la và năm thành viên yếu nhất trong đoàn ở lại với chúng. Họ được che chắn khỏi những luồng gió tồi tệ nhất của vùng núi cằn cỗi đó, những cơn gió quét qua những mũi núi đá chĩa ra tua tủa giống như những chiếc răng nanh lởm chởm của chó sói. Ở nơi trú ẩn, có một cái hang mà đá mềm đã bị xói mòn theo thời gian. Một con đường dốc dẫn xuống thung lũng, nơi có một thảm thực vật thưa thớt, trên đó những con la có thể ăn. Một dòng suối ngân vang chảy siết dọc theo vùng đất và đổ xuống vách đá sâu hàng cây số, sâu đến nỗi không nghe thấy tiếng nước chạm vào đáy vực.
During this time we went to the Chang Tang Highlands. In this book there is no time for more than a brief mention of this region. To do the expedition justice would require several books. The Dalai Lama had blessed each of the fifteen members of the party and we had all set off in high spirits, mounted on mules: mules will go where horses will not. We made our slow way along by Tengri Tso, on to the huge lakes at Zilling Nor, and ever northwards. The slow climb over the Tangla Range, and on into unexplored territory. It is difficult to say how long we took, because time meant nothing to us: there was no reason for us to hurry, we went at our own comfortable speed and saved our strength and energy for later exertions.
As we made our way farther and farther into the Highlands, the ground ever rising, I was reminded of the face of the moon as seen through the large telescope at the Potala. Immense mountain ranges, and deep canyons. Here the vista was the same. The unending, eternal mountains, and crevices which seemed bottomless. We struggled on through this “lunar landscape”, finding the conditions becoming harder and harder. At last the mules could go no farther. In the rarefied air they were soon spent and could not manage to cross some of the rocky gorges where we swung dizzily at the end of a yak-hair rope. In the most sheltered spot we could find we left our mules and the five weakest members of the party stayed with them. They were sheltered from the worst blasts of that barren, wind-swept landscape by a spur of rock which towered upwards like a jagged wolf fang. At the base there was a cave where softer rock had been eroded by time. A precipitous path could be followed which would lead downwards to a valley where there was sparse vegetation on which the mules could feed. A tinkling stream dashed along the tableland and rushed over the edge of a cliff to fall thousands of feet below, so far below that even the sound of its landing was lost.
Chúng tôi nghỉ lại ở đây hai ngày trước khi khó nhọc leo lên cao hơn nữa. Lưng đau nhức vì đồ đạc mang theo, và phổi chúng tôi cảm thấy như thể sẽ vỡ vì thiếu không khí. Chúng tôi tiếp tục đi, vượt qua các vực sâu và hẻm núi, mà để vượt qua rất nhiều trong số đó, chúng tôi phải quăng những sợi dây thừng buộc móc sắt. Quăng và hy vọng rằng sẽ có chỗ móc an toàn ở đầu bên kia. Chúng tôi lần lượt đánh đu và leo theo dây sang bên kia khi đầu móc đã bám chắc chắn. Sau khi toàn bộ các thành viên của đoàn đã sang được bên kia, dây được kéo để thu lại. Đôi khi chúng tôi không tìm được chỗ để móc sắt bám vào, lúc đó một người trong đoàn sẽ phải buộc dây quanh bụng, và từ nơi cao nhất mà chúng tôi có thể leo lên, người đó sẽ phải cố gắng đánh đu sợi dây giống như một con lắc, tăng dần đà văng trong mỗi lần đu.
Khi sang đến bờ bên kia, người đó sẽ phải trèo lên chỗ tốt nhất mà anh ta có thể tìm điểm buộc sợi dây giăng ngang sang. Tất cả chúng tôi thay phiên nhau để làm việc này, vì đó là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Một nhà sư đã bị chết khi làm việc đó. Ông đã leo lên cao một vách đá ở bờ bên này của chúng tôi và đánh đu. Dường như ông đã đánh giá sai, vì ông đã va vào vách đá đối diện với sức mạnh khủng khiếp, khuôn mặt và óc của ông bị đập mạnh vào những tảng đá lởm chởm. Chúng tôi đã kéo cơ thể ông về, và cầu nguyện cho ông. Chằng có cách nào để chôn cất thi hài trong nền đá rắn chắc, vì thế chúng tôi đã để ông lại trong gió, mưa và những con chim. Vị sư tiếp theo phải làm việc này trông không sẵn sàng một chút nào, vì vậy tôi đã thay thế. Rõ ràng, với tôi, là theo những lời tiên tri về tôi, tôi sẽ khá an toàn và niềm tin của tôi đã được tưởng thưởng.
Cách xoay của riêng tôi rất thận trọng – mặc dù đã có những lời tiên tri! – và tôi đã bám được những ngón tay vào cạnh của tảng đá gần nhất. Chỉ khi đó tôi mới tìm cách trèo và đu mình lên, với hơi thở hổn hển gấp gáp và tim đập thình thịch như thể sắp nổ tung. Tôi nằm một lát, hoàn toàn kiệt sức, sau đó tôi trườn một cách khó nhọc lên trên sườn núi. Những người khác, những người bạn đồng hành tốt nhất có thể có, ném những sợi dây của họ để tôi có thể bắt được. Bây giờ túm chặt hai đầu dây, tôi cột chúng thật an toàn và gọi cho họ để thử kéo mạnh và kiểm tra chúng. Từng người một, họ vượt qua bằng cách lộn ngược người, tay và chân móc quanh sợi dây, áo choàng rung rinh trong gió lặng, những làn gió đã cản trở chúng tôi và làm khó thở.
Here we rested for two days before plodding on higher and higher. Our backs ached with the loads we were carrying, and our lungs felt as if they would burst for want of air. On we went, over crevices and ravines. Over many of them we had to toss iron hooks to which ropes were attached. Toss, and hope that there would be a safe hold at the other side. We would take turns to swing the rope with the hook, and take turns to swarm across when a hold was secured. Once across we had another end of rope so that when all the party had negotiated the canyon, the rope also could be brought over by pulling one end. Sometimes we could get no hold. Then one of us would have the rope tied around his waist, and from the highest point we could reach, would try to swing like a pendulum, increasing the momentum with each swing. With one of us across the other side, he would have to clamber up as best he could in order to reach a point where the rope would be roughly horizontal. We all took it in turns to do this, as it was hard and dangerous work. One monk was killed doing it. He had climbed high on our side of a cliff and let himself swing. Apparently he badly misjudged, for he crashed into the opposite wall with terrible force, leaving his face and his brains on the points of the jagged rocks. We hauled the body back, and had a service for him. There was no way of burying the body in solid rock, so we left him for the wind and the rain and the birds. The monk whose turn it now was did not look at all happy, so I went instead. It was obvious to me that in view of the predictions about me, I should be quite safe and my faith was rewarded. My own swing was cautious—in spite of the prediction!—and I reached with scrabbling fingers for the edge of the nearest rock. Only just did I manage to hang on and pull myself up, with the breath rasping my throat, and my heart pounding as if it would explode. For a time I lay, quite spent, then I managed to crawl a painful way up the mountain-side. The others, the best companions that anyone could have, swung their other rope to give me the best possible chance of reaching it. With the two ends now in my grasp, I made them secure and called out to them to pull hard and test it. One by one they came over, upside down, hands and feet linked over the rope, robes fluttering in the still breeze, the breeze which impeded us and did not help our breathing at all.
Trên đỉnh vách đá, chúng tôi nghỉ một lát và pha trà, mặc dù ở độ cao này, nhiệt độ sôi rất thấp, và trà thực sự không đủ để sưởi ấm chúng tôi. Hơi bớt mệt một chút, chúng tôi lại nhặt hành lý và loạng choạng tiến lên, vào trung tâm của khu vực khủng khiếp này. Ngay sau đó chúng tôi đến bên một dải băng, một dòng sông băng, có lẽ là vậy, và hành trình của chúng tôi càng trở nên khó khăn hơn. Chúng tôi không có giày chống trượt, không có rìu phá băng, hay những thiết bị leo núi; “thiết bị” của chúng tôi chỉ bao gồm những đôi giầy da có đế được buộc bằng sợi lông đủ để bám chặt, và những chiếc áo choàng.
Trong quá khứ, thần thoại Tây Tạng có Địa ngục Băng giá. Sự ấm áp là ân huệ cho chúng tôi, vì vậy trái ngược là rét buốt, do đó sẽ là địa ngục rét buốt. Chuyến đi lên Cao nguyên cho tôi biết rét buốt là gì!
Sau ba ngày vất vả đi trên dải băng, run rẩy trong gió rét buốt và mong muốn rằng chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy nơi này, dòng sông băng dẫn chúng tôi đi xuống giữa những tảng đá cao chót vót. Chúng tôi đi xuống mãi, dò dẫm và trượt chân, xuống một nơi sâu thẳm. Tiếp tục đi xa vài cây số, chúng tôi đi vòng quanh bờ núi và nhìn thấy phía trước làn sương mù trắng dày đặc. Từ xa chúng tôi không biết đó là tuyết hay mây, nó rất trắng và liên tục. Khi đến gần, chúng tôi nhìn thấy đó thực sự là sương mù, phía xa những dải xoắn tan vỡ dần và trôi đi.
At the top of the cliff we rested a while and made our tea, although at this altitude the boiling-point was low, and the tea did not really warm us. Somewhat less tired now, we again took up our loads and stumbled onwards into the heart of this terrible region. Soon we came to a sheet of ice, a glacier, maybe, and our process became even more difficult. We had no spiked boots, no ice-axes, or mountaineering equipment; our only “equipment” consisted of our ordinary felt boots with the soles bound with hair to afford some grip, and ropes.
In passing, Tibetan mythology has a Cold Hell. Warmth is a blessing to us, so the opposite is cold, hence the cold hell. This trip to the Highlands showed me what cold could be!
After three days of this shuffling upwards over the ice-sheet, shivering in the bitter wind and wishing that we had never seen the place, the glacier led us downwards between towering rocks. Down and down we went, fumbling and slipping, down into an unknown depth. Several miles farther on we rounded a shoulder of a mountain and saw before us a dense white fog. From a distance we did not know if it was snow or cloud, it was so white and unbroken. As we approached we saw that it was indeed fog, as tendrils kept breaking away and drifting off.
Đại Đức Minh Gia, là người duy nhất trong chúng tôi đã ở đây khi trước, mỉn cười vui thích: “Trông con ủ rũ quá! Nhưng con sẽ có những niềm vui ngay bây giờ đây.”
Chúng tôi chẳng thấy có gì thú vị ở phía trước cả. Sương mù. Rét buốt. Băng đông cứng dưới chân và bầu trời đông lạnh trên đầu chúng tôi. Đá lởm chởm như nanh trong miệng sói, những tảng đá luôn đe dọa làm chúng tôi bị thương. Vậy mà Sư phụ nói rằng chúng tôi sắp có “niềm vui”!
Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào sương mù rét buốt và ẩm ướt, lê bước khó nhọc. Chúng tôi không biết đây là đâu. Ôm áo khoác trong tay tất cả chúng tôi có ảo tưởng của sự ấm ấp. Thở hổn hển và rùng mình vì lạnh. Đi xa hơn và vẫn xa hơn nữa. Rồi dừng lại, sững sờ kinh ngạc và sợ hãi. Sương mù đã trở nên ấm áp, mặt đất cũng đang nóng lên. Những người đi phía sau vẫn còn một khoảng xa, và không thể nhìn thấy, đâm sầm vào chúng tôi. Trấn tĩnh lại phần nào khỏi sự kinh ngạc nhờ tiếng cười của Đại Đức Minh Gia, chúng tôi lại chen lấn về phía trước, một cách mù quáng, vươn tay với lấy người phía trước, người dẫn đường cảm thấy người bạn đồng hành đẩy anh ta về phía trước. Dưới chân chúng tôi, đá, sỏi lăn dưới giầy, đe dọa chuyến đi.
Đá ư? Sỏi ư? Rồi dòng sông băng, cả băng giá nữa đâu hết rồi? Làn sương mù bất ngờ mỏng dần, và chúng tôi đã xuyên qua nó. Từng người một, chúng tôi dò dẫm đi vào, phải, khi nhìn quanh tôi đã nghĩ rằng mình đã chết rét và đang được đưa lên Thiên đàng. Tôi dụi mắt bằng bàn tay nóng ấm; tôi tự véo mình và cong ngón tay gõ vào đá để xem liệu tôi đang là xương là thịt hay là linh hồn. Rồi sau đó, tôi nhìn quanh: Tám người bạn đồng hành đang ở bên tôi. Có thể nào tất cả chúng tôi đột nhiên bị đưa đi hết? Và nếu như vậy, thành viên thứ mười đã chết vì va vào đá thì sao? Và chúng tôi có xứng đáng với thiên đường mà tôi đang nhìn thấy phía trước mình không?
The Lama Mingyar Dondup, the only one of us who had been here before, smiled with satisfaction: “You do look a cheerless lot! But you will have some pleasure now.”
We saw nothing pleasant before us. Fog. Cold. Frozen ice below our feet and frozen sky above our heads. Jagged rocks like the fangs in a wolf’s mouth, rocks against which we bruised ourselves. And my Guide said that we were going to have “some pleasure”!
On into the cold and clammy fog we went, miserably plodding we knew not where. Hugging our robes about us for an illusion of warmth. Panting and shuddering with the cold. Farther, and yet farther in. And stopped, petrified with amazement and fright. The fog was becoming warm, the ground was growing hot. Those behind who had not reached so far, and could not see, bumped into us. Recovered somewhat from our stupefaction by the Lama Minh Gia Dondup’s laughter, we pushed forward again, blindly, reaching out for the man ahead, the one in the lead feeling unseeingly with his out-thrust staff. Below our feet stones threatened to trip us, pebbles rolled beneath our boots. Stones? Pebbles? Then where was the glacier, the ice? Quite suddenly the fog thinned, and we were through it. One by one we fumbled our way into—well, as I looked about me I thought that I had died of cold and had been transported to the Heavenly Fields. I rubbed my eyes with hot hands; I pinched myself and rapped my knuckles against a rock to see if I was flesh or spirit. But then I looked about: my eight companions were with me. Could we all have been so suddenly transported? And if so, what about the tenth member who had been killed against the rock face? And were we worthy of the heaven I saw before us?
Nhịp tim ba mươi trong cái lạnh đã ở bên kia màn sương mù. Giờ đây chúng tôi đang có nguy cơ khổ sở vì nóng! Không khí lờ mờ, mặt đất bốc hơi. Một dòng suối ngay bên chân chúng tôi nổi bọt từ lòng đất, được cuốn bởi hơi nước. Xung quanh chúng tôi là cỏ xanh ngát, xanh hơn bất cứ loại cây nào mà tôi từng nhìn thấy trước đây thảm có trải rộng phía trước chúng tôi cao hơn đầu gối. Chúng tôi sửng sốt và hoảng sợ. Cứ như là ma thuật, một điều gì đó khác xa với kinh nghiệm của chúng tôi. Sau đó Đại Đức Minh Gia nói: “Ta cũng giống như các con khi lần đầu tiên tới đây, đã ngắm nhìn không dứt! Các con đang nhìn như thể nghĩ rằng Thần Băng giá đang đùa với mình chăng!”
Tôi nhìn quanh, sợ hãi đến mức gần như không nhúc nhích được, và sau đó Sư phụ lại phải nhắc lần nữa: “Mọi người hãy nhảy qua suối, hãy nhảy qua, vì nước đang sôi. Chỉ một vài dặm nữa chúng ta sẽ tới một nơi rất đẹp để nghỉ ngơi.”
Người nói đúng, luôn như vậy. Đi khoảng năm cây số, chúng tôi nằm duỗi dài trên mặt đất phủ đầy rêu, bỏ hết áo khoác vì cảm thấy như đang bị đun sôi. Ở đây có những loại cây mà tôi chưa từng nhìn thấy trước đây, và có lẽ cũng không bao giờ còn nhìn thấy nữa. Những bông hoa màu sắc rực rỡ rải khắp nơi. Cây leo bám quanh các thân cây và các cành. Chếch phía bên phải nơi chúng tôi nghỉ ngơi, có thể nhìn thấy một hồ nước nhỏ và những gợn sóng hình tròn trên mặt nước chỉ ra sự hiện diện của sự sống trong đó. Chúng tôi đểu cảm thấy vô cùng thích thú, và đã hồi phục vì sự ấm áp và được đến một hành tinh khác của sự sống. Hoặc chúng tôi đã vượt qua cái rét buốt? Chúng tôi cũng không biết nữa!
Thirty heart-beats before we had been shivering with cold the other side of the fog-curtain. Now we were on the edge of collapse with the heat! The air shimmered, the ground steamed. A stream at our feet bubbled out of the earth itself, propelled by gouts of steam. About us there was green grass, greener than any I had ever seen before. Broad-leaved grass stood before us more than knee-high. We were dazed and frightened. Here was magic, something quite beyond our experience. Then the Lama Mingyar Dondup spoke: “If I looked like that when I first saw it, then I did look a sight! You fellows look as if you think the Ice Gods are having a sport with you.”
We looked about, almost too frightened to move, and then my Guide spoke again: “Let us jump over the stream, jump over, for the water is boiling. A few miles farther and we shall reach a really beautiful spot where we can rest.”
He was right, as ever. About three miles on we lay at full length on the moss-covered ground, lay without our robes as we felt as if we were being boiled. Here there were trees such as I had never seen before, and probably never shall see again. Highly coloured flowers bestrewed everything. Climbing vines laced the tree trunks and depended from the branches. Slightly to the right of the pleasant glade in which we rested we could see a small lake and ripples and circles on its surface indicated the presence of life within it. We still felt bewitched, we were sure that we had been overcome with the heat and passed to another plane of existence. Or had we been overcome with the cold? We did not know!
Những tán lá sum suê, giờ đây khi tôi đã đi nhiều nơi, tôi có thể nói rằng đó là vùng khí hậu nhiệt đới. có những loài chim mà ngay cả bây giờ vẫn còn lạ đối với tôi. Đây là vùng đất núi lửa. Suối nước nóng sủi bọt từ trong lòng đất, và có mùi lưu huỳnh. Sư phụ nói với chúng tôi rằng, theo ông được biết, có hai nơi giống như thế này trên vùng Cao nguyên. Người nói rằng nhiệt độ dưới lòng đất, và những dòng suối nóng, làm tan chảy băng, và những bức tường đá cao bao bọc thung lũng làm cho không khí ấm áp. Màn sương mù trắng dày đặc mà chúng tôi đã đi qua là nơi giao cắt của những dòng suối nóng và lạnh. Người cũng nói với chúng tôi rằng người đã nhìn thấy những bộ xương động vật khổng lồ, bộ xương mà, khi còn sống, phải là của một con vật cao từ sáu đến mười mét. Sau này chính tôi cũng đã nhìn thấy bộ xương như vậy.
Chính ở đây, lần đầu tiên tôi nhìn thấy Người Tuyết. Tôi đang cúi xuống hái thảo dược, một điều gì đó đã khiến tôi ngẩng đầu nhìn lên. Ngay gần đó, cách khoảng gần mười mét, là một sinh vật mà tôi đã từng nghe nói đến rất nhiều. những người làm cha mẹ ở Tây Tạng thường dọa những đứa trẻ nghịch ngợm bằng cách nói: “Hãy ngoan nào, nếu không Người Tuyết sẽ đến bắt con đi đấy!” Giờ đây, tôi nghĩ, một người tuyết sẽ bắt tôi đi và tôi chả thấy vui vẻ chút nào về điều đó. Chúng tôi nhìn nhau, cả hai bên đều đông cứng người vì sợ hãi trong một lúc mà dường như hàng thế kỷ. Nó chỉ tay vào tôi, và phát ra tiếng kêu meo meo lạ lùng giống như tiếng mèo con. Cái đầu dường như không có thùy trán, nhưng vát ngược về sau gần như trực tiếp từ chỗ lông mày rất rậm. Cằm rút xuống rất nhiều và những chiếc răng lớn và dẩu ra. Tuy nhiên, dung tích hộp sọ có vẻ ngoài tương tự như của người hiện đại, chỉ khác ở chỗ không có trán. Bàn tay và bàn chân lớn và bẹt. Hai chân cong và cánh tay dài hơn nhiều so với bình thường. Tôi đã quan sát thấy sinh vật bước đi trên mặt ngoài bàn chân giống như con người. (Khỉ và các sinh vật cùng loài khác không đi trên bề mặt bên ngoài.)
The foliage was luxuriant, now that I have travelled I should say that it was tropical. There were birds of a type even now strange to me. This was volcanic territory. Hot springs bubbled from the ground, and there were sulphurous odours. My Guide told us that there were, to his knowledge, two places only like this in the Highlands. He said that the underground heat, and the hot streams, melted the ice, and the high rock walls of the valley trapped the warm air. The dense white fog we had penetrated was the meeting-place of the hot and cold streams. He also told us that he had seen giant animal skeletons, skeletons which, in life, must have supported an animal twenty or thirty feet high. Later I saw bones myself.
Here I had my first sight of a yeti. I was bending picking herbs, when something made me look up. There, within ten yards of me, was this creature that I had heard so much about. Parents in Tibet often threaten naughty children with: “Behave yourself, or a yeti will get you!” Now, I thought, a yeti had got me and I was not happy about it. We looked at each other, both of us frozen with fright for a period which seemed ageless. It was pointing a hand at me, and uttering a curious mewing noise like a kitten. The head seemed to have no frontal lobes, but sloped back almost directly from the very heavy brows. The chin receded greatly and the teeth were large and prominent. Yet the skull capacity appeared similar to that of modern man with the exception of the missing forehead. The hands and feet were large and splayed. The legs were bowed and the arms were much longer than normal. I observed that the creature walked on the outer side of the feet as humans do. (Apes and others of that order do not walk on the outer surfaces.)
Khi tôi nhìn và có lẽ đã nhảy lên vì sợ hãi, hoặc vì một lý do nào đó khác, người tuyết rít lên, quay lưng và lao vụt đi. Dường như là nhảy bằng “một chân” và để lại dấu vết giống như những bước chân của người khổng lồ. Phản ứng của tôi cũng là chạy, theo hướng ngược lại! Sau này, khi nghĩ về lúc đó, tôi đi đến kết luận là tôi đã phá vỡ kỷ lục chạy nước rút của Tây Tạng ở độ cao năm ngàn mét.
Về sau chúng tôi đã nhìn thấy một vài người tuyết từ xa. Chúng vội vã trốn khỏi tầm nhìn của chúng tôi, và chúng tôi chắc chắn đã không khiêu khích chúng. Đại Đức Minh Gia đã nói với chúng tôi rằng những người tuyết này là sự thoái giống của loài người, khi đi theo những con đường khác nhau trong quá trình tiến hóa và họ chỉ có thể sống ở những nơi hẻo lánh nhất. Chúng tôi đã nghe khá thường xuyên những câu chuyện về loài người tuyết đã rời bỏ vùng cao nguyên và xuất hiện nơi ranh giới gần khu vực sinh sống. Có những câu chuyện về những người phụ nữ đi một mình bị những người tuyết nam bắt đi. Có thể đó là cách duy nhất mà họ có thể duy trì giống nòi. Chắc chắn có một vài nữ tu khẳng định điều này với chúng tôi khi mà sau này họ nói với chúng tôi rằng một trong số bề trên của họ đã bị một con người tuyết nam bắt đi trong đêm. Tuy nhiên, tôi không có thẩm quyền để viết về những điều như vậy. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi đã nhìn thấy người tuyết lớn và người tuyết nhỏ. Tôi cũng nhìn thấy những bộ xương của chúng.
As I looked and perhaps jumped with fright, or from some other cause, the yeti screeched, turned, and leaped away. It seemed to make “one-leg” jumps and the result was like giant strides. My own reaction was also to run, in the opposite direction! Later, thinking about it, I came to the conclusion that I must have broken the Tibetan sprint record for altitudes above seventeen thousand feet.
Later we saw a few yetis in the distance. They hastened to hide at sight of us, and we certainly did not provoke them. The Lama Mingyar Dondup told us that these yetis were throwbacks of the human race who had taken a different path in evolution and who could only live in the most secluded places. Quite frequently we heard tales of yetis who had left the Highlands and had been seen leaping and bounding near inhabited regions. There are tales of lone women who have been carried off by male yetis. That may be one way in which they continue their line. Certainly some nuns confirmed this for us later when they told us that one of their Order had been carried off by a yeti in the night. However, on such things I am not competent to write. I can only say that I have seen yeti and baby yetis. I have also seen skeletons of them.
Một vài người đã tỏ ra nghi ngờ tính xác thực những công bố liên quan đến người tuyết của tôi. Người ta rõ ràng đã viết nhiều cuốn sách về những phỏng đoán của họ, nhưng không một ai trong số những tác giả đó đã nhìn thấy người tuyết, như họ thừa nhận. Một vài năm trước đây Marconi đã bị cười nhạo khi ông nói rằng ông sẽ gửi đi một thông điệp qua đài phát thanh sang bên kia Đại Tây Dương. Các bác sĩ phương Tây long trọng khẳn định rằng con người di chuyển không quá tám mươi cây số một giờ hoặc họ sẽ chết khi đi qua các luồng không khí. Có câu chuyện về con cá được cho là “hóa thạch sống”. Bây giờ các nhà khoa học nhìn thấy chúng, thu giữ chúng, mổ xẻ chúng. Và nếu như người phương Tây cũng theo cách của mình, những người tuyết cổ xưa khốn khổ của chúng tôi sẽ bị bắt, bị mổ xẻ và được giữ gìn về mặt tinh thần. Chúng tôi tin rằng những người tuyết được đưa đến vùng cao nguyên và nơi nào đó, ngoại trừ rất hiếm người đi lang thang, họ đã tuyệt chủng. Lần gặp gỡ đầu tiên gây nên nỗi sợ hãi. Lần thứ hai đầy lòng trắc ẩn đối với sinh vật này của thời đại đã qua mà họ là những người bất hạnh đang bị diệt chủng vì sự căng thẳng của lối sống hiện đại.
Tôi đã sẵn sàng, khi những kẻ xâm lược bị đuổi ra khỏi đất nước Tây Tạng, để hộ tống một đoàn thám hiểm gồm những người hoài nghi và chỉ cho họ thấy những người tuyết ở trên cao nguyên. Thật đáng giá khi nhìn thấy bộ mặt của những thương nhân lớn này khi họ đương đầu với những điều ngoài những kinh nghiệm thương mại của họ. Họ có thể sử dụng bình thở ô xy và thuê những người khuân vác, tôi sẽ sử dụng áo choàng cũ của nhà sư. Máy quay phim có thể sẽ chứng minh sự thật. Ở Tây Tạng thời gian đó chúng tôi chưa có thiết bị chụp ảnh.
Some people have expressed doubts about the truth of my statements concerning the yetis. People have apparently written books of guesses about them, but none of these authors have seen one, as they admit. I have. A few years ago Marconi was laughed at when he said he was going to send a message by radio across the Atlantic. Western doctors solemnly asserted that Man could not travel at more than fifty miles an hour or they would die through the rush of air. There have been tales about a fish which was said to be a “living fossil”. Now scientists have seen them, captured them, dissected them. And if Western Man had his way, our poor old yetis would be captured, dissected and preserved in spirit. We believe that yetis have been driven to the Highlands and that elsewhere, except for very infrequent wanderers, they are extinct. The first sight of one causes fright. The second time one is filled with compassion for these creatures of a bygone age who are doomed to extinction through the strains of modern life.
I am prepared, when the Communists are chased out of Tibet, to accompany an expedition of skeptics and show them the yetis in the Highlands. It will be worth it to see the faces of these big business men when confronted with something beyond their commercial experience. They can use oxygen and bearers, I will use my old monk’s robe. Cameras will prove the truth. We had no photographic equipment in Tibet in those days.
Huyền thoại cổ xưa của chúng tôi kể lại rằng hàng thế kỷ trước đây Tây Tạng có những bờ biển trải dài. Điều chắc chắn là hóa thạch của các loài cá và sinh vật biển đã được tìm thấy khi mặt đất bị xáo trộn. Người Trung Quốc cũng có niềm tin tương tự. Bài vị của vua Đại Vũ, mà trước đây đặt trên đỉnh Kou-lou của dãy Heng tỉnh Hồ Bắc, có ghi nhận rằng vua Đại Vũ đã nghỉ lại trên sườn núi (vào năm 2278 trước Công nguyên) sau khi nỗ lực thoát khỏi “đại hồng thủy” khi đó đã nhấn chìm toàn bộ đất nước Trung Quốc ngoại trừ vùng đất cao nhất. Đá nguyên bản đã bị di chuyển đi, tôi nghĩ vậy, mà có những mô phỏng ở Wu-ch’ang Fu, một nơi gần Hán Khẩu. Một bản sao nữa ở trong đền thờ Ngọc Lâm (Yu-lin) gần Shao-hsing Fu tại Triết Giang (Chekiang). Theo niềm tin của chúng tôi, Tây Tạng là đã từng là một vùng đất thấp, giáp với biển, và vì những lý do vượt quá sự hiểu biết của chúng tôi, trái đất đã có những chấn động đáng sợ mà từ đó nhiều vùng đất đã bị chìm dưới nước, và những vùng khác nổi lên cao thành núi.
Cao nguyên Chang Tang có rất nhiều hóa thạch, và bằng chứng cho thấy rằng tất cả vùng này đều từng là bờ biển. Những vỏ ốc khổng lồ, màu sắc sống động, bọt biển hóa đá kỳ lạ, và những rặng san hô rất phổ biến. Vàng cũng vậy, có thể nhặt được những cục vàng ở đây dễ dàng như nhặt những viên sỏi. Nước chảy ra từ sâu trong lòng đất có nhiệt độ ở mọi mức, từ nhiệt độ sôi tới đóng băng. Đó là vùng đất của những tương phản kỳ diệu. Nơi đây có không khí nóng ẩm mà chúng tôi chưa bao giờ biết đến. Đi xa vài mét, ngay phía bên kia của màn sương mù là cái rét buốt đến mức có thể hủy hoại sự sống và làm cho cơ thể giòn tan như thủy tinh. Có những thảo mộc thuộc loại hiếm nhất mọc ở đây, và chỉ vì chúng mà chúng tôi đã thực hiện chuyến đi này. Ở đây cũng có nhiều loại trái cây, có những loại mà chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Chúng tôi đã nếm chúng và rất thích, chúng tôi ăn đến no nê … một hình phạt nặng nề. Trong đêm và cả ngày hôm sau, chúng tôi bận rộn thu hái các loại thảo mộc. Dạ dày chúng tôi không quen với thức ăn này và sau đó chúng tôi đã bỏ lại những trái cây này.
Our old legends relate that centuries ago Tibet had shores washed by the seas. Certain it is that fossils of fish and other marine creatures are to be found if the surface of the earth is disturbed. The Chinese have a similar belief. The Tablet of Yü which formerly stood on the Kou-lou peak of Mount Hêng in the province of Hu-pei records that the Great Yü rested upon the site (in 2278 B.C.) after his labour of draining off the “waters of the deluge” which at the time submerged all China except the highest lands. The original stone has, I believe, been removed, but there are imitations at Wu-ch’ang Fu, a place near Hankow. A further copy is in the Yu-lin temple near Shao-hsing Fu in Chekiang. According to our belief, Tibet was once a low land, by the sea, and for reasons beyond our certain knowledge there were frightful earth-convulsions during which many lands sank beneath the waters, and others rose up as mountains.
The Chang Tang Highlands were rich in fossils, and in evidence that all this area had been a seashore. Giant shells, of vivid colours, curious stone sponges, and ridges of coral were common. Gold, too, was here, lumps of it which could be picked up as easily as could the pebbles. The waters which flowed from the depths of the earth were of all temperatures from boiling gouts of steam to near-freezing. It was a land of fantastic contrasts. Here there was a hot, humid atmosphere such as we had never before experienced. A few yards away, just the other side of a fog-curtain, there was the bitter cold that could sap the life and render a body as brittle as glass. The rarest of rare herbs grew here, and for those alone we had made this journey. Fruits were there, too, fruits such as we had never before seen. We tasted them, liked them, and satiated ourselves . . . the penalty was a hard one. During the night and the whole of next day we were too busy to gather herbs. Our stomachs were not used to such food. We left those fruits alone after that!
Chúng tôi khuân tối đa các loại thảo mộc, và trở lại con đường cũ ngang qua làn sương mù. Cái lạnh thật khủng khiếp. Có lẽ tất cả chúng tôi đều cảm thấy thích quay trở lại và sống trong thung lũng tuyệt vời kia. Một vị lạt ma đã không thể đối mặt với cái rét buốt một lần nữa. Một vài giờ sau khi vượt qua màn sương mù ông đã suy sụp, và mặc dù chúng tôi đã cắm trại và hết sức nỗ lực để giúp, ông vẫn không gượng lại được và lên thiên đường trong đêm. Chúng tôi đã làm cách tốt nhất để giúp ông, cả đêm đó chúng tôi đã cố gắng để làm ấm ông bằng cách nằm sát bên ông, nhưng cái rét buốt của vùng núi khô cằn đã quá khắc nghiệt. Ông ngủ, và không dậy nữa. Những đồ ông mang, chúng tôi chia nhau mang về, mặc dầu trước đó chúng tôi đã cân nhắc mang ở mức tôi đa của mình. Trở về qua vùng núi lấp lánh băng giá chúng tôi lần từng bước đau đớn. Sức mạnh của chúng tôi dường như đã bị suy sụp bởi sự ấm áp thoải mãi của thung lũng ẩn khuất, và bây giờ chúng tôi không còn đủ lương thực. Trong hai ngày cuối cùng của hành trình trở về chỗ những con la chúng tôi không ăn một chút gì cả, chúng tôi không còn gì hết, thậm chí cả trà để uống cũng không còn.
Khi chỉ còn vài cây số, một người trong đoàn đã bị ngã và không dậy được nữa. Rét, đói khát, và sự gian khổ đã cướp đi một người nữa của chúng tôi. Và rồi vẫn còn một người nữa đã ra đi. Chúng tôi đến nơi cắm trại để tìm bốn nhà sư đang đợi chúng tôi. Bốn nhà sư đã lao vào để giúp chúng tôi vượt qua những cây số cuối cùng của giai đoạn này. Chỉ bốn người, nhà sư thứ năm đã mạo hiểm ra ngoài cơn gió mạnh và bị cuốn đi khỏi gờ đá rơi xuống vực sâu phía dưới. Bằng cách nằm úp mặt xuống, và chân được giữ chặt nên tôi không bị trượt đi, tôi nhìn thấy ông nằm dưới sâu hàng trăm mét, máu nhuộm đỏ áo choàng.
We loaded ourselves to the limit with herbs and plants, and retraced our footsteps through the fog. The cold the other side was terrible. Probably all of us felt like turning back and living in the luxuriant valley. One lama was unable to face the cold again. A few hours after passing the fog-curtain he collapsed, and although we camped then in an effort to help him, he was beyond aid, and went to the Heavenly Fields during the night. We did our best—throughout that night we had tried to warm him, lying on each side of him, but the bitter cold of that arid region was too much. He slept, and did not awaken. His load we shared between us, although we had considered before that we were laden to the limit. Back over that glittering sheet of age-old ice we retraced our painful steps. Our strength seemed to have been sapped by the comfortable warmth of the hidden valley, and we had insufficient food now. For the last two days of our journey back to the mules we did not eat at all—we had nothing left, not even tea.
With yet a few more miles to go, one of the men in the lead toppled over, and did not rise. Cold, hunger, and hardship had taken one more from among us. And there was still another who had departed. We arrived at the base camp to find four monks waiting for us. Four monks who leapt to their feet to aid us cover the last few yards to this stage. Four. The fifth had ventured out in a gale of wind and had been blown over the edge into the canyon below. By laying face down, and having my feet held so that I could not slip, I saw him lying hundreds of feet below, covered in his blood red robe which was now, literally, blood red.
Trong ba ngày tiếp theo, chúng tôi nghỉ ngơi cố gắng lấy lại sức. Không chỉ có mệt mỏi và kiết sức đã khiến chúng tôi không thể đi, mà còn vì gió rít trong khe đá, làm lăn những tảng đá, lùa những đám bụi cắt da thịt vào trong hang của chúng tôi. Bề mặt những con suối nhỏ bị thổi bay thành những tia nước sắc mạnh. Suốt đêm gió lốc tru lên xung quanh như lũ quỷ đang muốn xé nát chúng tôi. Từ một nơi nào đó ngay gần, đất đá rung chuyển đang đổ xô tới ầm ĩ. Lại còn nữa, một tảng đá khổng lồ từ trên dãy núi cao đã không chịu nổi cơn gió và nước chảy xiết đã gây ra lở đất. Sáng sớm ngày thứ hai, trước khi tia sáng ban ngày tới được thung lũng bên dưới, trong khi chúng tôi vẫn còn trong ánh sáng phát quang ngay trước lúc bình minh của những ngọn núi, một tảng đá lớn từ trên đỉnh rơi xuống chúng tôi. Chúng tôi nghe tiếng nó đang đến và cố túm tụm vào với nhau, cố gắng thu mình nhỏ nhất có thể. Nó rơi xuống như thể những con quỷ đang lái xe lao vào chúng tôi từ trên bầu trời. Nố gầm rống lên ở bên dưới, kèm theo đó là cơn mưa của những tảng đá. Tiếng va chạm và rung lên kinh hoàng khi nó đập vào mảnh đất phía trước chúng tôi. Rìa đá rung và lắc dữ dội, và một đoạn dài khoảng bốn mét rơi ra và vỡ tan tành. Gần như ngay sau đó, từ bên dưới vọng đến tiếng vang và rung chuyển của những mảnh đá rơi. Vậy là người bạn của chúng tôi đã được chôn cất.
Thời tiết dường như trở nên tệ hơn. Chúng tôi quyết định sẽ lên đường vào sớm ngày hôm sau trước khi chúng tôi bị ngăn chặn hoàn toàn. Thiết bị của chúng tôi, có thể gọi như vậy, đã được sửa sang cẩn thận. Những sợi dây thừng đã được thử nghiệm, và những con la đã được kiểm tra từng vết loét hay vết cắt. Vào lúc bình minh ngày hôm sau, thời tiết có vẻ dịu đi một chút. Chúng tôi rời đi với cảm giác vui thích khi nghĩ về việc trở về nhà. Lúc này chúng tôi là một đội mười một người thay vì mười lăm người rất phấn khởi ngày lên đường. Ngày qua ngày, chúng tôi lê bước, chân đau và mệt mỏi, những con la của chúng tôi chở những bao tải đầy thảo mộc. Chúng tôi đi chậm, thời gian chẳng có ý nghĩa gì với chúng tôi cả. Chúng tôi di chuyển một cách khó khăn nặng nhọc trong tình trạng mê mụ vì kiệt sức. Thời gian này chúng tôi chỉ có một nửa khẩu phần ăn, và thường xuyên đói.
During the next three days we rested and tried to regain some of our strength. It was not merely tiredness and exhaustion which prevented us from moving, but the wind which shrilled among the rocks, trundling pebbles before it, sending cutting blasts of dust-laden air into our cave. The surface of the little stream was whipped off and blown away like a fine spray. Through the night the gale howled around us like ravening demons lusting for our flesh. From somewhere near came a rushing, and a “crump-crump” followed by an earth-shaking thud. Yet another immense boulder from the mountain ranges had succumbed to the attrition of wind and water and caused a landslide. Early in the morning of the second day, before the first light had reached the valley below, while we were still in the pre-dawn luminescence of the mountains, a huge boulder crashed from the peak above us. We heard it coming and huddled together, making ourselves as small as possible. Down it crashed, as if the Devils were driving their chariots at us from the skies. Down it roared, accompanied by a shower of stones. A horrid crash and trembling as it struck the rocky tableland in front of us. The edge shook and wavered, and some ten or twelve feet of the ledge toppled and broke away. From below quite a time later, came the echo and reverberation of the falling debris. So was our comrade buried.
The weather seemed to be getting worse. We decided that we would leave early on the next morning before we were prevented. Our equipment—such as it was—was carefully overhauled. Ropes were tested, and the mules examined for any sores or cuts. At dawn the next day the weather seemed to be a little calmer. We left with feelings of pleasure at the thought of being homeward bound. Now we were a party of eleven instead of the fifteen who had so cheerfully started out. Day after day we plodded on, footsore and weary, our mules bearing their loads of herbs. Our progress was slow. Time had no meaning for us. We toiled on in a daze of fatigue. Now we were on half rations, and constantly hungry.
Cuối cùng chúng tôi lại nhìn thấy cái hồ một lần nữa, và chúng tôi vô cùng sung sướng khi nhìn thấy một đoàn dân chăn bò gần đó. Các thương nhân chào đón chúng tôi, thúc giục chúng tôi ăn và uống trà, và làm mọi cách để có thể giảm bớt tình trạng kiệt sức của chúng tôi. Chúng tôi bị rách nát và bầm dập. Áo choàng của chúng tôi rách rưới, và chân chúng tôi bị chảy máu ở những vết rộp lớn đã bị vỡ. Nhưng chúng tôi đã đến cao nguyên Chang Tang và trở về! Sư phụ tôi đã hai lần đến đó, có lẽ thầy tôi là người duy nhất trên thế giới đã thực hiện hai chuyến đi như vậy.
Các thương nhân đã chăm sóc chúng tôi rất tận tình. Ngồi vòng quanh bên đống lửa đốt bằng phân bò yak trong đêm tối, họ lắc đầu ngạc nhiên khi chúng tôi kể về hành trình của mình. Chúng tôi thích những câu chuyện của họ về các chuyến đi đến Ấn Độ, và về những cuộc gặp gỡ với các thương nhân khác đến từ Hindu Kush. Chúng tôi rất tiếc khi phải chia tay với những người đàn ông này và mong là họ sẽ đi cùng đường với chúng tôi. Nhưng họ vừa mới xuất phát từ Lhasa, trong khi chúng tôi đang trở về đó. Vì thế, vào buổi sáng, chúng tôi quyến luyến chia tay nhau với lời chúc tốt lành.
Nhiều nhà sư không trò chuyện với các thương nhân, nhưng Đại Đức Minh Gia dạy rằng tất cả mọi người đều bình đẳng: chủng tộc, màu da, hay tín ngưỡng đều không có ý nghĩa. Chỉ có mục đích và hành động mới là đáng kể mà thôi.
Bây giờ sức khỏe của chúng tôi đã khá hơn, chúng tôi tiếp tục đi về nhà. Vùng quê đã trở nên xanh tươi hơn, màu mỡ hơn, và cuối cùng chúng tôi đã nhìn thấy mái vàng lấp lánh của cung điện Potala và tu viện Chakpori thân thiết của chúng tôi, chỉ cao hơn Peak một chút. La là giống vật khôn ngoan, chúng vội vã đi đến nhà của chúng ở làng Sho, và chúng kéo mạnh đến nỗi chúng tôi rất khó khăn để giữ chúng lại. Người ta có thể nghĩ rằng chúng đã đến Chang Tang chứ không phải chúng tôi!
At last we came in sight of the lakes again, and to our great joy we saw that a caravan of yaks grazed near by. The traders welcomed us, pressed food and tea on us and did all they could to ease our weariness. We were tattered and bruised. Our robes were in rags, and our feet were bleeding where great blisters had burst. But—we had been to the Chang Tang Highlands and returned—some of us! My Guide had now been twice, perhaps the only man in the world to have made two such journeys.
The traders looked after us well. Crouched round the yak-dung fire in the dark of the night they wagged their heads in amazement as we told of our experiences. We enjoyed their tales of journeys to India, and of meetings with other traders from the Hindu Kush. We were sorry to leave these men and wished that they were going in our direction. They had but recently set out from Lhasa; we returning there. So, in the morning, we parted with mutual expressions of good will.
Many monks will not converse with traders, but the Lama Mingyar Dondup taught that all men are equal: race, colour, or creed meant naught. It was a man’s intentions and actions only that counted.
Now our strength was renewed, we were going home. The countryside became greener, more fertile, and at last we came in sight of the gleaming gold of the Potala and our own Chakpori, just a little higher than the Peak. Mules are wise animals—ours were in a hurry to get to their own home in Shö, and they pulled so hard that we had difficulty in restraining them. One would have thought that they had been to the Chang Tang—and not us!
Chúng tôi vui mừng đi trên con đường lát đá lên ngọn Thiết Sơn. Niềm vui được trở về từ Chambala, như cách chúng tôi gọi miền Bắc băng giá.
Bây giờ bắt đầu vòng tiếp đón chúng tôi, nhưng trước tiên chúng tôi nhìn thấy Đấng Thái Tuế. Ngài phản ứng sôi nổi. “Các vị đã làm được những điều mà tôi muốn làm, nhìn thấy những gì mà tôi tha thiết mong muốn được xem. Ở đây tôi có “mọi quyền lực”, nhưng tôi là một tù nhân giữa những người của tôi. Càng có nhiều quyền lực, càng ít tự do: cấp bậc càng cao, càng có nhiều gia nô. Và tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả để được nhìn thấy những gì mà các vị đã thấy.”
Đại Đức Minh Gia, với vai trò trưởng đoàn thám hiểm, đã được trao khăn danh dự, với ba nút thắt màu đỏ. Vì tôi là người trẻ tuổi nhất trong đoàn nên tôi được vinh danh tương tự. Tôi cũng biết rõ rằng một phần thưởng tại “hai đầu” bao gồm mọi thứ ở giữa!
Trong nhiều tuần sau đó, chúng tôi đi đến các tu viện khác, để giảng giải, phân phối các loại thảo dược đặc biệt, và để cho tôi có cơ hội được ngắm nhìn các quận khác. Lần đầu tiên chúng tôi được đến thăm “Tam đỉnh viện”, Drepung, Sera, và Ganden. Từ đó chúng tôi đi xa hơn, tới Dorjethag, và tới Samye, cả hai nơi này đều ở bên bờ sông Tsangpo, cách xa hơn sáu chục cây số. Chúng tôi cũng đến thăm tu viện Samden, nằm giữa các hồ Du-me và Yamdok, cao hơn bốn nghìn mét so với mực nước biển. Đó cũng là một sự trợ giúp để theo hành trình trên sông Kyi Chu của riêng chúng tôi. Đối với chúng tôi nó thực sự được đặt tên rất ý nghĩa, dòng sông Hạnh phúc.
Việc học của tôi vẫn được duy trì liên tục, trong khi cưỡi ngựa, trên đường, khi dừng, và cả khi tôi nghỉ ngơi. Lúc này, thời gian cho kỳ thi lên cấp Lạt ma đã đến gần, và vì thế chúng tôi trở lại Chakpori một lần nữa để tôi không bị phân tâm.
We climbed the stony road up the Iron Mountain with joy. Joy at being back from Chambala, as we call the frozen north.
Now began our round of receptions, but first we had to see the Inmost One. His reaction was illuminating. “You have done what I should like to do, seen what I ardently desire to see. Here I have ‘all-power’, yet I am a prisoner of my people. The greater the power, the less the freedom: the higher the rank, the more a servant. And I would give it all to see what you have seen.”
The Lama Mingyar Dondup, as leader of the expedition, was given the Scarf of Honour, with the red triple knots. I, because I was the youngest member, was similarly honoured. I well knew that an award at “both ends” embraced everything in between!
For weeks after we were travelling to other lamaseries, to lecture, to distribute special herbs, and to give me the opportunity of seeing other districts. First we had to visit “The Three Seats”, Drepung, Sera, and Ganden. From thence we went farther afield, to Dorje-thag, and to Samye, both on the River Tsangpo, forty miles away. We also visited Samden Lamasery, between the Dü-me and Yamdok Lakes, fourteen thousand feet above sea-level. It was a relief to follow the course of our own river, the Kyi Chu. For us it was truly well named, the River of Happiness.
All the time my instruction had been continued while we rode, when we stopped, and when we rested. Now the time of my examination for the Lama degree was near, and so we returned once again to Chakpori in order that I should not be distracted.
Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Dịch bổ sung và biên tập: Cộng đồng thiền Việt Nam – VMC