Chương IX – Câu chuyện của Rampa – Lobsang Rampa

Trung tâm Việc làm là một căn nhà ảm đạm trên một con phố nhỏ. Tôi đạp xe đến đó, xuống xe và đi bộ vào. “Muốn mất xe đạp à?” một giọng nói vang lên sau lưng tôi. Tôi xoay lưng nhìn người hỏi. “Chắc là những người thất nghiệp thì không lấy cắp của nhau đâu nhỉ?”, tôi hỏi.

“Anh hẳn là người mới đến đây rồi; xích xe lại đi không là đi bộ về đấy.”, anh ta nhún vai rồi đi vào trong tòa nhà. Tôi quay lại, và lục tìm trong túi đồ treo trên xe. Đây, có một sợi xích và khóa. Đang định lắp xích vào bánh xe như tôi từng thấy người khác làm, tôi sực nghĩ – thế chìa khóa đâu nhỉ? Tôi lại vụng về tìm trong những chiếc túi xa lạ và lôi ra được một xâu chìa khóa. Thử hết chìa này đến chìa khóa, cuối cùng tôi cũng tìm được đúng chiếc cần tìm.

Tôi đi theo lối dẫn và bước vào tòa nhà. Theo bảng chỉ đường bằng giấy bìa với những mũi tên vẽ bằng mực đen, tôi rẽ phải và bước vào một căn phòng với rất nhiều ghế gỗ cứng đặt san sát nhau.

THE exchange was a dismal house in a side street. I rode up, dismounted, and started to walk in the entrance. “Want your bike stolen?” asked a voice behind me. I turned to the speaker. “Surely the unemployed do not steal from each other?” I asked.

“You must be new around here; put a lock and chain round the bike or you will have to walk home.” With that the speaker shrugged his shoulders and went into the building. I turned back and looked in the saddle-bag of the machine. Yes, there was a lock and chain. I was just going to put the chain round the wheel as I had seen others do when a horrid thought struck me—where was the key? I fumbled in those unfamiliar pockets and brought out a bunch of keys. Trying one after the other, I eventually found the correct one.

I walked up the path and into the house. Cardboard signs with black inked arrows pointed the way. I turned right and entered a room where there were a lot of hard wooden chairs packed tightly together.

 

“Chào Giáo sư!”, có tiếng nói vang lên. “Lại đây ngồi cạnh tôi để chờ đến lượt này.”

Tôi lại gần và chen vào một chiếc ghế cạnh anh ta. “Sáng nay trông anh hơi lạ,” anh ta tiếp tục nói. “Anh đã làm gì mình thế?”

“Hello, Prof!” said a voice. “Come and sit by me and wait your turn.”

I moved to the speaker and pushed my way to a chair beside him. “You look different this morning,” he continued. “What have you been doing to yourself?”

Tôi để anh ta tiếp tục nói, lắng nghe và nhặt những mảnh thông tin vụn vặt từ câu chuyện. Khi thư ký gọi tên, mọi người bước lên và sẽ ngồi ngay trước bàn thư ký. Một cái tên gọi nghe quen quen một cách mơ hồ được xướng lên. “Là người mình quen sao?” tôi tự hỏi. Không ai di chuyển cả. Cái tên được gọi lại. “Đi đi – là anh kìa!”, người bạn mới của tôi nhắc nhở. Tôi đứng lên và đi về phía bàn thư ký, rồi ngồi xuống như tôi thấy những người khác đã làm.

I let him do the talking, picking up stray bits of information. The clerk called names, and men went up to his desk and sat before him. A name was called which seemed vaguely familiar. “Someone I know?” I wondered. No one moved. The name was called again. “Go on—that’s you!” said my new friend. I rose and walked to the desk and sat down as I had seen the others do.

“Sáng nay anh làm sao thế?” người thư ký hỏi. “Tôi thấy anh đến, rồi lại không thấy đâu nữa, tôi tưởng anh đã về nhà rồi chứ.” Anh ta nhìn tôi chăm chú. “Kiểu gì thì sáng nay anh cũng trông khác lắm. Không thể do kiểu tóc được, vì anh làm gì có tóc”. Rồi anh ta ngồi thẳng người và nói, “Không, thật ngại là chẳng có việc gì cho anh cả. Chúc anh may mắn lần sau. Xin mời người tiếp theo.”

“What’s the matter with you this morning?” asked the clerk. “I saw you come in, then I lost sight of you and thought you had gone home.” He looked at me carefully. “You look different this morning, somehow. Can’t be hair style, because you haven’t any hair.” Then he straightened up and said, “No, nothing for you, I’m afraid. Better luck next time. Next, please.”

Tôi bước ra, lòng nặng trĩu, và lại đạp xe trở về Hampton Court. Tôi ghé mua một tờ báo và tiếp tục đạp xe dọc bờ sông Thames. Chỗ này là một điểm tham quan đẹp mà người London hay ghé đến mỗi khi có kỳ nghỉ. Tôi ngồi bên bờ sông rậm cỏ, tựa lưng vào một thân cây và đọc mục Tuyển Dụng trên tờ báo.

I walked out, feeling despondent, and cycled back to Hampton Court. There I bought a newspaper, and continued on to the banks of the Thames. This was a beauty spot, a place where Londoners came for a holiday. I sat down on the grassy bank, with my back to a tree, and read the Situations Vacant columns in the paper.

“Anh sẽ chẳng bao giờ tìm được việc nhờ vào Trung tâm Việc làm đâu!”, một giọng nói vang lên, và một người đàn ông bước ra khỏi lối đi rồi ngồi phịch xuống trên cỏ cạnh tôi. Nhổ một cọng cỏ thân dài, anh ta nhai hết bên này rồi đến bên kia trong miệng. “Họ chẳng trả cho anh trợ cấp thất nghiệp đúng không? Rồi họ cũng chẳng giải quyết cho anh đâu. Họ giao việc cho những người họ phải trả trợ cấp thôi, thế là họ tiết kiệm được tiền, thấy chưa? Nếu họ giao việc cho anh thì họ lại phải trả trợ cấp cho gã nào khác và Chính phủ sẽ làm ầm lên việc ấy, thấy chưa?”

“You’ll never get a job through the Exchange!” said a voice, and a man came off the path and plonked down on the grass beside me. Plucking a long-stemmed grass, he chewed it reflectively, rolling it from side to side of his mouth. “They don’t pay you any dole, see? So they don’t get you fixed up either. They gives the jobs to them as what they has to pay. Then they save money, see? If they get you a job they have to keep somebuddy else on the dole and the Gov’ment makes a fuss, see?”

Tôi nghĩ thế là kết thúc rồi. Anh ta nói nghe rất có lý, mặc dù ngữ pháp của anh ta làm tôi váng hết cả đầu. “Thế thì anh nên làm gì?” Tôi hỏi.

“Tôi á! Tin tôi đi, tôi chẳng cần việc đâu, tôi đi lấy trợ cấp thôi, thế cũng đủ sống rồi. Ồ, tốt thoi. Nếu ông thật sự cần việc, hãy đến một trong những Bureys ấy – đây – nhìn đây này.” Anh ta với tay và lấy tờ báo của tôi, bỏ mặc tôi đang mơ hồ tự hỏi Burey là gì. Tôi nghĩ quả thật có quá nhiều thứ phải học. Tôi đã ngờ nghệch biết bao trong cái thế giới phương Tây này. Liếm ngón tay và lầm bẩm bảng chữ cái, anh ta vụng về lật qua những trang báo. “Đây xem này!” anh ta reo lên mừng rỡ. “Trung tâm tuyển dụng Bureys – đây – ông tự xem đi.”

I thought it over. It made sense to me, even if the man’s grammar almost made my head swim. “Well, what would you do?” I asked.

Me! Blimey, I don’t want no job, I just goes to get the dole, it keeps me, that an’ a bit I makes on the side, like. Well, Guv. If you really want a job, go to one of them Bureys—here—let’s have a look.” He reached over and took my paper, leaving me to wonder blankly what a Burey could be. What a lot there was to learn, I thought. How ignorant I was of everything to do with the Western world. Licking his fingers, and mumbling the letters of the alphabet to himself, the man fumbled through the pages. “Here y’are!” he exclaimed triumphantly. “Employment Bureys—here—take a look at it yerself.”

Tôi lướt mắt nhanh nhìn sang cột nội dung được chỉ bởi ngón tay cái rất bẩn của anh ta. Văn phòng Tuyển dụng, Công ty giới thiệu việc làm. “Nhưng đây là công việc cho phụ nữ,” tôi nói với giọng bất mãn.

Quickly I scanned the column so clearly indicated by his very dirty thumb mark. Employment Bureaux, Employment Agencies. Jobs. “But this is for women,” I said disgustedly.

“Cứ đi đi!” anh ta trả lời, “Anh không biết đọc à, nó ghi là có cả cho đàn ông và phụ nữ. Giờ anh đi gặp họ xem và đừng để họ dắt mũi. Ôi! Họ sẽ làm đủ trò lôi kéo nếu anh mềm lòng. Đến và bảo họ anh cần việc!”

“Garn!” he replied, “You can’t read, it says there men and women. Now you go along an’ see ’em an’ don’t take no old buck from them. Oh! They’ll play you up and string you along if you let ’em. Tell ’em you want a job, or else!”

Trưa hôm ấy, tôi vội lao ra khỏi trung tâm London, leo lên những bậc thang bẩn và cũ của một văn phòng ọp ẹp nằm trên con phố hẹp của khu Soho. Trong một căn phòng bé tí xíu, có vẻ như đã từng là một phòng kho nhỏ, một phụ nữ tóc nhuộm vàng hoe, với bộ móng giả sơn đỏ chóe đang ngồi sau một chiếc bàn sắt.

That afternoon I hurried off to the heart of London, climbing the dingy stairs to a ramshackle office in a back street of Soho. A painted woman with artificially blond hair and scarlet talons of nails was sitting at a metal desk in a room so small it might once have been a cupboard.

“Tôi cần tìm việc,” tôi nói.

Cô ta ngả người ra phía sau, rồi dò xét nhìn tôi lạnh lùng. Ngáp thật to, cô ta ngoác cái miệng đầy răng sâu và chiếc lưỡi tưa rồi nói “A-nh đi đâu?”. Tôi trố mắt nhìn cô ta một cách trống rỗng. “A-nh đi đâu?” cô ta lặp lại.

“I want a job,” I said.

She leaned back and surveyed me coolly. Yawning widely, she displayed a mouthful of decayed teeth and a furred tongue. “Ooaryer?” she said. I gaped at her blankly. “Ooaryer?” she repeated.

“Xin lỗi,” tôi nói, “nhưng tôi không hiểu câu hỏi của cô.”

Tời ơi!”, cô ta thở dài mệt mỏi. “A-nh không nói tiếng Anh à. Đ-iềng vào mẫu này.” Cô ta vứt cho tôi một bảng câu hỏi, rồi cất bút, đồng hồ, một quyển sách và xách giỏ biến mất vào căn phòng phía sau. Tôi ngồi xuống và đánh vật với các câu hỏi. Một lúc lâu sau, cô ta quay trở lại, hất ngón cái về hướng vừa đi ra và ra lệnh “Vào kia”. Tôi đứng lên, loạng choạng bước vào một gian phòng rộng hơn căn phòng vừa rồi một chút. Một người đàn ông đang ngồi sau một chiếc bàn móp méo bừa bãi đầy rác giấy. Anh ta đang nhai đầu một điếu xì-gà rẻ tiền và hôi hám, chiếc mũ phớt ố màu đội hờ hững nửa sau đầu. Anh ta ra hiệu cho tôi ngồi xuống trước mặt.

“I am sorry,” I said, “but I do not understand your question.”

Oogawd!” she sighed wearily. “Ee don’t speak no English. ‘Ere fillupaform.” She threw a questionnaire at me, removed her pen, clock, a book and her handbag, and disappeared into some back room. I sat down and struggled with the questions. At long last she reappeared and jerked her thumb in the direction from whence she had come. “Git in there,” she commanded. I rose from my seat and stumbled into a little larger room. A man was sitting at a battered desk untidily littered with papers. He was chewing on the butt of a cheap and stinking cigar, a stained trilby hat was perched on the back of his head. He motioned for me to sit in front of him.

“Anh có mang phí đăng ký không?”, anh ta hỏi. Tôi thò vào túi và móc ra số tiền tổng theo tờ khai. Anh ta nhận tiền, đếm lại hai lần rồi cho tiền vào túi. “A-nh đã chờ ở đâu?” anh ta hỏi.

“Got yer Registration money?” he asked. I reached in my pocket and produced the sum stated on the form. The man took it from me, counted it twice, and put it in his pocket. “Where you bin waitin’?” he asked.

“Ở văn phòng phía ngoài,” tôi ngây ngô trả lời. Anh ta bật cười hô hố khiến tôi vô cùng sửng sốt.

“In the outer office,” I replied innocently. To my consternation he broke out into great guffaws of laughter.

“Hô! Hô! Hô!” anh ta rống lên. “Tôi nói, ‘A-nh đã chờ ở đâu’? và a-nh zả lời là ở văn phòng phía ngoài’!” Quệt đôi mắt đang chảy nước vì cười, anh ta cố gắng lắm mới kiềm chế được và nói, “Nghe này Cu, a-nh chẳng phải diễn viên tấu hài, mà tôi cũng chẳng có thời gian để phí. ‘A-nh từng làm bồi bàn chưa thế?”

Hor! Hor! Hor!” he roared. “I said, ‘Where you bin waitin’?’ and ‘e sezs ‘in th’ outer office’!” Wiping his streaming eyes, he controlled himself with a visible effort, and said, “Look, Cock, you ain’t ‘alf a comic, but I ain’t got no time to waste. ‘Ave you bin a waiter or aincha?”

“Chưa,” tôi trả lời. “Tôi muốn làm một trong những việc ở các dòng này” – tôi đưa anh ta danh sách một loạt việc tôi có thể làm – “thế giờ anh có thể giúp hay không?”

“No,” I replied. “I want employment in any of these lines”—giving him a whole list of things I could do—“now, can you help or can you not?”

Anh ta nhíu mày khi đọc danh sách. “Ừm, tôi không biết,” anh ta nói giọng hoài nghi, “a-nh nói chán lắm… để xem nào, để xem bọn tôi làm được gì. Một tuần nữa quay lại.” Đặng, anh ta châm lại điếu xì-gà đã tàn, nhặt một tờ giấy vừa rơi, gác chân lên bàn và bắt đầu đọc. Tôi vỡ mộng bước ra khỏi cửa, đi ngang qua người phụ nữ màu mè lúc nãy, đang chào tạm biệt tôi bằng cái liếc nhìn khinh khi và khịt mũi, bước xuống chiếc cầu thang cót két và đi trở ra con phố tồi tàn.

He frowned as he looked at the list. “Well, I dunno,” he said doubtfully, “you speak like a dook . . . look, we’ll see what we can do. Come in a week today.” With that, he relit his now extinguished cigar, parked his feet on the desk as he picked up a racing paper and started to read. I made my disillusioned way out, past the painted woman who greeted my departure with a haughty stare and a sniff, down the creaking stairs and into the dismal street.

Tôi tìm đến một trung tâm việc làm khác, không xa nơi ấy. Tim tôi chùng xuống khi vừa thấy lối vào. Một cánh cửa hông, cầu thang gỗ thô mộc, tường bẩn sơn tróc từng mảng. Trên tầng hai, tôi đẩy cánh cửa ghi “Mời vào”. Bên trong là một gian phòng rộng, kéo dài theo chiều rộng của tòa nhà. Những chiếc bàn ọp ẹp nằm chờ đợi, mỗi chiếc bàn có một người đàn ông hoặc một người phụ nữ với một đống thẻ chỉ mục trước mặt.

Not far away there was another agency, and to it I made my way. My heart sank at the sight of the entrance. A side door, bare wooden stairs, and dirty walls with the paint peeling off. Upstairs, on the second floor, I opened a door marked ‘enter’. Inside was one large room, extending the width of the building. Rickety tables stood about and at each one sat a man or a woman with a pile of index cards in front.

“Vâng? Tôi giúp gì cho anh được?” một giọng nói cất lên bên cạnh tôi. Xoay người, tôi thấy một người phụ nữ tầm bảy mươi tuổi, dù bà ấy trông có vẻ già hơn. Không chờ tôi trả lời, bà ấy đưa cho tôi một bảng câu hỏi và yêu cầu tôi điền rồi nộp lại ở chỗ bàn cô gái. Tôi nhanh chóng điền vào một mớ trả lời chi tiết và khá riêng tư rồi nộp cho cô gái như đã được hướng dẫn. Chẳng buồn liếc mắt xem tờ khai, cô gái nói, “Giờ anh có thể đóng phí đăng ký”. Tôi đóng tiền và nghĩ trong bụng họ kiếm tiền thật dễ. Cô gái đếm tiền cẩn thận rồi chuyền tiền qua một cửa chập đến một người phụ nữ khác, người này đếm lại số tiền và đưa cho tôi một biên nhận. Cô gái đứng lên và gọi, “Có ai đang trống không?”. Một người đàn ông đang ngồi ở chiếc bàn phía xa vẫy tay một cách chậm chạp và hời hợt. Cô gái xoay người và nói với tôi “Anh đằng kia sẽ tiếp anh”. Len lỏi giữa những cái bàn, tôi đi về phía người đàn ông ấy. Anh ta không buồn để ý đến tôi mà tiếp tục ghi chép, rồi anh ta đưa tay ra. Tôi nắm và bắt tay anh ta, nhưng anh ta giật ra và nói với giọng gắt gỏng, “Không, không? Đưa cho tôi biên nhận, biên nhận của anh đấy, hiểu chưa?”. Anh ta soi xét tờ biên nhận thật kỹ, rồi lật sang xem cả mặt trắng. Đọc lại mặt trước, anh ta hẳn đã nhận định tờ biên nhận này là thật, sau cùng anh ta bảo, “Ngồi đi chứ?”

“Yes? What can I do for you?” asked a voice at my side. Turning I saw a woman who might have been seventy, although she looked older. Without waiting for me to say anything, she handed me a questionnaire with the request that I complete it and hand it to the girl at the desk. I soon filled in all the numerous and very personal details and then took it to the girl as directed. Without a glance at it she said, “You may pay me your registration fee now.” I did so thinking that they had an easy way of making money. She counted the money carefully, passed it through a hatch to another woman who also counted it, then I was given a receipt. The girl stood up and called, “Is anyone free?” A man at a desk in the far distance lethargically waved a hand. The girl turned to me and said, “That gentleman over there will see you.” I walked over to him, threading my way between desks. For some time he took no notice of me but went on writing, then he held out his hand. I took it, and shook it, but he snatched it away crossly, saying irritably, “No, no! I want to see your Receipt, your Receipt, you know.” Scrutinizing it carefully, he turned it over, and examined the blank side. Re-reading the front side, he apparently decided that it was genuine after all for he said, “Will you take a chair?”

Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta lại lấy một tờ khai mới rồi bảo tôi điền trả lời vào tất cả những câu hỏi mà tôi vừa điền xong lúc nãy. Tờ giấy tôi đã điền trước đó đáp vào sọt giấy nháp, và tờ giấy của anh ta đưa tôi thì đi vào ngăn kéo bàn, rồi anh ta nói, “Tuần sau quay lại, chúng tôi sẽ xem xét xem chúng tôi có thể làm được gì.” Anh ta trở lại việc tiếp tục ghi chép, và tôi nhìn thấy anh ta đang viết một lá thư riêng cho vài người phụ nữ!

To my amazement he took a fresh form, and asked me the answers to all the questions which I had just written. Dropping my completed form in the waste-paper basket, and his in a drawer, he said, “Come to me in a week’s time and we will see what we can do.” He resumed his writing, writing which I could see was a personal letter to some woman!

“Này!” tôi nói lớn tiếng, “Tôi cần anh chú ý ngay bây giờ

“Anh bạn!” anh ta phản ứng, “Chúng tôi đơn giản là không thể làm cái gì cũng vội vã, chúng tôi có hệ thống, anh biết chứ, cả một hệ thống!”

Hey!” I said loudly, “I want attention now.”

“My dear fellow!” he expostulated, “We simply cannot do things so hurriedly, we must have system, you know, system!”

“Thôi được,” tôi nói, “Tôi cần công việc ngay bây giờ, hoặc là trả tiền lại cho tôi.”

“Chà, chà!” anh ta thở dài. “Thật rách việc!”. Liếc nhanh gương mặt kiên định của tôi, anh ta thở dài lần nữa, rồi bắt đầu mở hết ngăn kéo này đến ngăn kéo khác, như thể việc ấy sẽ kéo dài thời gian để anh ta nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Anh ta lỡ tay kéo một ngăn kéo quá xa. Có tiếng rơi và rất nhiều vật dụng cá nhân vung vãi khắp sàn nhà. Một chiếc hộp với cả ngàn chiếc kẹp giấy đổ ra. Chúng tôi chồm xuống sàn, nhặt nhạnh đồ vật và bỏ chúng lên trên bàn.

“Well,” I said, “I want a job now, or my money back.”

“Dear, dear!” he sighed. “How perfectly ghastly!” With a quick glance at my determined face, he sighed again, and began pulling out drawer after drawer, as if stalling for time while he thought what to do next. One drawer he pulled too far. There was a crash and all sorts of personal belongings scattered on the floor. A box of some thousand paper clips spilled open. We scrabbled about on the floor, picking up things and tossing them on the desk.

Cuối cùng, mọi thứ cũng được nhặt lên và gạt vào một chiếc ngăn kéo. “Cái ngăn kéo quái quỷ này!”, anh ta nói một cách vô vọng, “Lúc nào cũng trượt ra như thế, mấy người khác cũng quen nó vậy rồi.” Anh ta ngồi thêm một lúc, xem hết các thẻ hồ sơ, rồi tìm xem trong chồng giấy tờ, lắc đầu nguầy nguậy và vứt ra phía sau, rồi lại lấy một chồng giấy tờ khác. “À!” cuối cùng anh ta cũng thốt lên, rồi lại im bặt. Vài phút sau, anh ta bảo, “Rồi, tôi có việc cho anh đây!”

At last everything was picked up and swept into the drawer. “That blawsted drawer!” he said resignedly, “Always slipping out of place like that, the other wallahs are used to it.” For some time he sat there, going through his File Cards, then looking up bundles of papers, shaking his head negatively as he tossed them back and removing another bundle. “Ah!” he said at last, then fell silent. Minutes later, he said, “Yes, I have a job for you!”

Anh ta vươn tay qua đống giấy tờ, đổi cặp kính rồi bâng quơ thò tay về một chồng danh thiếp. Cầm lấy chiếc trên đầu tiên, anh ta đặt nó trước mặt mình rồi chậm rãi viết. “Giờ xem nó ở đâu nào? À! Clapham, anh biết khu Clapham không?” Không chờ câu trả lời, anh ta tiếp tục, “Đấy là một việc rửa tráng ảnh. Anh sẽ phải làm việc ca đêm. Các thợ chụp ảnh đường phố ở khu West End sẽ mang đồ đến vào buổi đêm và nhận ảnh vào buổi sáng. Hừm ừ, để tôi xem nào.” Anh ta tiếp tục lật tiếp đống giấy tờ, “Đôi khi anh phải đi chụp ảnh thay ở West End nữa. Giờ thì cầm chiếc danh thiếp này, đến địa chỉ này và gặp người này,” anh ta nói, tay chỉ đầu bút chì vào một cái tên vừa viết trên tấm thẻ.

He rifled through his papers, changed his spectacles and reached out blindly towards a pile of cards. Picking up the top one he placed it in front of him and slowly began to write. “Now where is it? Ah! Clapham, do you know Clapham?” Without waiting for a reply, he continued, “It is a photographic processing works. You will work by night. Street photographers in the West End bring in their stuff at night and collect the proofs in the morning. H’mm yes, let me see.” He went on fumbling through the papers, “You will sometimes have to work in the West End yourself with a camera as a relief man. Now take this card to that address and see him,” he said, pointing with his pencil to a name he had written on the card.

Clapham không phải là một trong những quận trong lành nhất của London; địa chỉ mà tôi tìm đến là một nơi thật sự xập xệ, trong một con phố nhỏ ở khu ổ chuột tồi tàn nối liền khu vực cạnh đường ray. Tôi gõ lên chiếc cửa tróc sơn của căn nhà với một ô kính cửa sổ được “sửa” bởi giấy dán. Một người phụ nữ đầu tóc bẩn lôi thôi phủ cả mặt, hé mở cửa.

Clapham was not one of the most salubrious districts of London; the address to which I went, in a mean back street in the slums adjacent to the railway sidings, was an ill-favoured place indeed. I knocked at the door of a house which had the paint peeling off, and one window of which had the glass “repaired” with sticky paper. The door opened slightly and a slatternly woman peered out, tousled hair falling over her face.

“Gì? A-nh muốn gì?” Nghe tôi trả lời, cô ta không nói tiếng nào, xoay lưng và gào lên “’Arry! Có người tìm!”. Xong, cô ta đóng chặt cửa, bỏ mặc tôi đứng phía ngoài. Một lát sau, cửa lại mở, một người đàn ông thô kệch đứng ở bệ cửa, râu lún phún, áo không đóng nút, hờ hững ngậm điếu thuốc trên môi. Đôi dép đi trong nhà bằng nỉ của anh ta thủng những lỗ to, nhìn thấu cả những ngón chân.

“Yeh? ‘Oo d’ye want?” I told her and she turned without speaking and yelled, “ ‘Arry! Man to see ye!” Turning she pushed the door shut, leaving me outside. Sometime later the door opened, and a rough looking man stood there, unshaven, no collar, cigarette hanging from his lower lip. His toes showed through great holes in his felt slippers.

“Ê Cu, muốn gì?”, anh ta hỏi. Tôi đưa cho anh ta chiếc danh thiếp từ Trung tâm việc làm. Anh ta cầm chiếc danh thiếp, nghiêng nhìn đủ mọi góc, nhìn đi nhìn lại giữa tôi và chiếc thẻ lần nữa, rồi nói, “Dân nhập cư hả? Ở Clapham này đầy. Được cái không kén chọn như dân Anh bọn này.”

“What d’ye want, Cock?” he said. I handed him the card from the Employment Bureau. He took it, looked at it from all angles, looked from the card to me and back again, then said, “Furriner, eh? Plenty of ’em in Clapham. Not so choosey as us Britishers.”

“Anh có thể nói cho tôi biết về công việc chứ?” tôi hỏi.

“Không phải bây giờ!” anh ta nói, “tôi phải xem anh thế nào trước đã. Vào đây đi, tôi ở trong tằng hằm

Nói xong anh ta xoay người rồi đi mất! Tôi bước vào nhà trong một tâm trạng rối bời. Làm sao anh ta có thể ở trong tằng hằm khi anh ta vừa đứng trước mặt tôi, và tằng hằm là cái gì nhỉ?

“Will you tell me about the job?” I asked.

“Not now!” he said, “I’ve got to see you fust. Come in, I’m in the bismint.”

With that he turned and disappeared! I entered the house in a considerably fuddled state of mind. How could he be in the “bismint” when he had been in front of me, and what was the “bismint” anyhow?

Sảnh vào căn nhà tối om. Tôi đang đứng nghệt người, không biết phải đi đâu thì giật bắn khi nghe giọng quát bên cạnh, có vẻ như là từ hướng dưới chân, “Này cu cậu, không xuống đây à?” Tiếng bước chân lọc cọc, và đầu người đàn ông như trồi lên từ một cánh cửa tầng hầm mờ sáng mà trước đó tôi không để ý thấy. Tôi đi theo anh ta xuống chiếc cầu thang gỗ kẽo kẹt, sợ rằng mình có thể ngã bất kỳ lúc nào. “Việc đây!” người đàn ông nói một cách tự hào. Chiếc bóng đèn màu hổ phách chiếu ánh sáng mờ ảo qua làn khói thuốc. Không khí trong phòng ngột ngạt. Đặt dọc theo một vách tường là chiếc ghế dài với ống xả nước dọc suốt ghế. Các đĩa tản sáng treo cách quãng theo băng ghế. Trên một chiếc bàn đặt ở một đầu băng ghế có một chiếc máy rọi phim cũ mòn, trên một chiếc bàn khác đầy lá chì lại là một đống chai lọ.

The hall of the house was dark. I stood there not knowing where to go, and I jumped as a voice yelled beside me, seemingly at my feet, “Hi Cock, ain’t’cha comin’ dahn?” A clatter of feet, and the man’s head appeared from a dimly lit basement door which I had not noticed. I followed him down some rickety wooden stairs, fearing that any moment I would fall through. “The woiks!” the man said, proudly. A dim amber bulb shone through a haze of cigarette smoke. The atmosphere was stifling. Along one wall was a bench with a drain running through its length. Photographic dishes stood at intervals along it. On a table off to the side stood a battered enlarger, while yet another table, covered in lead sheet, contained a number of large bottles.

“Tôi là ‘Arry”, người đàn ông nói, “Giờ anh thử pha chế dung dịch cho tôi xem thế nào.” Nghĩ thêm, anh ta bổ sung “Chúng tôi luôn dùng Johnson’s Contrasty, lên màu đẹp lắm”

“I’m ‘Arry,” said the man, “Make up yer solutions so I kin see how yer shape.” As an afterthought, he added “We always use Johnson’s Contrasty, brings ’em up real good.”

‘Arry đứng sang một bên, quẹt một chiếc diêm lên quần cho bén lửa rồi châm thuốc lá. Tôi nhanh chóng pha dung dịch thuốc hiện và thuốc hãm ảnh.

‘Arry stood aside, striking a match on the seat of his trousers so that he could light a cigarette. Quickly I made up the solutions, developer stop-bath, and fixer.

“Được rồi,” anh ta nói. “Giờ lấy một đoạn trong cuộn phim kia rồi tráng ra vài tấm đi. Tôi định đi lấy giấy ảnh nháp, nhưng anh ta nói, “Không, đừng phí giấy, làm 5 giây thôi.”

“Okay,” he said. “Now get a holt of that reel of film and run off a few proofs. I went to make a test-strip, but he said, “No, don’t waste paper, give ’em five seconds.”

‘Arry khá hài lòng với sự thể hiện của tôi. “Chúng tôi trả lương tháng nhé cu cậu,” anh ta nói. “Đừng làm ảnh khỏa thân. Tôi không muốn rắc rối với cảnh sát. Đưa hết ảnh khỏa thân cho tôi. Mấy thằng trẻ hay lên ba cái ý tưởng khỏa thân này nọ cho vài khách hàng đặc biệt. Đưa hết mấy ảnh đó cho tôi, hiểu chưa? Hôm nay bắt đầu luôn lúc 10h tối và nghỉ lúc 7h sáng mai, được không? Thỏa thuận vậy rồi nhé!

‘Arry was satisfied with my performance. “We pays monthly, Cock,” he said. “Don’t do no noods. Don’t want no trouble with the cops. Give all the noods to me. The boys sometimes gets ideas and slips in special noods for special customers. Pass ’em all to me, see? Now you starts here at ten tonight and leaves at seven in the morning, Okay? Then it’s a deal!”

Đêm đó, trước mười giờ, tôi đi bộ dọc con phố tối tăm, cố gắng tìm số nhà trong ánh sáng le lói ảm đạm. Tôi đến nơi, leo xuống những bậc thang khập khiễng đến trước cánh cửa loang lổ. Tôi gõ cửa, bước lui lại và chờ đợi. Không lâu sau đó, cánh cửa mở tung với tiếng cót két từ chiếc bản lề rỉ sét. Vẫn là người phụ nữ ấy, người đã mở cửa cho tôi trước đó. Cùng một người, nhưng cô ta trông thật khác. Gương mặt đã được trang điểm kỹ, tóc chải chuốt gợn sóng và với ánh sáng ngược từ sảnh tòa nhà phía sau, chiếc váy gần như trong suốt của cô ta phô bày toàn bộ đường cong cơ thể đến từng chi tiết. Cô ta ngoác miệng cười với tôi và nói, “Vào đây cưng ơi, em là Marie. Ai gửi anh đến vậy?” Không chờ tôi trả lời, cô ta chồm người về phía tôi, chiếc váy khoét sâu trễ nãi đến nguy hiểm, rồi tiếp tục nói, “30 shilling nửa giờ, hoặc 3 pun’ ten cả đêm. Em biết nhiều trò lắm cưng à!

That night, just before ten, I walked along the dingy street, trying to see the numbers in the all-pervading gloom. I reached the house and climbed the untidy steps to the scarred and blistered door. Knocking, I stepped back and waited. But not for long. The door was flung open with a creak from its rusted hinges. The same woman was there, the one who had answered my knock earlier. The same woman, but what a different woman. Her face was powdered and painted, her hair was carefully waved and her almost transparent dress, with the hall light behind her, showed her plump form in clear detail. She directed a wide, toothy smile at me and said, “Come in Dearie. I’m Marie. Who sent you?” Without waiting for my reply, she bent over towards me her low-cut dress sagging dangerously, and continued, “It’s thirty shillings for half an hour, or three pun’ ten for the whole night. I know tricks, Dearie!”

Cô ta nhích sang để tôi bước vào nhà, ánh sáng ở sảnh chiếu lên gương mặt tôi. Cô ta nhìn bộ râu quai nón của tôi rồi phát cáu. “Ra là anh!” cô ta nói một cách lạnh lùng, nụ cười trôi tuột khỏi gương mặt như phấn trắng bị giẻ ướt chùi khỏi bảng đen. Khịt khịt mũi, “Thật là mất thời gian! Đây này”, cô ta oang oang nói, “anh phải cầm chìa khóa riêng đi, buổi tối tôi bận lắm.”

As she moved to permit me to enter, the hall light shone upon my face. She saw my beard and glowered at me. “Oh, it’s you!” she said frostily, and the smile was wiped from her face as chalk is wiped from a blackboard by a wet rag. She snorted, “Wasting my time! The very idea of it! Here, you,” she bawled, “you will have to get a key, I’m usually busy at this time o’night.”

Tôi xoay người, đóng cửa nhà sau lưng, rồi đi tự xuống tầng hầm tối tăm. Có rất nhiều chồng phim cần phải tráng, làm như thợ ảnh của cả London đã gửi phim ở đây hay sao ấy. Tôi làm việc trong bóng tối thê lương, gỡ từng cuộn phim, kẹp một đầu phim rồi ngâm vào bồn hóa chất. “Clack-clack-clack” đồng hồ báo thức tích tắc. Đột nhiên tiếng chuông báo thức reng, báo hiệu đã đến lúc phải chuyển sang giai đoạn định hình ảnh. Âm thanh không chờ đợi khiến tôi giật bắn và đụng đầu vào một chiếc đèn treo thấp. Ngâm phim vào thuốc hiện vài phút, rồi lại chuyển sang thuốc ngưng mười lăm phút. Thêm một lượt ngâm nữa, lần này là trong chất khử hypo, và phim đã sẵn sàng để được rửa. Sau khi hoàn tất, tôi bật đèn và phóng to vài bản ảnh rửa trong ánh sáng nhuộm màu hổ phách.

I turned, shut the street door behind me, and made my way down to the dismal basement. There were stacks of cassettes to be developed, it seemed to me that all the photographers in London had dumped their films here. I worked in the Stygian darkness unloading cassettes, fixing clips to one end and inserting them in the tanks. “Clack-clack-clack” went the timer clock. Quite suddenly the timer bell went off, to tell me that the films were ready for the stop bath. The unexpected sound made me leap to my feet and bump my head against a low beam. Out with all the films, into the stop bath for a few minutes. Out again and into the fixing bath for a quarter of an hour. Another dip, this time in hypo eliminator, and the films were ready for washing. While this was being done, I switched on the amber light and enlarged up a few proofs.

Hai giờ sau, tôi đã rọi hết toàn bộ phim, rửa và tráng, làm khô nhanh trong cồn mê-thi-lic. Bốn giờ tiếp sau đó, tôi đã tiến triển rất nhanh với công việc và cũng bắt đầu đói. Nhìn quanh, tôi chẳng thấy có gì để nấu được một ấm nước, chẳng sao, tôi ngồi xuống, mở gói sandwich và cẩn thận rửa một chiếc cốc đong để rót nước uống. Tôi nghĩ về người phụ nữ ở trên lầu, tự hỏi rằng liệu cô ta có đang uống một tách trà ấm nóng và ước rằng cô ấy có thể mang cho mình một tách.

Two hours later I had the films all developed, fixed, washed, and quick-dried in methylated spirits. Four hours on, and I was making rapid progress with the work. I was also becoming hungry. Looking about me, I could see no means of boiling a kettle. There wasn’t even a kettle to boil, anyway, so I sat down and opened my sandwiches and carefully washed a photographic measure in order to get a drink of water. I thought of the woman upstairs, wondering if she was drinking beautiful hot tea, and wishing that she would bring me a cup.

Cánh cửa đầu cầu thang dẫn xuống hầm đột ngột bật tung, một luồng ánh sáng tràn vào. Tôi vội vã lao đến để che lại một tập giấy ảnh đã mở trước khi ánh sáng ùa vào làm hỏng chúng, một giọng nói oang oang, “Này! Anh kia! Muốn uống tí gì không? Tối nay ế ẩm quá, tôi vừa pha một ấm trước khi vào đây. Không thể không nghĩ đến anh, chắc là thần giao cách cảm rồi.” Cô ta cười vang sau lời đùa giỡn của mình, rồi lộc xộc đi xuống thang. Đặt khay xuống, cô ta ngồi lên chiếc ghế gỗ, thở ra phì phò. “Phù!”, cô ta nói, “Dưới này nóng vậy!” Cô ta cởi thắt lưng của chiếc áo choàng ngủ, mở toang – và tôi kinh hãi nhận ra cô ta không mặc gì bên trong cả. Trông thấy vẻ mặt của tôi, cô ta cười nắc nẻ, “Tôi không cố gắng gì với anh đâu, đêm nay anh có việc phải làm mà.” Cô ta đứng lên, chiếc áo choàng ngủ rơi xuống sàn, đưa tay với lấy những chồng ảnh đã khô. “Gee!” cô ta thốt lên, tay đang lật qua chồng ảnh, “Thật là diễn lố. Chả hiểu sao mấy ông già này lại đi chụp ảnh.” Rồi cô ta lại ngồi xuống, bỏ quên hẳn chiếc áo choàng ngủ chẳng thương tiếc – không khí trong phòng nóng, và tôi còn cảm thấy nóng hơn!

The door at the head of the basement stairs was flung open with a crash, letting in a flood of light. Hastily I jumped up to cover an opened packet of printing paper before the light spoiled it, as a voice bawled, “Hey! You there! Want a cuppa? Business is bad tonight and I just made meself a pot before turning in. Couldn’t get you out of my mind. Must have been telepathy.” She laughed at her own joke and clattered down the stairs. Putting down the tray, she sat on the wooden seat, exhaling noisily. “Phew!” she said, “Ain’t ‘alf ‘ot down here.” She undid the belt of her dressing-gown, pulled it open—and to my horror she had nothing on beneath! She saw my look and cackled, “I’m not trying for you, you’ve got other developments on your hands tonight.” She stood up, her dressing-gown falling to the ground, and reached for the stack of drying prints. “Gee!” she exclaimed, leafing through them, “What mugs. Don’t know why these geezers have their pictures took.” She sat down again, apparently abandoning her dressing-gown without regret—it was hot here, and I was getting hotter!

“Anh có tin vào thần giao cách cảm không?” cô ta hỏi.

“Đương nhiên tôi tin!” tôi trả lời.

“Tôi có xem một chương trình ở Palladium và họ trình diễn thần giao cách cảm. Tôi thì tôi tin là thật, nhưng người dắt tôi đi xem thì lại bảo toàn là giả cả.”…

“Do you believe in telepathy?” she asked.

“Of course I do!” I replied.

“Well I saw a show at the Palladium and they did telepathy there. I said it was genuine, but the fellow who took me said it was all a fake.” . . .

Có một truyền thuyết phương đông kể về một lữ khách ở sa mạc Gobi, lạc đà của anh ta đã chết, và người ấy phải bò đi trong cơn khát cháy đến chết. Đột nhiên phía trước anh ta xuất hiện một túi da đựng nước, trông có vẻ như là một chiếc túi da dê chứa đầy nước của những lữ khách. Tuyệt vọng lao về phía chiếc túi da, anh ta cúi xuống để uống, và nhận ra chiếc túi chỉ chứa toàn kim cương thượng hạng, bị vứt lại để giảm bớt gánh nặng bởi lữ khách khát cháy nào đó. Đó là tư duy của người phương tây, họ đi tìm kiếm những vật liệu đắt giá, những kỹ thuật tiên tiến, những chiếc tên lửa to hơn và phóng mạnh hơn, những tàu bay không người lái, và những chuyến du hành vào không gian. Trong khi những chân giá trị, du hành thể vía, thấu thị, thần giao cách cảm lại bị hoài nghi và xem là những trò lừa gạt hay mánh khóe sân khấu.

There is an oriental legend about a traveler on the wide Gobi desert, his camel had died, and the man was crawling along, almost dying of thirst. Ahead of him he suddenly saw what appeared to be a waterskin, a goatskin filled with water which travelers carry. Hurrying desperately to the skin, he bent down to drink, and found it was merely a skin stuffed with first class diamonds which some other thirsty traveler had thrown away to lighten his load. Such is the way of the West, people seek material riches, seek technical advancement, rockets with bigger and better bangs, pilotless aircraft, and attempted investigation in space. The real values, astral traveling, clairvoyance, and telepathy they treat with suspicion, believing them to be fakes or comic stage turns.

Khi người Anh đến Ấn Độ, họ đã được nghe rằng người Ấn Độ có thể gửi thông điệp cho nhau từ rất xa, kể nhau nghe về những cuộc nổi loạn, những cuộc đổ bộ sắp tới, hay bất kỳ tin tức gì mà họ thích. Những thông điệp như vậy được truyền đi trong đất nước chỉ trong vài giờ ngắn ngủi. Việc tương tự cũng được ghi nhận ở Châu Phi và được gọi là Bush telegraph – truyền tin nhanh. Nếu được dạy cách sử dụng, bạn thậm chí không cần đến cả dây điện tín hay điện thoại rối não. Dân địa phương có thể sử dụng những khả năng bẩm sinh để truyền thông điệp đi. Ở phương đông, việc nghiên cứu về những vấn đề này đã được thực hiện hàng thế kỷ; còn ở các nước phương tây, tư tưởng này cũng được đồng tình và không có trở ngại nào chống lại sự hoạt động của món quà của Tự nhiên.

When the British were in India it was well known that the Indians could send messages long distances, telling of revolts, impending arrivals, or any news of interest. Such messages would travel the country in mere hours. The same thing was noticed in Africa and was known as the “Bush telegraph”. With training, there need be no telegraph wires! No telephones to jangle our nerves. People could send messages by their own innate abilities. In the East there have been centuries of study into such matters; Eastern countries are “sympathetic” to the idea and there is no negative thought to impede the working of the gifts of Nature.

“Marie,” tôi nói, “tôi sẽ cho cô thấy một trò ví dụ về thần giao cách cảm, Trí điều khiển Vật. Tôi sẽ là Trí, và cô là Vật.”

Cô ta nhìn tôi nghi hoặc, thậm chí là có thoáng chốc dè bĩu, rồi trả lời “Được thôi, cũng vui mà”

Tôi tập trung tư tưởng vào phần gáy của cô ta, tưởng tượng một con ruồi đang chích cô ta. Tôi hình dung ra con côn trùng đang cắn. Bất chợt, Marie đập tay vào sau gáy, miệng thốt ra một từ rất thô tục để mắng con côn trùng đang tấn công kia. Tôi hình dung ra vết cắn mạnh hơn, và rồi cô ta nhìn tôi cười phá lên và nói “Ồ nếu tôi mà làm được như thế thì chắc hẳn mấy gã hay đến thăm tôi sẽ có nhiều trò vui đây!”

“Marie,” I said, “I will show you a little trick which demonstrates telepathy, or Mind over Matter. I being the Mind, you being the Matter.”

She looked at me suspiciously, even glowered for a moment, and then replied, “Orlright, anything for a lark.”

I concentrated my thoughts on the back of her neck, imagining a fly biting her. I visualized the insect biting. Suddenly Marie swatted the back of her neck using a very naughty word to describe the offending insect. I visualized the bite being stronger, and then she looked at me and laughed. “My!” she said, “If I could do that I certainly would have some fun with the fellows who visit me!”

Những đêm sau đó, tôi vẫn đến làm việc tại ngôi nhà tồi tàn trong con phố nhỏ tối tăm ấy. Thỉnh thoảng, khi Marie không bận rộn, cô ta lại ghé đến với một bình trà để tán gẫu. Dần dần tôi nhận ra rằng ẩn sâu bên trong dáng vẻ bề ngoài cứng cỏi ấy, bất chấp cuộc sống mà cô ấy đang có, cô ấy vẫn thật sự là một người tử tế. Cô kể tôi nghe về người đàn ông thuê tôi làm việc và nhắc nhở tôi phải có mặt sớm ở chỗ làm vào ngày cuối tháng.

For night after night I went to the slovenly house in that drab back street. Often, when Marie was not busy, she would come with a teapot of tea to talk and to listen. Gradually I became aware that beneath her hard exterior, in spite of the life which she led, she was a very kind woman to those in need. She told me about the man who employed me and warned me to be at the house early on the last day of the month.

Hàng đêm, tôi tráng phim, rửa ảnh và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho việc giao ảnh vào sáng sớm. Cả tháng ròng tôi không gặp ai khác ở đấy ngoài Marie, rồi vào ngày 31, tôi ở lại muộn hơn. Khoảng 9 giờ, một người trông khá gian manh rộn rạo leo xuống cầu thang không trải thảm. Anh ta dừng ở bậc thang cuối, nhìn tôi với ánh mắt hình viên đạn, nhe răng gầm gừ “Mày nghĩ là mày sẽ được trả lương trước à? Mày làm ca tối cơ mà, biến đi!”

Night after night I developed and printed and left everything ready for an early morning collection. For a whole month I saw no one but Marie, then on the thirty-first, I stayed on late. About nine o’clock a shifty-looking individual came clattering down the uncarpeted stairs. He stopped at the bottom, and looked at me with open hostility. “Think you are going to get paid first, eh?” he snarled. “You are night man, get out of here!”

“Tôi sẽ đi khi tôi sẵn sàng,” tôi trả lời.

“Đồ khốn!” anh ta nói, “tao sẽ dạy mày lễ độ!”

Anh ta nhặt một chai thủy tinh, đập vỡ cổ chai vào tường, rồi nhắm thẳng những mảnh chai sắc nhọn vào mặt tôi. Mệt và hơi bực dọc, với những ngón đòn võ thuật học từ các Sư phụ ở phương đông, tôi dễ dàng giải giới gã nhỏ thó đó, kẹp hắn giữa đầu gối rồi đấm thật mạnh. Marie lao ra khỏi phòng ngủ khi nghe tiếng la hét, và giờ đây đang đứng trên cầu thang thưởng thức toàn cảnh. Gã kia thật sự đang khóc bù lu bù loa, nên tôi nhấn đầu gã vào thùng nước rửa ảnh để vừa rửa mắt cho gã, vừa ngừng đi thứ ngôn ngữ kỳ quái mà gã đang phun trào. Lôi gã đứng dậy, tôi nói, “Đứng sang đằng góc kia. Nếu anh động đậy khi tôi chưa cho phép thì tôi sẽ lại tiếp tục đánh anh”. Và gã không động đậy thật.

“I will go when I am ready, not before,” I answered.

“You ***!” he said, “I’ll teach you to give me none of yer lip!”

He snatched up a bottle, knocked off the neck against a wall, and came at me with the raw, jagged edge aimed straight at my face. I was tired, and quite a little cross. I had been taught fighting by some of the greatest Masters of the art in the East. I disarmed the measley little fellow—a simple task—and put him across my knees, giving him the biggest beating he had ever had. Marie, hearing the screams, dashed out from her bed and now sat on the stairs enjoying the scene! The fellow was actually weeping, so I shoved his head in the print-washing tank in order to wash away his tears and stop the flow of obscene language. As I let him stand up, I said, “Stand in that corner. If you move until I say you may, I will start all over again!” He did not move.

“Ôi! Cảnh trông thật đã mắt,” Marie nói. “Gã lùn này cầm đầu một trong những băng đảng ở Soho đấy. Anh dọa hắn sợ rồi, mặc dù hắn là một trong những tay đánh nhau giỏi nhất, thật đấy!”

Tôi ngồi xuống và đợi. Khoảng một giờ sau, người đàn ông thuê tôi làm việc đi xuống cầu thang, tái mặt khi thấy tôi và gã côn đồ. “Tôi muốn tiền của tôi,” tôi nói. “Tháng rồi thu nhập kém lắm, tôi chẳng có tiền đâu, tôi còn phải trả tiền bảo kê cho thằng kia nữa,” anh ta nói, chỉ tay về phía gã côn đồ.

Tôi nhìn hắn ta. “Anh nghĩ tôi làm việc cả tháng trong cái lỗ hôi thối này không công à?” tôi hỏi.

“Cho tôi vài ngày để xem tôi có thể kiếm thêm được gì không. Chỉ tay về phía gã côn đồ, “Nếu tôi không chi tiền cho gã, hắn sẽ gây chuyện với người của tôi.”

 “My! That was a sight for sore eyes,” said Marie. “The little runt is a leader of one of the Soho gangs. You have got him frightened, thought he was the greatest fighter ever, he did!”

I sat and waited. About an hour later, the man who had employed me came down the stairs, turning pale as he saw me and the gangster. “I want my money,” I said. “It’s been a poor month, I haven’t any money, I have had to pay Protection to him,” he said, pointing to the gangster.

I looked at him. “D’you think I’m working in this stinking hole for nothing?” I asked.

“Give me a few days and I’ll see if I can rake some up. He”—pointing to the gangster— “takes all my money because if I don’t pay him he gets my men in trouble.”

Không có đồng nào, mà cũng chẳng hy vọng có được! Tôi đồng ý chờ thêm hai tuần để “Ông chủ” có thời gian kiếm thêm tiền từ đâu đó. Tôi rầu rĩ rời khỏi ngôi nhà, nghĩ bụng thật may là mình đã quyết định đạp xe đến Clapham để tiết kiệm tiền vé xe. Trong lúc tôi đang mở xích xe đạp, gã côn đồ lẻn đến cạnh tôi. Hắn thì thầm giọng khàn khàn “Này, cần việc không? Đi theo tao đi. 1 tuần 20 bảng, bao hết.

No money, not much hope of getting any, either! I agreed to continue for another two weeks to give “the Boss” time to get some money somewhere. Sadly I left the house, thinking how fortunate it was that I cycled to Clapham in order to save fares. As I went to unchain my cycle, the gangster sidled furtively up to me. “Say, Guv’,” he whispered hoarsely, “d’ye want a good job? Lookin’ arter me. Twenty quid a week, all found.”

“Quên đi, đồ thò lò mũi xanh,” tôi trả lời giọng cộc cằn.

“25 bảng một tuần!”

Tôi phát cáu quay sang phía gã, gã nhanh chóng né sang một bên, tiếp tục lầm bầm “Giá chót 30 bảng, bao luôn khoản em út và rượu thả ga, rộng rãi hết cỡ luôn đấy!”

Thấy biểu cảm của tôi, hắn phóng qua tay vịn cầu thang tầng hầm, rồi biến mất vào phòng riêng của ai đó. Tôi xoay người, leo lên xe và đạp đi.

Tôi tiếp tục làm công việc này gần ba tháng, luân phiên giữa việc rửa ảnh và làm thợ ảnh đường phố, nhưng cả tôi lẫn người kia đều không nhận được tiền lương. Cuối cùng, quá tuyệt vọng, chúng tôi bỏ việc.

“Get out of it, you runny-nosed little squirt,” I answered dourly.

“Twenty-five quid a week!”

As I turned toward him in exasperation he skipped nimbly away, muttering, “Make it thirty, top offer, all the wimmin you want, and the booze you kin drink, be a sport!”

At the sight of my expression he vaulted over the basement railing and disappeared into somebody’s private rooms. I turned, mounted the bicycle, and rode off.

For nearly three months I kept the job, doing processing and then having a turn on the streets as street-photographer, but neither I nor the other men got paid. At last, in desperation, we all finished.

Giờ đây, tôi đã chuyển đến một trong những quảng trường đáng ngờ nhất của quận Bayswater, và tôi đi hết trung tâm việc làm này đến trung tâm việc làm khác để tìm việc. Cuối cùng, để loại tôi khuất mắt, một công chức bảo, “Sao anh không đi đến chi nhánh Việc làm cao cấp, ở Quảng trường Tavistock? Tôi sẽ đưa cho anh danh thiếp.” Lòng đầy hy vọng, tôi đến Quảng trường Tavistock. Bao nhiêu lời hứa hẹn lại được nói với tôi, tỷ như:

By now we had moved to one of those dubious Squares in the Bayswater district, and I visited Labour Exchange after Labour Exchange in an attempt to get work. At last, probably in order to get rid of me, one official said, “Why don’t you go to the Higher Appointments branch, at Tavistock Square? I’ll give you a card.” Full of hope I went to Tavistock Square. Wonderful promises were made to me. Here is one of them:

“Từ Jove, vâng, chúng tôi có thể tìm việc cực kỳ hợp với anh, chúng tôi tìm người cho trung tâm nghiên cứu nguyên tử mới ở Caithness, Scotland. Anh sẵn sàng đi phỏng vấn chứ?” anh ta siêng năng lục lọi đống giấy tờ.

Tôi trả lời, “Họ có chi trả chi phí đi lại không?”

“Ồ! Không đâu”, anh ta trả lời dứt khoát, “Anh phải tự chịu chi phí đi lại.”

“By Jove, yes, we can suit you exactly, we want a man for a new atom research station in Caithness, in Scotland. Will you go up for an interview?” Industriously he raked among his papers.

I replied, “Do they pay traveling expenses?”

“Oh! Dear dear no!” was the emphatic reply, “You will have to go at your own expense.”

Có lần tôi đã tự đi phỏng vấn bằng chi phí của mình đến Cardigan xứ Wales. Họ yêu cầu người có kiến thức Xây dựng dân dụng. Tôi tự chi trả để đi hết nước Anh đến tận Wales. Địa điểm phỏng vấn cách trạm xe xa vời vợi. Tôi mệt mỏi cuốc bộ qua những con phố ở Cardigan đến đầu bên kia thành phố. “Ôi chao! Đoạn đường này xa lắm đấy!” người phụ nữ dễ chịu mà tôi hỏi đường trả lời. Tôi tiếp tục đi bộ, cuối cùng cũng đến lối vào một ngôi nhà nấp sau tán cây. Lối lái xe vào sân trông rất gọn gàng, và là một con đường dài lên dốc. Cuối cùng, tôi cũng đến được căn nhà. Một người đàn ông thân thiện xem xét các hồ sơ của tôi (những hồ sơ mà tôi phải gửi về Anh từ tận Thượng Hải). Anh ta xem qua, và gật đầu thỏa mãn. “Với những hồ sơ như thế này hẳn anh không khó tìm được việc làm,” anh ta nói. “Tuy nhiên không may là anh lại chưa có kinh nghiệm về hợp đồng xây dựng dân dụng ở Anh. Cho nên rất tiếc tôi không thể sắp xếp buổi phỏng vấn cho anh được. Nhưng mà,” anh ta hỏi tiếp, “Anh là bác sĩ đã có chứng nhận, sao anh lại học thêm về Xây dựng dân dụng? Tôi thấy anh có bằng cử nhân về ngành Xây dựng dân dụng.”

On another occasion I traveled—at my own expense—to Cardigan in Wales. A man with a knowledge of civil engineering was required. I traveled, at my own expense, across England and into Wales. The Station was a shocking distance from the place of interview. I trudged through the streets of Cardigan and reached the other side. “My, my! It is indeed a long way yet, look you!” said the pleasant woman of whom I sought directions. I walked on, and on, and at last reached the entrance to a house hidden by trees. The drive was well kept. It was also very long; uphill. At last I reached the house. The amiable man whom I saw looked at my papers (which I had had sent to me in England from Shanghai). He looked, and nodded approvingly. “With papers such as these you should have no difficulty in gaining employment,” he said. “Unfortunately you have no experience in England on civil engineering contracts. Therefore I cannot offer you an appointment. But tell me,” he asked, “You are a qualified doctor, why did you also study Civil Engineering? I see you have a Bachelor’s degree in Civil Engineering.”

“Khi hoạt động trong lĩnh vực y tế, tôi phải đi đến những vùng xa, và tôi muốn có thể tự xây dựng bệnh viện riêng của mình,” tôi nói.

“Hmm!” anh ta thở dài, “Tôi cũng mong có thể giúp được anh, nhưng rất tiếc chưa thể.”

“As a medical man, I was going to travel to remote districts, and I wanted to be able to build my own hospital,” I said.

“H’mmph!” he grunted, “I wish I could help you, but I cannot.”

Khi trở ra, tôi đi lang thang qua những con phố ở Cardigan, ngược về phía ga tàu lửa ảm đạm. Tôi chờ tàu hai giờ, và cuối cùng, trở về nhà để báo rằng, một lần nữa, lại chưa tìm được việc làm. Ngày hôm sau tôi lại quay trở lại trung tâm việc làm. Vẫn là người đàn ông ngồi bất di bất dịch tại chiếc bàn giấy ấy – tôi tự hỏi anh ta có bao giờ di chuyển không? – nói với tôi “Nghe này anh kia, chúng ta không thể chỉ nói chuyện ở đây được. Mời tôi ra ngoài ăn trưa đi, và tôi có thể kể cho anh nghe vài chuyện, thế nào?”

Off I wandered through the streets of Cardigan, back to the dreary railway station. There was a two-hour wait for a train, but at last I arrived home to report, once again, no job. The next day I went back to the Employment Agency. The man sitting at his desk—did he ever move? I wondered, said, “I say, Old Boy, we simply cannot talk here. Take me out to lunch and I may be able to tell you something, what?”

Hơn một giờ đồng hồ, tôi thơ thẩn ở con phố phía ngoài, nhìn vào những ô cửa sổ và mong rằng chân mình có thể ngừng đau. Một cảnh sát London cáu kỉnh theo dõi tôi từ phía bên kia đường, rõ ràng là anh ta đang phân vân không thể quyết định xem tôi là một kẻ vô hại hay là một kẻ có nguy cơ cướp nhà băng. Có lẽ chân anh ta cũng đang đau giống tôi! Cuối cùng, anh chàng kia cũng rời khỏi bàn, lọc xọc đi xuống chiếc cầu thang kẽo kẹt. “Số 79, anh kia, chúng ta sẽ đi số 79. Tôi biết một chỗ có dịch vụ khá ổn.” Chúng tôi đi dọc lên con phố, đón chiếc xe buýt số “79”, và nhanh chóng đến đích, một trong những nhà hàng trong một con phố ven trục đường chính, nơi mà tòa nhà càng nhỏ thì phí càng đắt. Anh chàng-không-có-bàn-giấy và tôi cùng dùng bữa trưa, tôi gọi cho mình một phần ăn đơn sơ, còn anh ta chọn một bữa trưa hoành tráng quá mức cần thiết, rồi, với gương mặt thỏa mãn, anh ta nói, “Anh biết không, các anh đều mong sẽ có những buổi hẹn với công ty tốt, nhưng anh có bao giờ nghĩ rằng nếu có những vị trí thật sự tốt, thì bọn công chức chúng tôi đã ứng tuyển trước rồi chứ? Công việc này chẳng kiếm được mấy đồng cả, anh biết đấy!”

For more than an hour I loitered about in the street outside, looking in the windows, and wishing that my feet would stop aching. A London policeman sourly watched me from the other side of the street, apparently unable to decide if I was a harmless individual or a prospective bank robber. Perhaps his feet were aching too! At last the Man was separated from his desk and came clattering down the creaky stairs. “A Number Seventy-Nine, Old Boy, we will take a Number Seventy-Nine. I know a nice little place, quite moderate for the service they give.” We walked up the street, boarded a “79” bus, and soon reached our destination, one of those restaurants in a side street just off a main thoroughfare where the smaller the building the higher the charge. The Man Without his Desk and I had our lunch, mine a very frugal one and his exceedingly ample, then, with a sigh of satisfaction, he said, “You know, Old Boy, you fellows expect to get good appointments, but do you ever think that if the appointments available were that good, we of the staff would take them first? Our own jobs do not allow us to live in comfort, you know.”

“Thì,” tôi nói, “kiểu gì cũng phải có cách nào đó để tìm được việc trong thành phố chật vật này, hoặc ở khu vực ngoại ô chứ.”

“Vấn đề của anh là anh trông khác những người kia, anh thu hút sự chú ý. Trông anh cũng hơi bệnh. Có lẽ nếu anh cạo râu đi thì có thể có ích.” Anh ta liếc nhìn tôi tới lui, rõ ràng là đang tìm cách thoát ra nhẹ nhàng. Đột nhiên, anh ta nhìn đồng hồ và bật thoắt dậy; “Thôi chết, tôi phải đi đây, ông chủ nô chắc là đang theo dõi, anh biết đấy!”. Anh ta vỗ vào tay tôi và nói “Ta! Ta! Đừng phí tiền đến gặp bọn tôi nữa, bọn tôi chẳng có việc nào tử tế ngoại trừ mấy việc như bồi bàn đâu!” Nói xong anh ta xoay người thoắt biến mất nhanh như cơn lốc, để tôi ở lại thanh toán chiếc hóa đơn khá đắt tiền.

“Well,” I said, “there must be some way of obtaining employment in this benighted city or outside it.”

“Your trouble is that you look different, you attract attention. You also look ill. Maybe it would help if you shaved off your beard.” He gazed at me reflectively, obviously wondering how to make a graceful exit. Suddenly he looked at his watch and jumped to his feet in alarm; “I say, Old Boy, I must simply fly, the old Slave Master will be watching y’know.” He patted my arm and said, “Ta! Ta! Don’t waste money coming to us, we simply have no jobs except for waiters and their ilk!” With that he turned in a whirl and was gone, leaving me to pay his quite considerable bill.

Tôi lang thang đi dọc theo con phố. Tìm một việc gì khá hơn để làm, tôi nhìn vào những bảng quảng cáo nhỏ trong trong một ô cửa kính. “Góa phụ trẻ có con nhỏ cần tìm việc…” “Nam, có tay nghề điêu khắc gỗ, cần huê hồng.” “Nữ kỹ thuật viên massage nhận chăm sóc tại gia.” (Tôi cá là cô ấy có làm thế, tôi nghĩ!). Bước đi, tôi không ngừng gặm nhấm câu hỏi; nếu những đơn vị môi giới chính thống, những trung tâm việc làm… không giúp gì được tôi, thì sao lại không thử cách tự đăng quảng cáo trên cửa kính cửa hàng. “Sao lại không nhỉ?” đôi chân mệt mỏi của tôi trả lời, khi chúng liên tục nện lên nền vỉa hẻ cứng không chút thương cảm.

I wandered out and along the street. For want of something better to do, I looked at small advertisements in a shop window. “Young widow with small child wants work . . .” “Man, able to undertake intricate carvings, needs commissions.” “Lady Masseuse gives treatment at home.” (I’ll bet she does, I thought!) As I walked away, I pondered the question; if the orthodox agencies, bureaux, exchanges etc., could not help me, then why not try an advertisement in a shop window. “Why not?” said my poor tired feet as they pounded hollowly on the hard, unsympathetic pavement.

Đêm đó về đến nhà, tôi vắt óc nghĩ làm cách nào có thể tiếp tục sống và kiếm đủ tiền để nghiên cứu về hào quang. Cuối cùng, tôi đánh máy 6 tấm bưu thiếp ghi rằng, “Bác sỹ y khoa (chưa đăng ký ở Anh) nhận hỗ trợ các ca bệnh tâm lý. Chi tiết xem bên trong.” Rồi tôi lại làm tiếp 6 tấm khác ghi rằng “Người chuyên nghiệp, có bằng cấp khoa học, có kinh nghiệm du lịch nhiều nơi, cung cấp dịch vụ cho bất kỳ điều gì bất thường. Tham khảo tuyệt vời. Viết thư đến Hộp thư ____” Ngày hôm sau, những mẫu quảng cáo đã chễm chệ nằm trong vài cửa sổ chiến lược của vài cửa hàng ở London, tôi chờ đợi kết quả. Và có kết quả thật. Tôi đã có thể tìm được những công việc tâm lý giúp tôi duy trì cuộc sống, và tình trạng tài chính của chúng tôi được cải thiện dần dần. Tôi làm thêm công việc tự do trong lĩnh vực quảng cáo, và một trong những hãng dược lớn nhất nước Anh đã cho tôi một công việc bán thời gian. Giám đốc hãng, một bác sỹ rất hào phóng và nhân văn, đúng ra đã cho tôi được hưởng chương trình Bảo hiểm cho nhân viên. Tôi quá già và quá ốm yếu. Những nỗ lực để làm chủ một cơ thể thật kinh khủng. Sự căng thẳng của việc có những phân tử của một cơ thể “mới” trong chính cơ thể mình vượt quá sức chịu đựng của tôi, và vì khoa học, tôi đã loại nó ra. Thường xuyên hơn, tôi thực hiện những chuyến du hành sang bên kia thế giới, đến Tây Tạng, vào ban đêm, hoặc vào cuối tuần, những khi mà tôi biết rằng mình sẽ không bị làm phiền, bởi lẽ việc bị làm phiền khi đang du hành là cực kỳ nguy hiểm đến chết người. Niềm an ủi của tôi là được diện kiến những vị Lạt Ma cao quý trong chuyến du hành, phần thưởng của tôi là được họ tán dương những hành động của mình. Trong một chuyến du hành như thế, tôi đang khóc thương cái chết của con mèo thân yêu cực kỳ khôn ngoan của tôi, thì một vị Lạt Ma già, gặp tôi trong chuyến du hành, cười cảm thông và bảo tôi, “Người anh em, cậu có nhớ câu chuyện về hạt mù tạt không?” Hạt mù tạt, có chứ! Tôi nhớ câu chuyện như in, đó là một trong những bài giảng của đức tin chúng tôi…

That night, at home, I racked my brains trying to work out how to live and how to make enough money to carry on with Aura research. At last, I typed six postcards saying, “Doctor of Medicine (Not British Registered) offers help in psychological cases. Enquire within.” I did another six which read, “Professional man, very widely traveled, scientific qualifications, offers services for anything unusual. Excellent references. Write Box___” The next day, with the advertisements prominently displayed in certain strategic windows in London shops, I sat back to await results. They came. I managed to obtain enough psychological work to keep me going and the flickering fires of our finances slowly improved. As a sideline I did free-lance advertising, and one of the greatest pharmaceutical firms in England gave me part-time work. The very generous and human Director, a doctor, whom I saw, would have taken me on but for the Staff Insurance Scheme which was in force. I was too old and too sick. The strain of taking over a body was terrible. The strain of having the molecules of the “new” body exchanged for those of my own was almost more than I could stand, yet, in the interests of science, I stuck it out. More frequently now I traveled in the astral to Tibet by night or on week-ends when I knew that I should not be disturbed, for to disturb the body of one who is astral traveling can so easily be fatal. My solace was in the company of those High Lamas who could see me in the astral, and my reward was in their commendation of my actions. On one such visit I was mourning the passing of a very much beloved pet, a cat with intelligence to put many humans to shame. An old lama, with me in the astral, smiled in sympathy, and said, “My Brother, do you not remember the Story of the Mustard Seed?” The Mustard Seed, yes! How well I remembered it, one of the teachings of our Faith . . .

Có một thiếu phụ nghèo vừa mất đứa con đầu lòng. Tan nát cõi lòng, cô đi lang thang khắp phố, cầu xin liệu có ai đó, có điều gì đó có thể mang đứa con trai cô trở lại. Vài người thương cảm cô, một số khác lại khinh bỉ và chế nhạo cô, kêu cô là kẻ mất trí khi tin vào việc có thể làm đứa trẻ sống lại. Cuối cùng, một vị tu sĩ đã chú ý đến sự đau khổ tột độ của cô, gọi cô đến và nói, “Trên thế giới này chỉ có một người có thể giúp con. Đó là Đấng Toàn Năng, vị Phật sống trên đỉnh núi kia. Con hãy đi tìm ngài đi.”

The poor young woman had lost her first-born child. Almost demented with grief she wandered through the streets of the city, pleading for something, someone, to bring her son back to life. Some people turned away from her in pity, some sneered and mocked her, calling her insane that she should believe her child could be restored to life. She would not be consoled, and none could find words with which to ease her pain. At last an old priest, noting her utter despair, called her and said, “There is only one man in the whole world who can help you. He is the Perfect One, the Buddha who resides at the top of that mountain. Go and see him.”

Người mẹ trẻ, ôm nỗi đau mất con, cơ thể oằn mình dưới sức nặng của những cơn thống khổ, chậm chạp leo theo đường mòn trên núi đá, cuối cùng tìm thấy Đức Phật ở một lối rẽ, Người đang thượng tọa trên một tảng đá. Cô ta phủ phục dưới chân Ngài và khóc “Thưa Đức Phật, xin Ngài mang sự sống trở lại cho con của con!”. Đức Phật đứng lên, khẽ chạm nhẹ vào thiếu phụ và nói “Con hãy trở lại thành phố, gõ cửa từng nhà để tìm cho ta một hạt mù tạt từ một gia đình chưa từng mất đi người thân nào.” Người thiếu phụ reo lên trong hân hoan, vội vã trèo xuống khỏi triền núi. Cô lao đến ngôi nhà đầu tiên và nói, “Đức Phật bảo tôi mang hạt mù tạt từ một ngôi nhà chưa từng có người chết đến cho Ngài”

The young bereaved mother, her body aching with the weight of her sorrow, slowly walked up the hard mountain path until at last she turned a corner and saw the Buddha seated upon a rock. Prostrating herself, she cried “Oh! Buddha! Bring my son back to life.” The Buddha rose and gently touched the poor woman, saying, “Go down into the city. Go from house to house and bring to me a mustard seed from a house in which no one has ever died.” The young woman shouted with exultation as she rose to her feet and hastened down the mountain side. She hurried to the first house and said, “The Buddha bids me bring a mustard seed from a house which has never known death.”

Cô được nghe trả lời “Ở ngôi nhà này, nhiều người đã qua đời.”

Đến ngôi nhà tiếp theo, cô lại được nghe nói, “Không thể đếm xuể bao nhiêu người đã qua đời trong ngôi nhà này, căn nhà này cổ lắm rồi.”

Cô đi hết ngôi nhà này đến ngôi nhà khác, hết con phố này đến con phố khác. Hầu như không ngừng lại để ăn hay nghỉ ngơi, cô đi khắp thành phố, đến từng nhà một, những vẫn không thể tìm được căn nhà nào chưa từng có người mất đi.

 “In this house,” she was told, “many have died.”

At the next house she was told, “It is impossible to tell how many have died here, for this is an old house.”

She went from house to house, throughout that street, to the next street, and the one after. Scarcely pausing for rest or food, she went through the city from house to house and she could not find a single house which had not at some time been visited by death.

Cô chậm chạp leo lên dốc núi trở lại. Đức Phật, vẫn ở nơi đấy, tọa thiền. “Con có tìm được hạt mù tạt không?” Ngài hỏi.

“Không, con không tìm được, và con cũng sẽ không tìm kiếm nữa” cô trả lời. “Nỗi đau đớn của con đã khiến con mù quáng nghĩ rằng chỉ mình mình đang chịu đựng nỗi đau của sự mất mát”

“Thế sao con lại quay lại tìm ta?” Đức Phật hỏi.

“Để xin Ngài dạy cho con sự thật,” cô trả lời.

Đức Phật nói với cô: “Trong tất cả các thế giới của nhân sinh, và cả các thế giới của chư thần, chỉ có một luật duy nhất: Vạn vật là vô thường.”

Slowly she retraced her steps up the mountain slopes. The Buddha was, as before, sitting in meditation. “Have you brought the mustard seed?” He asked.

“No, nor do I seek it any more,” she said. “My grief blinded me so that I thought that only I suffered and sorrowed.”

“Then why have you again come to me?” asked the Buddha.

“To ask you to teach me the truth,” she answered.

And the Buddha told her: “In all the world of man, and all the world of Gods, this alone is the Law: All things are impermanent.”

Đúng vậy, tôi biết hết những bài giảng, nhưng sự mất mát của một người mà tôi thương mến vẫn là sự mất mát lớn lao. Vị Lạt ma già lại cười và nói “Một Người xinh đẹp sẽ đến tìm con và chúc mừng cho cuộc sống khó khăn phi thường của con. Hãy chờ đón!

Sau đó một thời gian, vài tháng sau đó, chúng tôi đón Cô Ku’ei về nhà. Đó là một cô mèo Xiêm xinh đẹp và thông minh. Được nuôi nấng như một con người, cô mèo cũng hành xử hệt như một con người thiện lành. Rõ ràng cô mèo đã thắp sáng cho nỗi đau của chúng tôi và xóa đi gánh nặng vì sự bội bạc của người đời.

Yes, I knew all the Teachings, but the loss of one dearly loved was still a loss. The old lama smiled again and said, “A beautiful Little Person shall come to you to cheer your extraordinary difficult and hard life. Wait!”

Some time after, several months after, we took the Lady Ku’ei into our home. She was a Siamese kitten of surpassing beauty and intelligence. Brought up by us as one would bring up a human, she has responded as a good human would. Certainly she has lightened our sorrows and eased the burden of human treachery.

 

Công việc tự do mà không có một chỗ dựa pháp lý thực sự khó khăn. Có bệnh thì vái tứ phương, khỏi bệnh rồi thì qua cầu rút ván! Những câu chuyện mà các bệnh nhân vắng mặt kể để giải thích cho việc không chi trả của họ nhiều như một quyển bách khoa toàn thư, mà các nhà phê bình hẳn phải làm việc ngoài giờ cật lực để nói về nó. Tôi vẫn phải cứ mãi tìm cho mình một công việc ổn định.

Free-lance work without any legal standing was difficult indeed. Patients subscribed to the view that; the Devil was ill, the Devil a monk would be. The Devil was well, the Devil was he! The stories which defaulting patients told to explain their non-payment would fill many books, and cause the critics to work overtime. I continued my search for permanent work.

“Ồ!” một người bạn nói, “anh có thể làm thêm việc viết lách, làm người chấp bút đấy. Anh có từng bao giờ nghĩ đến việc đấy chưa? Tôi có một người bạn đã viết nhiều quyển sách rồi, tôi sẽ giới thiệu anh với anh ta.” Thế là tôi đi đến một trong những bảo tàng lớn nhất London để gặp anh bạn kia. Tôi được giới thiệu đi vào một văn phòng, mà trong thoáng chốc, tôi nghĩ mình đang ở trong phòng bảo tồn sản vật của Bảo tàng. Tôi sợ không dám động đậy, sợ mình sẽ làm rơi vỡ gì đấy, và tôi ngồi dính vào ghế, chờ đợi đến mệt mỏi. Cuối cùng, “anh bạn kia” cũng xuất hiện. “Sách à?” anh ta hỏi. “Làm thêm viết lách à? Tôi sẽ giới thiệu anh với người môi giới của tôi. Chắc anh ta có thể giúp anh.” Anh ta hí hoáy viết, rồi đưa tôi một mảnh giấy có địa chỉ trên đấy. Trước khi nhận ra việc gì đã xảy ra, tôi đã ở ngoài văn phòng. “Thôi thì,” tôi nghĩ, “Đây liệu có lại là một chuyến đi viển vông nữa không?”

“Oh!” said a friend, “you can do free-lance writing, ‘ghost’ writing. Have you thought of that? A friend of mine has written a number of books, I will give you an introduction to him.” Off I went to one of the great London Museums to see the friend. Into an office I was shown, and for a moment I thought I was in the Museum storeroom! I was afraid to move in case I knocked something over, so I just sat and became weary of sitting. At last “the Friend” came in. “Books?” he said. “Free-lance writing? I’ll put you in touch with my agent. He may be able to fix you up.” He scribbled industriously, and then handed me a paper with an address upon it. Almost before I knew what had happened, I was outside the office. “Well,” I thought, “Will this be another wild-goose chase?”

Tôi nhìn vào mảnh giấy trên tay. Phố Regent? Đầu phía bên nào nhỉ? Tôi xuống khỏi xe lửa ở trạm Rạp Xiếc Oxford, và với sự may mắn thường thấy, tôi nhận ra mình đã đi đến sai đầu của con phố. Phố Regent đông kín người, mọi người như đang chen chúc trước lối vào của những cửa hiệu lớn. Ban nhạc Boys’ Brigade hay Salvation Army, không biết là ban nào, đang diễu hành ồn ào xuống phía phố Conduit. Tôi tiếp tục đi, qua khỏi công ty Vàng Bạc Kim Hoàn, lòng chợt nghĩ chỉ một phần nhỏ lương của họ thôi cũng đủ giúp tôi tiếp tục được việc nghiên cứu. Khi con phố uốn mình rẽ vào Rạp Xiếc Piccadilly, tôi băng qua đường và đi tìm con số nguệch ngoạc ghi trên giấy. Đại lý du lịch, Cửa hiệu giày, nhưng không có môi giới tác giả nào cả. Rồi tôi thấy số nhà, chen giữa hai cửa hiệu. Tôi đi vào một hành lang hẹp, phía cuối đường là một chiếc thang máy mở. Thấy có chuông cửa, tôi nhấn nút. Không gì xảy ra cả. Tôi đợi, có lẽ tầm 5 phút, và lại nhấn chuông.

I looked at the piece of paper in my hand. Regent Street? Now, which end of the street would it be? I got out of the train at Oxford Circus, and with my usual luck, found that I was at the wrong end! Regent Street was crowded, people seemed to be milling round the entrance of the big stores. A Boys’ Brigade or Salvation Army Band, I did not know which, was proceeding noisily down Conduit Street. I walked on, past the Goldsmiths and Silversmiths Company, thinking how a little of their wares would enable me to get on with research. Where the street curved to enter Piccadilly Circus I crossed the road and looked for that wretched number. Travel Agency, Shoe Shop, but no Authors’ Agent. Then I saw the number, sandwiched in between two shops. In I went to a little vestibule at the far end of which was an open lift. There was a bell push, so I used it. Nothing happened. I waited perhaps five minutes and then pressed the button again.

Lạo xạo tiếng bước chân, “Anh làm tôi mất hứng đấy!” một giọng nói vang lên. “Tôi vừa mới đi uống tách trà đây thôi. Muốn đi tầng nào?”

“Ông B. ,” tôi trả lời, “Tôi không biết tầng nào.”

“À, tầng 3,” người đàn ông nói. “Anh ấy có ở đây đấy, tôi đưa anh ấy lên mà. Đây rồi,” anh ta nói, tay kéo cánh cổng sắt. “Rẽ phải vào lối cửa đấy.” Hướng dẫn xong, anh ta lại biến mất để đi uống tiếp tách trà nguội của mình.

A clatter of feet, “You brought me up from the coal ‘ole!” said a voice. “I was just ‘avin’ a cup of tea. Which floor d’ye want?”

“Mr. B___,” I said, “I do not know which floor.”

“Aw, third floor,” said the man. “ ‘E’s in, I took ‘im up. This is it,” he said, sliding open the iron gate. “Turn right, in that door.” With that he disappeared back to his cooling tea.

Tôi đẩy cửa như được hướng dẫn, và đi vào một quầy nhỏ. “Ông B. ?” tôi hỏi. “Tôi có hẹn với ông ấy.” Khi cô gái tóc đen đi tìm ông B. , tôi nhìn quanh. Phía đầu quầy bên kia, những cô gái đang ngồi uống trà. Một người đàn ông lớn tuổi đang được chỉ dẫn để giao vài kiện hàng. Có một chiếc bàn phía sau tôi với vài tờ tạp chí trên đấy – như trong phòng đợi ở nha sỹ, tôi nghĩ – và trên tường là quảng cáo của vài nhà xuất bản. Không gian trong văn phòng trông khá bề bộn với những kiện sách, và những bản thảo vừa mới mở được xếp trật tự thành hàng ở một góc tường phía xa.

I pushed open the door indicated and walked up to a little counter. “Mr. B___?” I said. “I have an appointment with him.” The dark haired girl went off in search of Mr. B___ and I looked around me. At the other side of the counter girls were drinking tea. An elderly man was being given instruction about delivering some parcels. There was a table behind me with a few magazines upon it—like in a dentist’s waiting room, I thought—and on the wall was an advertisement for some publishers. The office space seemed to be littered with parcels of books, and newly-opened typescripts were in a neat row against a far wall.

“Ông B. sẽ gặp ông trong chốc lát nữa,” một giọng nói vang lên, và tôi quay sang mỉm cười cảm ơn cô gái tóc đen. Lúc ấy, cánh cửa hông bật mở, và ông B. bước vào.  Tôi nhìn anh ta, với ánh mắt háo hức bởi anh ta là Đại lý tác giả đầu tiên mà tôi được gặp – hoặc được nghe thấy! Anh ta có bộ râu dài, và tôi tưởng tượng trông anh ấy như một ông già Trung Hoa. Mặc dù là một người Anh, nhưng anh ấy có phong thái của một lớn tuổi Trung Hoa mà không ai sánh bằng ở phương Tây.

“Mr. B___ will be with you in a moment,” said a voice, and I turned to smile my thanks to the dark-haired girl. At that moment a side door opened, and Mr. B___ came in. I looked at him with interest for he was the first Authors’ Agent I had ever seen—or heard of! He had a beard, and I could visualize him as an old Chinese Mandarin. Although an Englishman, he had the dignity and courtesy of an elderly, educated Chinese of which there is no peer in the West.

Ông B. bước vào, chào và bắt tay tôi, đưa tôi đi qua cánh cửa hông vào một căn phòng rất nhỏ, trông không khác gì một căn ngục giam không có song sắt. “Tôi có thể giúp gì được anh?” anh ta hỏi.

Mr. B___ came, greeted me and shook my hand, and let me through the side door to a very small room which reminded me of a prison cell without the bars. “And now what can I do for you?” he asked.

“Tôi cần tìm việc”, tôi nói.

Anh ta hỏi tôi vài câu hỏi về bản thân tôi, nhưng tôi có thể nhìn thấy từ hào quang của anh ta rằng anh ta không có việc nào cho tôi cả, anh ta chỉ lịch sự vì người đã giới thiệu tôi mà thôi. Tôi đưa cho anh ta những tài liệu tiếng Hoa của mình, và ánh hào quang của anh bật sáng. Anh ta cầm và xem kỹ từng tờ một, rồi nói, “Anh đúng ra nên viết sách. Tôi nghĩ tôi có thể tìm được một quyển có huê hồng cho anh.” Đây thật sự là một cú sốc đối với tôi; tôi viết sách sao? Tôi? Về tôi sao? Tôi nhìn ánh hào quang của anh ta một cách kỹ lưỡng, để xem anh ta thật sự có ý như vậy hay chỉ là một cách đuổi khéo tôi. Ánh mắt anh ta nói rằng anh ta thật sự có ý như vậy, nhưng vẫn còn đang do dự về khả năng viết lách của tôi. Khi tôi rời đi, lời cuối cùng anh ta nói với tôi là, “Anh thật sự nên viết sách đấy.”

“I want a job,” I said.

He asked me questions about myself, but I could see from his aura that he had no job to offer, that he was being courteous because of the man who had introduced me. I showed him my Chinese papers, and his aura flickered with interest. He picked them up, examined them most carefully, and said, “You should write a book. I think I can get one commissioned for you.” This was a shock which almost bowled me over; me write a book? Me? About me? I looked at his aura carefully in order to see if he really meant it or if it was just a polite “brush-off”. His aura said that it was meant but that he had a doubt as to my writing ability. As I took my leave his last words were, “You really should write a book.”

“À, trông anh sầu thảm thế” người điều khiển thang máy nói. “Ngoài kia trời vẫn tươi sáng mà. Anh ta không thích sách của anh à?”

“Đó mới là vấn đề,” tôi trả lời và đi ra khỏi thang, “Anh ấy thích!”

“Aw, don’t look so glum” said the liftman. “The sun is shining outside. Didn’t he want your book?”

“That’s just the trouble,” I replied, as I got out of the lift, “He did!”

Tôi đi dọc phố Regent, trong lòng nghĩ rằng hẳn mọi người điên hết rồi. Tôi, viết sách ư? Điên thật! Tất cả những gì tôi cần chỉ là một công việc giúp tôi kiếm đủ tiền để sinh sống và có dư một khoản chút đỉnh để tiếp tục nghiên cứu về hào quang mà thôi, vậy mà giờ đây tôi lại được đề nghị viết một quyển sách về mình.

I walked along Regent Street thinking that everyone was mad. Me write a book? Crazy! All I wanted was a job providing enough money to keep us alive and a little over so that I could do auric research, and all the offers I had was to write a silly book about myself.

Có một hôm tôi trả lời tin quảng cáo tìm người viết về kỹ thuật cho sách giới thiệu liên quan đến tàu bay. Tối đó tôi nhận được thư yêu cầu đến dự phỏng vấn vào ngày hôm sau. “Ah!”, tôi nghĩ, “cuối cùng thì có lẽ mình sẽ nhận được công việc ở Crawley!”

Some time before I had answered an advertisement for a Technical Writer for instruction books in connection with aircraft. By the evening mail I received a letter asking me to attend for an interview on the morrow. “Ah!” I thought, “I may get this job at Crawley after all!”

Sáng sớm ngày hôm sau, khi tôi đang ăn sáng trước khi đến Crawley, tôi nhận được một lá thư. Lá thư từ Mr. B. “Anh nên viết sách đi,” lá thư bảo tôi “Nghĩ kỹ đi rồi đến gặp tôi”

“Phù!” tôi tự nói với mình, “Mình nên ghét việc viết sách!”. Rồi tôi đi ra trạm Clapham để đón xe điện đi Crawley.

Early the next morning, as I was having breakfast before going to Crawley, a letter dropped in the box. It was from Mr. B___. “You should write a book,” the letter said. “Think it over carefully and come and see me again.”

Pah!” I said to myself, “I should hate to write a book!” Off I went to Clapham Station to get a train for Crawley.

Với tôi, đây hẳn là chuyến xe chạy chậm nhất. Có vẻ như nó chậm chạp dừng ở tất cả các trạm, và mệt nhọc lăn bánh như thể cỗ máy đang sắp trút hơi thở cuối cùng. Cuối cùng rồi tôi cũng đến được Crawley. Hôm ấy trời nóng hầm hập và tôi đã lỡ mất chuyến xe buýt. Đợi chuyến tiếp theo thì quá muộn. Tôi đành lê bước giữa những con phố, hỏi đường đều bị chỉ dẫn sai từ hết người này đến người khác vì nơi mà tôi cần đến nằm ở một góc rất khuất. Sau một quãng thời gian dài mệt mỏi, tôi cũng đến được một góc đường bề bộn. Đi dọc theo con đường, tôi cuối cùng cũng đến một ngôi nhà trông tả tơi như thể vừa được một trung đoàn quân đội chiếm cứ.

The train was the slowest ever, to my mind. It seemed to dawdle at every station and grind along the stretches between as if the engine or the driver was at the last gasp. Eventually I arrived at Crawley. The day was swelteringly hot now and I had just missed the bus. The next one would be too late. I plodded along through the streets, being misdirected by person after person, because the firm I was going to see was in a very obscure place. At long last, almost too tired to bother, I reached a long, unkempt lane. Walking along it I finally reached a tumble-down house which looked as if a regiment of soldiers had been billeted there.

“Anh đã viết một lá thư thật tuyệt vời,” người đàn ông phỏng vấn tôi nói. “Tôi muốn được gặp người nào đã viết thư hay đến thế!”

Tôi thở dài khi nghĩ rằng anh ta khiến tôi đi cả một quãng đường dài như vậy chỉ vì sự tò mò. “Nhưng anh đã quảng cáo là cần tuyển người viết về kỹ thuật,” tôi nói, “và tôi sẵn sàng làm bất kỳ bài kiểm tra nào.”

“À! Đúng rồi,” người đàn ông nói, “nhưng bọn tôi có khá nhiều vấn đề từ khi đăng quảng cáo ấy, chúng tôi đang sắp xếp lại và sẽ không nhận thêm ai trong vòng ít nhất 6 tháng nữa. Nhưng tôi nghĩ anh muốn đến và tham quan xưởng của chúng tôi.”

“You wrote an exceptionally good letter,” said the man who interviewed me. “We wanted to see what sort of man could write a letter like that!”

I gasped at the thought that he had brought me all this way out of idle curiosity. “But you advertised for a Technical Writer,” I said, “and I am willing for any test.”

“Ah! Yes,” said the man, “but we have had much trouble since that advertisement was inserted, we are reorganizing and shall not take on anyone for six months at least. But we thought you would like to come and see our firm.”

“Thế thì tôi nghĩ anh phải trả lại phí di chuyển cho tôi,” tôi phản pháo, “tôi đã được bảo đến đây chỉ vì một việc vặt ngốc nghếch.”

“Ồ, chúng tôi không làm vậy đâu,” anh ta trả lời. “Anh đã đề nghị có thể đến dự phỏng vấn; chúng tôi chỉ đơn giản là đồng ý với đề nghị của anh thôi”

“I consider you should pay my fare,” I retorted, “as you have brought me here on a fool’s errand.”

“Oh, we cannot do that,” he said. “You offered to come for an interview; we merely accepted your offer.”

Tôi quá chán nản đến độ cảm thấy đường quay lại trạm xe cứ dài mãi ra. Rồi không tránh khỏi phải chờ đợi xe điện, rồi lại tiếp tục chuyến đi chậm chạp trở về Clapham. Bánh xe điện phía dưới tôi như đang nói: “Anh nên viết sách, anh nên viết sách, anh nên viết sách.” Ở Paris, Pháp, có một Lạt Ma Tây Tạng đang đến viếng thăm phương tây vì một dịp đặc biệt bào đó. Không như tôi, tình huống đã hạ sắc lệnh là Quý Ngài sẽ tránh tất cả các hoạt động đại chúng. Ngài đã y lệnh và rất ít người biết ngài từng là một Lạt ma tại tu viện dưới chân ngọn Potala. Tôi đã viết thư cho ngài để hỏi ý kiến – và với một chút chờ đợi – rằng câu trả lời sẽ là việc viết lách là một điều không sáng suốt.

I was so depressed that the long walk back to the station seemed even longer. The inevitable wait for a train, and the slow journey back to Clapham. The train wheels beneath me seemed to say: “You should write a book, you should write a book, you should write a book.” In Paris, France, there is another Tibetan lama who came to the West for a special purpose. Unlike me, circumstances decreed that he should evade all publicity. He does his job and very few people know that he was once a lama in a Tibetan lamasery at the foot of the Potala. I had written to him asking his opinion and—to anticipate a little—it was to the effect that I would be unwise to write.

Trạm Clapham trông không thể bẩn và nhớp nháp hơn với tâm trạng của tôi hiện tại. Tôi đi dọc theo bờ dốc xuống đường và đi về nhà. Vợ tôi chỉ liếc nhìn nét mặt tôi và không hỏi gì thêm. Sau bữa ăn, mặc dù tôi chẳng muốn ăn, vợ tôi nói: “Em đã gọi cho ông B. sáng nay. Ông ấy nói anh nên soạn trước một bản nội dung sơ lược và đến gặp ông ấy.” Nội dung sơ lược! Chỉ nghĩ thôi tôi cũng muốn đổ bệnh. Rồi tôi đọc những thư vừa đến. Có hai bức thư báo rằng “vị trí đã có ứng viên phù hợp, cảm ơn vì đã ứng tuyển” và một bức thư từ người bạn Lạt Ma bên Pháp.

Clapham Station looked dirtier and dingier than ever, in my unhappy state of mind. I walked down the ramp to the street, and went home. My wife took one glance at my face and asked no questions. After a meal, although I did not feel like eating, she said: “I telephoned Mr. B___ this morning. He says you should do a synopsis and take it for him to see.” Synopsis! The mere thought sickened me. Then I read the mail which had arrived. Two letters saying that “the position had been filled. Thank you for applying,” and the letter from my lama friend in France.

Tôi ngồi xuống bên chiếc máy đánh chữ cũ kỹ mà tôi thừa hưởng từ người tiền nhiệm và bắt đầu viết. Viết lách, với tôi là một việc không dễ chịu và nặng nề. Tôi không hề có tí cảm hứng nào, cũng như chẳng có tài năng gì, tôi thường rất cố gắng ở mỗi môn học, và càng ghét môn đó bao nhiêu, tôi càng làm nhanh và cố gắng bấy nhiêu để hoàn thành nó sớm cho xong đi.

I sat down at the battered old typewriter which I had “inherited” from my predecessor, and started to write. Writing to me is unpleasant, arduous. There is no “inspiration”, nor have I any gift, I merely work harder than most at a subject, and the more I dislike it, the harder and faster I work so that it is the sooner completed.

Ngày dần tàn, từng mảng bóng tối dần bao phủ lên những con phố, rồi lại bị xua đi bởi ánh đèn đường bật sáng, chiếu ánh sáng lập lòe lên những ngôi nhà và người đi đường qua lại. Vợ tôi bật đèn và kéo rèm. Còn tôi vẫn tiếp tục đánh máy. Cuối cùng, khi những ngón tay đông cứng vì mỏi, tôi dừng lại. Trước mặt tôi là một chồng ba mươi trang giấy, được đánh máy chi tiết. “Đấy!” tôi thốt lên. “Nếu mà cái này còn không vừa ý anh ta nữa thì thôi tôi bỏ cuộc, và tôi cũng hy vọng rằng nó không vừa ý anh ta!”

The day drew to a weary end, the shadows of dusk filled the streets and were dispelled as the street lamps came on to shed a garish glow over houses and people. My wife switched on the light and drew the curtain. I typed on. At last, with stiff and aching fingers, I stopped. Before me I had a pile of pages, thirty of them, all closely typed. “There!” I exclaimed. “If that does not suit him I will give up the whole thing, and I hope it does not suit him!”

Trưa hôm sau tôi gọi ông B. lần nữa. Anh ta nhìn xấp giấy của tôi, rồi ngả lưng ngồi đọc. Chốc lát, anh ta lại khẽ gật gù, và khi đọc xong, anh ta cẩn trọng nói, “Tôi nghĩ chúng ta sẽ sắp xếp được cho quyển sách lên kệ đấy. Để tôi lo cho. Anh về viết chương đầu tiên đi.”

Bước đi dọc phố Regent ngược về Rạp xiếc Piccadilly, lòng tôi rối bời không biết nên vui hay buồn. Tình hình tài chính của tôi đã kém đến mức nguy hiểm, mà tôi lại ghét cái ý nghĩ mình tự viết về mình.

The next afternoon I called on Mr. B___ again. He looked once more at my papers, then took the synopsis and settled back to read. Every so often he nodded his head approvingly, and when he had finished, said, very cautiously, “I think we may be able to get it placed. Leave it with me. In the meantime write the first chapter.”

I did not know whether to be pleased or sorry as I walked down Regent Street towards Piccadilly Circus. Finances had reached a dangerously low point, yet I just hated the thought of writing about myself.

Hai ngày sau, tôi nhận được thư từ ông B. bảo tôi gọi cho ông ấy, nói rằng có tin tốt muốn báo cho tôi. Tim tôi chậm hẳn một nhịp khi nghĩ rằng cuối cùng mình cũng phải viết sách! Ông B. hiền hòa cười nhìn tôi. “Tôi có hợp đồng cho anh đây,” anh ta nói, “nhưng trước tiên tôi muốn đưa anh đi gặp nhà xuất bản.” Chúng tôi cùng nhau đi đến một khu khác của London, vào một con phố đã từng là con phố thời trang với những ngôi nhà cao tầng. Hiện tại, các cao ốc đó đã trở thành các văn phòng, và dân cư từng sống tại đó đã chuyển ra khu vực ngoại ô. Chúng tôi đi dọc theo con phố, và dừng lại ở một ngôi nhà không có gì nổi bật. “Nó đây rồi,” ông B. nói. Chúng tôi cùng đi vào hành lang tối, treo lên một chiếc thang uốn cong đến tầng một của tòa nhà. Cuối cùng, chúng tôi cũng được vào gặp Ngài Xuất Bản, một người khá lạnh lùng lúc ban đầu, rồi mới từ từ nhiệt tình. Cuộc phỏng vấn rất ngắn và rồi chúng tôi lại trở ra trên phố.

Two days later I received a letter from Mr. B___ asking me to call, telling me that he had good news for me. My heart sank at the thought, so I was going to have to write that book after all! Mr. B___ beamed benevolently upon me. “I have a contract for you,” he said, “but first I would like to take you to see the publisher.” Together we went off to another part of London and entered a street which used to be a fashionable district, with high houses. Now the houses were used as offices, and people who should have been living in them lived in remote districts. We walked along the street and stopped at an undistinguished-looking house. “This is it,” said Mr. B___. We entered a dark hallway and mounted a curving flight of stairs to the first floor. At last we were shown in to Mr. Publisher, who seemed a little cynical at first, only gradually warming up. The interview was of short duration and then we were back on the street.

“Về lại văn phòng tôi đi. Ui chà, kính của tôi đâu rồi nhỉ?” ông B. nói, tay sốt sắng sờ khắp các túi để tìm cặp kính. Tìm thấy kính, anh ta thở phào nhẹ nhõm, “Về văn phòng đi, tôi còn phải ký hợp đồng.”

“Come back to my office—dear me! Where are my spectacles?” said Mr. B___, feverishly going through his pockets in search of the missing glasses. He sighed with relief as he found them, continuing, “Come back to the office, I have the contract ready to sign.”

Cuối cùng, cũng đã có thứ gì đó hữu hình rõ ràng với tôi, một cái hợp đồng viết sách. Tôi quyết định rằng tôi sẽ làm phần mình, và hy vọng rằng bên xuất bản sẽ làm tốt phần của họ. Rõ ràng là quyển Con mắt thứ ba đã khiến Ngài Xuất Bản hứng thú!

At last here was something definite, a contract to write a book. I decided that I would do my part, and hoped that the publisher would do his. Certainly The Third Eye has enabled Mr. Publisher to put “a little jam on it!”

Việc viết lách tiến triển khá tốt, tôi nhanh chóng hoàn thành một chương và gửi cho ông B. Vài lần, tôi ghé thăm ngôi nhà thanh lịch của ông bà B. , và nhân đây tôi cũng chia sẻ rằng mình rất quý trọng bà B. Bà ấy rất chào đón tôi, việc mà rất ít người Anh làm. Bà ấy là người phụ nữ Anh đầu tiên động viên tôi. Và lúc nào bà ấy cũng chào đón tôi, rất cảm ơn, bà B. !

The book progressed, I did a chapter at a time and took it in to Mr. B___. On a number of occasions I visited Mr. and Mrs. B___ at their charming home, and I would here like particularly to pay tribute to Mrs. B___. She welcomed me, and few English people did that. She encouraged me, and she was the first English woman to do so. At all times she made me welcome, so—thank you, Mrs. B___!

Sức khỏe tôi sụt giảm nhanh chóng bởi khí hậu ở London. Tôi chật vật cố gắng để hoàn thành quyển sách, dùng hết tất cả những gì mình đã được rèn luyện để gạt bỏ bệnh tật sang bên suốt một thời gian. Khi quyển sách hoàn thành cũng là lúc tôi bị nhồi máu cơ tim suýt chết. Trong một bệnh viện rất nổi tiếng ở London, đội ngũ y bác sĩ thật sự đã rất lúng túng bởi nhiều điều về tôi, nhưng tôi đã không khai sáng họ, có lẽ quyển sách này sẽ làm điều đó!

My health had been deteriorating rapidly in London’s climate. I struggled to hold on while finishing the book, using all my training to put aside illness for a while. With the book finished, I had my first attack of coronary thrombosis and nearly died. At a very famous London hospital the medical staff were puzzled indeed by many things about me, but I did not enlighten them; perhaps this book will!

“Anh phải rời khỏi London,” một chuyên viên nói. “Tiếp tục sống tại đây sẽ khiến anh gặp nguy hiểm. Hãy chuyển đến vùng khí hậu khác.”

“Rời London?” tôi nghĩ, “Nhưng chúng tôi đi đâu bây giờ? Ở nhà, chúng tôi đã thảo luận cùng nhau đi đâu, bằng cách nào để sinh sống. Vài ngày sau đó, tôi phải vào viện để kiểm tra lần cuối. “Khi nào anh đi?” chuyên viên hỏi tôi. “Tình trạng của anh sẽ không khá hơn nếu ở đây đâu.”

“You must leave London,” said the specialist. “Your life is in danger here. Get away to a different climate.”

“Leave London?” I thought. “But where shall we go? At home we had a discussion, discussing ways and means and places to live. Several days later I had to return to the hospital for a final check. “When are you going?” asked the specialist. “Your condition will not improve here.”

“Tôi cũng không rõ nữa,” tôi trả lời. “Có quá nhiều thứ để cân nhắc.”

“Chỉ có một thứ để suy nghĩ thôi,” anh ta nói một cách thiếu kiên nhẫn, “ở lại đây thì anh sẽ chết. Chuyển đi thì may ra anh có thể sống lâu hơn. Anh không hiểu rằng tình trạng của anh rất nguy kịch sao?”

Một lần nữa, tôi lại có vấn đề to lớn phải đối mặt.

“I just do not know,” I replied. “There are so many things to consider.”

“There is only one thing to consider,” he said impatiently, “Stay here and you will die. Move and you may live a little longer. Do you not understand that your condition is serious?

Once again I had a heavy problem to face.

Người dịch: Phí Bích Thuận

Biên tập: VMC